Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Luận văn giải pháp xóa đói giảm nghèo tại tỉnh phú thọ đến năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.12 MB, 105 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

1

PHẦN MỞ ĐẦU
Đói nghèo là một hiện tượng mang tính toàn cầu, nó không chỉ tồn tại ở
những nước nghèo, có thu nhập thấp và các nước đang phát triển mà ngay cả
ở những nước phát triển cũng phải đối mặt với tình trạng này. Do đó xóa đói
giảm nghèo phải được xác định là một chiến lược lâu dài và thường xuyên
của mọi quốc gia. Đối với Việt Nam nói riêng, xóa đói giảm nghèo toàn diện,
bền vững luôn được Đảng và Nhà nước xác định là mục tiêu xuyên suốt trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi nước
ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và mở
rộng hội nhập kinh tế quốc tế.
Sau hơn 20 năm đổi mới, nhờ thực hiện cơ chế, chính sách phù hợp với
tình hình thực tiễn, công cuộc xóa đói giảm nghèo ở nước ta đã đạt được
những thành tựu đáng kể, có ý nghĩa to lớn cả về kinh tế, xã hội và an ninh
quốc phòng, phát huy được truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và góp phần
quan trọng trong sự nghiệp phát triển đất nước.
Những thành tựu giảm nghèo của Việt Nam được thế giới đánh giá là
một trong những câu chuyện thành công nhất trong phát triển kinh tế. Tỷ lệ hộ
nghèo đã giảm nhanh từ 32% năm 2000 xuống còn 13,1% năm 2008, bình
quân mỗi năm giảm từ 2 – 3%, đời sống người dân ngày càng được cải thiện.
Nhìn chung các chính sách hỗ trợ, các dự án đầu tư đều đạt được mục tiêu đề
ra và mang lại hiệu quả xã hội sâu sắc nhằm tạo sự chuyển biến trong nhận
thức về xóa đói giảm nghèo của nhân dân.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn tồn tại một số hạn
chế cần được khẩn trương khắc phục trong thời gian tới nhằm tận dụng những
cơ hội thuận lợi và vượt qua những khó khăn, thử thách để hoàn thành mục
tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo của cả nước xuống còn 10 – 11% vào năm 2010.
SVTH: Phạm Thị Linh Lan



Lớp: KTPT 47A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

2

Tỉnh Phú Thọ là một tỉnh thuộc vùng miền núi trung du Bắc Bộ trong
những năm gần đây đã đạt được những bước tiến đáng kể trong phát triển
kinh tế - xã hội. Kinh tế phát triển với tốc độ cao và ổn định, chất lượng tăng
trưởng từng bước được nâng lên. Với sự phấn đấu không ngừng của lãnh đạo
tỉnh, các tổ chức doanh nghiệp và người dân cùng với sự hỗ trợ thiết thực từ
phía Trung ương cũng như các tổ chức quốc tế, công cuộc xóa đói giảm
nghèo của tỉnh Phú Thọ đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tỷ lệ nghèo
giảm xuống còn 17,6% năm 2008, đời sống nhân dân từng bước được cải
thiện và nâng cao thông qua việc thực hiện nhiều chương trình, dự án xóa đói
giảm nghèo, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, hỗ trợ sản xuất cho người
nghèo, đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển đa dạng hoá các ngành nghề dịch vụ có
hiệu quả kinh tế cao…
Xóa đói giảm nghèo trong thời gian trước mắt luôn được Nhà nước và
Uỷ ban nhân dân tỉnh xác định là một vấn đề nhiều khó khăn và thách thức
nhất trong chủ trương phát triển kinh tế gắn với giải quyết các vấn đề xã hội,
đảm bảo an sinh xã hội cho người nghèo của tỉnh Phú Thọ.
Chính vì vậy việc xác định mục tiêu xóa đói giảm nghèo cụ thể của
tỉnh, trên cơ sở đó đề xuất những chính sách, giải pháp xóa đói giảm nghèo và
tổ chức thực hiện hiệu quả, có sự phối hợp đồng bộ giữa sự chỉ đạo của ban
ngành các cấp với sự tham gia tích cực của người dân địa phương được coi là
nhiệm vụ trọng tâm của quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đến 2015.
Xuất phát từ thực trạng công tác xóa đói giảm nghèo tại tỉnh Phú Thọ

cũng như những khó khăn mà công tác xóa đói giảm nghèo sẽ phải đối mặt
trong thời gian tiếp theo, em đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp xóa đói giảm
nghèo tại tỉnh Phú Thọ đến năm 2015” làm luận văn tốt nghiệp.

SVTH: Phạm Thị Linh Lan

Lớp: KTPT 47A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

3

Ngoài phần mục lục, phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo, bản báo cáo này gồm 3 chương:
Chương I. Lý luận chung về đói nghèo và công tác xóa đói giảm nghèo.
Chương II. Thực trạng đói nghèo và công tác xóa đói giảm nghèo tại
tỉnh Phú Thọ.
Chương III. Một số giải pháp xóa đói giảm nghèo tại tỉnh Phú Thọ đến
năm 2015.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của thầy giáo Nguyễn Ngọc
Sơn và các cán bộ tại cơ quan thực tập: Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân - Bộ
Kế hoạch và Đầu tư đã giúp đỡ em trong quá trình thực hiện chuyên đề thực
tập tốt nghiệp. Mặc dù có nhiều cố gắng trong việc thu thập và tổng hợp số
liệu song do kinh nghiệm thực tế và thời gian thực hiện hạn chế nên bài viết
không tránh khỏi những sơ suất thiếu sót, em rất mong nhận được những ý
kiến đóng góp quý báu của các thầy cô để hoàn thiện hơn kiến thức của mình.

SVTH: Phạm Thị Linh Lan


Lớp: KTPT 47A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

4

CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÓI NGHÈO VÀ CÔNG TÁC
XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
I. Những vấn đề cơ bản về đói nghèo
1. Khái niệm đói nghèo
1.1. Khái niệm đói nghèo theo quan điểm của thế giới
Nghèo đói là một vấn đề xã hội bức xúc và nóng bỏng của nhiều quốc
gia trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển. Đây là vấn đề được
Chính phủ các nước, các nhà lãnh đạo, các tổ chức quốc tế rất quan tâm nhằm
tìm ra những giải pháp hạn chế và tiến tới xóa bỏ nạn đói nghèo trên phạm vi
toàn cầu.
Hiện nay trên thế giới vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về đói
nghèo, tuy nhiên tồn tại một số quan niệm phổ biến được nhiều quốc gia sử
dụng tùy theo điều kiện phát triển kinh tế – xã hội và định hướng, mục tiêu
xóa đói giảm nghèo cụ thể.
Thế giới thường dùng khái niệm “nghèo khổ” và nhận định nghèo khổ
theo bốn khía cạnh về thời gian, không gian, giới và môi trường:
- Về thời gian: Phần lớn người nghèo khổ là những người có mức sống
dưới mức “chuẩn” trong một thời gian dài để phân biệt với số người nghèo
khổ “tình thế”, chẳng hạn như những người thất nghiệp, những người mới
nghèo do suy thoái kinh tế hoặc do thiên tai, địch họa, tệ nạn xã hội rủi ro…
- Về không gian: Nghèo đói diễn ra chủ yếu ở nông thôn, nơi có đông
dân số sinh sống. Tuy nhiên tình trạng đói nghèo ở thành thị, trước hết là ở
các nước đang phát triển cũng có xu hướng gia tăng.

- Về giới: Người nghèo là phụ nữ đông hơn nam giới. Những hộ gia
đình nghèo nhất là những hộ do phụ nữ làm chủ hộ. Trong các hộ nghèo đói
do đàn ông làm chủ hộ thì phụ nữ khổ hơn nam giới.
SVTH: Phạm Thị Linh Lan

Lớp: KTPT 47A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

5

- Về môi trường: Phần lớn người nghèo đều sống ở những vùng sinh
thái khắc nghiệt mà ở đó tình trạng đói nghèo và sự xuống cấp về môi trường
đều đang ngày càng trầm trọng thêm. [Mai Quốc Chánh - 2001] [1]
Từ cách tiếp cận theo bốn khía cạnh trên, Ủy ban kinh tế và xã hội của
Liên hợp quốc về Châu Á và Thái Bình Dương (ESCAP) đưa ra hai khái niệm
về đói nghèo như sau:
- Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng
những nhu cầu cơ bản tối thiểu. Nhu cầu cơ bản tối thiểu cho cuộc sống của
con người là những đảm bảo ở mức tối thiểu về ăn, mặc, ở, giao tiếp xã hội,
vệ sinh, y tế và giáo dục. Ngoài những nhu cầu cơ bản nêu trên, cũng có ý
kiến cho rằng, nhu cầu tối thiểu bao gồm có quyền được tham gia vào các
quyết định của cộng đồng. [1]
Khái niệm nghèo khổ tuyệt đối dựa trên việc xác định mức thu nhập tối
thiểu cần thiết để đảm bảo những nhu cầu vật chất cơ bản cho con người. Mức
thu nhập này sẽ thay đổi theo tiêu chuẩn của mức sống theo thời gian và theo
từng địa phương. Do đó các chỉ tiêu đánh giá mức độ nghèo khổ tuyệt đối phụ
thuộc vào điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội cụ thể của từng quốc gia, khu
vực và từng thời kỳ khác nhau.

- Nghèo tương đối: Sự nghèo khổ tương đối được hiểu là những người
sống dưới mức tiêu chuẩn có thể chấp nhận được trong những địa điểm và
thời gian xác định. [Vũ Thị Ngọc Phùng – 2006] [2]. Nghèo tương đối có thể
được xem như việc cung cấp không đầy đủ các tiềm lực vật chất và phi vật
chất cho những người thuộc một tầng lớp xã hội nhất định so với sự sung túc
của xã hội đó.
Nghèo khổ tương đối được xét trong các tương quan xã hội, phụ thuộc
vào địa điểm cư dân sinh sống và phương thức tiêu thụ phổ biến tại địa
phương đó. Mức sống của những người nghèo khổ tương đối có thể đáp ứng
SVTH: Phạm Thị Linh Lan

Lớp: KTPT 47A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

6

nhu cầu cơ bản tối thiểu để con người có thể “tiếp tục tồn tại” nhưng vẫn thấp
hơn so với mức sống trung bình của cộng đồng. Nghèo khổ tương đối gắn liền
với sự chênh lệch về mức sống của một bộ phận dân cư so với mức sống
trung bình của địa phương trong một thời kỳ nhất định do đó cũng có thể hiểu
là một hình thức biểu hiện sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập.
Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển kinh tế – xã hội tại
Copenhagen Đan Mạch năm 1995 đã đưa ra một khái niệm cụ thể hơn về
nghèo: “Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn dưới 1 đôla mỗi
ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ để mua những sản phẩm thiết
yếu để tồn tại”. [Lê Văn Thành - 2006]
Tại hội nghị về chống đói nghèo khu vực Châu Á – Thái Bình Dương
do ESCAP tổ chức tại Băng Kốc, Thái Lan (9/1993) các quốc gia trong khu

vực đã thống nhất đưa ra định nghĩa: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư
không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những
nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận theo trình độ phát triển kinh tế – xã hội
và phong tục tập quán của địa phương”. [2] Đây là định nghĩa được nhiều
quốc gia đang phát triển sử dụng, trong đó có Việt Nam.
Các khái niệm trên được xây dựng dựa trên cơ sở quan niệm nghèo khổ
về thu nhập. Bên cạnh đó Chương trình phát triển Liên hợp quốc UNDP cũng
đưa ra một khái niệm nghèo khổ khác dựa trên quan niệm nghèo khổ của con
người (nghèo khổ tổng hợp) trong “Báo cáo về phát triển con người” năm
1997. Khác với quan niệm nghèo khổ về thu nhập, nghèo con người đề cập
đến sự phủ nhận các cơ hội và sự lựa chọn để đảm bảo một cuộc sống cơ bản
nhất. Theo đó, nghèo khổ của con người là khái niệm biểu thị sự nghèo khổ
đa chiều của con người, hay sự thiệt thòi theo những khía cạnh khác ngoài thu
nhập như cơ hội được đào tạo, quyền tự ra quyết định, khả năng ảnh hưởng
đến những quyết định chính trị và nhiều khía cạnh khác. Đối với các nước
SVTH: Phạm Thị Linh Lan

Lớp: KTPT 47A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

7

đang phát triển sự thiệt thòi được biểu hiện thông qua ba khía cạnh cơ bản
nhất của cuộc sống con người:
- Thiệt thòi xét trên khía cạnh cuộc sống lâu dài và khỏe mạnh, được
xác định bởi tỷ lệ người dự kiến không thọ quá 40 tuổi.
- Thiệt thòi về tri thức, được xác định bởi tỷ lệ người lớn mù chữ.
- Thiệt thòi về đảm bảo kinh tế, được xác định bởi tỷ lệ người không

tiếp cận được các dịch vụ y tế, nước sạch và tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh
dưỡng. [2]
Theo sự nghiên cứu của ILO những năm 70, khái niệm nghèo đã được
mở rộng từ quan niệm về thu nhập sang một khái niệm rộng hơn đó là nhu
cầu cơ bản, nghèo không chỉ là sự thiếu thốn về thu nhập mà còn là “thiếu sự
tiếp cận với các dịch vụ y tế, giáo dục và các dịch vụ cơ bản khác”. [Simon
Maxwell - 1999]
Vào những năm 1980, các nhà nghiên cứu đã đề cập đến sự cần thiết
phải xem xét các yếu tố phi tiền tệ khi nghiên cứu về đói nghèo, nghèo được
hiểu là “sự tước đoạt về quyền con người để sống, để tồn tại”.
Robert Mc. Namara, chủ tịch Ngân hàng thế giới cho rằng: “Nghèo khổ
cùng cực là một điều kiện sống bị hạn chế bởi suy dinh dưỡng, mù chữ, bệnh
tật, ô nhiễm môi trường, tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh cao và tuổi thọ thấp”.
Năm 1998, Amartya Sen, người được giải thưởng Nobel kinh tế năm
1998 cho rằng: “Nghèo là sự thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình
phát triển của cộng đồng”. Thực tế trong xã hội, những người giàu thường có
cơ hội lựa chọn nhiều hơn so với người nghèo.
Mặc dù không có một định nghĩa duy nhất về nghèo nhưng các quan
niệm về nghèo đói trên thế giới hầu như không có sự khác biệt đáng kể về bản
chất. Nhìn chung các quan niệm đều nhìn nhận nghèo là tình trạng thiếu thốn
ở nhiều phương diện khác nhau như: thu nhập hạn chế, thiếu cơ hội tạo ra thu
SVTH: Phạm Thị Linh Lan

Lớp: KTPT 47A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

8


nhập, không có khả năng đảm bảo tiêu dùng để thỏa mãn những nhu cầu cơ
bản của con người, ít hoặc hầu như không được tham gia vào các quá trình ra
quyết định của cộng đồng… Sự khác biệt trong việc xác định thế nào là nghèo
ở mỗi quốc gia thể hiện chủ yếu dựa trên mức độ thỏa mãn những nhu cầu đó
cao hay thấp. Vì vậy việc phân định đối tượng nghèo chỉ mang tính chất
tương đối và phụ thuộc nhiều vào điều kiện phát triển kinh tế – xã hội cũng
như phong tục tập quán và chủ trương chính sách phát triển kinh tế - xã hội
cũng như định hướng xóa đói giảm nghèo của từng khu vực, từng quốc gia.
1.2. Khái niệm nghèo đói của Việt Nam
1.2.1. Quan niệm về nghèo
Trong chiến lược về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo, Việt Nam sử
dụng khái niệm nghèo do Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Kốc – Thái Lan (9/1993): “Nghèo là
tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ
bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy theo
trình độ phát triển kinh tế – xã hội và phong tục tập quán của địa phương”.
- Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng
thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống. Nhu cầu tối thiểu là
những đảm bảo ở mức tối thiểu các nhu cầu thiết yếu: ăn, mặc, ở và nhu cầu
sinh hoạt hàng ngày: văn hóa, giáo dục, y tế, đi lại, giao tiếp.
- Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới
mức sống trung bình của cộng đồng tại địa phương đang xét.
- Hộ nghèo: Ở Việt Nam tồn tại nhiều cách xác định hộ nghèo tùy
thuộc vào điều kiện kinh tế – xã hội và chủ trương xóa đói giảm nghèo của
từng địa phương trong mỗi thời kỳ khác nhau, do đó để phân loại hộ nghèo
cần xem xét các đặc trưng cơ bản như: thiếu ăn từ 3 tháng trở lên trong năm,
SVTH: Phạm Thị Linh Lan

Lớp: KTPT 47A



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

9

nợ sản lượng khoán, nợ thuế triền miên, vay nặng lãi trẻ em không có điều
kiện đến trường (mù chữ hoặc bỏ học), thậm chí phải cho con hoặc tự bản
thân đi làm thuê cuốc mướn để kiếm sống hoặc đi ăn xin… [1]
- Xã nghèo: Là những xã có tỷ lệ hộ nghèo đói từ 40% trở lên, cơ sở hạ
tầng (đường giao thông, trường học, trạm y tế, điện sinh hoạt, nước sinh hoạt,
thuỷ lợi nhỏ và chợ) thấp kém hoặc không đủ phục vụ nhu cầu của người dân,
cụ thể là dưới 50% số hộ gia đình không được sử dụng điện sinh hoạt, dưới
30% số hộ gia đình không được sử dụng nước sạch, số phòng học không đáp
ứng được cho 70% số học sinh trở lên, không có đường giao thông đến trung
tâm xã, không có trung tâm y tế xã…
- Vùng nghèo: Là một vùng liên tục gồm nhiều làng, xã, huyện hoặc
chỉ là một làng, một xã, một huyện mà tại đó chứa đựng nhiều yếu tố khó
khăn, bất lợi cho sự phát triển của cộng đồng, như đất đai khô cằn, thời tiết
khí hậu khắc nghiệt, địa hình phức tạp, giao thông khó khăn, trình độ dân trí
thấp, sản xuất tự cung tự cấp và có mức sống dân cư trong vùng rất thấp so
với mức sống chung của cả nước xét trong cùng một thời điểm. [1]
Hiện nay khái niệm nghèo ở Việt Nam đã được mở rộng theo nhiều
khía cạnh và ngày càng tiếp cận gần hơn với quan niệm chung của thế giới và
khu vực. Khái niệm nghèo không chỉ dựa trên mức thu nhập đảm bảo cho các
nhu cầu thiết yếu hàng ngày mà đã quan tâm tới những nhu cầu khác của con
người như quyền được tiếp cận với các dịch vụ y tế, giáo dục, các dịch vụ cơ
bản khác, quyền được tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng…
1.2.2. Quan niệm về đói:
- Khái niệm đói đói: Là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức
sống dưới mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để

duy trì cuộc sống. Đó là những hộ dân cư hàng năm thiếu ăn đứt bữa từ 1 đến
2 tháng, thường vay nợ của cộng đồng và thiếu khả năng chi trả.
SVTH: Phạm Thị Linh Lan

Lớp: KTPT 47A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

10

- Đói kinh niên: Là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo đói nhiều năm
liền kéo dài liên tục cho tới thời điểm đang xét.
- Đói gay gắt: Là tình trạng một bộ phận dân cư có mức thu nhập dưới
8kg gạo/người/tháng.
- Hộ đói:
+ Tổng cục thống kê sử dụng khái niệm hộ thiếu đói trong nông dân.
Số liệu này được thống kê hàng tháng. Hộ thiếu đói là hộ tính đến thời điểm
báo cáo có nguồn dự trữ lương thực và dự trữ bằng tiền, trị giá hàng hóa, tài
sản có thể bán được để mua lương thực… bình quân đầu người đạt dưới 13kg
thóc hay 9kg gạo/1 tháng. Để nhận biết một cách dễ dàng hơn, đó là những hộ
gia đình không thể có đủ lương thực để ăn 2 bữa cơm hàng ngày.
+ Theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội trong giai đoạn hiện nay
nếu thu nhập bình quân trong hộ đạt dưới (hoặc bằng) 13kg gạo/người/tháng
là đói. Trên thực tế những hộ đó là những hộ thiếu lương thực trong gia đình
và phải ăn bữa cơm bữa cháo, ăn độn khoai sắn hoặc đứt bữa. Do đó người
đói là người không còn dự trữ lương thực trong nhà, không có tiền để mua
lương thực mặc dù trên thị trường không thiếu lương thực.
2. Chuẩn nghèo đói và các tiêu chí đánh giá đói nghèo
2.1. Chuẩn đói nghèo của thế giới

2.1.1. Khái niệm chuẩn nghèo
Chuẩn nghèo (hay ngưỡng nghèo, đường nghèo) là một mức thu nhập
tối thiểu cần thiết để đảm bảo những nhu cầu vật chất cơ bản cho con người
để có thể tiếp tục tồn tại.
Chuẩn nghèo là công cụ có ý nghĩa quan trọng trong việc phân định đối
tượng nghèo và không nghèo. Những người được coi là nghèo khi mức sống
của họ đo qua thu nhập (hoặc chi tiêu) thấp hơn chuẩn nghèo.
SVTH: Phạm Thị Linh Lan

Lớp: KTPT 47A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

11

Tại một thời điểm nhất định có thể tồn tại nhiều đường nghèo khác
nhau, ví dụ: đường nghèo thu nhập, đường nghèo lương thực thực phẩm,
đường nghèo chung, đường nghèo về y tế, đường nghèo về giáo dục, đường
nghèo quốc tế, đường nghèo quốc gia, đường nghèo địa phương…
2.1.2. Các phương pháp xác định chuẩn nghèo
Các quốc gia khác nhau sử dụng các phương pháp khác nhau để xác
định chuẩn nghèo. Một số quốc gia xác định chuẩn nghèo dựa trên 1/2 thu
nhập bình quân, một số quốc gia khác lại dựa trên mức 1/3 thu nhập bình
quân. Ví dụ nước Mỹ áp dụng mức chuẩn từ những năm 60 của thế kỷ trước,
cụ thể thu nhập 18.600 đôla/năm là ngưỡng nghèo đối với các gia đình có 4
người (gồm bố mẹ và hai con), thu nhập 9.573 đôla/năm là ngưỡng nghèo đối
với người độc thân trong độ tuổi lao động. Theo chuẩn này thì năm 1993
nước Mỹ có 15,1% dân số nghèo khổ, năm 2000 tỷ lệ đó giảm xuống còn
11,3% nhưng tới năm 2003 thì tỷ lệ người nghèo của nước Mỹ tăng lên 12,5%

(tức là khoảng 35,9 triệu người dân Mỹ sống trong tình trạng nghèo đói).
Một số nước khác sử dụng chỉ tiêu Kcalo/người/ngày để xác định
chuẩn nghèo, tuy nhiên chỉ tiêu này có sự chênh lệch giữa các khu vực, các
quốc gia khác nhau, thậm chí ngay trong một quốc gia cũng sử dụng nhiều
tiêu chuẩn nghèo tùy theo địa phương hoặc theo các thời kỳ khác nhau. Ví dụ
Malaixia sử dụng tiêu chuẩn 9.910 Kcalo/ngày tính trên một gia đình có 2
người lớn và 3 trẻ em để làm đường nghèo. Ấn Độ áp dụng ngưỡng nghèo với
chuẩn mực tiêu thụ bình quân đầu người hàng ngày là 2.400 Kcalo với vùng
nông thôn và 2.100 Kcalo với vùng đô thị. Pakistan lấy đường nghèo là mức
tiêu thụ 2.350 Kcalo/người/ngày. Một số nước khác như Lào, Campuchia,
Trung Quốc, Indonexia, Việt Nam sử dụng ngưỡng nghèo là mức tiêu thụ
2.100 Kcalo/người/ngày theo cách tiếp cận của Ngân hàng thế giới.

SVTH: Phạm Thị Linh Lan

Lớp: KTPT 47A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

12

Bảng 1.1. Chuẩn nghèo của một số nước năm 2001
Quốc gia

Đông Á
Trung Quốc
Đông Nam Á
Campuchia
Lào

Philipin
Thái Lan
Việt Nam
Nam Á
Ấn Độ
Thành thị
Nông thôn
Nepal
Pakistan
Srilanca
Trung Á
Azecbaijan
Kazactan
Curogustan
Thái Bình Dương
Phiji
Micronesia
Samoa
Tonga
Tuvalu

Đơn vị tính

Chuẩn nghèo
Kcalo/người/ngày Thu nhập

Chi tiêu

Nhân dân tệ/năm


2.100

Riên/ngày
Kip/tháng
Pê-sô/năm
Bạt/tháng
Nghìn đồng/năm

2.100
2.100
2.000
2.099
2.100

Ru-pi Ấn Độ/tháng
Ru-pi Ấn Độ/tháng
Ru-pi Nepal/năm
Ru-pi Pakistan/tháng
Ru-pi Srilanca/tháng

2.100
2.400
2.124
2.350
2.500

454,11
327,56
4.404
748,56

791,67

Nghìn Ma-nat/năm
Ten-ghê/tháng
Sôm/năm

2.200

120
4007
7.005

Đôla Mỹ/tuần
Đôla Mỹ/năm
Ta-la/tuần
Pan-ga/năm
Đôla Úc/tuần
(Nguồn: Nguyễn Văn Phẩm - 2003)

625
1.837
20.911
11.605
882
1.790

83
767.,58
37,49
8.610

84,24

Việc sử dụng các tiêu chuẩn làm ngưỡng nghèo khác nhau đã gây ra
khó khăn và sai sót trong việc so sánh giữa các vùng trong một quốc gia, so
sánh giữa các quốc gia hoặc so sánh theo thời gian.
Để đảm bảo tính thống nhất khi so sánh quốc tế, Ngân hàng thế giới đã
đưa ra 2 mức chuẩn là thu nhập dưới 1 Đôla Mỹ/ngày và thu nhập dưới 2
Đôla Mỹ/ngày theo sức mua tương đương (PPP – Purchasing Power Parity)
của Đôla Mỹ năm 1993. Đây là ngưỡng chi tiêu đủ cho một lượng lương thực
SVTH: Phạm Thị Linh Lan

Lớp: KTPT 47A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

13

thực phẩm thiết yếu có thể đảm bảo duy trì tối thiểu năng lượng tiêu dùng cho
một người trong một ngày là 2.100 Kcalo. Do đó ngưỡng nghèo này gọi là
“nghèo lương thực, thực phẩm”.
Trên cơ sở đó, Ngân hàng Phát triển Châu Á đã đưa ra các con số thống
kê về tỷ lệ nghèo của một số nước như sau:
Bảng 1.2. Tỷ lệ dân số sống dưới mức nghèo của một số nước
Đơn vị: %
Quốc gia
Đông Á
Trung Quốc
Mông Cổ
Đông Nam Á

Campuchia
Indonexia
Lào
Malaixia
Mianma
Philipin
Thái Lan
Việt Nam
Nam Á
Bangladet
Ấn Độ
Manđivơ
Nepal
Pakistan
Srilanca
Trung Á
Azecbaijan
Kazactan
Curogustan
Tagikistan
Turkmenistan
Uzbekistan
Thái Bình Dương

Năm

Theo chuẩn
nghèo quốc gia

2001

1998

35,6

1999
2002
1997
1999
1997
2000
2002
2002

Theo chuẩn nghèo quốc tế
1 USD/ngày 2 USD/ngày
16,6
27,0

46,7
74,9

35,9
18,2
38,6
7,5
22,9
34,0
9,8
28,9


34,1
7,5
39,0
0,2

37,7
52,4
81,7
9,3

15,5
1,9
13,1

47,5
32,5
58,5

2000
1999
1998
1996
1999
1995

49,8
26,1
43,0
42,0
32,6

25,2

36,0
36,0
0,1
39,1
25,3
6,6

82,8
81,3
2,9
80,9
77,2
45,4

2001
2002
2000
2003
1998
2000

49,6
27,9
52,0
56,6
29,9
27,5


3,7
0,1
0,9
13,9
12,1
17,3

33,4
8,5
27,2
58,7
44,0
71,7

SVTH: Phạm Thị Linh Lan

Lớp: KTPT 47A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Micronesia
Papua New Guinea
Samoa
Tonga

14

1998
27,9

5,2
1996
37,5
24,6
2002
20,3
5,5
2001
22,7
4,0
(Nguồn: Nguyễn Văn Phẩm - 2003)

19,7
54,4
12,6

Theo Ngân hàng thế giới thì số người sống dưới 1 USD/ngày đã giảm
từ 1,5 tỷ người vào năm 1981 xuống còn 1,1 tỷ người vào năm 2001 và 1 tỷ
người vào năm 2007. Con số này phần nào phản ánh tốc độ phát triển kinh tế
mạnh mẽ của hai quốc gia đông dân nhất thế giới hiện nay là Trung Quốc và
Ấn Độ. Tuy nhiên, bên cạnh đó xuất hiện một thực tế đáng lo ngại là số người
sống dưới mức 2 USD/ngày lại tăng lên, từ 2,4 tỷ người năm 1981 tăng lên
2,7 tỷ người năm 2001. Theo báo cáo phát triển con người của UNDP đầu
tháng 9 năm 2005 thì dự tính tới năm 2015 trên toàn thế giới sẽ có thêm
khoảng 1,7 tỷ người sống dưới mức 2 USD/ngày.
Hình 1.1. Tỷ lệ nghèo theo ngưỡng 1 USD/ngày và 2 USD/ngày
(Đô la tính theo sức mua tương đương theo giá cố định năm 1993)

(Nguồn: Ngân hàng thế giới, Khu vực Châu Á Thái Bình Dương, 2004)
SVTH: Phạm Thị Linh Lan


Lớp: KTPT 47A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

15

Mức chuẩn nghèo đã được Ngân hàng thế giới điều chỉnh lên thành
1,25 Đôla Mỹ/ngày vào năm 2005 sau những diễn biến lạm phát lan rộng trên
quy mô toàn cầu ảnh hưởng tới giá lương thực, giá tiêu dùng tại nhiều nơi.
Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới năm 2008, hiện nay thế giới có khoảng
1,4 tỷ người đang chịu cảnh đói nghèo (số liệu dựa trên ngưỡng nghèo 1,25
Đôla Mỹ/ngày), bằng khoảng 1/3 dân số các nước đang phát triển. Tuy nhiên
trước tình hình dân số thế giới đang tăng nhanh thì tỷ lệ nghèo đói vẫn giảm
từ 50% xuống còn 25% trong 25 năm qua.
Châu Phi và Nam Á là những khu vực thất bại nhất trong chính sách
giảm nghèo, Nam Á là nơi có nhiều người nghèo nhất với 595 triệu người
trong đó 455 triệu là người Ấn Độ. Số người nghèo tuyệt đối tại Châu Phi
tăng từ 200 triệu người lên 380 triệu người trong thời gian từ 1981 – 2005, dự
đoán sẽ không đạt được mục tiêu xóa nghèo mức 1 USD/ngày vào năm 2015.
Ngày 27/08/2008, tại Hồng Kông, Ngân hàng Phát triển Châu Á ADB
đã công bố tiêu chuẩn mới để xác định tình trạng nghèo khó ở châu Á, theo
đó, một người được xác định là nghèo khi thu nhập dưới 1,35 Đôla Mỹ/ngày.
ADB cho rằng việc lập tiêu chuẩn mới xuất phát từ thực tế tăng trưởng kinh tế
tại nhiều nước châu Á rất cao trong những năm gần đây, nhưng tình trạng mất
cân bằng về thu nhập cũng ngày càng gia tăng. Đây là lần đầu tiên việc so
sánh mức độ nghèo xuyên quốc gia được thực hiện tại châu Á, để có được con
số này, ADB đã lấy trung bình cộng các mức nghèo tại 16 nước đang phát
triển ở châu Á năm 2005.

Chuẩn nghèo là một thước đo quan trọng trong việc đánh giá đói nghèo
của mỗi vùng, mỗi quốc gia cũng như của toàn thế giới, việc xây dựng một
chuẩn nghèo hợp lý, phù hợp với điều kiện thời gian, không gian, tập quán chi
tiêu của từng địa phương sẽ giúp xác định đúng đối tượng nghèo, trên cơ sở
đó đánh giá chính xác hơn thực trạng nghèo đói tại địa phương.
SVTH: Phạm Thị Linh Lan

Lớp: KTPT 47A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

16

2.2. Chuẩn nghèo đói của Việt Nam
2.2.1. Theo phương pháp của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội
Đây là phương pháp xác định chuẩn nghèo đói dựa trên thu nhập của
hộ gia đình, các hộ gia đình được xếp vào diện nghèo nếu mức thu nhập bình
quân đầu người của họ dưới mức chuẩn được xác định, mức này được qui
định khác nhau giữa khu vực thành thị, nông thôn và miền núi hải đảo do
những đặc điểm riêng về kinh tế - xã hội.
Chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo hiện nay sử
dụng chuẩn nghèo theo phương pháp này.
a. Giai đoạn 1993 – 1995
- Hộ đói: Là hộ có mức thu nhập bình quân mỗi người trong hộ quy ra
gạo đạt dưới 13 kg/người/tháng (đối với khu vực thành thị) và dưới 8
kg/người/tháng (đối với khu vực nông thôn).
- Hộ nghèo: Là hộ có mức thu nhập bình quân mỗi người trong hộ quy
ra gạo đạt dưới 20 kg/người/tháng (đối với khu vực thành thị) và dưới 15
kg/người/tháng (đối với khu vực nông thôn).

b. Giai đoạn 1995 – 1997
- Hộ đói: Là hộ có mức thu nhập bình quân mỗi người trong hộ quy ra
gạo dưới 13 kg/người/tháng, tính cho mọi vùng.
- Hộ nghèo: Là hộ có mức thu nhập bình quân mỗi người trong hộ quy
ra gạo theo giá đầu năm 1996:
• Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 15 kg/người/tháng (tương
đương 60.000 đồng/người/tháng)
• Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20 kg/người/tháng
(tương đương 80.000 đồng/người/tháng)
• Vùng thành thị: dưới 25 kg/người/tháng (tương đương 100.000
đồng/người/tháng)
SVTH: Phạm Thị Linh Lan

Lớp: KTPT 47A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

17

c. Giai đoạn 1997 – 2000 (Công văn số 1571/LĐTBX, ngày 20/05/1997)
- Hộ đói: Là hộ có mức thu nhập bình quân mỗi người trong hộ quy ra
gạo dưới 13 kg/người/tháng (tương đương 45.000 đồng theo giá 1997) tính
cho mọi vùng.
- Hộ nghèo: Là hộ có thu nhập bình quân mỗi người trong quy ra gạo:
• Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 15 kg/người/tháng (tương
đương 55.000 đồng)
• Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20 kg/người/tháng
(tương đương 70.000 đồng)
• Vùng thành thị: dưới 25 kg/người/tháng (tương đương 90.000 đồng)

d. Giai đoạn 2001 – 2005 (Quyết định số 1143/2000/QĐ-LĐTBXH, ngày
01/11/2000), theo đó không tách riêng chuẩn đói và nghèo do trong giai đoạn
này đã căn bản xóa được nạn đói.
Hộ nghèo là hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người trong hộ đạt
từ mức thu nhập sau trở xuống:
• Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000 đồng/người/tháng
• Vùng nông thôn đồng bằng: 100.000 đồng/người/tháng
• Vùng thành thị: 150.000 đồng/người/tháng
e. Giai đoạn 2006 - 2010 (Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ ngày 08/07/2005)
Hộ nghèo là những hộ gia đình có mức thu nhập bình quân đầu người
trong hộ đạt từ mức thu nhập sau trở xuống:
• Khu vực nông thôn: 200.000 đồng/người/tháng
• Khu vực thành thị: 260.000 đồng/người/tháng
f. Phương án điều chỉnh chuẩn nghèo giai đoạn 2006 – 2010
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội đã phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
SVTH: Phạm Thị Linh Lan

Lớp: KTPT 47A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

18

cùng các Bộ, ngành liên quan trình Chính phủ phê duyệt đề xuất phương án
điều chỉnh chuẩn nghèo giai đoạn 2006 – 2010, trong đề xuất này có những
điều chỉnh phù hợp với biến động thực tế của giá cả thị trường năm 2008 theo
hướng như sau: Chuẩn nghèo đối với khu vực nông thôn là 300.000

đồng/người/ngày, đối với khu vực thành thị là 390.000 đồng/người/ngày. Nếu
áp dụng mức điều chỉnh này, tỷ lệ hộ nghèo của cả nước tính đến cuối năm
2008 sẽ là 16,5% – 17,5%; số hộ nghèo tương ứng là 3,2 – 3,4 triệu hộ.
Tuy nhiên trên thực tế, việc tiến hành điều chỉnh chuẩn nghèo chung
cho cả nước còn liên quan chặt chẽ tới nhiều chỉ tiêu kinh tế - xã hội khác và
thực tế trong quá trình thực hiện việc điều chỉnh chuẩn nghèo thường đặt ra
yêu cầu phải thay đổi hàng loạt các chính sách, cơ chế liên quan. Do vậy
Chính phủ hiện vẫn đang tiếp tục nghiên cứu, xem xét về việc thực hiện
phương án điều chỉnh này trong tương lai.
2.2.2. Theo phương pháp của Tổng cục Thống kê
Tổng cục Thống kê dựa trên cả khía cạnh thu nhập và chi tiêu theo đầu
người để xác định chuẩn nghèo, theo đó xác định 2 chuẩn nghèo sau:
- Chuẩn nghèo lương thực, thực phẩm: Được xác định là số tiền cần
thiết để mua một số lượng lương thực, thực phẩm hàng ngày đảm bảo cung
cấp lượng Kalory tiêu dùng bình quân là 2.100 Kalory/người/ngày.
Những người có mức chi tiêu dưới mức chuẩn này được gọi là người
nghèo về lương thực thực phẩm, đây là phương pháp xác định đường đói
nghèo theo chuẩn nghèo quốc tế do Ngân hàng thế giới xác định và đã được
thực hiện trong các cuộc khảo sát mức sống dân cư cũng như khảo sát về thực
trạng đói nghèo ở Việt Nam.
- Chuẩn nghèo chung: Được xác định bằng cách lấy chuẩn nghèo về
lương thực, thực phẩm cộng thêm chi phí cho các mặt hàng phi lương thực,
thực phẩm.
SVTH: Phạm Thị Linh Lan

Lớp: KTPT 47A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp


19

Bảng 1.3. Chuẩn nghèo ở Việt Nam qua các năm
Chi tiêu bình quân đầu người/năm
1993
1998
2002
2004
Chuẩn nghèo lương thực,
thực phẩm (đồng)
Chuẩn nghèo chung (đồng)
Tỷ lệ nghèo lương thực,
thực phẩm (%)
Tỷ lệ nghèo chung (%)

780.000

1.287.000

1.381.000

1.488.000

1.116.000

1.790.000

1.915.000

2.076.000


24,9

15,0

9,9

7,8

58,1

37,4

28,9

24,1

(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
3. Chỉ số đánh giá đói nghèo
Hiện nay trên thế giới sử dụng 2 thước đo phổ biến đánh giá nghèo khổ
về thu nhập là tỷ lệ nghèo và khoảng cách nghèo, chỉ số nghèo khổ tổng hợp
HPI được sử dụng để đánh giá nghèo khổ của con người.
3.1. Tỷ lệ nghèo (tỷ lệ đếm đầu người – HCR)
Tỷ lệ nghèo được tính bằng tỷ lệ phần trăm của dân số sống dưới mức
nghèo. Sử dụng tỷ lệ nghèo có thể giúp đánh giá, so sánh quy mô nghèo, tốc
độ giảm nghèo theo không gian hoặc thời gian.
Công cụ để đo tỷ lệ nghèo trong xã hội là ngưỡng nghèo. Khi tính toán
với mỗi chuẩn nghèo khác nhau sẽ có tỷ lệ nghèo khác nhau. Các vùng có tỷ
lệ nghèo đói cao thì tình trạng nghèo đói càng trầm trọng và mức sống người
dân càng thấp hơn nhiều so với mức chuẩn nghèo.

Tỷ lệ hộ nghèo có thể phân chia theo khu vực (theo vùng địa lý hoặc
theo khu vực thành thị - nông thôn), theo giới tính hoặc theo dân tộc.
Trong những năm qua tỷ lệ nghèo ở Việt Nam đã giảm tương đối
nhanh, là một trong những nước giảm tỷ lệ nghèo đói nhanh nhất so với các
nước có cùng mức GDP, được UNDP đánh giá là một trong những nước điển
hình về việc thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ về xóa đói giảm nghèo.

SVTH: Phạm Thị Linh Lan

Lớp: KTPT 47A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

20

Hình 1.2. Tỷ lệ nghèo chung của Việt Nam qua các năm
Đơn vị: %

(Nguồn: Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội)
Hình 1.3. Tỷ lệ hộ nghèo cuối năm 2007 phân theo vùng
Đơn vị: %

(Nguồn: Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội - 2008)
3.2. Khoảng cách nghèo:
Chỉ số tỷ lệ nghèo không phản ánh được mức độ gay gắt của nghèo đói,
do đó các nhà kinh tế đã xây dựng chỉ số “khoảng cách nghèo”.
Khoảng cách nghèo là phần chênh lệch giữa mức chi tiêu trung bình
của người nghèo so với ngưỡng nghèo, tính bằng phần trăm so với ngưỡng


SVTH: Phạm Thị Linh Lan

Lớp: KTPT 47A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

21

nghèo. Khoảng cách nghèo cho biết tính chất và mức độ của nghèo đói khi so
sánh giữa các nhóm dân cư trong một quốc gia.
Khoảng cách nghèo cũng có thể được phân chia theo các nhóm dân tộc
hoặc theo khu vực. Khoảng cách nghèo của những nhóm người dân tộc thiểu
số, người sống ở vùng sâu, vùng xa thường lớn hơn so với những nhóm dân
cư khác. Ở Việt Nam, khoảng cách nghèo giữa các nhóm người dân tộc thiểu
số và người Kinh có sự chênh lệch đáng kể. Khoảng cách nghèo của nhóm
dân tộc thiểu số là 34,7% năm 1993 giảm xuống còn 15,4% năm 2006, trong
khi đó khoảng cách nghèo của người Kinh và Hoa là 10% năm 1993 giảm
xuống còn 2% năm 2006, sát với mức chuẩn nghèo tương ứng.
3.3. Chỉ số nghèo khổ con người (Chỉ số nghèo khổ tổng hợp – HPI)
HPI là chỉ số tổng hợp đo lường sự thiếu hụt trên ba phương diện cơ
bản được phản ánh trong chỉ số phát triển con người HDI: chỉ số tuổi thọ, chỉ
số giáo dục và chỉ số thu nhập.
HPI là một thước đo đa chiều về tình trạng nghèo khổ của các quốc gia.
Giá trị HPI của một nước có ý nghĩa cho biết sự nghèo khổ của con người ảnh
hưởng bao nhiêu phầm trăm dân số nước đó.
Chỉ số HPI được chia thành 2 loại:
- HPI-1 đối với các nước đang phát triển:
HPI-1 = [1/3 (P1α + P2α + P3α )] 1/α
Trong đó:


P1: xác suất sống chưa đến tuổi 40
P2: tỷ lệ người lớn mù chữ
P3: trung bình không trọng số của số dân không được sử dụng
nguồn nước được cải thiện và tỷ lệ trẻ thiếu cân so với tuổi
α: trọng số cho độ thiếu hụt

- HPI-2: một số nước thuộc Tổ chức hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD)
HPI-2 = [1/4 (P1α + P2 α + P3 α + P4 α)] 1/α
SVTH: Phạm Thị Linh Lan

Lớp: KTPT 47A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Trong đó:

22

P1: xác suất sống chưa đến tuổi 60
P2: tỷ lệ người lớn (16-65 tuổi) thiếu kỹ năng đọc viết chức năng
P3: tỷ lệ dân số sống dưới chuẩn nghèo thu nhập
P4: tỷ lệ thất nghiệp lâu dài (từ 12 tháng trở lên)
α: trọng số cho độ thiếu hụt

Trong các Báo cáo phát triển con người của Chương trình Phát triển
Liên hiệp quốc UNDP, giá trị α được sử dụng là bằng 3.
Các chỉ số sử dụng để đo mức độ thiếu hụt được chuẩn hóa từ 0 đến
100 (được thể hiện là tỷ lệ %).

(Nguồn: Báo cáo phát triển con người 2007/2008 UNDP)
Năm 1999, chỉ số HPI của Việt Nam đạt 29,1%, đứng thứ 45/90 quốc
gia được Liên hiệp quốc nghiên cứu. Năm 2001 xếp thứ 43/89, năm 2004 xếp
thứ 41/95 và năm 2006, HPI-1 của Việt Nam là 19,9% xếp thứ 39/94 nước
đang phát triển.
Trong những năm trước đây việc đánh giá tình trạng đói nghèo trên thế
giới chủ yếu căn cứ vào tiêu chí thu nhập quốc dân bình quân đầu người.
Nhưng hiện nay, việc đánh giá đói nghèo còn dựa trên nhiều thước đo đa
chiều khác có tính bao quát và chính xác cao hơn, xét trên nhiều phương diện
xã hội không gắn với thu nhập căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế - xã hội
và hiện trạng đời sống trung bình phổ biến của dân cư từng quốc gia.
4. Một số nguyên nhân của đói nghèo ở các nước đang phát triển
Tìm hiểu nguyên nhân đói nghèo đóng vai trò quan trọng trong quá
trình thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo. Thực tế có nhiều cách tiếp cận
khác nhau trong nghiên cứu về đói nghèo, bản thân khái niệm đói nghèo cũng
chỉ là một khái niệm tương đối và có tính biến đổi theo thời gian, do đó không
tồn tại những nguyên nhân riêng rẽ, biệt lập để lý giải cho hiện tượng nghèo
SVTH: Phạm Thị Linh Lan

Lớp: KTPT 47A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

23

đói tại mỗi khu vực, mỗi quốc gia. Tuy nhiên có thể tổng hợp thành 3 nhóm
nguyên nhân chính sau:
4.1. Do điều kiện tự nhiên
- Đất canh tác ít hoặc đất cằn cỗi, khó canh tác: đây là nguyên nhân tác

động trực tiếp tới sản xuất nông nghiệp, sản lượng cây trồng, vật nuôi bị hạn
chế, năng suất lao động thấp, chất lượng nông phẩm không đáp ứng được yêu
cầu của thị trường vì vậy hiệu quả kinh tế thu được thường không cao.
- Thời tiết khí hậu không thuận lợi: điều kiện thời tiết khắc nghiệt,
thường xuyên xảy ra thiên tai bất thường là yếu tố bất lợi cho sản xuất nông
nghiệp. Hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp vốn đã không cao, khi
gặp thiên tai diễn biến phức tạp là một nguyên nhân dẫn đến mất mùa, đói
kém, nợ nần… Đây là nguyên nhân mang tính đặc thù của khu vực miền núi.
- Vị trí địa lý không thuận lợi: những vùng nghèo thường là những
vùng có vị trí địa lý xa xôi, giao thông không thuận lợi do đó khả năng tiếp
cận với các nguồn lực để phát triển sản xuất bị hạn chế cũng như gặp nhiều
khó khăn trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Thực tế hình thức
sản xuất phổ biến ở những vùng nghèo là sản xuất tự cung tự cấp, kinh tế
hàng hóa kém phát triển, người dân khó có cơ hội vươn lên thoát nghèo.
4.2. Do bản thân người nghèo
- Tình trạng không có vốn hoặc thiếu vốn sản xuất là một trong những
nguyên nhân chính dẫn đến đói nghèo. Việc thiếu vốn sẽ làm hạn chế khả
năng mở rộng sản xuất, kinh doanh hoặc nâng cao chất lượng sản phẩm, đặc
biệt là sản xuất nông nghiệp ở khu vực nông thôn.
- Thực tế nhiều nghiên cứu cho thấy tình trạng nghèo đói và trình độ
giáo dục có quan hệ chặt chẽ với nhau. Những người nghèo đa phần là những
người có trình độ học vấn thấp, họ không có khả năng tìm được việc làm tốt
và ổn định, chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp mang tính
SVTH: Phạm Thị Linh Lan

Lớp: KTPT 47A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp


24

thời vụ cao, thu nhập thấp và bấp bênh. Ngược lại, do những nguyên nhân
nghèo đói, thu nhập chỉ đủ cho những nhu cầu cơ bản như ăn, mặc, ở nên đa
số người nghèo không thể có điều kiện học hành đầy đủ, khó khăn trong việc
lựa chọn giống cây trồng, vật nuôi phù hợp để xây dựng phương án sản xuất.
- Đi đôi với trình độ học vấn thấp là sự thiếu hiểu biết về kiến thức kế
hoạch hóa gia đình, vì vậy đa số những gia đình nghèo là những hộ sinh đẻ
nhiều con, những vùng nghèo là những vùng có tỷ lệ sinh cao do người dân
chưa được tiếp cận với những kiến thức về sức khỏe sinh sản. Gia đình đông
con đồng nghĩa với gánh nặng phụ thuộc lớn, do đó cơ hội thoát nghèo đối
với những hộ gia đình này là rất ít.
- Bên cạnh đó, một số yếu tố như rủi ro bất thường trong cuộc sống, ốm
đau, bệnh tật, tai nạn, tập quán canh tác lạc hậu, chi tiêu không có kế hoạch,
lười lao động, sa ngã vào các tệ nạn xã hội cờ bạc, rượu chè… cũng là những
nguyên nhân dẫn đến tình trạng đói nghèo, đặc biệt là ở khu vực nông thôn.
Theo số liệu báo cáo từ điều tra xác định hộ nghèo của Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội năm 2004, ở Việt Nam hiện nay tồn tại nhiều nguyên
nhân gây nên tình trạng nghèo đói, trong đó nguyên nhân hàng đầu là do thiếu
vốn, nguyên nhân này chiếm 63,69% tổng số ý kiến được hỏi. Tiếp theo là
các nguyên nhân thiếu kinh nghiệm sản xuất kinh doanh (31,12%), thiếu đất
(20,82%), bệnh tật (16,94%), gia đình đông con (13,60%), gia đình neo đơn,
ít lao động (11,40%), rủi ro (1,65%), tệ nạn xã hội (1,18%).
4.3. Do cơ chế chính sách
- Chủ trương, định hướng của mỗi quốc gia, sự quan tâm của các cấp
chính quyền từ trung ương tới địa phương thể hiện trong hệ thống cơ chế,
chính sách xóa đói giảm nghèo, sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp
quản lý và giữa các chính sách với nhau có tác động trực tiếp tới vấn đề đói
nghèo và hiệu quả của công tác xóa đói giảm nghèo.
SVTH: Phạm Thị Linh Lan


Lớp: KTPT 47A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

25

- Ở Việt Nam, hệ thống cơ chế chính sách nhằm thực hiện mục tiêu xóa
đói giảm nghèo đã được xây dựng và bước đầu thu được một số kết quả khả
quan nhưng còn thiếu tính đồng bộ giữa các ngành, các cấp quản lý và giữa
các chính sách với nhau do đó chưa đạt được hiệu quả bền vững và lâu dài.
- Chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các khu vực khó khăn
đã xây dựng được nhiều công trình thiết yếu phục vụ cho sản xuất cũng như
đời sống của người dân. Tuy nhiên ở một số địa phương việc đầu tư còn dàn
trải và mang tính bình quân, đầu tư xây dựng cơ bản ở nhiều nơi còn chưa phù
hợp với điều kiện thực tế của địa phương và chưa thực sự xuất phát từ nhu
cầu, nguyện vọng của người dân, do đó nhiều công trình không phát huy hiệu
quả sau khi xây dựng.
- Chính sách cấp vốn tín dụng cho các hộ nghèo bước đầu mở ra một
kênh tín dụng mới giúp cho những hộ sản xuất, kinh doanh tại các vùng khó
khăn vươn lên thoát nghèo. Tuy nhiên do nhu cầu về vốn là rất lớn, chưa thể
đáp ứng được nhu cầu của người vay nên hiện nay vẫn còn nhiều hộ gia đình
nghèo chưa được tiếp cận với nguồn vốn ưu đãi này.
- Chính sách cấp vốn cho người dân phát triển sản xuất chưa gắn với
các chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư của địa phương, mức
vay đối với mỗi hộ gia đình hay mỗi công trình xây dựng chưa đáp ứng được
những chi phí cần thiết, thời hạn vay ngắn, thủ tục ở một số địa phương còn
rườm rà, phức tạp gây khó khăn cho người dân trong việc vay vốn.
Trên đây là một số nhóm nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng đói

nghèo, đối với mỗi quốc gia, mỗi địa phương khác nhau tùy thuộc vào điều
kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội sẽ có những nguyên nhân đặc trưng riêng. Do
đó, khi tiến hành xây dựng cơ chế chính sách và giải pháp xóa đói giảm nghèo
cần xuất phát từ việc phân tích thực trạng và tìm ra những nguyên nhân chung

SVTH: Phạm Thị Linh Lan

Lớp: KTPT 47A


×