Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Tài liệu thi công chức tỉnh thanh hóa năm 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.13 KB, 87 trang )

Chuyên đề 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM

I. KHÁI NIỆM VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
Hệ thống chính trị là thuật ngữ chính trị - pháp lý và được quan niệm là một
tổ hợp có các chỉnh thể gồm các tổ chức, các thiết chế chính trị (các cơ quan quyền
lực nhà nước, các đảng chính trị, các tổ chức và phong trào xã hội…) được xây
dựng trên các quyền và chuẩn mực xã hội, phân bố theo một kết cấu chức năng
nhất định, vận hành theo những nguyên tắc, cơ chế và quan hệ cụ thể, nhằm thực
thi quyền lực chính trị.
Ở Việt Nam hiện nay có hai cách hiểu về hệ thống chính trị:
Theo nghĩa hẹp: Hệ thống chính trị là một chỉnh thể bao gồm các tổ chức
chính trị - xã hội thể hiện bản chất và bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Theo nghĩa rộng: Hệ thống chính trị là một chỉnh thể bao gồm nhà nước, các
đảng chính trị hợp pháp, các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp, trong đó vai trò
chủ đạo thuộc về các thể chế của giai cấp cầm quyền để tác động vào các quá trình
kinh tế - xã hội nhằm củng cố, duy trì và phát triển chế độ xã hội đương thời.
II. CÁC TỔ CHỨC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM
Hệ thống chính trị XHCN ở Việt Nam hiện nay là một chỉnh thể bao gồm
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước CHXHCN Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức chính trị - xã hội được pháp luật thừa nhận. Mỗi bộ phận có một vị trí,
vai trò nhất định, hoạt động theo nguyên tắc chung thống nhất nhằm thực hiện mục
tiêu xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay bao gồm các tổ chức sau:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Trong hệ thống chính trị ở nước ta, Đảng
Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên, vừa giữ vai trò lãnh đạo, là “hạt nhân” của
hệ thống chính trị.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị bằng các hoạt động:
- Đề ra cương lĩnh, đường lối chiến lược, những quan điểm, chủ trương phát
triển kinh tế - xã hội; đồng thời Đảng là người lãnh đạo và tổ chức thực hiện
Cương lĩnh, đường lối của Đảng.


1


- Tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận, bổ sung, phát triển đường lối, Cương
lĩnh.
- Kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối của Đảng.
- Chuẩn bị đội ngũ cán bộ cho hệ thống chính trị các cấp.
Đảng lãnh đạo xã hội chủ yếu thông qua Nhà nước và các tổ chức đoàn thể
quần chúng. Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được Nhà nước tiếp
nhận, thể chế hoá cụ thể bằng pháp luật và những chủ trương, chính sách, kế hoạch
cụ thể.
Đảng lãnh đạo xã hội thông qua hệ thống tổ chức Đảng. Đảng lãnh đạo
công tác cán bộ bằng việc xác định đường lối, chính sách cán bộ, lựa chọn, bố trí,
giới thiệu cán bộ có đủ tiêu chuẩn vào các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước, các
đoàn thể quần chúng và các tổ chức chính trị - xã hội.
Đảng lãnh đạo bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục và nêu gương, làm
công tác vận động quần chúng, lãnh đạo thực hiện tốt quy chế dân chủ.
2. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Trong hệ thống chính trị nước ta, nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị,
là công cụ tổ chức, thực hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân,
chịu trách nhiệm trước nhân dân để quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội
bằng Hiến pháp và hệ thống pháp luật, các thiết chế dưới luật.
Với chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của mình, nhà nước định ra luật pháp
và tổ chức, thực hiện quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật; đồng thời
mọi hoạt động của nhà nước cũng phải tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chịu sự giám sát của nhân dân, sự phản biện của
Mặt trân Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa là cơ quan quyền lực,
vừa là bộ máy chính trị, hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội
của nhân dân. Quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt

chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp.
- Trong bộ máy nhà nước, Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân
dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Quốc hội do nhân dân trực tiếp bầu ra, là cơ quan duy nhất có quyền lập
hiến và lập pháp, Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội, đối
2


ngoại, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và
hoạt động của bộ máy Nhà nước về các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Với ý nghĩa đó Quốc hội được gọi là cơ quan lập pháp.
- Thực hiện quyền hành pháp là bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương
tới địa phương, đứng đầu là Chính phủ. Theo quy định tại điều 94 Hiến pháp năm
2013, Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam? thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội
chịu trách nhiệm trước Quốc hội và phải báo cáo công tác với Quốc hội, Ủy
ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Chính phủ thống nhất quản lý việc
thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và
đối ngoại của nhà nước.
Bộ và cơ quan ngang Bộ là các cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng
quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực (hay nhóm ngành, lĩnh vực) trên phạm vi
cả nước và quản lý nhà nước đối với các dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực được
giao.
Các cơ quan thuộc Chính phủ do Chính phủ thành lập theo từng nhiệm kỳ,
thực hiện những nhiệm vụ nhất định do Chính phủ giao (có thể làm chức năng
quản lý hành chính nhà nước hoặc cung cấp dịch vụ công cho Chính phủ).
Bộ máy chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay được tổ chức ba cấp (tỉnh,
huyện, xã) bao gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.

- Cơ quan tư pháp bao gồm Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân các
cấp. Đây là những cơ quan được lập ra trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước để
bảo vệ pháp luật, đảm bảo việc thực thi pháp luật một cách nghiêm minh, chính
xác.
3. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Theo quy định tại điều 9, Hiến pháp 2013 thì:
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các
cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt
Nam định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại
diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát
3


huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận
xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động
đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản
Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là các
tổ chức chính trị - xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng
các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ
chức xã hội khác hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước tạo
điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các tổ chức thành viên của Mặt trận và
các tổ chức xã hội khác hoạt động.
III. BẢN CHẤT CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA
Hệ thống chính trị nước ta về bản chất là hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa

vừa mang tính phổ biến, vừa mang tính đặc thù.
Bản chất của hệ thống chính trị nước ta được quy định bởi các cơ sở nền
tảng sau:
- Cơ sở chính trị của hệ thống chính trị nước ta là chế độ nhất nguyên chính
trị với một Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội trên nền tảng
dân chủ xã hội chủ nghĩa.
- Cơ sở kinh tế của hệ thống chính trị nước ta là nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp.
- Cơ sở xã hội của hệ thống chính trị là dựa trên nền tảng liên minh giai cấp
giữa công nhân, nông dân, tầng lớp tri thức và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Cơ sở tư tưởng của hệ thống chính trị là chủ nghĩa Mác - Lênỉn và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là
các căn cứ lý luận để xây dựng hệ thống chính trị với chế độ nhất nguyên chính trị
và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Sự nhất quán về cơ sở chính trị, kinh tế, xã hội và tư tưởng là nhân tố vừa
bảo đảm tính năng động và khả năng thích ứng của hệ thống chính trị trước sự vận
động và phát triển của đất nước và thế giới.
4


Hệ thống chính trị ở nước ta là một hệ thống các thiết chế và thể chế gắn liền
với quyền lực chính trị của nhân dân và để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn do
nhân dân giao phó, ủy quyền, về thực chất, hệ thống chính trị không phải là một hệ
thống tổ chức có quyền lực tự thân, quyền lực của hệ thống chính trị bắt nguồn từ
quyền lực của nhân dân, phát sinh từ sự ủy quyền của nhân dân.
Hệ thống chính trị ở nước ta là một hình thức tổ chức thực hành dân chủ,
mỗi một tổ chức trong hệ thống chính trị đều là những hình thức để thực hiện dân
chủ đại diện và dân chủ trực tiếp của nhân dân.
IV. ĐẶC ĐIỂM CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay có những đặc điểm cơ bản sau:
1. Tính nhất nguyên chính trị của hệ thống chính trị
Chế độ chính trị Việt Nam là thể chế chính trị một Đảng duy nhất cầm
quyền mặc dù trong những giai đoạn lịch sử nhất định, trong chế độ chính trị Việt
Nam ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam còn có Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội. Tuy
nhiên hai Đảng này được tổ chức và hoạt động như những đồng minh chiến lược
của Đảng Cộng sản Việt Nam, thừa nhận vai trò lãnh đạo và vị trí duy nhất của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Do vậy, về thực chất chế độ chính trị không tồn tại các
đảng chính trị đối lập.
Hệ thống chính trị Việt Nam gắn liền với vai trò tổ chức và lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Mỗi tổ chức thành viên của hệ thống chính trị đều do
Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập vừa đóng vai trò là hình thức tổ chức quyền lực
của nhân dân (Nhà nước), tổ chức tập hợp đoàn kết quần chúng, đại diện ý chí và
nguyện vọng của quần chúng (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân
dân) là tổ chức đóng vai trò là phương tiện để Đảng Cộng sản thực hiện sự lãnh
đạo chính trị của mình.
Toàn bộ hệ thống chính trị đều được tổ chức và hoạt động trên nền tảng tư
tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều đó quy định tính
nhất nguyên tư tưởng, nhất nguyên ý thức hệ chính trị của toàn bộ hệ thống và của
từng thành viên trong hệ thống chính trị.
2. Tính thống nhất của hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị Việt Nam bao gồm nhiều tổ chức có tính chất, vị trí, vai trò
chức năng khác nhau nhưng lại quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau tạo thành một thể
thống nhất. Sự đa dạng, phong phú về tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ
5


chức thành viên trong hệ thống chính trị tạo điều kiện để phát huy và tạo ra sự cộng
hưởng sức mạnh trong toàn bộ hệ thống để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ
chính trị của mỗi tổ chức thành viên và của toàn bộ hệ thống.

Nhân tố quyết định tính thống nhất của hệ thống chính trị nước ta là sự lãnh
đạo thống nhất của một Đảng duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam
theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc quán triệt và thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động là nhân tố cơ bản đảm bảo cho hệ thống
chính trị có được sự thống nhất về tổ chức và hành động nhằm phát huy sức mạnh
đồng bộ của toàn hệ thống chính tri cũng như của mỗi tổ chức trong hệ thống chính
trị. Đồng thời, tính thống nhất của hệ thống chính trị còn thể hiện ở mục tiêu chính
trị là xây dựng xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nội dung: dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh. Hệ thống chính trị được tổ chức như một chỉnh thể
thống nhất từ Trung ương đến địa phương và cấp cơ sở.
Các quan điểm và nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh đều được các tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta vận dụng, ghi rõ
trong Điều lệ của từng tổ chức.
3. Hệ thống chính trị gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự
giám sát của nhân dân
Hệ thống chính trị Việt Nam là một hệ thống không chỉ gắn với chính trị,
quyền lực chính trị mà còn gắn với xã hội. Do vậy trong cấu trúc của hệ thống chính
trị bao gồm các tổ chức chính trị như Đảng, Nhà nước và các tổ chức vừa có tính
chính trị vừa có tính xã hội như Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Sự gắn bó mật thiết giữa hệ thống chính trị với nhân dân được thể hiện ngay
trong bản chất của các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị: Đảng Cộng sản Việt
Nam là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của cả dân tộc; Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà
nước của nhân dân do nhân dân, vì nhân dân; Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân
dân là hình thức tập hợp, tổ chức của chính các tầng lớp nhân dân.
Sự gắn bó giữa hệ thống chính trị với nhân dân còn được xác định bởi ý
nghĩa hệ thống chính trị là trường học dân chủ của nhân dân; mỗi tổ chức trong hệ
thống chính trị là phương thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
4. Hệ thống chính trị có sự kết hợp chặt chẽ giữa tính giai cấp
và dân tộc

6


Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi ra đời đã lãnh đạo cách mạng Việt
Nam tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp gắn liền với cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc. Giai cấp và dân tộc hòa đồng, các giai cấp, tầng lớp xã hội đoàn
kết, hợp tác để cùng phát triển. Trong mọi giai đoạn xây dựng và phát triển của hệ
thống chính trị, vấn đề dân tộc, quốc gia luôn là cơ sở đoàn kết mọi lực lượng
chính trị - xã hội để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam.
Vấn đề đặt ra đối với tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị là đoàn kết giai
cấp, tập hợp lực lượng trên nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội quy định hệ thống chính trị mang bản
chất giai cấp công nhân, đại diện trung thành lợi ích của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã gắn kết vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp. Do vậy trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, sự phân
biệt giữa dân tộc và giai cấp đều mang tính tương đối và không có ranh giới rõ
ràng, tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị. Nhờ vậy hệ thống
chính trị luôn đại biểu cho dân tộc là yếu tố đoàn kết dân tộc, gắn bó mật thiết với
nhân dân và là hệ thống của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

7


Chuyên đề 2
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

I. QUAN NIỆM VỀ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1. Các khái niệm
1.1. Khái niệm quản lý
Quản lý là hoạt động phổ biến nhất trong đời sống xã hội. Tuy nhiên cho

đén nay trong các tài liệu chuyên nghành chưa có định nghĩa chính thống về quản
lý, song về cơ bản khái niệm quản lý có thể quan niệm chung như sau:
Quản lý là sự tác động có định hướng và tổ chức của chủ thể quản lý lên đối tượng
quản lý bằng các phương thức nhất định để đạt tới những mục tiêu nhất định.
Quản lý có những yếu cơ bản sau:
- Chủ thể quản lý: là các cá nhân, tổ chức có một quyền lực nhất định buộc các đối
tượng quản lý phải tuân thủ các quy định do mình đề ra để đạt được những mục tiêu đã
định trước
- Đối tượng quản lý: là các cá nhân, tổ chức trong quá trình hoạt động phải chịu sự
tác động bằng phương pháp quản lý và công cụ quản lý của các chủ thể quản lý để nhằm
đạt được những mục tiêu quản lý do chủ thể quản lý đặt.
- Khách thể quản lý: là trật tự quản lý mà chủ thể quản lý tác động lên đối tượng
quản lý bằng các phương pháp quản lý và công cụ quản lý nhất định mong muốn thiết lập
được để đạt những mục tiêu nhất định.
- Mục tiêu quản lý: là những lợi ích vật chất, tinh thần và các lợi ích khác mà các
chủ thể quản lý mong muốn đạt được trong quá trình tác động đến các đối tượng quản lý.

1.2. Kkái niệm quản lý nhà nước:
Là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước do các cơ quan nhà nước tiến
hành đối với tất cả mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội, trên tất cả các mặt của đời
sống xã hội bằng cách sử dụng quyền lực nhà nước có tính cưỡng chế đơn phương
nhằm mục tiêu phục vụ lợi ích chung của cả cộng đồng, duy trì ổn định, an ninh
trật tự và thúc đẩy xã hội phát triển theo một định hướng thống nhất của nhà nước.
Quản lý nhà nước xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước, là quản lý
8


công việc của nhà nước. Nội hàm của quản lý nhà nước thay đổi phụ thuộc vào chế độ
chính trị, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi một quốc gia qua các giai đoạn lịch sử.
Ngày nay, quản lý nhà nước xét về mặt chức năng bao gồm hoạt động lập pháp của cơ

quan lập pháp, hoạt động hành chính (chấp hành và điều hành) của Chính phủ và hoạt
động tư pháp của hệ thống tư pháp.
Trong hệ thống xã hội, tồn tại rất nhiều chủ thể tham gia quản lý xã hội như: Đảng,
Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội, các đoàn thể nhân dân, các hiệp hội vv... Trong hoạt
động quản lý của các chủ thể khác nhau đó thì quản lý nhà nước có những điểm khác biệt.
Thứ nhất, chủ thể quản lý nhà nước là các cơ quan trong bộ máy nhà nước (gồm
cán bộ, công chức có thẩm quyền phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao). Những
chủ thể này tham gia vào quá trình tổ chức quyền lực nhà nước về lập pháp, hành pháp, tư
pháp theo quy định của pháp luật
Thứ hai, đối tượng quản lý của nhà nước bao gồm tất cả các cá nhân, tổ chức sinh
sống, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong phạm vi lãnh thổ quốc gia
Thứ ba, các lĩnh vực quản lý nhà nước có tính toàn diện, bao gồm tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội như: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại
giao v.v
Thứ tư, công cụ quản lý nhà nước sử dụng chủ yếu là pháp luật, chính sách, kế
hoạch để quản lý.
1.3. Khái niệm quản lý hành chính nhà nước
Là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các quá
trình xã hội và hành vi hoạt động của công dân, do các cơ quan trong hệ thống hành pháp
từ Trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của nhà
nước, phát triển các mối quan hệ xã hội, duy trì trật tự, an ninh, thỏa mãn các nhu cầu
hợp pháp của công dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Như vậy, sự khác biệt giữa quản lý nhà nước và quản lý hành chính nhà nước là ở
điểm quản lý nhà nước là quản lý của cả bộ máy nhà nước (bao gồm các cơ quan lập pháp,
hành pháp và tư pháp), còn quản lý hành chính nhà nước là quản lý của các cơ quan hành
pháp.
Khái niệm trên có 3 nội dung quan trọng:
- Quản lý hành chính nhà nước do cơ quan hành pháp từ Trung ương đến cơ sở
thực hiện mà Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp cao nhất đối với toàn xã
hội thông qua hệ thống thể chế hành chính nhà nước. Vì vậy, Chính phủ còn là cơ quan

9


quản lý hành chính nhà nước cao nhất của Nhà nước.
Quản lý hành chính nhà nước thực hiện quyền lực chính trị bằng quyền hành pháp
trong hành động (hành chính nhà nước).
- Sự tác động có tổ chức và điều chỉnh: Tổ chức ở đây là tổ chức hành chính nhà
nước, là sự thiết lập mối quan hệ con người, giữa cá thể với tập thể để thực hiện quản lý
hành chính nhà nước một quá trình xã hội. - Sự tác động bằng pháp luật và theo pháp luật.
Pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh, trên cơ sở bình đẳng trước pháp luật. Không
được phép dựa vào quyền thế để làm trái pháp luật. Mọi sự vi phạm pháp luật đều phải
được xử lý.
2. Tính chất cơ bản của quản lý hành chính nhà nước ở nước ta:
- Tính chất chính trị xã hội chủ nghĩa
Nhà nước là trung tâm của quyền lực chính trị, trụ cột của hệ thống chính trị.
Hành chính, nhà nước là bộ phận trọng yếu của Nhà nước để thực hiện quyền lực
nhà nước trong xã hội. Do đó, hoạt động hành chính nhà nước của bộ máy hành chính nhà
nước phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, phải thực hiện các mục tiêu chính trị, quyết sách
của Đảng, đưa mọi chủ trương, đường lối của Đảng vào cuộc sống.
- Tính chất dân chủ xã hội chủ nghĩa
Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực thuộc về nhân
dân, do đó xét về chính trị xã hội, nhân dân là chủ thể quản lý đất nước. Nhà nước được
nhân dân uỷ quyền thay mặt cho nhân dân thực hiện quản lý toàn dân, toàn diện. Chính vì
thế mà hoạt động hành chính nhà nước phải chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân, phải
đảm bảo nhân dân làm chủ thực sự trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Tính chất này đòi hỏi quản lý hành chính nhà nước phải tạo điều kiện để thu hút
đông đảo quần chúng nhân dân tham gia vào quản lý các quá trình xã hội với phương
châm thực hiện quá trình dân chủ hoá: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Từ thực tiễn cách mạng ở nước ta trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã
quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc, xây dựng và phát triển quyền làm chủ của nhân dân

lao động.
- Tính chất khoa học
Trong quá trình phát triển của xã hội, quản lý luôn phải có căn cứ khoa học. Quản
lý là khoa học vì nó có tính quy luật, có các nguyên lý và mối qụan hệ tương hỗ với các
khoa học khác. Đồng thời, cùng với tính khoa học, quản lý là nghệ thuật vì nó phụ thuộc
10


vào tài nghệ, bản lĩnh, nhân cách, trí tuệ, kinh nghiệm... của người quản lý.
Quản lý hành chính. Nhà nước là biểu hiện quan trọng và tập trung nhất của
toàn bộ hoạt động của Nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế và đời sống xã
hội. Chính vì vậy, người cán bộ, công chức phải có kiến thức về những quy luật
khách quan của hoạt động quản lý nói chung và quản lý nhà nước nói riêng.
- Tính chất ngành, lĩnh vực
Quản lý hành chính nhà nước không chỉ là tổ chức điều chỉnh từng lĩnh vực mà còn
phải liên kết, phối hợp các lĩnh vực thành một thể thống nhất để đảm bảo xã hội phát
triển đồng bộ, cân đối, có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của các thành viên trong xã hội
theo luật định.
3. Các đặc điểm cơ bản của qụản lý hành chính nhà nước
Khi nói đến đặc điểm của quản lý hành chính nhà nước là nói đến những nét đặc
thù của quản lý hành chính nhà nước để phân biệt với các dạng quản lý xã hội của các chủ
thể khác. Quản lý hành chính nhà nước xã hội chủ nghĩa có các đặc điểm cơ bản dưới đây:
- Quản lý hành chính nhà nước mang tính quyền lực nhà nước (tính công quyền) là
chức năng cơ bản của các cơ quan công quyền, bao gồm (1) ban hành các quy định pháp
luật, quy phạm pháp luật dưới luật, chính sách và các quy định khác,(2) tổ chức thực hiên
các quy định của nhà nước.(3) cưỡng chế việc thi hành các quy định của nhà nước, (4)xử
lý các trường hợp vi phạm các quy định của nhà nước..
- Quản lý hành chính nhà nước có mục tiêu chiến lược, có chương trình và có kể
hoạch để thực hiện mục tiêu.
- Quản lý hành chính nhà nước có tính chủ động, sáng tạo và linh hoạt trong việc

điều hành, phối hợp, huy động mọi lực lượng, phát huy sức mạnh tổng hợp để tổ
chức lại nền sản xuất xã hội và cuộc sống con người trên địa bàn của mình theo sự phân
công, phân cấp, đúng thẩm quyền và theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Quản lý hành chính nhà nước có tính liên tục và tương đối ổn định trong tổ chức
và hoạt động. Vì nền hành chính nhà nước có nghĩa vụ phục vụ công vụ và nhân dân trong
công việc hằng ngày, thường xuyên cho nên quản lý hành chính nhà nước phải bảo đảm
tính liên tục để thoả mãn nhu cầu hằng ngày của nhân dân, của xã hội và phải ổn định để
đảm bảo hoạt động không bị gián đoạn trong bất kỳ tình huống chính trị - xã hội nào.
- Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động có tính chuyên nghiệp cao.
Cán bộ, công chức nhà nước phải được trang bi các kiến thức, kinh nghiệm, kỹ
11


năng về chuyên môn, nghiệp vụ thích hợp với vị trí công tác và yêu cầu công việc để thực
hiện tốt công vụ được giao, Cán bộ, công chức tham gia lãnh đạo, quản lý phải được trang
bị các kiến thức chuyên môn về quản lý hành chính nhà nước về nghiệp vụ quản lý và thừa
hành công vụ,thích hợp với lĩnh vực và phạm vi công việcđược giao.
- Quản lý hành chính nhà nước có tính hệ thống thứ bậc chặt chẽ, thể hiện qua mối
quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới hoặc giữa thủ trưởng và nhân viên, trong đó: cấp dưới
phải phục tùng cấp trên, phải chịu sự kiểm tra, giám sát của cấp trên, và phải chịu đánh giá
của cấp trên
- Quản lý hành chính nhà nước xã hội chủ nghĩa không có sự cách biệt tuyệt đối về
mặt xã hội giữa người quản lý và người bị quản lý. Bởi vì, thứ nhất, trong quản lý xã hội
thì con người vừa là chủ thể vừa là đối tượng của quản lý. Mặt khác trong chủ nghĩa xã
hội, nhân dân là chủ thể quản lý đất nước.
- Quản lý hành chính, nhà nước xã hội chủ nghĩa có tính phi lợi nhuận vì quản lý
hành chính nhà nước là hoạt động chấp hành pháp luật, điều hành và quản lý các lĩnh vực
của đời sống xã hội, hướng tới mục tiêu phục vụ xã hội và với người dân, nhưng không có
mục tiêu lợi nhuận
- Quản lý hành chính nhà nước XHCN mang tính nhân đạo. Xuất phát từ bản chất

Nhà nước dân chủ XHCN, tất cả các hoạt động của nền hành chính nhà nước đều có mục
tiêu phục vụ con người, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và lấy đó làm
xuất phát điểm của hệ thống luật, thể chế, quy tắc và thủ tục hành chính.
II. NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước là tư tưởng chỉ đạo bắt nguồn từ bản chất
chế độ, được quy định trong pháp luật, tạo thành cơ sở cho việc tổ chức, hoạt động của bộ
máy nhà nước trong các khâu của quá trình quản lý nhà nước.
Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước được hình thành một cách khách quan,
phản ánh quy luật khách quan của xã hội và bản chất của chế độ chính trị xã hội.
Các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước hợp thành một thể thống nhất, liên hệ
chặt chẽ với nhau bao gồm:
1. Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự tham
gia quản lý nhà nước của nhân dân đối với quản lý hành chính nhà nước.
- Trước hết, Đảng đề ra quan điểm, nguyên tắc,phương hướng chỉ đạo việc tổ chức
bộ máy hành chính nhà nước.
12


- Tổ chức Đảng và đảng viên gương mẫu chấp hành và tôn trọng hiến pháp,
pháp luật để nâng cao uy tín của Đảng đối với nhà nước và xã hội
- Đảng lãnh đạo quản lý nhà nước nhưng không làm thay các cơ quan nhà nước.
- Sự tham gia của nhân dân vào quyền lực chính trị là một trong những đặc trưng
của chế độ dân chủ, quyền tham gia vào hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước của nhân
dân được quy định tại Điều 28 Hiến pháp 2013: “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà
nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả
nước. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội, công khai,
minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân”.
Nhân dân có quyền tham gia vào quản lý nhà nước một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp, tham gia giải quyết những vấn đề lớn và hệ trọng của địa phương hoặc đơn vị, tham
gia biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý, những hình thức tham gia trực tiếp

khác của nhân dân vào quản lý nhà nước là: Thảo luận góp ý kiến vào quá trình xây dựng
những đạo luật hoặc các quyết định, quan trọng khác của Nhà nước hoặc của địa phương;
kiểm tra các cơ quan quản lý nhà nước; thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo hành vi vi phạm
pháp luật trong quản lý nhà nước... Các hình thức tham gia gián tiếp của nhân dân vào
quản lý nhà nước, kiểm tra giám sát hoạt động của các cơ quan này thông qua hoạt động
của các đại biểu do mình bầu ra.
2. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Điều 8 Hiến pháp 2013, quy định tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức và hoạt
động cơ bản của cơ quan nhà nước. Biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản
lý hành chính nhà nước là:
- Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan đại diện quyền lực
của nhân dân cùng cấp.
- Sự phụ thuộc của cấp dưới với cấp trên, địa phương phục tùng Trung ương.
- Sự phân cấp quản lý (Dân chủ hóa).
- Hướng về cơ sở.
Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương ( kết hợp giữa tập
trung và dân chủ)
3. Nguyên tắc kiểm soát quyền lực
(Khoản 3, Điều 2 Hiến pháp 2013 - Điểm mới trong Hiến pháp 2013)
Là nguyên tắc của nhà nước pháp quyền để các cơ quan hành chính nhà nước thực
13


thi có hiệu lưc, hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo hiến pháp và pháp
luật, tránh việc lợi dụng,lạm dụng quyền lực; phòng chống tham nhũng, lãng phí, đồng
thời để nhân dân có cơ sở hiến định giám sát quyền lực nhà nước
4. Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước bằng pháp luật và tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa
Quản lý nhà nước bằng pháp luật và tăng cường pháp chế là nguyên tắc hiến định.
Nguyên tắc này đòi hỏi:

- Trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, các cơ quan hành chính có thể đơn phương
ban hành những văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền được trao nhưng không
được trái với nhứng quy định của Hiến pháp và luật.
- Trong thực thi pháp luật phải triệt để tuân thủ cả về nội dung và hình thức của luật
hay các văn bản quy phạm pháp luật khác.- Quy định rõ trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn
cụ thể của các cơ quan và công chức nhà nước.
- Mọi hành vi vi phạm trong quản lý hành chính nhà nước phải được phát hiện và
xử lý nghiêm minh
5. Nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo lãnh thổ (Địa
phương)
Xuất phát từ hai xu hướng khách quan của nền sản xuất-xã hội đó là:
- Tính chuyên môn hóa theo nghành.
- Sự phân bố sản xuất theo địa phương và vùng lãnh thổ,
Sự kết hợp giữa các cơ quan quản lý nghành, chức năng với chính quyền địa
phương nhằm đảm bảo cho hoạt động giữa nghành với địa phương đạt được sự
thống nhất trong quản lý.
6. Nguyên tắc phân định hoạt động quản lý hành chính nhà nước với hoạt động sản
xuất - kinh doanh của các chủ thể kinh tế của nhà nước và hoạt động sự nghiệp của các
đơn vị sự nghiệp
Nhà nước ta có nhiệm vụ tổ chức và quản lý nền kinh tế quốc dân; quản lý các
thành phần kinh tế nhưng không trực tiếp kinh doanh và quản lý kinh doanh. Quản lý nhà
nước về kinh tế bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
- Tạo môi trường và điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Định hướng và hỗ trợ phát triển thông qua kế hoạch và các chính sách kinh tế.
14


- Hoạch định và thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo sự thống nhất giữa phát triển
kinh tế và phát triển xã hội.
- Quản lý và kiểm soát việc sử dụng tài nguyên, tài sản quốc gia.

- Tổ chức nền kinh tế và điều chỉnh bằng các công cụ và biện pháp vĩ mô.
- Tổ chức và giám sát hoạt động tuân thủ pháp luật của các đơn vị kinh tế.
Nhà nước thực hiện các chức năng trên thông qua một hệ thống các cơ quan hành
chính nhà nước; thông qua tổ chức kinh tế của Nhà nước; thông qua việc đào tạo, bồi
dưỡng, bố trí đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị, có năng lực quản lý nhà nước, quản lý
kinh tế, quản lý xã hội.
Các tổ chức kinh doanh trực tiếp thực hiện các hoạt động kinh doanh có tư cách
pháp nhân, hoạt động kinh doanh bình đẳng trước pháp luật; có quyền tự chủ về tài chính
và thực hiện hạch toán kinh tế; phát huy năng lực kinh doanh, chịu sự quản lý bằng pháp
luật của các cơ quan hành chính nhà nước.
Các tổ chức sự nghiệp của nhà nước do nhà nước lập ra để thực hiện các dịch vụ
công, liên quan đến những nhu cầu thiết yếu của công dân, tổ chức. Việc phân định này
nhằm giúp cho hành chính nhà nước thực hiện tốt chức năng của mình, đồng thời tạo điều
kiện thuận lợi nhất để cung ứng các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ cho xã hội.
7. Nguyên tắc công khai
Tổ chức hoạt động hành chính của nhà nước ta là nhằm phục vụ lợi ích quốc gia và
lợi ích hợp pháp của công dân nên cần phải công khai hoá, thực hiện đúng chủ trương “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Phải quy định các hoạt động cần công khai cho dân
biết, tạo điều kiện thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia kiểm tra, giám sát hoạt
động hành chính nhà nước.

III. HÌNH THỨC, CÔNG CỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ HÀNH
CHÍNH NHÀ NƯỚC
1. Hình thức quản lý hành chính
Hình thức hoạt động quản lý hành chính nhà nước được hiểu là sự biểu hiện bên
ngoài của hoạt động quản lý do các cơ quan hành chính nhà nước tiến hành như
việc ban hành văn bản quản lý, tiến hành các biện pháp chức và tác nghiệp vật
chất, kỹ thuật để nhằm thực hiện tốt chức năng chấp hành diều hành

2. Các hình thức cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước

2.1. Hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật
15


Bắt nguồn từ thực thi quyền hành pháp, thực hiện các hoạt động chấp hành và điều
hành các chủ thể hành chính có quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật dưới
luật (quyền lập quy) ấn định, cụ thể hóa, chi tiết hóa cá quy định của luật, pháp lệnh. Nhờ
vậy mà các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật hành chính thực hiện các quyền và nghĩa
vụ tích cực hơn. Trình tự, thủ tục thực hiện quyền này do pháp luật quy định (xem luật về
thẩm quyền ban hành văn bản).
- Thông trong qua hình thức này thấy được vị trí, tính chất của các cơ quan quản lý
hành chính nhà nước: Trung ương hay địa phương, cơ quan thẩm quyền riêng hay cơ quan
thẩm quyền chung trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước trong lĩnh vực hành chính
do luật định.
2.2. Hoạt động ban hành văn bản áp dụng quy phạm pháp luật
- Ban hành các văn bản áp dụng quy phạm pháp luật là hoạt động chủ yếu
và thường xuyên nhất trong quá trình thực hiện quản lý nhà nước
- Hoạt động áp dụng pháp luật là nhằm thực hiện các quyền và nghĩa vụ
của chủ thể pháp luật hành chính. Căn cứ vào các văn bản quy phạm, căn cứ vào
sự việc thực tế, các chủ thể quản lý hành chính nhà nước ban hành quyết định cá
biệt áp dụng cho một đối tượng nhất định. Từ đó, nó làm phát sinh,thay đổi hay
chấm dứt một quan hệ pháp luật cụ thể. Chẳng hạn quyết định điều động công
tác,tuyển dụng, đề bạt, xử phạt, cưỡng chế hành chinh.
- Với các loại quyết định cá biệt này, các chủ thể quản lý hành chính đã giải
quyết được các công việc đặt ra trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, thiết lập sự
ổn định và phát triển.
2.3. Hoạt động áp dụng những biện pháp tổ chức trực tiếp
Các biện pháp tổ chức như: hội nghị, phối hợp,phổ biến kinh nghiệm, tổng kết,
nghiên cứu xây dựng kế hoạch công tác, tuyển chọn và sử dụng cán bộ, phân chia chức
năng tổ chức thực hiên quyết định, kiểm tra việc thực hiên quyết định hoạt động áp dụng

các biện pháp tổ chức trực tiếp độc lập tương đối với ban hành văn bản, thực hiện trước
hoặc sau khi ban hành văn bản.
2.4 Thực hiện các tác nghiệp vật chất - kỹ thuật:
Các hoạt động này bao gồm công tác thống kê, kiểm tra, báo cáo, công tác thông
tin, văn thư...phục vụ cho điều hành thực hiện các chức năng quản lý.
2. Công cụ quản lý hành chính nhà nước
16


Để thực hiện chức năng thẩm quyền, các cơ quan hành chính sử dụng công cụ
chủ yếu: công sở, công sản, công quyền - quyết định quản lý hành chính.
- Công sở: là trụ sở cơ quan, là nơi làm việc của cơ quan, là nơi cán bộ lãnh
đạo, công chức và nhân viên thực thi công cụ, ban hành các quyết định hành chính
và tổ chức thực hiện các quyết định, là nơi giao tiếp đối nội, đối ngoại...
- Công sản: là vốn (kinh phí) và các điều kiện, phương tiện để hoạt động.
- Quyết định quản lý hành chính: Là sự biểu hiện ý chí của Nhà nước. Là kết quả
thực hiện quyền hành pháp mang tính mệnh lệnh đơn phương của quyền lực nhà nước.
3. Phương pháp quản lý hành chính
3.1. Phương pháp quản lý hành chính nhà nước và các yêu cầu đối với
phương pháp quản lý hành chính nhà nước
- Phương pháp quản lý hành chính nhà nước là các cách thức, biện pháp, thủ thuật
của các chủ thể hành chính nhà nước để đảm bảo việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
và thẩm quyền của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước và các chức vụ quản lý hành
chính nhà nước. Đó là phương thức, cách thức do chủ thể tác động đến đối tượng quản lý.
3.2. Các phương pháp quản lý hành chính nhà nước
Các cơ quan hành chính nhà nước, trong tổ chức hoạt động của mình đều sử dụng
rất nhiều phương pháp quản lý. Các phương pháp có thể phân thành 02 nhóm:
3.2.1 Nhóm thứ nhất
Gồm những phương pháp quản lý chung được quản lý hành chính nhà nước vận
dụng, cụ thể là:

- Phương pháp kế hoạch hoá
Các cơ quan hành chính nhà nước dùng phương pháp này để xây dựng chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội, lập quy hoạch tổng thể và chuyên ngành; dự báo xu thế phát
triển; đặt chương trình mục tiêu và xây dựng kế hoạch dài hạn, trung hạn, ngắn hạn.
Sử dụng phương pháp này để tính toán các chỉ tiêu kế hoạch, tổ chức thực hiện và
kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch, các biện pháp cân đối.
Đây là phương pháp rất quan trọng ở cả tầm vĩ mô của Nhà nước và vi mô của cơ
sở.
- Phương pháp thống kê
Phương pháp này được các cơ quan quản lý hành chính nhà nước sử dụng đế tiến
17


hành điều tra khảo sát, phân bố, sử dụng các phương pháp tính toán như: số bình quân gia
quyền, chỉ số, tương quan tuyến tính, tương quan hồi quy... để phân tích tình hình và
nguyên nhân của hiện tượng quản lý, làm căn cứ khoa học cho việc ra quyết định quản lý.
Sử dụng các phương pháp thu thập số liệu, tổng hợp và chỉnh lý để tính toán tốc độ
phát triển các chỉ tiêu quan trọng.
- Phương pháp toán học
Với phương pháp này, các cơ quan hành chính nhà nước ứng dụng ma trận, vận trù
học, sơ đồ mạng...trong quản lý; sử dụng các máy điện toán để thu thập, xử lý và
lưu trữ thông tin; toán học hoá các chương trình mục tiêu kinh tế- xã hội; tính toán các cân
đối liên ngành trong mọi lĩnh vực hoạt động quản lý.
- Phương pháp tâm lý - xã hội
Phương pháp tâm lý - xã hội nhằm tác động vào tâm tư, tình cảm của người lao
động, tạo cho họ không khí hồ hởi, yêu thích công việc, gắn bó với tập thể lao động, hăng
say làm việc, giải quyết cho họ những vướng mắc trong công tác, động viên, giúp đỡ họ
vượt qua khó khăn về cuộc sống.
Do vậy, tác động tâm lý - xã hội là phương pháp quản lý rất quan trọng.
- Phương pháp sinh lý học

Trên cơ sở phương pháp này, các cơ quan hành chính nhà nước tiến hành bố trí nơi
làm việc phù hợp với sinh lý của con người, tạo ra sự thoải mái trong làm việc và tiết kiệm
các thao tác không cần thiết nhằm tăng năng suất lao động như: bố trí phòng làm việc; bàn
làm việc, ghế ngồi; vị trí đặt điện thoại; vị trí để tài liệu; màu sắc, ánh sáng...
3.2.2. Nhóm thứ hai
Gồm 4 phương pháp chủ yếu của khoa học quản lý là:
a. Phương pháp thuyết phục
Xuất phát từ bản chất của nhà nước “của dân, do dân, vì dân”,thuyết phục là
phương pháp cơ bản hàng đầu trong quản lý của nhà nước.
- Nội dung phương pháp thuyết phục thể hiện là các hoạt động: giải thích, hướng
dẫn, quán triệt, phổ biến, chứng minh, trình bầy, động viên củ các cơ quan và công chức
hành chính nhà nước để đối tượng quản lý tự giác thực hiện các quyền và nghĩa vụ.
- Thuyết phục tiến hành trên cơ sở pháp luật do các cơ quan thực thi quyền hành
pháp tiến hành nên khác với hoạt động thuyết phục của các thiết chế xã hội khác.
18


b. Phương pháp cưỡng chế
- Phương pháp cưỡng chế do pháp luật quy định cả trình tự và hình thức
cưỡng chế. Có bốn loại cưỡng chế nhà nước: Cưỡng chế kỷ luật, cưỡng chế hành
chính, cưỡng chế hình sự, cưỡng chế dân sự.
- Trong quản lý hành chính nhà nước áp dụng chủ yếu phương pháp cưỡng
chế hành chính. Chủ thể áp dụng là các cơ quan quản lý hành chính nhà nước tiến
hành theo trình tự thủ tục hành chính, vì lợi ích công cộng.
Cưỡng chế hành chính bao gồm:Phòng ngừa, ngăn chăn, xử phạt và các
biện pháp xử lý khác:
c. Phương pháp kinh tế.
Là phương pháp tác động vào lợi ích để kích thích hoặc răn đe đối tượng
quản lý thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ trong chấp hành-điều hành thực hiện chính
sách, pháp luật.

Phương pháp này rất phong phú:
- Các quy phạm thưởng, phạt vật chất, kinh tế.
- Các ưu tiên trong đầu tư,
- Điều kiện miễn, giảm và thuế suất qua các đạo luật thuế.
- Thời hạn vay, trả lãi trong tín dụng...
- Đòi hỏi khách quan của kinh tế thị trường.
d. Phương pháp hành chính:
Phương pháp hành chính là phương pháp tiến hành dưới hình thức các mệnh lệnh
hành chính (quyết định hành chính), phản ánh quyền lực tập trung, thể hiện phương pháp
đặc trưng của quản lý hành chính, bảo đảm tính thống nhất, tính thông suốt của quản lý
hành chính.
Phương pháp hành chính được thực hiện qua các nội dung:
- Quy định những quy tắc xử sự chung trong quản lý hành chính nhà nước.
- Quy định quyền hạn và nghĩa vụ của các cơ quan dưới quyền, giao nhiệm
vụ cho các cơ quan đó.
- Thoả mãn đơn phương yêu cầu hợp pháp của công dân.
- Kiểm tra việc chấp hành pháp luật, việc thực hiện nhiệm vụ của cấp dưới.
19


- Áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết.
Trong 4 phương pháp này, theo quan niệm chung hiện nay thì phương pháp thuyết
phục là hàng đầu, phải làm thường xuyên, liên tục và nghiêm túc. Phương pháp cưỡng chế
là hết sức quan trọng, có tính khẩn cấp. Phương pháp kinh tế là biện pháp cơ bản, là động
lực thúc đẩy mọi hoạt động quản lý nhà nước. Phương pháp hành chính là rất cần thiết,
nhưng phải được sử dụng một cách đúng đắn.

20



Chuyên đề 3
TỔ CHỨC BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

I. KHÁI QUÁT VỀ BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm bộ máy hành chính nhà nước
Bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hệ thống các cơ
quan nhà nước từ Trung ương xuống địa phương, được tổ chức và hoạt động theo
những nguyên tắc chung, thống nhất nhằm thực hiện những nhiệm vụ chiến lược
và các chức năng của nhà nước vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công
băng, dân chủ, văn minh.
Bộ máy hành chính nhà nước là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà
nước, bao gồm hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước được thành lập, tổ chức
và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật để thực hiện quyền lực nhà nước, có
chức năng quản lý hành chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội.
2. Đặc điểm của bộ máy hành chính nhà nước
Bộ máy hành chính nhà nước là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà
nước. Do vậy, bộ máy hành chính nhà nước cũng mang đầy đủ các đặc điểm chung
của bộ máy nhà nước, đó là:
- Bộ máy hành chính nhà nước hoạt động mang tính quyền lực nhà nước,
được tổ chức và hoạt động trên nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Hệ thống cơ quan hành chính nhà nước có cơ cấu, có tổ chức phù hợp với chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định.
- Có quyền đơn phương ban hành văn bản quy phạm pháp luật hành chính
Ngoài những đặc điểm chung nói trên, bộ máy hành chính nhà nước còn có
những đặc điểm riêng như sau:
Một là, bộ máy hành chính nhà nước có chức năng quản lý hành chính nhà
nước, thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành trên mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội.

21


Hai là, bộ máy hành chính, nhà nước là hệ thống cơ quan chấp hành, điều
hành của cơ quan quyền lực nhà nước. Thẩm quyền của bộ máy hành chính nhà
nước chỉ giới hạn trong phạm vi hoạt động chấp hành, điều hành. Hoạt động chấp
hành - điều hành hay còn gọi là hoạt động quản lý hành chính nhà nước là phương
diện hoạt động chủ yếu của cơ quan hành chính nhà nước.
Ba là, bộ máy hành chính nhà nước là hệ thống cơ quan có mối liên hệ chặt
chẽ, thống nhất. Bộ máy hành chính nhà nước là một hệ thống cơ quan được thành
lập từ trung ương đến cơ sở, đứng đầu là Chính phủ, tạo thành một chỉnh thể thống
nhất, được tổ chức theo hệ thống thứ bậc, có mối quan hệ mật thiết phụ thuộc nhau
về tổ chức và hoạt động nhằm thực thi quyền quản lý hành chính nhà nước.
Bốn là, hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước mang tính thường
xuyên, liên tục và tương đối ổn định, là cầu nối đưa đường lối, chính sách, pháp
luật vào cuộc sống.
Năm là, bộ máy hành chính nhà nước có chức năng quản lý nhà nước dưới
hai hình thức là ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và quyết định cá biệt
trên cơ sở Hiến pháp, luật, pháp lệnh và các văn bản của các cơ quan hành chính
nhà nước cấp trên nhằm thực hiện các văn bản đó.
Tóm lại, bộ máy hành chính nhà nước là bộ phận cấu thành của bộ máy nhà
nước, chịu sự giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước một cách trực tiếp hoặc
gián tiếp, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ theo quy định của pháp luật, thực hiện chức
năng quản lý hành chính nhà nước.
Trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước, các cơ quan hành chính nhà nước
được sử dụng quyền lập quy và quyền hành chính theo quy định của pháp luật.
- Quyền lập quy là quyền ban hành các văn bản pháp quy (còn gọi là văn
bản dưới luật) như Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính
phủ, Thông tư của Bộ trưởng, v.v.. để cụ thể hóa và thực hiện các văn bản luật
nhằm điều chỉnh những quan hệ kinh tế - xã hội thuộc phạm vi quyền hành pháp.

Dưới góc độ pháp luật, có thể xem đây là sự ủy quyền của cơ quan lập pháp cho cơ
quan hành pháp để điều hành các hoạt động cụ thể của quyền lực nhà nước.
- Quyền hành chính là quyền tổ chức, điều hành các hoạt động kinh tế - xã
hội, đưa pháp luật vào đời sống nhằm giữ gìn trật tự an ninh xã hội, phục vụ lợi ích
của công dân, đảm bảo dân sinh, giải quyết các vấn đề xã hội và sử dụng có hiệu
quả nguồn tài chính và công sản để phát triển đất nước.
22


II. TỔ CHỨC BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước ở trung ương
1.1. Chính phủ
Theo Điều 94 Hiến pháp 2013, “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực thi quyền hành
pháp là cơ quan chấp hành của Quốc hội".
,

Thủ tướng Chính, phủ do Quốc hội bầu ra theo đề nghị của Chủ tịch nước tại
kỳ họp thứ nhất của Quốc hội. Thủ tướng đề nghị danh sách các Bộ trưởng và các
thành viên khác của Chính phủ để Quốc hội phê chuẩn. Quy định pháp lý này vừa
xác định vai trò và trách nhiệm của tập thể Chính phủ trước Quốc hội, vừa xác
định vai trò cá nhân của Thủ tướng là người lãnh đạo toàn bộ công việc cửa Chính
phủ và chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Mặt khác cũng xác định vai trò và trách
nhiệm của các bộ trưởng trong tập thể Chính phủ và vai trò cá nhân bộ trưởng về
lĩnh vực mình phụ trách.
Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, Chính phủ là một thiết chế chính trị hành chính nhà nước, nắm quyền hành pháp, với chức năng: thống nhất việc quản lý
thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh và đối
ngoại của Nhà nước; lập quy để thực hiện các luật do quyền lập pháp định ra; quản
lý công việc hàng ngày của Nhà nước; tổ chức bộ máy hành chính nhà nước và quản lý

nhân sự của bộ máy đó; chức năng tham gia quá trình lập pháp.
1.1.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ
Nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ được ghi tại Điều 96, Hiến pháp năm
2013 gồm:
- Tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;
- Đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội
quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy
định tại Điều này; trình dự án luật, dự án ngân sách nhà nước và các dự án khác
trước Quốc hội; trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc hội;

23


-Thống nhất quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học,
công nghệ, môi trường, thông tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thi hành lệnh tổng động viên hoặc động viên cục
bộ, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ
quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân;
- Trình Quốc hội quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ; thành
lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; trình Ủy ban thường vụ Quốc hội
quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính
dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
- Thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia; thực hiện quản lý về cán bộ,
công chức, viên chức và công vụ trong các cơ quan nhà nước; tổ chức công tác
thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống quan liêu, tham
nhũng trong bộ máy nhà nước; lãnh đạo công tác của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng
nhân dân trong việc thực hiện văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; tạo điều

kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do luật định;
- Bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền
công dân; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội;
- Tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy
quyền của Chủ tịch nước; quyết định việc ký, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt
hiệu lực điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ, trừ điều ước quốc tế trình Quốc
hội phê chuẩn quy định tại khoản 14 Điều 70; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích
chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài;
- Phối hợp với Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan
trung ương của tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của mình.
1.1.2. Cơ cấu tố chức của Chính phủ
Cơ cấu tổ chức của Chính phủ do Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức
Chính phủ năm 2015 quy định gồm có:
- Thủ tướng Chính phủ;
- Các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
24


Cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ do Quốc hội quyết định.
Việc thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ do Chính phủ trình Quốc hội
quyết định.
Chính phủ làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số.
Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ, chịu trách nhiệm trước
Quốc hội về hoạt động của Chính phủ và những nhiệm vụ được giao; báo cáo công
tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc
hội, Chủ tịch nước.
Phó Thủ tướng Chính phủ giúp Thủ tướng Chính phủ làm nhiệm vụ theo sự
phân công của Thủ tướng Chính phủ và chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính

phủ về nhiệm vụ được phân công. Khi Thủ tướng Chính phủ vắng mặt, một Phó
Thủ tướng Chính phủ được Thủ tướng Chính phủ ủy nhiệm thay mặt Thủ tướng
Chính phủ lãnh đạo công tác của Chính phủ.
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm cá nhân trước
Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ và Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công
phụ trách, cùng các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể về
hoạt động của Chính phủ.
1.1.3. Hình thức hoạt động của Chính phủ
Hoạt động của Chinh phủ được tiến hành theo ba hình thức:
- Phiên họp của Chính phủ (hoạt động của tập thể Chính phủ). Luật tổ chức
Chính phủ (2015) quy định cụ thể về cách thức tiến hành các kỳ họp hàng tháng
của Chính phủ.
Hoạt động và quyết định mang tính tập thể của Chính phủ trên những lĩnh
vực cụ thể được quy định trong Luật Tổ chức Chính phủ. Điều này nhằm tăng
cường tính trách nhiệm của tập thể Chính phủ trước các vấn đề quan trọng của đất
nước. Luật Tổ chức Chính phủ quy định rõ các công việc sau đây phải do tập thể
Chính phủ thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số:
+ Chương trình hoạt động hàng năm của Chính phủ;
+ Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm và cả nhiệm kỳ, các dự
án luật, pháp lệnh và các dự án khác trình Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc
hội; các nghị quyết, nghị định của Chính phủ;
+ Dự án chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn,
25


×