Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Khảo sát hiện trạng ô nhiễm arsen trong nước ngầm và đánh giá rủi ro lên sức khỏe cộng đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 67 trang )

TUYỂN TẬP BÀI TẬP PHỔ THÔNG, ĐẠI HỌC, SAU ĐẠI HỌC
LUẬN ÁN-ĐỒ ÁN-LUẬN VĂN-KHOÁ LUẬN-TIỂU LUẬN

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
HIỆN TRẠNG Ô NHIỄM ARSEN TRONG NƯỚC NGẦM
VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN SỨC KHOẺ CỘNG ĐỒNG

Nguyễn Thị Thu

Trang 1/67 trang


MỤC LỤC
08. TCVN 5992 : 1995 (ISO 5667-2 : 1991): Chất lượng nước, lấy mẫu, hướng dẫn kĩ thuật
mẫu. 66
09. TCVN 5993 : 1995 (ISO 5667 - 3 : 1985): Chất lượng nước, lấy mẫu, hướng dẫn bảo
quản và xử lí mẫu. 66

Nguyễn Thị Thu

Trang 2/67 trang


CHƯƠNG I. MỞ ĐẦU
I.1. Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây, ô nhiễm môi trường nước và tác động của các yếu tố ô nhiễm lên
sức khoẻ cộng đồng đang diễn biến phức tạp khiến rủi ro môi trường ngày càng tăng cao. Ngày
nay, rủi ro môi trường được coi là một trong những loại rủi ro đặc biệt quan trọng và nghiêm
trọng đối với các nước đang phát triển, các nước đang đẩy mạnh hiện đại hoá công nghiệp hoá
và cả những nước công nghiệp phát triển, có thu nhập cao. Một số quốc gia quan tâm đến rủi ro
về sức khoẻ như bệnh ung thư, suy dinh dưỡng, đột biến, béo phì, một số khác thì quan tâm đến


việc thiếu các điều kiện sống cơ bản như nhà ở, nước sạch, điều kiện vệ sinh an toàn… Nhưng
một vấn đề chung hiện đang dành được mối quan tâm hàng đầu ở nhiều nước lớn là vấn nạn ô
nhiễm kim loại nặng, đặc biệt là ô nhiễm arsen trong nước ngầm. Việc arsen tồn tại trong nguồn
nước ăn uống và sinh hoạt của người dân với nồng độ quá mức cho phép đã tác động đến sức
khoẻ của hàng triệu người trên thế giới.
Tại Việt Nam, ô nhiễm arsen đã được phát hiện tại nhiều khu vực như đồng bằng sông Hồng:
Hà Nội, Hưng Yên, Hà Tây, khu vực đồng bằng sông Cửu Long: An Giang, Đồng Tháp…
Những hậu quả của việc sử dụng nước ngầm có nhiễm arsen vào mục đích sinh hoạt ảnh hưởng
tới sức khỏe của người dân là rất nghiêm trọng, việc đưa ra những giải pháp đối với vấn đề ô
nhiễm này với nước ta cũng không còn mới lạ. Tuy nhiên, chúng ta mới chỉ đề cập đến những
ảnh hưởng tới cộng đồng dân cư khi mà những biểu hiện về nguy hại đã thể hiện rõ rệt qua sự
suy giảm về sức khỏe mà chưa dành sự quan tâm thích đáng tới những rủi ro tiềm tàng như
nguy cơ gây ung thư với người dân sử dụng nguồn nước ngầm nhiễm arsen với nồng độ tuy
thấp nhưng trong thời gian dài (suốt cuộc đời).
Trước sự đe dọa về hiểm họa của tình trạng ô nhiễm arsen cũng như các kim loại nặng trong
đất, nước sinh hoạt và ăn uống, việc nghiên cứu hiện trạng, khoanh vùng hàm lượng arsen trong
nước ngầm, đánh giá rủi ro tiềm tàng do tình trạng ô nhiễm đó gây ra đến sức khỏe người dân
và đề xuất giải pháp phòng ngừa ảnh hưởng của nó là điều hết sức cần thiết.
Nhiều nghiên cứu về arsen được thực hiện trước đây đã cho thấy Lâm Đồng là một trong
những tỉnh ở Tây Nguyên có nồng độ arsen cao đáng báo động nhưng chưa có báo cáo chính
thức như một số thành phố lớn khác của nước ta.
Trong tỉnh Lâm Đồng, Đơn Dương và Đức Trọng là những huyện có vị trí trọng điểm về
phát triển kinh tế xã hội, là cửa ngõ ra vào thành phố Đà Lạt -Trung tâm du lịch và hoạt động
Nguyễn Thị Thu

Trang 3/67 trang


dịch vụ văn hoá - thể thao của tỉnh. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu thế về phát triển kinh tế, trên
địa bàn hai huyện vẫn còn nhiều hộ dân dùng nước giếng tự khai thác không qua xử lí và nhiều

diện tích thuộc vùng sâu vùng xa chưa được tiếp cận với nước sạch. Chính vì vậy, nguy cơ
những ảnh hưởng có hại từ nguồn nước ngầm đến người dân sử dụng nước ngầm làm nguồn
nước sinh hoạt tại hai huyện là khá cao.
Trên cơ sở đó, đề tài lựa chọn vấn đề “Khảo sát hiện trạng ô nhiễm arsen trong nước
ngầm và đánh giá rủi ro lên sức khỏe cộng đồng tại hai huyện Đơn Dương và Đức Trọng
thuộc tỉnh Lâm Đồng” để thực hiện nghiên cứu nhằm xác định nồng độ arsen ở một số huyện
thuộc Lâm đồng và đánh giá ảnh hưởng tới sức khỏe người dân, từ đó đưa ra những khuyến cáo
và biện pháp phòng tránh giảm thiểu những tác động có hại cho người dân trong hai huyện nói
riêng và trong tỉnh Lâm Đồng nói chung.

I.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: arsen trong nước ngầm và dân cư sử dụng nguồn nước ngầm này
vào mục đích sinh hoạt tại hai huyện Đức Trọng và Đơn Dương thuộc tỉnh Lâm Đồng
- Phạm vi nghiên cứu: hai huyện Đức Trọng và huyện Đơn Dương thuộc tỉnh Lâm Đồng

I.3. Mục tiêu của đề tài
- Quan trắc nồng độ arsen trong môi trường nước ngầm tại hai huyện Đơn Dương và Đức
Trọng thuộc tỉnh Lâm Đồng.
- Tính toán liều lượng tiếp nhận vào cơ thể đối với cộng đồng dân cư sử dụng nguồn nước
ngầm bị ô nhiễm arsen vào mục đích sinh hoạt.
- Đánh giá rủi ro đến sức khỏe khi con người phơi nhiễm với arsen trong nước ngầm.

I.4. Nội dung nghiên cứu
- Thu thập khảo sát các số liệu về diện tích, dân số, số giếng nước, phân bố dân cư và phân
bố nước ngầm của huyện.
- Lên kế hoạch quan trắc: chia ô lưới, chọn địa điểm thu mẫu, tần suất lấy mẫu, phương pháp
thu, bảo quản và phân tích mẫu.

Nguyễn Thị Thu


Trang 4/67 trang


- Tính toán liều lượng tiếp nhận và đánh giá rủi ro đến sức khỏe người dân, đề xuất biện
pháp quản lý và giảm thiểu rủi ro.

I.5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp định vị, số hóa bản đồ.
- Phương pháp tổng hợp tài liệu.
- Phương pháp khảo sát thực địa.
- Phương pháp lấy mẫu.
- Phương pháp phân tích trong phòng thí nghiệm.
- Phương pháp thống kê toán học.
- Phương pháp đánh giá rủi ro.

I.6. Ý nghĩa của đề tài
- Đề tài tiến hành đánh giá hàm lượng arsen trên địa bàn khảo sát, từ đó thu thập được các số
liệu về những vị trí ô nhiễm arsen, xây dựng bản đồ nồng độ arsen trên địa bàn hai huyện.
- Từ những kết quả khảo sát, đề tài xác định được những vị trí có nồng độ arsen cao và đưa
ra cảnh báo cho người dân tại những khu vực này có những biện pháp phòng tránh giảm thiểu
tác hại của ô nhiễm arsen trong nước ngầm.
- Đề tài tiến hành đánh giá rủi ro đến sức khỏe người dân, từ đó thể hiện được nguy cơ mắc
các loại bệnh của người dân vùng nghiên cứu, góp phần xây dựng hệ thống số liệu giúp các nhà
quản lí môi trường xây dựng chương trình quản lí giảm thiểu rủi ro tới sức khỏe người dân.

Nguyễn Thị Thu

Trang 5/67 trang



CHƯƠNG II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
II.1. Tổng quan về arsen
II.1.1. Một số tính chất của arsen (As)
As chiếm 1.10-4 % tổng số nguyên tử trong vỏ trái đất, chúng tồn tại chủ yếu ở dạng
khoáng vật sunfua: Sunfide Orpiment vàng – As2S3 và Realgar đỏ - As4S4;…
Trong bảng hệ thống tuần hoàn các nguyên tố hoá học, Arsenic nằm ở phân nhóm Va
với một số các đặc trưng:
Bảng II.1 Tính chất hóa học của nguyên tử arsen

Ký hiệu hoá học

As

Z

33

Cấu hình e

[Ar]3d104s24p3

Rn/tử (AO)

1,48

Rion E3- (AO)

1,92

Rion E5+ (AO)


0,47

Eion hòa I (kcal/ntg)

226

Eion hòa II (kcal/ntg)

466

Eion hòa III (kcal/ntg)

653

Độ âm điện

2,0

Khối lượng riêng (g/cm3)

5,727

TOnc(OC)

817

TOs (OC)

614


As tồn tại ở hai dạng kim loại và không kim loại:
Ở dạng không kim loại As là chất rắn màu vàng (còn gọi là As vàng) được tạo nên khi
làm ngưng tụ hơi, có mạng lưới lập phương (giống Photpho trắng), kiến trúc mạng lưới
bao gồm các phân tử As 4 liên kết với nhau bằng lực Vanderwaals. Phân tử As 4 có cấu tạo
hình tứ diện đều với các nguyên tử As nằm ở đỉnh. Do có mạng lưới phân tử nên As vàng
kém bền ở nhiệt độ thường dưới tác dụng của ánh sáng dễ chuyển sang dạng kim loại
(dạng bền hơn).
Dạng kim loại có màu bạc trắng, hơi xám (gọi là As xám). As xám có cấu trúc dạng
Polime, có mạng lưới nguyên tử giống Photpho đen, có khả năng dẫn nhiệt, dẫn điện
nhưng giòn có thể nghiền thành bột dễ dàng.
Nguyễn Thị Thu

Trang 6/67 trang


As tồn tại ở các mức oxi hóa -3, +3, +5 với các hợp chất As(III) (Asenhidrua, Các
Asenua kim loại,Asen(III) oxit – As 2O3, Acid Asenous, Asensunfua: As 4S6.
Asentrihalogenua: AsX3) và hợp chất As(V) (Asen oxit : As2O5 ;Acid Asenic ;Asen
Sunfua : As2S5 ; Asen Pentahalogenua : Chỉ có AsF5).

II.1.2. Dạng tồn tại của arsen trong môi trường
II.1.2.1. Sự xuất hiện của arsen và hợp chất arsen trong môi trường
Những nghiên cứu về sự hình thành của As trong môi trường và trong các mẫu sinh
học đang là những chủ đề được quan tâm đến nhiều nhất hiện nay. As xuất hiện trong tự
nhiên một cách phổ biến trong các khoáng vật, bên cạnh đó, sự sử dụng As một cách rộng
rãi trong các hoá chất nhuộm màu, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ là những nguồn chính cho
sự có mặt của arsenic trong môi trường.
Trên thực tế, trước đây As được ứng dụng trong một số lĩnh vực như sau:



Trong y học: thạch tín được sử dụng trong thuốc bắc với tác dụng trị suyễn hoặc

dùng để chữa các bệnh ngoài da …


Trong nông nghiệp: As có trong thành phần của một số loại thuốc bảo vệ thực

vật. Khoảng 70% thuốc bảo vệ thực vật trong thành phần có chứa As nằm ở các dạng :
(1) Monosodium methane arsenate (MSMA) – HAsO3CH3Na;
(2) Disodium methane arsenate (DSMA) – Na2AsO3CH3;
(3) Dimethylarsinic acid (cacodylic acid) – (CH3)2 AsO2H;
(4) Arsenic acid – H3AsO4.


Trong công nghiệp: As và hợp chất của As cũng được sử dụng rộng rãi trong

công nghiệp chẳng hạn như: bảo quản gỗ, sản xuất gương kính, hợp kim và các thiết bị
điện tử, làm chất xúc tác hoặc chất phụ gia…

II.1.2.2. Dạng tồn tại của arsen trong môi trường
Các dạng tồn tại của As trong môi trường là vấn đề đáng quan tâm bởi vì có sự khác
nhau về mức độ độc giữa chúng. Trong môi trường As tồn tại chủ yếu ở các dạng:

Nguyễn Thị Thu

Trang 7/67 trang


Arsenite As(III), arsenate As(V), arsenious acids (H 3 AsO3 , H2AsO3 –, HAsO32–)

arsenic

acids

(H3AsO4,

H2AsO4–,

HAsO42–),

dimethylarsinate

(DMA),

monomethylarsonate(MMA), arsenobetaine(AB) và arsenocholine (AC).
Những dạng hợp chất này minh hoạ cho sự đa dạng của các trạng thái oxy hoá của As
và kết quả là đưa đến sự phức tạp về hoá tính của nó trong môi trường.
Trong pha nước với môi trường thoáng khí acid, Arsenic chiếm ưu thế ở pH cực kỳ
thấp (pH<2), trong khoảng pH từ 2 – 11 chúng được thay thế bởi H2AsO4– và HAsO42–.

Hình II.1. Sự phụ thuộc của dạng tồn tại hợp chất arsen vào pH

Arsenious acid xuất hiện trong điều kiện pH thấp và có sự khử nhẹ tuy nhiên khi pH
gia tăng nó sẽ được thay thế bởi H 2AsO3 – và khi pH vượt quá 12 sẽ làm xuất hiện
HAsO32– . Với môi trường pH thấp và có mặt sunfua có thể tạo thành HAsS 2.
Các hợp chất Asine, dẫn xuất asine và arsenic xuất hiện ở điều kiện khử cao. Bởi vì nó
tạo thành dạng anion trong dung dịch nên As không kết hợp với các anion đơn giản như
Cl-; SO43- như các cation kim loại. Đúng hơn là các hợp chất anion As cư xử như các gốc
tự do trong nước. As (III) phản ứng với nhóm sulphur và sulphydryl như cystine, organic
dithiols, proteins, enzymes nhưng không phản ứng với amine.


Nguyễn Thị Thu

Trang 8/67 trang


Tuy nhiên As(V) lại phản ứng với nhóm nitrogen khử như amine nhưng lại không
phản ứng với nhóm sulphydryl.
Hàm lượng As trong nước ngầm phụ thuộc rất nhiều vào tính chất và trạng thái môi
trường địa hóa. Dạng As tồn tại chủ yếu trong nước ngầm là H 3AsO4-1 (trong môi trường
pH acid đến gần trung tính), HAsO4-2 (trong môi trường kiềm).

Hình
II.2. Sự phụ thuộc dạng tồn tại của arsen vào môi trường địa hóa

Hợp chất H3AsO3 được hình thành chủ yếu trong môi trường oxy hóa-khử yếu. Các
hợp chất của As với Na có tính hòa tan rất cao, còn những muối của As với Ca, Mg và
các hợp chất As hữu cơ trong môi trường pH gần trung tính và nghèo Ca thì độ hòa tan
kém hơn các hợp chất arsen hữu cơ, đặc biệt là arsen-acid fulvic. Các hợp chất của As +5
được hình thành theo phương thức này. As trong nước ngầm thường tập trung cao trong
kiểu nước bicarbonat như bicarbonat Cl, Na, B, Si. Nước ngầm trong những vùng trầm
tích núi lửa, một số khu vực quặng hóa nguồn gốc nhiệt dịch, mỏ dầu-khí, mỏ than, …
thường giàu As. Thế oxy hóa khử, độ pH của môi trường và lượng kaloit giàu Fe 3+ …, là
những yếu tố quan trọng tác động đến quá trình oxy hóa - khử các hợp chất As trong tự
nhiên. Những yếu tố này có ý nghĩa làm tăng hay giảm sự độc hại của các hợp chất As
trong môi trường sống.

II.1.3. Độc học của arsen
II.1.3.1. Sự chuyển hóa sinh học của arsen
Trong cơ thể nhiều loài sinh vật có khả năng tích luỹ sinh học đối với arsenic và có th ể

xúc tác cho quá trình oxi hoá từ arsenite thành arsenat đồng thời cũng thúc đẩy sự tạo
thành methyl arsines thông quá các quá trình sinh học. Sản phẩm methyl hoá arsenic
được tạo thành bởi các vi khuẩn methogenic trong điều kiện hiếu khí.
Nguyễn Thị Thu

Trang 9/67 trang


Các hợp chất arsenic bị methyl hoá bởi vi khuẩn và nấm tạo thành dimethyl và
trimethylarsine bởi một cơ chế liên quan tới sự thay thế của các nguyên tử oxygen bởi
các nhóm methyl. Sự methyl hoá được xem như là một cơ chế giải độc đối với các vi sinh
vật và đóng vai trò quan trọng trong sự chuyển hoá As từ trầm tích vào nước và không
khí.
McBride và Wolfe cho rằng arsenat có thể bị chuyển hoá thành dimethylarsine bởi
Methanobacterium dưới điều kiện hiếu khí. Methylarsonic được tạo thành từ sự methyl
hoá arsenite có thể chuyển hoá qua các sản phẩm trung gian và cuối cùng bị khử thành
dimethylarsine.

Trong điều kiện acid loài nấm Cadida humicola có thể chuyển hoá Arsenate thành
Trimethylarsine. Một phần ít hơn của Trimethylarsine cũng được tạo thành bởi loài nấm
này từ Arsenite, methylarsonate và dimethylarsinate. Những loài nấm có khả năng tạo ra
sản phẩm trimethylarsine từ các hoá chất bảo vệ thực vật monomethylarsonate và
dimethylarsinate bao gồm: Candida humicola, Gliocaninum roseum và một giống của
Penicillium.
Sự methyl hoá của As đóng vai trò quan trọng bởi vì kết quả của quá trình là tạo ra các
sản phẩm cực độc:

Nguyễn Thị Thu

Trang 10/67 trang



Hình II.3. Sự chuyển hóa trimethylarsine thành các sản phẩm cực độc

II.1.3.2. Độc học của arsen
Về mặt sinh học, As là một chất độc có thể gây một số bệnh trong đó có ung thư da và
phổi. Mặt khác As có vai trò trong trao đổi nuclein, tổng hợp protit và hemoglobin. As
ảnh hưởng đến thực vật như một chất cản trao đổi chất, làm giảm mạnh năng suất, đặc
biệt trong môi trường thiếu photpho. Trong môi trường sinh thái, các dạng hợp chất As
hóa trị (3) có độc tính cao hơn dạng hóa trị (5). Môi trường khử là điều kiện thuận lợi để
cho nhiều hợp chất As hóa trị 5 chuyển sang As hóa trị 3. Trong các hợp chất của As
trong môi trường thì arsenite đáng được quan tâm tới nhiều nhất bởi vì tính độc của nó
cao hơn gấp 10 lần so với arsenate và hơn gấp 70 lần so với các dạng methyl hoá của nó,
trong khi đó DMA, MMA ít độc hơn còn AB và AC lại gần như không độc.
Sự nhiễm độc As còn gọi là Arsenicosis xuất hiện như một tai họa môi trường đối với
sức khỏe con người trên thế giới. Theo các nghiên cứu những người sống trên khu vực có
hàm lượng As trong nước giếng khoan cao hơn 0,05 mg/l cho thấy tới 20% dân cư bị
xạm da, dầy biểu bì và có hiện tượng ung thư da. Hiện chưa có phương pháp hữu hiệu
chữa bệnh nhiễm độc As.

Nguyễn Thị Thu

Trang 11/67 trang


Thông thường Arsen đi vào cơ thể con người trong một ngày đêm thông qua chuỗi
thức ăn khoảng 1mg và được hấp thụ vào cơ thể qua đường dạ dày nhưng cũng dễ bị thải
ra. Hàm lượng As trong cơ thể người khoảng 0.08-0.2 ppm, tổng lượng As có trong
người bình thường khoảng 1,4 mg. As tập trung trong gan, thận, hồng cầu, homoglobin
và đặc biệt tập trung trong não, xương, da, phổi, tóc. Hiện nay người ta có thể dựa vào

hàm lượng As trong cơ thể con người để tìm hiểu hoàn cảnh và môi trường sống, như
hàm lượng As trong tóc nhóm dân cư khu vực nông thôn trung bình là 0,4-1,7 ppm, khu
vực thành phố công nghiệp 0,4-2,1 ppm, còn khu vực ô nhiễm nặng 0,6-4,9 ppm.
Sự xâm nhập, phân bố và lưu trữ của Arsenic cũng như các hợp chất của nó trong cơ
thể người có thể hình dung theo sơ đồ sau:

Hình II.4. Sự xâm nhập của arsen và những hợp chất của nó trong cơ thể

Sự nhiễm độc As có thể phân loại thành các dạng nhiễm độc cấp tính và nhiễm độc
mãn tính với các biểu hiện:


Ngộ độc As cấp tính : khát nước dữ dội, đau bụng, nôn mửa, tiêu chảy, mạch đập

yếu, bí tiểu và có thể tử vong .


Nhiễm độc As mãn tính: xuất hiện các đốm sẫm màu trên thân thể hay ở đầu các

chi, niêm mạc lưỡi hoặc sừng hóa da (thường xuất hiện ở tay, chân, phần cơ thể bị cọ sát
nhiều hoặc tiếp xúc với ánh sáng nhiều), có thể gây đến hoại tử, rụng dần từng đốt ngón
chân... cuối cùng sẽ có thể dẫn đến ung thư, đột biến gen và tử vong.


Sự nhiễm độc As mãn tính được phân làm bốn giai đoạn chính:

Nguyễn Thị Thu

Trang 12/67 trang



Giai đoạn tiền lâm sàng: chưa có biểu hiện tổn thương thực thể nhưng As có thể phát
hiện được tại các mẫu nước tiểu và mẫu mô cơ thể.
Giai đoạn lâm sàng: sự ảnh hưởng suất hiện trên da, hay gặp nhất là cơ thể có bầm tím
tay chân, trong trường hợp nặng có hiện tượng hóa sừng tại da ban tay, lòng bàn chân.
Theo Tổ chức y tế thế giới – WHO thì giai đoạn này xuất hiện sau 5 đến 10 năm uống
nước nhiễm thạch tín quá tiêu chuẩn.
Giai đoạn biến chứng: khi các triệu trứng lâm sàng càng trở nên trầm trọng hơn, gan
thận và lách sưng to, cơ thể bị viêm giác mạc, viêm phế quản và đái tháo đường.
Giai đoạn cuối: Sự xuất hiện của bệnh ung thư (da, phổi...)
As(III) thể hiện độc tính của nó bằng sự tấn công vào nhóm –SH làm ức chế hoạt động
của enzyme Dihydrolipoic acid protein là enzyme trong chu trình acid citric.

Mặt khác do có tính chất hóa học tương tự như photpho mà As cũng có thể gây tương
tác xấu trong các quá trình sinh hóa có sự tham gia của photpho. Chẳng hạn trong sự tạo
thành ATP (ademosine triphoglyphate) khi có mặt của As sẽ gây trở ngại trong quá trình
tạo 1,3 – Diphosphoglycerate cho ra sản phẩm 1 – arseno – 3 – phosphoglycerate gây
hiệu ứng xấu cho cơ thể:

Nguyễn Thị Thu

Trang 13/67 trang


II.1.4. Một số phương pháp xác định arsen
Những tiến bộ không ngừng của khoa học kỹ thuật nói chung và kỹ thuật phân tích nói
riêng đã cho phép thu được những kết quả phân tích ngày càng chính xác từ một hệ thống đa
dạng các phương pháp phân tích. Tùy vào nhu cầu phân tích, đối tượng cần phân tích cũng như
điều kiện về trang thiết bị phòng thí nghiệm mà có thể lựa chọn được phương pháp phân tích
thích hợp. Tương tự như vậy, để tiến hành phân tích định lượng As, người ta có thể sử dụng

nhiều phương pháp khác nhau và một số các phương pháp định lượng As được biết như
phương pháp hấp phụ nguyên tử, phương pháp phổ hấp thụ phân tử, phương pháp điện hoá,
phương pháp kích hoạt nơtron – NAA, phương pháp sắc ký…

II.1.4.1. Phương pháp khối lượng
Xác định As dựa trên việc kết tủa As 2S3 bằng dithioaxetamit trong môi trường axit HCl, hoặc
H2SO4 hoặc HClO4 0,1N. Dung dịch chứa kết tủa được đun trên bếp cách thuỷ, lọc lấy kết tủa
sấy khô ở 2000C đến khối lượng không đổi, rửa lại bằng nước cất và làm khô ở nhiệt độ 170 0C.
Cân kết tủa và tính hàm lượng As tương ứng. Tuy nhiên phương pháp này chỉ áp dụng với mẫu
có hàm lượng As lớn và phải thực hiện qua nhiều công đoạn.

II.1.4.2. Phương pháp phân tích thể tích
Xác định As dựa trên phản ứng oxi hoá khử: AsO32- + I2 + H2O -> AsO43- + 2I- + 2H+
Phản ứng phụ thuộc vào nồng độ H +, vì vậy để phản ứng xảy ra theo chiều thuận, phải thực
hiện trong điều kiện dư NaHCO3 (dung dịch có pH = 8). Chất chỉ thị là hồ tinh bột. Phương
pháp này cho phép xác định được hàm lượng As từ 0,1% đến vài chục phần trăm.

II.1.4.3. Phương pháp phân tích trắc quang
As trong dung dịch phân tích được khử về asin bằng natri hydroborat ở môi trường pH=6,
khí asin được dẫn đi trong dòng N2 qua bình thuỷ tinh đựng chì axetat, sau đó được dẫn vào
bình chứa thuốc thử bạc dietyldithiocacbamat, ở đó As sẽ tạo phức màu đỏ với bạc dietyl
dithio cacbamat có bước sóng hấp thụ quang là 520nm. Trong phương pháp này sunfua các
nguyên tố kim loại: crom, coban, đồng, thuỷ ngân,… có ảnh hưởng đến việc xác định As,
song có thể loại trừ ảnh hưởng bằng cách dùng axetat chì để giữ lại khí sunfua. Ngoài ra, khi

Nguyễn Thị Thu

Trang 14/67 trang



hàm lượng antimony lớn hơn 5mg/L cũng ảnh hưởng đến việc xác định As do hợp chất SbH 3
cũng tạo ra trong quá trình tạo asin và cũng tạo phức màu đỏ bước sóng hấp thụ quang
510nm với bạc dithiocacbamat, vì vậy phương pháp này chỉ cho phép xác định As trong mẫu
có hàm lượng antimony nhỏ. Độ nhạy và độ chính xác của phương pháp này tương đối cao,
cho phép xác định cỡ 1mg/mL.

II.1.4.4. Phương pháp điện hoá-cực phổ Vol-ampe
Cường độ dòng phụ thuộc thế điện phân trong dung dịch và thế điện cực. Người ta tiến hành
điện phân và đo cường độ dòng với một dãy dung dịch chuẩn biết trước nồng độ. Dựa vào đồ
thị xác định được nồng độ chất phân tích khi biết cường độ dòng. Giá trị nửa thế sóng cho biết
thành phần định tính, chiều cao sóng cho biết thành phần định lượng của chất phân tích.
Phương pháp này có giới hạn phát hiện cỡ ng/mL.

II.1.4.5. Phương pháp phổ phát xạ nguyên tử ICP-AES
Khi nguyên tử ở trạng thái hơi, nhờ một nguồn năng lượng thích hợp như nhiệt, điện... để
kích thích đám hơi nguyên tử tự do đó phát xạ, sau đó thu phân li toàn bộ phổ phát xạ để đánh
giá thành phần mẫu phân tích. Có thể dùng phổ phát xạ để phân tích định tính, định lượng. Đây
là phương pháp hiện đại cho độ nhạy và độ chính xác rất cao, nó tuỳ thuộc vào các loại thiết bị
khác nhau, cho phép xác định lượng vết nguyên tố mà không cần làm giàu và một ưu điểm đặc
trưng của phương pháp đó là cho phép phân tích hàng loạt các nguyên tố. Phương pháp này,
năng lượng nhiệt của nguồn kích thích được quyết định bởi dòng điện cảm ứng trong cuộn tự
cảm, năng lượng cao tần của máy phát HF. Vì vậy nhiệt độ ở plasma rất ổn định dẫn đến phép
đo có độ ổn định cao hơn rất nhiều so với nguồn hồ quang điện hay tia lửa điện. Kĩ thuật này có
thể xác định As đến 0,02ng/mL.

II.1.4.6. Phương pháp huỳnh quang nguyên tử
Khử As bằng NaBH4 pha trong NaOH nồng độ 0,5%, khí hidrua sinh ra được dẫn trực tiếp
vào ống cuvet Pyrex được treo vào một cái giá, dùng nguồn đơn sắc là đèn EDL đặt trên ngọn
lửa là ArH2, giới hạn phát hiện của phương pháp là 0,06 đến 0,1 ng/mL.


II.1.4.7. Phương pháp quang phổ hấp thụ nguyên tử ngọn lửa F-AAS

Nguyễn Thị Thu

Trang 15/67 trang


Nhiệt độ của ngọn lửa đèn khí được điều chỉnh phụ hợp với từng nguyên tố và từng loại
dung dịch mẫu. Khí được đốt để tạo ra ngọn lửa có thể là hỗn hợp C 2H2-KK hay hỗn hợp N2OC2H2 hoặc H2-C2H2. Dựa vào tính chất nguyên tử của từng nguyên tố mà chọn ngọn lửa cho
nhiệt độ thích hợp.

II.1.4.8. Phương pháp quang phổ hấp thụ không ngọn lửa (ETA-AAS)
Quá trình nguyên tử hoá được thực hiện trong cuvet graphit hay thuyền tăng tan với thời gian
ngắn (sự nguyên tử hoá tức khắc) nhờ năng lượng của dòng điện công suất lớn ở môi trường khí
trơ. Nguồn năng lượng thường được dùng hiện nay là dòng điện có cường độ dòng rất cao (từ
50-600A) và hiệu điện thế thấp (nhỏ hơn 12V) hay năng lượng của dòng cao tần cảm ứng.

II.1.5. Tiêu chuẩn về arsen
Theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước ngầm QCVN 09:2008/BTNMT, tiêu
chuẩn nước ngầm đối với arsen là 0,05 mg/L.
Trước thảm hoạ thạch tín đang hiện hữu ở nhiều Quốc gia bị nhiễm arsen, trong đó Băng-lađét nghiêm trọng nhất, ngày 24/5/2000, Cục Bảo vệ môi trường Hoa Kì (EPA) quyết định giảm
thông số arsen trong Tiêu chuẩn nước uống của Hoa Kì từ 0,05 mg As/L, ngang TCVN, xuống
còn 0,005 mg As/L.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) từ năm 1993 đến nay, có khuyến cáo, nồng độ Arsen trong
nước uống không được lớn hơn 0,01mg/L. Từ năm 2002, Bộ Y tế Việt Nam đã đưa tiêu chuẩn
arsen nhỏ hơn hoặc bằng 0,01 vào áp dụng. Hiện nay, Tiêu chuẩn Nhà nước về nước uống
TCVN 5501-1991 và Tiêu chuẩn vệ sinh đối với nước uống và sinh hoạt của Bộ Y tế QĐ
505:2002/BYT qui định thông số arsen không được lớn hơn 0,01mg As/L.

II.1.6. Giảm thiểu arsen trong nước

II.1.6.1. Một số quá trình giảm thiểu arsen trong nước
Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện nhằm giảm thiểu hàm lượng As trong nước. Hầu hết
các kỹ thuật giảm thiểu As trong nước đều dựa trên một số các quá trình hoá lý cơ bản bao
gồm:

Nguyễn Thị Thu

Trang 16/67 trang




Quá trình kết tủa: As ở trạng thái tan trong nước được đưa về dạng chất rắn khó tan

như calcium arsenate. Các chất rắn này được loại bỏ nhờ quá trình sa lắng và lọc. Khi các chất
gây keo tụ được thêm vào và tạo thành bông keo tụ thì các dạng As tan trong nước trở nên
không tan và tạo thành các hợp chất rắn không tan. Do đó có thể giảm thiểu As trong nước
bằng các quá trình kết tủa bao gồm đông tụ - lọc; lọc trực tiếp; tuyển nổi.


Quá trình hấp phụ: hấp phụ lên than hoạt tính, nhôm hoạt tính, mangan oxit, sắt oxit

hoặc vật liệu vô cơ.


Quá trình trao đổi ion được thực hiện với các nhựa trao đổi anion đặc biệt.



Quá trình lọc màng bao gồm công nghệ lọc nano, thẩm thấu ngược.




Quá trình sinh học loại bỏ As trong nước

Hầu hết các quá trình này đã trở thành những công nghệ xử lý nước nhiễm As truyền thống
chẳng hạn như hấp phụ, trao đổi ion, lọc màng… Một số quá trình như hấp phụ trên nhôm hoạt
tính, trao đổi ion đã được sử dụng để sử lý As trong nguồn nước sinh hoạt ở quy mô nhỏ như
hộ gia đình. Các quá trình sinh học hay điện hóa cũng được nghiên cứu để xử lý nước nhiễm
As. Tuy nhiên, các nghiên cứu này hầu như đang còn ở mức độ thí nghiệm mà chưa được áp
dụng thực tế một cách rộng rãi. Các quá trình hấp phụ và trao đổi ion hiện nay đang là những
quá trình có khuynh hướng được sử dụng nhiều trong thực tế do chi phí thiết bị và bảo dưỡng
thấp, không yêu cầu trình độ chuyên môn cao khi vận hành.

II.1.6.2. Một số cách để hộ dân tự phòng tránh arsen
• Ở hộ gia đình dùng bơm điện
Giàn mưa làm bằng ống nhựa, đường kính 27mm, khoan 150-200 lỗ, mỗi lỗ có đường kính
1,5-2mm tuỳ công suất máy bơm đang sử dụng. Dưới cùng của bể lọc là lớp sỏi đỡ dày khoảng
1 gang, trên lớp sỏi đỡ là lớp cát dày khoảng 2,5-3 gang. Không dùng loại đệm lót giường, hoặc
than củi dễ sinh phản ứng phụ, làm tăng nồng độ nitrit trong nước.

• Ở hộ gia đình dùng bơm tay
Nước từ vòi bơm róc vào máng mưa. Máng mưa cần có nhiều lỗ nhỏ để không khí dễ tan vào
nước, phát huy hiệu quả oxi hoá của oxi có sẵn trong không khí. Sau khi qua máng mưa, nước
cho chảy qua bể lọc có 3 ngăn: ngăn đầu dùng lọc cặn, nước thô chảy từ dưới lên; có đường xả
cặn ở đáy, ngăn hai dùng lọc tinh, nước chảy từ trên xuống, ngăn thứ ba dùng chứa nước sạch.

Nguyễn Thị Thu

Trang 17/67 trang



Kích thước tối ưu bể lọc phụ thuộc vào công suất, lưu lượng từng giếng. Trung tâm nước sạch
và VSMT NT tỉnh Thái Bình đã sử dụng loại hình này từ lâu.

II.1.7. Tình hình ô nhiễm arsen trên thế giới, Việt Nam và Lâm Đồng
II.1.7.1. Tình hình ô nhiễm arsen trên thế giới
Arsen đang là mối quan tâm hàng đầu của những nước như Băngladet, Ấn Độ, Hoa Kỳ,
Myanma, Thái Lan và Việt Nam. Năm 2005, Trung Quốc là nhà sản xuất arsen trắng hàng đầu,
chiếm gần 50% sản lượng thế giới. Sau đó là Chile và Peru, theo báo cáo của Khảo sát Địa chất
Vương quốc Anh.
EPA Hoa kỳ định nghĩa arsenic là một trong những hóa chất bền vững (persistent), sinh tụ
(bioaccumulative) và độc hại (toxic) có khả năng kết tụ bền vững trong môi trường không khí,
đất và nước. Về phía Việt Nam, arsenic nằm trong danh sách các hóa chất bị cấm xử dụng do
nghị định số 23/BVTV-KHKT/QD ngày 20/4/1992 do Bộ Nông nghiệp Lương thực phê chuẩn.
Cách đây khoảng nửa thế kỷ, các khoa học trên thế giới chưa lưu tâm nhiều đến nạn ô nhiễm
arsenic trong các mạch nước ngầm. Mãi đến năm 1961, ô nhiễm arsenic trong nước ngầm mới
được khám phá lần đầu tiên ở Taiwan. Và sau đó, các nước sau đây lần lượt khám phá ra tình
trạng ô nhiễm trên như Bỉ, Hòa Lan, Đức, Ý, Hung Gia Lợi, Bồ Đào Nha, Phi luật Tân, Ghana,
Hoa Kỳ, Chí Lợi, Mễ Tây Cơ, Á Căn Đình, và Thái Lan. Năm 1992, nhiễm độc arsenic đã được
khám phá và là một quốc nạn cho Ấn Độ tại West Bengal. Thảm trạng trên có thể được xem là
một nguy cơ hủy diệt cho vùng này. Arsenic hiện diện trong bảy quận hạt bao gồm 37.500 km 2
với 34 triệu dân sinh sống và theo Mandal, chuyên gia về độc hại của Ấn Độ, ước tính khoảng
17 triệu dân trong vùng bị nhiễm. Gần đây, ô nhiễm arsenic ở Bangladesh còn trầm trọng hơn
nữa, ảnh hưởng đến hơn 23 triệu dân năm 1997; con số này tăng lên gần 60 triệu theo công bố
mới nhất của Bộ Water Resources của Bangladesh (2005).
Nguyên nhân tạo ra hai thảm trạng ô nhiễm trên là do hàm lượng quá cao của arsenic trong
các mạch nước ngầm giữa biên giới Ấn Độ và Bangladesh, hàm lượng trên thay đổi từ 0.059
đến 0.105 mg/L.
Theo Peter Ravenscroft từ khoa Địa -Trường Đại học Cambridge, khoảng 80 triệu người trên

khắp thế giới tiêu thụ khoảng 10 tới 50 phần tỷ arsen trong nước uống của họ.

II.1.7.2. Tình hình ô nhiễm arsen ở Việt Nam
Nguyễn Thị Thu

Trang 18/67 trang


Do cấu tạo địa chất, nhiều vùng ở nước ta nước ngầm bị nhiễm arsen. Theo thống kê chưa
đầy đủ của Bộ Y tế (2009), cả nước có khoảng hơn 1 triệu giếng khoan, trong đó nhiều giếng có
nồng độ arsen cao hơn từ 20-50 lần nồng độ cho phép (0.01mg/L), ảnh hưởng xấu đến sức
khoẻ, tính mạng của cộng đồng.

Hình II.5. Bản đồ các khu vực nhiễm arsen trên toàn quốc
(Trên bản đồ Lâm Đồng đang là điểm nóng về ô nhiễm arsen)

Theo kết quả cuộc khảo sát của Viện Công nghệ Môi trường, Viện Khoa học và Công nghệ
Việt Nam, Cục Thuỷ Lợi, Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn 2004, tại
châu thổ sông Hồng, những vùng bị nhiễm nghiêm trọng nhất là phía Nam Hà Nội, Hà Nam,
Hà Tây, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình và Hải Dương. Ở Đồng bằng sông Cửu
Long, cũng phát hiện nhiều giếng khoan có nồng độ arsen cao nằm ở Đồng Tháp và An Giang.
Hiện 21% dân số Việt Nam đang dùng nguồn nước nhiễm arsen vượt quá mức cho phép và tình
trạng nhiễm độc arsen ngày càng rõ rệt và nặng nề trong dân cư. Song phần lớn người dân vẫn
không hề hay biết những tác hại nghiêm trọng đối với sức khỏe khi tích tụ những chất độc này
trong cơ thể.
Theo kết quả điều tra của Cục Thuỷ lợi thuộc Bộ NN&PTNT ngầm tại Hà Nội 2002, 2003,
nguồn nước ngầm của Hà Nội cũng đang ở mức báo động vì bị nhiễm Arsen vượt tiêu chuẩn
Nguyễn Thị Thu

Trang 19/67 trang



cho phép. Khu vực nội thành, có 32% số mẫu bị nhiễm, các khu vực khác như Đông Anh 13%,
Gia Lâm 26,5%, Thanh Trì 54%, Từ Liêm 21%.
Theo đánh giá hiện trạng ô nhiễm Arsen trong nước ngầm của Viện Vệ sinh y tế công cộng
(Bộ Y tế), mức độ nhiễm arsen ở 4 tỉnh ĐBSCL là Long An, Đồng Tháp, An Giang và Kiên
Giang, hàm lượng khá cao, đe dọa sức khỏe của người dân. Tại một số huyện của Đồng Tháp
và An Giang, tình trạng này rất đáng báo động khi phần lớn các mẫu khảo sát đều bị nhiễm với
hàm lượng vượt ngưỡng 100 ppb, cá biệt có những mẫu lên tới 1.000 ppb. Tổng số mẫu khảo
sát tại tỉnh An Giang là 2.699 mẫu với tỉ lệ nhiễm Asen là 20,18%, tập trung nhiều tại một số
huyện như: An Phú 97,3%, Phú Tân 53,19%, Tân Châu 26,98% và Chợ Mới 27,82%. Hàm
lượng arsen trong nước ngầm tại các huyện này khi phân tích đều từ 100 ppb trở lên, được tìm
thấy ở các giếng tầng nông, độ sâu dưới 60m và được dùng cho sinh hoạt phổ biến trong người
dân. Trong tháng 11/2006, Viện Y học lao động và môi trường TP.HCM đã tổ chức khám sức
khỏe cho người dân tại 2 huyện Tri Tôn và An Phú, kết quả có đến 10 ca nghi nhiễm Asen với
những biểu hiện như sừng hóa da, xuất hiện các đốm sẫm màu trên cơ thể. Tại thôn Thống Nhất
(Ứng Hoà, tỉnh Hà Tây) có tới 22 người bị chết do ung thư mà nguyên nhân được xem là do
nguồn nước nhiễm arsen cao gấp 17-30 lần mức độ cho phép (do công ty cổ phần hóa chất và
công nghệ nước quốc tế đo -Theo báo Tiền Phong).
Khảo sát của các chuyên gia tại 3 xã Hòa Hậu, Bồ Đề và Vĩnh Trụ (Hà Nam), qua khám lâm
sàng 650 người dân, trong đó xét nghiệm cận lâm sàng cho 100 người, Viện Y học lao động và
vệ sinh môi trường đã phát hiện 28,3% bị các bệnh về da (so với tỷ lệ trung bình cả nước là 35%), tỷ lệ ung thư các bộ phận tiêu hóa và tiết niệu cao hơn các dạng ung thư khác, có 31
trường hợp thiếu máu trong đó 28 người thiếu máu có liên quan đến nhiễm độc arsen mãn tính.
Theo kết quả xét nghiệm arsen do UNICEF hỗ trợ Việt Nam từ 2001 đến 2004 tại 25 tỉnh
thành thì Hà Nam đứng đầu vì mức độ ô nhiễm arsen nghiêm trọng nhất. Trong 7.040 mẫu
nước lấy từ giếng khoan, có tới 3.530 mẫu có hàm lượng lớn hơn 0,05 mg/L. Theo thống kê ban
đầu của UNICEF, tại Việt Nam có khoảng 10 triệu người có nguy cơ bị bệnh do tiếp xúc với
arsen. Qua những số liệu thu thập được cho thấy sự ô nhiễm arsen ở miền Bắc cao hơn miền
Nam. UNICEF khẳng định mức độ ô nhiễm arsen của Hà Nam nghiêm trọng như ở Bangladesh
- nơi được đánh giá là có độ ô nhiễm arsen cao trên thế giới. UNICEF cho rằng sự ô nhiễm

arsen ở phía Nam của Hà Nội là vấn đề nghiêm trọng nhất ở Việt Nam hiện nay.
Những cuộc khảo sát về nồng độ arsen trong nước sinh hoạt của người dân khu vực nông
thôn do Cục Thuỷ lợi, Trung tâm nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn-CERWASS (Bộ
Nguyễn Thị Thu

Trang 20/67 trang


NN&PTNT), Viện Công nghệ và Môi trường, Bộ Y tế tiến hành trên 23 tỉnh cho kết quả nồng
độ arsen trong nước ở các tỉnh này vượt chuẩn cho phép 47,17%.
Trong đó, các tỉnh có nguồn nước nhiễm arsen cao là Hà Nam (64,03%), Hà Nội (61,63%),
Hải Dương (51,99%). Đáng nói là nhiều mẫu nước có hàm lượng arsen vượt quá 100 lần so với
tiêu chuẩn cho phép.

II.1.7.3. Tình hình arsen tại Lâm Đồng
Theo báo cáo của Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Đức Trọng, hiện một số
mẫu nước trong các khe suối thuộc khu vực K74 thuộc xã Đạ Quyn - điểm nóng đào đãi vàng
trái phép ở huyện Đức Trọng có hàm lượng Arsen cao gấp từ 5.698 - 5.733 lần so với quy định.
Tại Lâm Đồng hiện nay chưa có báo cáo chính thức nhưng nhiều nghiên cứu được thực hiện
cho thấy Lâm Đồng có nồng độ arsen trong nước ngầm đáng báo động, thuộc danh sách các
tỉnh có arsen cao trong cả nước.

II.2. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu
II.2.1. Giới thiệu chung về tỉnh Lâm Đồng
Lâm Đồng là tỉnh miền núi Nam Tây Nguyên có diện tích tự nhiên 9.764,8km 2, chiếm
khoảng 2,9% diện tích cả nước, dân số 996.221 người, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số
chiếm 23% dân số toàn tỉnh. Lâm Đồng có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế, xã hội, an
ninh, quốc phòng, là vùng đất giàu về tài nguyên thiên nhiên, có nhiều thế mạnh, tiềm năng đã
và đang được khai thác phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.


Nguyễn Thị Thu

Trang 21/67 trang


Hình II.6. Bản đồ hành chính tỉnh Lâm Đồng

Lâm Đồng là quê hương lâu đời của các dân tộc anh em Mạ, Cơ Ho, Chu Ru,
M’Nông,...vùng đất có di sản văn hoá đặc sắc, nhiều phong tục tập quán và truyền thống tốt
đẹp, đồng thời là nơi “đất lành chim đậu” của đồng bào nhiều dân tộc ở mọi miền đất nước về
đây lập nghiệp trong khoảng một trăm năm trở lại đây. Lâm Đồng có thành phố Đà Lạt nằm ở
độ cao trung bình 1.500m so với mực nước biển, khí hậu mát mẻ trong lành, có nhiều thắng
cảnh nổi tiếng, là một trong những trung tâm du lịch - nghỉ dưỡng quan trọng của cả nước và
khu vực Đông Nam Á.
Vị trí địa lý: Phía Đông giáp các tỉnh Khánh Hoà và Ninh Thuận, Phía Tây Nam giáp tỉnh
Đồng Nai, Phía Nam – Đông Nam giáp tỉnh Bình Thuận, Phía Bắc giáp tỉnh Đắc Lắc.

II.2.2. Huyện Đức Trọng
Huyện Đức Trọng nằm trên vùng các trục giao thông huyết mạch của tỉnh Lâm Đồng: Quốc
lộ 20 (Đà Lạt - Thành Phố Hồ Chí Minh), tỉnh lộ 27 (Ninh Thuận - Đắk Lăk) và có cảng hàng
không Liên Khương nên rất thuận lợi trong giao lưu phát triển và ngày càng trở thành một trong
những huyện có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Nguyễn Thị Thu

Trang 22/67 trang


Đức Trọng là một trong những huyện có vị trí quan trọng về phát triển kinh tế- xã hội của
tỉnh Lâm Đồng. Với ưu thế về nhiều mặt, sự phát triển kinh tế của huyện Đức Trọng khá toàn

diện, bao gồm cả nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương
nghiệp, dịch vụ. Đức Trọng là một trong những địa danh quen thuộc đối với du khách trong
nước và với du khách nước ngoài. Hồ Nam Sơn được quy hoạch sẽ là điểm du lịch và hoạt
động dịch vụ văn hoá - thể thao. Huyện có sân bay Liên Khương là cửa ngõ ra vào thành phố
Đà Lạt bằng đường hàng không.
Về vị trí địa lý, huyện Đức Trọng nằm ở vùng giữa của tỉnh Lâm Đồng, phía Đông Bắc giáp
thành phố Đà Lạt, phía Nam giáp tỉnh Bình Thuận, phía đông giáp huyện Đơn Dương và tỉnh
Ninh Thuận, phía tây giáp huyện Di Linh và Lâm Hà. Diện tích tự nhiên 902,2km 2, dân số
177.952 người (năm 2009), chiếm 9,3% về diện tích và 14% dân số toàn tỉnh.
Huyện Đức Trọng có mật độ dân số vào loại cao trong tỉnh: 197 người/km 2. Thành phần dân
số thuộc 27 dân tộc anh em, trong đó các dân tộc thiểu số chiếm 30%, chủ yếu là người Chu
Ru, K’Ho và một số đồng bào dân tộc ở các tỉnh phía Bắc di cư vào từ năm 1954.
Bảng II.2. Dân số huyện Đức Trọng (2009)

Tên xã

Số dân

Diện tích (km2)

Mật độ (người /km2)

Tà Năng

5304

150

35.36


Đạ Quyn

4109

110

37.35

Tà Hine

3715

43.3

85.80

Ninh Gia

12936

143.7

90.02

Ninh Loan

4794

32.5


147.51

Phú Hội

18202

107

170.11

Đà Loan

10239

54.9

186.50

N'Thol Hạ

6765

35.3

191.64

Hiệp An

10368


54

192.00

Tân Thành

5763

22.7

253.88

Liên Hiệp

12239

35.8

341.87

Hiệp Thạnh

15402

36.9

417.40

Tân Hội


10828

23.6

458.81

Bình Thạnh

7240

15.4

470.13

Liên Nghĩa

50048

37.4

1338.18

Tổng

177952

902.5

Nguyễn Thị Thu


Trang 23/67 trang


(Nguồn: Trung tâm dân số, gia đình và trẻ em huyện Đức Trọng)

II.2.3. Huyện Đơn Dương
Đơn dương là huyện nằm ở phía Đông Nam Đà Lạt, phía Nam cao nguyên Lâm viên, có độ
cao trên 1000m. Với diện tích đất tự nhiên trên 61.032 ha ; trong đó đất sản xuất nông nghiệp
gần 17.000 ha, đất lâm nghiệp 38.000 ha. Có 10 đơn vị xã, thị trấn với dân số trên 91.000 dân ;
Trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm gần 30%.
Toàn huyện hiện có 93.012 khẩu, các dân tộc thiểu số đang sống trên địa bàn huyện gồm có
K’Ho, Chill, ChRu, Eâđê, Nùng, tày, Hoa, Chàm với tổng số 4.271 hộ và trên 17.000 khẩu, cư
trú trên 35 thôn dân tộc trong tổng số 99 thôn của huyện, ngành nghề của các dân tộc trên chủ
yếu là sản xuất nông nghiệp: trồng lúa và rau màu.
Bảng II.3. Dân số huyện Đơn Dương (tính đến tháng 3/2011)

Tên Xã

Diện tích (km2)

Dân Số (người)

1.

TT Thạnh Mỹ

21.31

11125


7 khu phố, 1 thôn

2.

Thị trấn Dran

133.3

16024

06 khu phố, 7 thôn

3.

Xã Quảng Lập

9.50

4729

05 thôn

4.

Xã Tutra

74.50

12251


14 thôn

5.

Xã Ka Đơn

38.50

8308

10 thôn

6.

Xã Pró

88.20

5519

7 thôn

7.

Xã Ka Đô

88.10

11035


10 thôn

8.

Xã Đà Ròn

33.49

7814

8 thôn

9.

Xã Lạc Lâm

21.20

9081

10 thôn

103.50

12154

15 thôn

STT


10. Xã Lạc Xuân

Ghi chú

(Nguồn: Trung tâm dân số, gia đình và trẻ em huyện Đơn Dương)

Đứng trên góc độ phát triển kinh tế thì Đơn Dương hội tụ khá nhiều yếu tố thuận lợi – Có
Quốc lộ 27 đi qua, cận kề cửa ngõ các tỉnh miền Trung vào Đà Lạt Lâm Đồng, tiếp giáp với
trung tâm kinh tế Đức Trọng, đất đai thổ nhưỡng phù hợp với với nhiều loại cây trồng; đặc biệt
các lọai rau. Mặt khác, xét về khả năng du lịch có thể là điểm dừng chân của du khách trước và
sau khi đến và đi Đà Lạt để thưởng thức không khí, thắng cảnh rừng núi như đèo Ngoạn Mục,
hồ Đa Nhim…
Huyện Đơn Dương phía Đông giáp Tỉnh Ninh Thuận, Phía Tây và phía Nam giáp Huyện
Đức

Trọng.

Phía

Nguyễn Thị Thu

Bắc

giáp

Thành

phố

Đà


Lạt



huyện

Lạc

Dương.

Trang 24/67 trang


Địa hình được chia làm 3 dạng chính: địa hình núi cao; địa hình đồi thoải lượn sóng; địa hình
thung lũng sông suối.
Ở địa phương gồm có các loại đất chính sau: đất phù sa dốc tụ; đất phù sa sông suối; đất phù
sa không được bồi hàng năm; đất nâu đỏ trên Ban Zan; đất đỏ vàng trên đá phiến; đất mùn vàng
đỏ Gzanit và Daxit.

II.2.4. Tính chất nước ngầm tại Lâm Đồng
Đoàn Địa chất thủy văn -Địa chất công trình 707 (nay là Đoàn Quy hoạch và Điều tra tài
nguyên nước) đã đề xuất đề tài “Xây dựng bản đồ quản lý nước ngầm vùng trọng điểm dân cư,
kinh tế trên từng địa bàn huyện” và được cơ quan quản lý và UBND tỉnh lần lượt phê duyệt,
thực hiện cho các đơn vị hành chính của tỉnh trong các năm 1999-2009. Kết quả điều tra đã
đánh giá trữ lượng khai thác, trữ lượng triển vọng khai thác và trữ lượng tiềm năng cho từng
vùng đạt từ 87.000m3/ngày (vùng Di Linh) đến 354.000m3/ngày (vùng Bảo Lộc).
Năm 2009 là năm cuối cùng đề tài tiếp tục xây dựng bản đồ quản lý nước ngầm thành phố
Đà Lạt, thị xã Bảo Lộc, huyện Bảo Lâm và tổng hợp kết quả trên toàn tỉnh. Hệ thống bản đồ
quản lý nước ngầm có ưu điểm nổi bật là:

- Tổng hợp được các nguồn tài liệu điều tra địa chất thủy văn đã có, thi công bổ sung 22 lỗ
khoan (trong 10 năm); lựa chọn, cập nhật dữ liệu trên 200 lỗ khoan khai thác mới xuất hiện để
đạt mật độ điểm cho loại tỷ lệ bản đồ nước ngầm lớn hơn (độ chính xác khi ứng dụng thực địa
cao hơn).
- Tính toán thêm loại trữ lượng khai thác tối đa cho từng công trình đã có; trữ lượng khai
thác an toàn cho từng khu (khoảnh) có điều kiện địa chất thủy văn khác nhau và thể hiện lưu
lượng khai thác an toàn bằng đơn vị tính thông dụng nhất; đánh giá chất lượng nước theo các
tiêu chuẩn sử dụng hiện hành (thay cho phương thức đánh giá theo loại hình tồn tại của nước
ngầm trong các bản đồ chuyên môn trước đây).
- Trên bản đồ và mặt cắt địa tầng còn thiết kế sơ bộ một số công trình khai thác nước ngầm ở
những nơi có triển vọng phát triển.
Về kiến tạo, các nhà địa chất gọi Lâm Đồng là “một trũng hoạt hóa magma - kiến tạo” - tức
có cấu trúc địa chất rất phức tạp, nên nước ngầm tồn tại, vận động trong nó cũng rất phức tạp.
Tóm tắt các kết quả điều tra trong thời gian qua:

Nguyễn Thị Thu

Trang 25/67 trang


×