MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU..................................................................................................4
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM
HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC VỆ SINH AN TOÀN THỰC
PHẨM...............................................................................................................7
1.1 Thực phẩm và vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm..................................7
1.1.1 Thực phẩm.........................................................................................7
1.1.2 Vệ sinh an toàn thực phẩm................................................................8
1.1.3 Tầm quan trọng của vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm....................9
1.2 Vi phạm hành chính trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm.........11
1.2.1 Khái niệm........................................................................................11
1.2.2 Các dấu hiệu của vi phạm hành chính trong lĩnh vực vệ sinh an
toàn thực phẩm.................................................................................................12
1.2.3 Các dạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực
phẩm.................................................................................................................13
1.2.4 Cấu thành pháp lý của vi phạm hành chính trong lĩnh vực vệ sinh
an toàn thực phẩm............................................................................................14
1.2.5 Phân biệt vi phạm hành chính với tội phạm trong lĩnh vực vệ sinh
an toàn thực phẩm............................................................................................20
1.3 Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực
phẩm................................................................................................................21
1.3.1 Khái niệm, đặc điểm.......................................................................21
1.3.1.1 Khái niệm.............................................................................21
1.3.1.2 Đặc điểm...............................................................................23
1.3.1.3 Ý nghĩa của hoạt động xử phạt.............................................24
1.3.2 Những quy định pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm..............................................24
1.3.2.1 Nguyên tắc xử phạt ..............................................................24
1.3.2.2 Thẩm quyền xử phạt.............................................................29
1.3.2.3 Các hình thức xử phạt...........................................................31
1.3.2.4 Trình tự, thủ tục xử phạt.......................................................34
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM (TỪ THỰC
TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH) VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP...........38
2.1 Đặc điểm kinh tế - xã hội và tình hình vi phạm hành chính trong lĩnh
vực vệ sinh an toàn thực phẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh....................38
2.1.1 Đặc điểm kinh tế - xã hội Thành phố Hồ Chí Minh........................38
2.1.2 Vi phạm hành chính trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm tại
Thành phố Hồ Chí Minh..................................................................................39
2.2 Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực vệ sinh an toàn
thực phẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh......................................................43
2.2.1 Những kết quả đạt được..................................................................43
2.2.2 Những hạn chế, yếu kém.................................................................46
2.3 Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh...........................................................................................55
2.3.1 Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
vệ sinh an toàn thực phẩm...............................................................................55
2.3.2 Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về
vệ sinh an toàn thực phẩm...............................................................................57
2.3.3 Đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát..........................60
2.3.4 Xử lý nghiêm minh, kịp thời các vi phạm hành chính trong lĩnh vực
vệ sinh an toàn thực phẩm...............................................................................61
2.3.5 Hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm
2
..................................................................................................................62
2.3.6 Đầu tư các nguồn lực cho hoạt động xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm........................................................63
KẾT LUẬN.....................................................................................................65
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay bên cạnh những
mặt tích cực ta còn phải đối diện với vô vàn thách thức. Các cơ quan chức
năng nước ta đang gặp phải rất nhiều khó khăn trong việc quản lý nguồn thực
phẩm trong nước, thế nhưng hiện nay với sự mở cửa phát triển kinh tế một
cách nhanh chóng và mạnh mẽ, tràn ngập các nguồn thực phẩm từ bên ngoài
thâm nhập vào gây ra không ít những hệ lụy về vấn đề vệ sinh an toàn thực
phẩm, vấn đề trên làm cho công tác kiểm soát tình hình này càng trở nên khó
khăn hơn. Trong khi đó, thực phẩm và sử dụng thực phẩm là nhu cầu thiết
yếu của mọi người, mọi nhà, mọi lúc, mọi nơi, mọi thời đại. Vệ sinh an toàn
thực phẩm là yếu tố cần thiết để bảo vệ sức khỏe người dân, vì thực phẩm có
ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng của mỗi người, tác động đến
sự phát triển kinh tế, thương mại, du lịch và an sinh xã hội, ảnh hưởng đến
tuổi thọ, đến chất lượng cuộc sống và về lâu dài còn ảnh hưởng đến sự phát
triển nòi giống, dân tộc. Chính vì thế quản lý tình hình vệ sinh an toàn thực
phẩm là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của cả nước.
Xử lý kiên quyết và triệt để những hành vi vi phạm trong lĩnh vực vệ
sinh an toàn thực phẩm bằng các biện pháp hành chính là vấn đề đặt ra hiện
nay. Đây là biện pháp hiệu quả nhằm kiểm soát và quản lý được tình hình vệ
sinh an toàn thực phẩm của đất nước. Tuy nhiên trên thực tế, việc áp dụng
pháp luật còn gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắt, bất cập đặt ra cho các nhà
3
quản lý cũng như các chủ thể thực thi pháp luật. Do đó, việc nghiên cứu các
vấn đề lý luận và thực tiễn của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực vệ
sinh an toàn thực phẩm là một yêu cầu cấp thiết hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở tìm hiểu những quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm gắn với thực tiễn tại
Thành phố Hồ Chí Minh để từ đó luận văn nêu ra được những điểm tích cực,
những vướng mắt, bất cập trong việc thực hiện công tác này. Trên cơ sở đó,
tác giả phân tích nguyên nhân, đề ra giải pháp để góp phần hoàn thiện cơ chế
pháp lý trong xử phạt vi phạm hành chính về vệ sinh an toàn thực phẩm.
* Nhiệm vụ của đề tài:
Xuất phát từ mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ làm sáng tỏ vấn đề lý
luận về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm,
phân tích những quy định hiện hành, thực tiễn áp dụng tại Thành phố Hồ Chí
Minh từ đó nêu ra những vấn đề bức thiết cần hoàn thiện đồng thời đề xuất
các giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật trong xử phạt vi
phạm hành chính về vệ sinh an toàn thực phẩm.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: của luận văn là vấn đề xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm trên cơ sở thực tiễn của địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
- Phạm vi nghiên cứu: Trong giới hạn nghiên cứu của một luận văn tốt
nghiệp, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu một số quy định của pháp luật về vệ
4
sinh an toàn thực phẩm như: nguyên tắc, thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ
tục xử phạt. Từ đó phân tích thực tiễn, nêu ra những hạn chế, bất cập và đề
xuất hoàn thiện. Thực tiễn nghiên cứu của đề tài được giới hạn cụ thể là xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong 5 năm gần đây. Từ thực trạng tại Thành
phố Hồ Chí Minh đưa ra những đề xuất hoàn thiện trên địa bàn này cũng như
có những đề xuất chung cho tình hình của cả nước.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích và nhiệm vụ đề tài, tác giả sử dụng phương pháp
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó,
kết hợp với các phương pháp phân tích, so sánh, thống kê, tổng hợp,… để
hoàn thành đề tài.
5. Cơ cấu của đề tài
Đề tài gồm: Lời nói đầu, 02 chương, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo.
Chương 1
Cơ sở lý luận và pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
vệ sinh an toàn thực phẩm
Chương 2
Thực trạng và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm (từ thực tiễn Thành phố Hồ
Chí Minh)
5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ
VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM
1.1 Thực phẩm và vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm
1.1.1 Thực phẩm
Theo định nghĩa của từ điển Tiếng Việt thì thực phẩm là một dạng thức
ăn nói chung, thức ăn như thịt, cá, trứng, rau... ăn kèm với những thức cơ bản
là lương thực (gạo, mì...). 1 Thực phẩm hầu như xuất hiện xuyên suốt trong
bữa ăn hàng ngày của con người, cung cấp năng lượng cho con người duy trì
sự sống.
Với một cách tiếp cận rộng hơn, thực phẩm hay còn được gọi là thức
ăn được xem là bất kỳ vật phẩm nào, bao gồm chủ yếu các chất: chất bột
(cacbohydrat), chất béo (lipit), chất đạm (protein), hoặc nước, mà con người
hay động vật có thể ăn hay uống được, với mục đích cơ bản là thu nạp
các chất dinh dưỡng nhằm nuôi dưỡng cơ thể hay vì sở thích. Các thực phẩm
có nguồn gốc từ thực vật, động vật, vi sinh vật hay các sản phẩm chế biến từ
phương pháp lên men như rượu, bia. Mặc dù trong lịch sử thì nhiều nền văn
minh đã tìm kiếm thực phẩm thông qua việc săn bắn và hái lượm, nhưng ngày
/>word=thuc+pham&dictionary=vv&b.x=42&b.y=13&b=Lookup, truy cập ngày 10 tháng 06 năm
2012
1
6
nay chủ yếu là thông qua gieo trồng, chăn nuôi, đánh bắt và các phương pháp
khác.2
Dưới góc độ pháp luật, “Thực phẩm được hiểu là sản phẩm mà con
người ăn, uống ở dạng tươi sống hoặc đã qua sơ chế, chế biến, bảo quản.
Thực phẩm không bao gồm mỹ phẩm, thuốc lá và các chất sử dụng như dược
phẩm”3. Định nghĩa ngắn gọn nêu trên của luật An toàn thực phẩm năm 2010
giúp chúng ta hình dung về thực phẩm một cách khá rõ ràng và toàn diện.
Theo đó, thực phẩm không chỉ ở dạng tươi sống mà còn ở dạng đã qua sơ chế,
chế biến, bảo quản. Với cách định nghĩa này, các cơ quan chức năng sẽ dễ
dàng hơn trong việc xác định trách nhiệm đối với các chủ thể có hành vi vi
phạm về vệ sinh an toàn thực phẩm.
1.1.2 Vệ sinh an toàn thực phẩm
Hiện nay có 2 khái niệm đang được sử dụng rộng rãi: vệ sinh thực
phẩm (food hygiene) và an toàn thực phẩm (food safety).
- Vệ sinh thực phẩm:
Vệ sinh, tùy vào mỗi ngành, mỗi lĩnh vực khác nhau mà “vệ sinh” được
định nghĩa theo những cách khác nhau. Tuy nhiên, một cách chung nhất có
thể hiểu đơn giản “vệ sinh” là “làm sạch”.
Ví dụ: “vệ sinh nhà cửa” được hiểu là thực hiện một số biện pháp để
đạt được mục đích là làm sạch sẽ nhà cửa; “vệ sinh môi trường” là làm sạch
môi trường, làm cho môi trường không bị ô nhiễm, nhiễm bẩn,…
truy cập ngày 10 tháng 06
năm 2012
2
3
Khoản 20 điều 2 luật An toàn thực phẩm 2010
7
Vệ sinh thực phẩm là một khái niệm khoa học để nói thực phẩm không
chứa vi sinh vật gây bệnh và không chứa độc tố. Khái niệm vệ sinh thực
phẩm còn bao gồm khâu tổ chức vệ sinh trong chế biến bảo quản thực phẩm.
- An toàn thực phẩm:
Từ góc độ khoa học, an toàn thực phẩm được hiểu là khả năng không
gây ngộ độc của thực phẩm đối với con người.
Trên phương diện pháp lý, theo quy định của Luật an toàn thực phẩm
năm 2010, “An toàn thực phẩm là việc bảo đảm để thực phẩm không gây hại
đến sức khỏe, tính mạng con người”4
Như vậy, so với “vệ sinh thực phẩm”, “an toàn thực phẩm” là khái
niệm có nội dung rộng hơn do yếu tố gây hại đến sức khỏe, tính mạng con
người có trong thực phẩm không chỉ giới hạn ở vi sinh vật.
Từ hai khái niệm nêu trên, có thêm một khái niệm thứ ba được dùng
khá phổ biến trong đời sống hàng ngày, trong sách báo pháp lý và trên truyền
thông - Vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP). Theo đó, vệ sinh an toàn thực
phẩm là cách nói tổng hợp chỉ các điều kiện và biện pháp cần thiết để bảo
đảm thực phẩm không gây hại đến sức khỏe, tính mạng của con người.
1.1.3 Tầm quan trọng của vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm
Như đã đề cập ở phần mở đầu, thực phẩm và sử dụng thực phẩm là nhu
cầu thiết yếu của mọi người, mọi nhà, mọi lúc, mọi nơi, mọi thời đại.
VSATTP là yếu tố cần thiết để bảo vệ sức khỏe người dân, vì thực phẩm có
ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng của mỗi người, tác động đến
sự phát triển kinh tế, thương mại, du lịch và an sinh xã hội, ảnh hưởng đến
tuổi thọ, đến chất lượng cuộc sống và về lâu dài còn ảnh hưởng đến sự phát
triển nòi giống dân tộc.
4
Khoản 2 điều 2 Luật An toàn thực phẩm 2010
8
- Tầm quan trọng của VSATTP đối với sức khỏe, bệnh tật: Mọi người
trong chúng ta đều nhận thấy rằng ăn uống là một nhu cầu thiết yếu cho cuộc
sống, con người muốn sinh tồn và khỏe mạnh đều phải có một cơ chế ăn uống
hợp lý. Trước mắt, thực phẩm là một nguồn cung cấp chất dinh dưỡng cho sự
phát triển của cơ thể, bảo đảm sức khỏe cho con người, đảm bảo duy trì sự
sống của xã hội loài người. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải hết sức thận trọng
bởi lẽ thực phẩm cũng đồng thời có thể là nguồn gây bệnh, nghiêm trọng hơn
nữa nó có thể tước đi mạng sống của chúng ta nếu nó không được đảm bảo vệ
sinh. Như vậy, nếu đã không đảm bảo được vệ sinh đến mức độ ảnh hưởng
đến sức khỏe, tính mạng con người thì giá trị dinh dưỡng từ thực phẩm này sẽ
trở về con số “0” và thậm chí quay ngược lại làm hại đến sức khỏe chúng ta.
Về lâu dài thực phẩm không những có tác động thường xuyên đến sức khỏe
mỗi con người mà còn ảnh hưởng đến nòi giống của dân tộc. Hiện nay, tình
hình thực phẩm không đảm bảo vệ sinh xuất hiện tràn lan làm cho người sử
dụng những loại thực phẩm này phải gánh chịu những hậu quả khó lường. Từ
những biểu hiện ngộ độc cấp tính với nhiều triệu chứng khác nhau tùy vào
mức độ không đảm bảo vệ sinh của thực phẩm. Nguy hiểm hơn nữa khi
chúng ta không phát hiện được và sử dụng nó lâu dài sẽ gây nên hiện tượng
tích lũy dần các chất độc hại ở một số cơ quan trong cơ thể, lúc này sức khỏe
con người sẽ phải gánh chịu những hậu quả nghiêm trọng, những căn bệnh
khó chữa được phát hiện hoặc nguyên nhân này có thể gây ra các dị tật, dị
dạng cho thế hệ mai sau nếu không được khắc phục kịp thời. Mức độ ảnh
hưởng đến sức khỏe đó phụ thuộc vào các tác nhân gây bệnh.
- VSATTP tác động đến kinh tế xã hội: Từ những tác nhân ảnh hưởng
quan trọng đến sức khỏe, đời sống con người, VSATTP tác động lớn đến kinh
tế - xã hội của dân tộc. Nước ta cũng như nhiều nước đang phát triển, lương
thực thực phẩm là một sản phẩm mang tính chiến lược, ngoài ý nghĩa kinh tế
9
còn có ý nghĩa chính trị, xã hội rất quan trọng. Những thiệt hại khi không đảm
bảo vệ sinh an toàn thực phẩm gây nên nhiều hậu quả khác nhau, từ bệnh cấp
tính, mạn tính đến tử vong. Thiệt hại chính do các bệnh gây ra từ thực phẩm
đối với cá nhân là chi phí khám chữa bệnh, chi phí phục hồi sức khỏe, sự mất
thu nhập do phải nghỉ làm chữa bệnh hoặc chăm sóc người thân,… Đây là
những thiệt hại mà cá nhân phải gánh chịu khi vấn đề VSATTP tác động đến.
Đối với các doanh nghiệp, nhà sản xuất, đó là những chi phí do phải thu hồi,
lưu giữ, hủy bỏ sản phẩm, những thiệt hại do mất lợi nhuận,… một khi sản
phẩm là thực phẩm làm ra không đảm bảo vệ sinh, ảnh hưởng đến sức khỏe
người tiêu dùng. Hơn thế nữa, thiệt hại lớn nhất là mất lòng tin với người tiêu
dùng ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh sau này của nhà sản xuất. Việc
này kéo theo các hệ lụy khó lường của nền kinh tế - xã hội nước nhà.
Do vậy, vấn đề đảm bảo VSATTP để phòng các bệnh gây ra từ thực
phẩm có ý nghĩa thực tế rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế và xã hội,
bảo vệ môi trường sống của các nước đã và đang phát triển, cũng như nước ta.
Mục tiêu đầu tiên của vệ sinh an toàn thực phẩm là đảm bảo cho người ăn
tránh bị ngộ độc do ăn phải thức ăn bị ô nhiễm hoặc có chất độc; thực phẩm
phải đảm bảo lành và sạch.5
1.2 Vi phạm hành chính trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm
1.2.1 Khái niệm
Vi phạm hành chính về VSATTP là một bộ phận của vi phạm hành
chính trong lĩnh vực y tế được quy định cụ thể tại Nghị định 45/2005/NĐCP6. Hiện nay, chưa có định nghĩa chính thức nào về vi phạm hành chính
/>%B1c_ph%E1%BA%A9m, truy cập ngày 12 tháng 06 năm 2012
5
Nghị định 45/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 06 tháng 4 năm 2005 quy định về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.
6
10
trong lĩnh vực VSATTP. Nhưng từ khái niệm vi phạm hành chính nói chung
và khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế nói riêng có thể nêu ra
một khái niệm về loại vi phạm hành chính này như sau: “Vi phạm hành chính
trong lĩnh vực VSATTP là những hành vi do tổ chức, cá nhân thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước
trong lĩnh vực VSATTP mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp
luật phải bị xử phạt hành chính”
1.2.2 Các dấu hiệu của vi phạm hành chính trong lĩnh vực vệ sinh an
toàn thực phẩm
Thứ nhất, có tính nguy hiểm cho xã hội: gây ra hoặc đe dọa gây ra
những thiệt hại về sức khỏe cho con người. Vi phạm hành chính trong lĩnh
vực VSATTP hiện ngày càng phổ biến, với nhiều mức độ hậu quả khác nhau,
gây nên tâm lý bất an cho người tiêu dùng, là một trong những nguyên nhân
đáng nói làm gia tăng bệnh tật, đặc biệt là các bệnh hiểm nghèo trong nhân
dân, đẩy các bệnh viện tuyến trên vào tình trạng quá tải, đặt xã hội trước một
trạng thái mất an toàn... Tuy nhiên, mức độ nguy hiểm cho xã hội của các vi
phạm hành chính trong lĩnh vực này thấp hơn tội phạm, chưa đến mức phải
truy cứu trách nhiệm hình sự, nghĩa là những thiệt hại mà chúng gây ra hoặc
đe dọa gây ra cho xã hội là chưa đáng kể.
Thứ hai, là những hành vi (bao gồm cả hành động và không hành
động) trái với các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trên một lĩnh
vực liên quan mật thiết đến sức khỏe, tính mạng của con người – vệ sinh an
toàn thực phẩm - đồng thời còn trái với đạo đức xã hội, gây bất bình trong dư
luận.
Thứ ba, là hành vi có lỗi. Rất nhiều trường hợp vi phạm hành chính về
VSATTP với lỗi cố ý gián tiếp (thể hiện sự vô cảm, sự bất lương, hám lợi của
11
không ít các chủ thể tham gia sản xuất, kinh doanh thực phẩm trong điều kiện
nền kinh tế thị trường).
Thứ tư, được thực hiện bởi các chủ thể có năng lực chịu trách nhiệm
hành chính, bao gồm cả các cá nhân và tổ chức. Chủ thể rất đa dạng: từ những
người bán hàng rong, những người kinh doanh thức ăn đường phố, hộ gia
đình đến nhà máy, nhà hàng, doanh nghiệp… Sự đông đảo của các chủ thể vi
phạm hành chính trong lĩnh vực VSATTP cho thấy một sự thực: bất kỳ người
nào đạt đến độ tuổi luật định và có khả năng nhận thức, điều khiển hành vi
cũng có thể trở thành đối tượng vi phạm hành chính trong lĩnh vực VSATTP.
1.2.3 Các dạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực vệ sinh an toàn
thực phẩm
Trong điều kiện của một đất nước đang phát triển, trình độ dân trí chưa
cao, nền kinh tế thị trường còn nhiều điều ngổn ngang, bề bộn, thiếu quy củ,
vi phạm hành chính trong lĩnh vực VSATTP diễn ra khá phổ biến và đa dạng.
Từ những quy định của pháp luật hiện hành cũng như từ sự phong phú của
đời sống, có thể khái quát các dạng vi phạm hành chính về vệ sinh an toàn
thực phẩm như sau:
- Những vi phạm hành chính trong quá trình chế biến thực phẩm.
Ví dụ: Không mặc trang phục chuyên dụng khi chế biến thực phẩm;
Người trực tiếp chế biến thực phẩm đang mắc các bệnh truyền nhiễm, bệnh
ngoài da hay các bệnh khác theo quy định của Bộ y tế;…
- Những vi phạm hành chính trong quá trình bảo quản thực phẩm.
Ví dụ: Nơi bày bán thực phẩm chế biến sẵn để ăn ngay mà không có tủ
kính che đậy, bao gói hợp vệ sinh; Sử dụng thiết bị, dụng cụ chứa đựng, bao
12
gói, bảo quản có bề mặt tiếp xúc trực tiếp với thực phẩm được làm bằng vật
liệu không bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm;…
- Những vi phạm hành chính trong quá trình sản xuất, kinh doanh thực
phẩm.
Ví dụ: Sản xuất, kinh doanh thực phẩm từ nguồn gốc động vật chưa
qua kiểm dịch động vật hoặc kiểm tra không đạt yêu cầu; Sản xuất, kinh
doanh thực phẩm có sử dụng các chất phụ gia thực phẩm, các vi chất dinh
dưỡng, các chất hỗ trợ chế biến không được phép sử dụng hoặc sử dụng
không đúng liều lượng, giới hạn quy định hoặc không rõ nguồn gốc xuất xứ;
…
- Những vi phạm hành chính trong quá trình vận chuyển thực phẩm.
Ví dụ: Sử dụng phương tiện bị ô nhiễm, phương tiện đã vận chuyển
chất độc hại để vận chuyển thực phẩm.
- Những vi phạm hành chính trong quá trình quảng cáo thực phẩm.
Ví dụ: Quảng cáo thực phẩm, phụ gia thực phẩm chưa công bố tiêu
chuẩn chất lượng VSATTP; thực phẩm, phụ gia kém chất lượng, không đảm
bảo vệ sinh an toàn hoặc quảng cáo khi chưa có phiếu tiếp nhận hồ sơ đăng
ký quảng cáo của cơ quan y tế có thẩm quyền hoặc quảng cáo không đúng với
nội dung đã đăng ký hoặc không sửa đổi nội dung quảng cáo theo yêu cầu của
cơ quan y tế có thẩm quyền;…
- Những vi phạm hành chính trong quá trình tiêu thụ thực phẩm.
Ví dụ: Không thực hiện việc báo cáo khi có ngộ độc thực phẩm xảy ra
với cơ sở y tế hoặc Ủy ban nhân dân địa phương nơi gần nhất để có biện pháp
phòng ngừa và khắc phục hậu quả kịp thời; Không thực hiện đầy đủ các biện
13
pháp đề phòng và xử trí kịp thời khi xảy ra ngộ độc thực phẩm và các bệnh
lây truyền qua thực phẩm;…
1.2.4 Cấu thành pháp lý của vi phạm hành chính trong lĩnh vực vệ
sinh an toàn thực phẩm
Cấu thành pháp lý của vi phạm hành chính nói chung và vi phạm hành
chính trong lĩnh vực VSATTP nói riêng bao gồm 4 yếu tố: mặt khách quan,
mặt chủ quan, chủ thể và khách thể. Trong khuôn khổ của luận văn, tác giả
chỉ tập trung làm rõ những nét đặc trưng của cấu thành vi phạm hành chính
trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm.
* Thứ nhất là về mặt khách quan:
Mặt khách quan của một vi phạm hành chính nói chung thường bao
gồm các yếu tố: hành vi trái pháp luật, hậu quả của hành vi, mối quan hệ nhân
quả, thời gian, địa điểm, công cụ, phương tiện vi phạm…Trong đó, hành vi
trái pháp luật là dấu hiệu đầu tiên, không thể thiếu (dấu hiệu bắt buộc). Những
yếu tố còn lại, tùy thuộc vào từng vi phạm cụ thể mà có thể bắt buộc phải có
hoặc không.
- Hành vi trái pháp luật trong mặt khách quan của các vi phạm hành
chính trong lĩnh vực VSATTP được thể hiện dưới 2 dạng: hành động và
không hành động. Điều đáng nói là tỷ lệ hành động và không hành động trái
pháp luật khá ngang nhau.
+ Hành động trái pháp luật: Sử dụng lại bao bì đã chứa đựng dầu, mỡ
hoặc sữa để chứa đựng thực phẩm đã qua chế biến công nghiệp; Sản xuất
dụng cụ dùng cho việc ăn uống, các loại bao bì để đóng gói trực tiếp thực
phẩm từ các nguyên liệu, phụ gia không có trong danh mục cho phép do Bộ Y
tế công bố; Sử dụng thiết bị, dụng cụ chứa đựng, bao gói, phương tiện vận
14
chuyển, bảo quản có bề mặt tiếp xúc trực tiếp với thực phẩm được làm bằng
vật liệu không bảo đảm VSATTP; Sản xuất, kinh doanh các loại nông sản có
dư lượng thuốc bảo vệ thực vật vượt quá giới hạn cho phép; Sản xuất, sử
dụng nước đá dùng cho ăn, uống không bảo đảm tiêu chuẩn VSATTP theo
quy định của Bộ Y tế; Sản xuất, kinh doanh phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ
chế biến thực phẩm, vi chất dinh dưỡng, thực phẩm chức năng, thực phẩm có
nguy cơ cao, thực phẩm được bảo quản bằng phương pháp chiếu xạ, thực
phẩm có gen đã bị biến đổi nhưng chưa được cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền cho phép; Sản xuất, kinh doanh thực phẩm có sử dụng các chất
phụ gia thực phẩm, các vi chất dinh dưỡng, các chất hỗ trợ chế biến không
được phép sử dụng hoặc sử dụng không đúng liều lượng, giới hạn quy định
hoặc không rõ nguồn gốc xuất xứ; Sản xuất, kinh doanh thực phẩm quá hạn
sử dụng hoặc không bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh…
+ Không hành động trái pháp luật: Không sử dụng dụng cụ riêng để
gắp, múc, chứa đựng các loại thực phẩm ăn ngay; Không thực hiện hoặc thực
hiện việc vệ sinh trang thiết bị, dụng cụ, nơi bày bán thực phẩm không đúng
quy định của Bộ Y tế; Không bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh rau an toàn theo quy
định đối với cơ sở kinh doanh rau an toàn; Không thực hiện chế độ giám sát
việc chấp hành các quy định về VSATTP đối với các bếp ăn tập thể được tổ
chức nấu tại cơ sở; Không thực hiện việc công bố tiêu chuẩn chất lượng
VSATTP đối với các thực phẩm phải công bố tiêu chuẩn chất lượng VSATTP
theo quy định của pháp luật; Không thực hiện việc báo cáo khi có ngộ độc
thực phẩm xảy ra với cơ sở y tế hoặc Uỷ ban nhân dân địa phương nơi gần
nhất để có biện pháp phòng ngừa và khắc phục hậu quả kịp thời; Không thực
hiện đầy đủ các biện pháp đề phòng và xử trí kịp thời khi xảy ra ngộ độc thực
phẩm và các bệnh lây truyền qua thực phẩm..
15
- Hậu quả của hành vi: về cơ bản, các vi phạm hành chính trong lĩnh
vực VSATTP có cấu thành hình thức nên không bắt buộc phải có dấu hiệu
hậu quả.
- Ngoài ra còn có những yếu tố khác được coi là dấu hiệu bắt buộc
trong không ít cấu thành vi phạm hành chính về VSATTP: Địa điểm (Ví dụ:
Nơi bày bán thực phẩm chế biến sẵn để ăn ngay mà không có tủ kính che đậy,
bao gói hợp vệ sinh, xây dựng các cơ sở sản xuất, chế biến thực phẩm ở môi
trường không bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm…); Công cụ, phương tiện
vi phạm (Ví dụ: Không sử dụng dụng cụ riêng để gắp, múc, chứa đựng các
loại thực phẩm ăn ngay; các dụng cụ chứa đựng, gắp, múc, chế biến thực
phẩm không bảo đảm vệ sinh; Sử dụng lại bao bì đã chứa đựng dầu, mỡ hoặc
sữa để chứa đựng thực phẩm đã qua chế biến công nghiệp; Sản xuất, kinh
doanh thực phẩm hoặc sản phẩm chế biến từ thịt gia cầm, gia súc, thuỷ sản,
rau quả do bị bệnh, bị ngộ độc, chết không rõ nguyên nhân hoặc bị ngâm tẩm
bằng các chất hoá học không được phép sử dụng…)
* Thứ hai là mặt chủ quan:
- Lỗi là dấu hiệu bắt buộc phải có trong cấu thành của tất cả các vi
phạm hành chính về VSATTP. Các hình thức lỗi: bao gồm cả lỗi cố ý và vô ý.
Rất nhiều vi phạm hành chính trong lĩnh vực này được thực hiện với lỗi cố ý
gián tiếp và lỗi vô ý vì cẩu thả.
- Động cơ và mục đích: không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu
thành của tất cả các vi phạm.
* Thứ ba là, chủ thể:
Chủ thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực VSATTP bao gồm hai
nhóm chủ thể: cá nhân và tổ chức (Theo quy định tại Điều 6 Pháp lệnh xử lý
16
vi phạm hành chính hiện hành và Điều 2 Nghị định 45/2005/ NĐ-CP ngày 06
tháng 04 năm 2005 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y
tế). Các nhóm này bao gồm:
- Cá nhân, tổ chức Việt Nam:
+ Cá nhân: Pháp luật hành chính trong lĩnh vực VSATTP không đánh
đồng năng lực chịu trách nhiệm của các cá nhân khác nhau khi cá nhân đó
thực hiện hành vi vi phạm. Tùy từng trường hợp mà cá nhân đó có thể bị xử
phạt hay không, mức xử phạt như thế nào… Tất cả phụ thuộc vào:
Một là, về độ tuổi: Độ tuổi của cá nhân vi vi phạm các quy định của
pháp luật hành chính về vệ sinh an toàn thực phẩm được chia thành các đối
tượng:
•
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi: Nhóm chủ thể này chỉ
được xem là chủ thể của vi phạm hành chính và bị xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực VSATTP khi hành vi vi phạm của nhóm chủ thể này
được thực hiện ở dạng hành vi “cố ý” và “chỉ bị phạt cảnh cáo”.
•
Người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt hành chính về mọi vi
phạm hành chính do mình gây ra. Tuy nhiên, đối với nhóm này khi họ chưa
đến 18 tuổi thì “khi phạt tiền đối với họ thì mức tiền phạt không được quá
một phần hai mức phạt đối với người thành niên; trong trường hợp họ không
có tiền nộp phạt thì cha mẹ hoặc người giám hộ phải nộp thay”7.
Hai là, về năng lực hành vi hành chính: Năng lực hành vi hành chính
biểu thị năng lực của công dân thực hiện được các quyền, tự do và nghĩa vụ
của mình trên thực tế. Đó là khả năng của công dân bằng hành vi của bản thân
mình thực hiện được các quyền và nghĩa vụ trong quản lý nhà nước và khả
7
Khoản 1 Điều 7 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 (Sửa đổi, bổ sung 2007, 2008)
17
năng đó được nhà nước thừa nhận bằng pháp luật 8. Một cá nhân khi mắc phải
các bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức và điều
khiển hành vi thì sẽ được pháp luật loại trừ trách nhiệm khi các cá nhân này
thực hiện hành vi vi phạm, pháp luật hành chính trong lĩnh vực VSATTP
cũng không ngoại lệ.
Ba là, về nhóm chủ thể là quân nhân tại ngũ, quân nhân dự bị trong
thời gian tập trung huấn luyện và những người thuộc lực lượng công an nhân
dân nếu thực hiện vi phạm hành chính trong lĩnh vực VSATTP thì bị xử lý
như đối với công dân khác. Tuy nhiên, đây là nhóm chủ thể đặc biệt nên cũng
có một số quy định riêng áp dụng cho họ: “Trong trường hợp cần áp dụng
hình thức phạt tước quyền sử dụng một số giấy phép hoạt động vì mục đích
quốc phòng, an ninh thì người xử phạt không trực tiếp xử lý mà đề nghị cơ
quan, đơn vị Quân đội, Công an có thẩm quyền xử lý theo Điều lệnh kỷ
luật”9.
+ Tổ chức: Theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 6 Pháp lệnh xử lý
vi phạm hành chính hiện hành thì “Tổ chức bị xử phạt hành chính về mọi vi
phạm hành chính do mình gây ra. Sau khi chấp hành quyết định xử phạt, tổ
chức bị xử phạt xác định cá nhân có lỗi gây ra vi phạm hành chính để xác
định trách nhiệm pháp lý của người đó theo quy định của pháp luật”. Như
vậy pháp luật hành chính nước ta coi tổ chức cũng là chủ thể của vi phạm
hành chính. Điều này rất hợp lý trong thời điểm hiện nay. Bởi lẽ, các vụ vi
phạm lớn, gây ảnh hưởng đến diện rộng trong vấn đề VSATTP gây ra hầu
như là xuất phát từ sự vi phạm của các tổ chức.
PGS. TS. Nguyễn Cửu Việt, Giáo trình luật hành chính Việt Nam – Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội-2008, Tr.271
8
9
Điểm a khoản 1 Điều 6 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 (Sửa đổi, bổ sung 2007, 2008)
18
- Cá nhân, tổ chức nước ngoài: Cá nhân, tổ chức nước ngoài vi phạm
hành chính trong phạm vi lãnh thổ, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì bị xử phạt hành chính theo
quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác. Như
vậy nếu như cá nhân, tổ chức nước ngoài thực hiện hành vi vi phạm trong lĩnh
vực VSATTP nếu không thuộc các trường hợp ngoại lệ, được miễn trừ thì
nhóm chủ thể này sẽ phải chịu trách nhiệm như công dân Việt Nam.
* Thứ tư là khách thể
Khách thể của vi phạm hành chính là những quan hệ xã hội được các
quy phạm pháp luật hành chính bảo vệ nhưng bị hành vi vi phạm xâm hại tới.
Khách thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực VSATTP là trật tự quản lý
nhà nước trong lĩnh vực VSATTP, là sức khỏe và tính mạng của người tiêu
dùng. Khách thể là yếu tố quan trọng quy định tính chất, mức độ nguy hiểm
của hành vi trái pháp luật.
Cấu thành pháp lý của vi phạm hành chính trong lĩnh vực VSATTP có
ý nghĩa quan trọng trong việc xác định có hay không vi phạm hành chính và
phân biệt vi phạm trong lĩnh vực này với các vi phạm khác. Nói cách khác,
khẳng định một hành vi nào đó là vi phạm hành chính trong lĩnh vực
VSATTP thì phải chứng minh được hành vi đó thỏa mãn các dấu hiệu pháp lý
trên.
1.2.5 Phân biệt vi phạm hành chính với tội phạm trong lĩnh vực vệ
sinh an toàn thực phẩm
19
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực VSATTP với tội phạm trong lĩnh
vực này đều là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, thường có chung khách
thể. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm chung đó thì vi phạm hành chính với tội
phạm trong lĩnh vực VSATTP cũng có những điểm khác biệt cơ bản như sau:
Thứ nhất là, sự khác biệt thể hiện ở mức độ nguy hiểm cho xã hội.
Mặc dù vi phạm hành chính trong lĩnh vực VSATTP có tính nguy hiểm cho
xã hội, gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại nhất định đến sức khỏe, tính
mạng của con người, tuy nhiên xét về mức độ thì sự nguy hiểm đó là thấp hơn
so với tội phạm.
Thứ hai là, cũng như các vi phạm hành chính nói chung, vi phạm hành
chính trong lĩnh vực VSATTP nói riêng thường không bắt buộc phải có dấu
hiệu hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Trong khi đó,
phần lớn các tội phạm về VSATTP thì buộc phải có dấu hiệu hậu quả, mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Chẳng hạn, theo quy định của Bộ
luật hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) về tội vi phạm quy định về
VSATTP thì “Người nào chế biến, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết rõ
là thực phẩm không bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh an toàn gây thiệt hại cho sức
khỏe của người tiêu dùng thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm”10
Thứ ba là, chủ thể vi phạm hành chính trong lĩnh vực VSATTP bao
gồm cả cá nhân và tổ chức, trong khi đó chủ thể thực hiện hành vi phạm tội
trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm theo quy định của Bộ luật hình sự
chỉ có thể là cá nhân.
Sự phân biệt nói trên có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định đúng
hành vi vi phạm hành chính và tội phạm trong cùng một lĩnh vực, giúp các cơ
10
Khoản 1 điều 244 Bộ luật hình sự Việt Nam 1999 được sửa đổi bổ sung 2009
20
quan chức năng tránh được hai khuynh hướng: hình sự hóa vi phạm hành
chính và hành chính hóa các tội phạm hình sự.
1.3 Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực
phẩm
1.3.1 Khái niệm, đặc điểm
1.3.1.1 Khái niệm
Vi phạm hành chính là cơ sở thực tế của trách nhiệm hành chính. Nói
cách khác hệ quả tất yếu của việc thực hiện hành vi vi phạm hành chính là các
biện pháp trách nhiệm hành chính phải gánh chịu. Xử phạt vi phạm hành
chính là việc truy cứu trách nhiệm hành chính đối với chủ thể vi phạm.
Trách nhiệm hành chính được hiểu là sự phản ứng tiêu cực của Nhà
nước đối với người thực hiện vi phạm hành chính, kết quả là chủ thể thực
hiện vi phạm hành chính phải gánh chịu những hậu quả bất lợi, thiệt hại về
vật chất và tinh thần so với tình trạng ban đầu của họ 11. Nói cách khác, bản
chất của trách nhiệm hành chính là trách nhiệm của chủ thể vi phạm hành
chính phải gánh chịu biện pháp cưỡng chế của chế tài hành chính, do các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng theo trình tự, thủ tục pháp luật quy
định12. Ở đây, trách nhiệm hành chính được hiểu theo nghĩa hẹp, nghĩa tiêu
cực.
Pháp luật hành chính đã cụ thể hóa và đưa ra khái niệm về trách nhiệm
hành chính tại các pháp lệnh về xử phạt, xử lý vi phạm hành chính qua các
năm, pháp lệnh hiện hành quy định: “xử phạt vi phạm hành chính được áp
dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy tắc
PGS. TS. Nguyễn Cửu Việt, Giáo trình luật hành chính Việt Nam – Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội-2008, Tr.397
11
Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình luật hành chính Việt Nam – Nxb Đại học
quốc gia, TPHCM-2010, Tr.592
12
21
quản lý Nhà nước mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy
định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính” 13. Hiện nay, vấn đề
VSATTP vô cùng quan trọng, có sức ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, tính mạng
của con người, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, chính trị quốc gia. Các
hành vi vi phạm trong lĩnh vực này cần được xử lý nghiêm minh, triệt để. Tuy
nhiên, đối với xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực VSATTP thì hiện
nay vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào đưa ra định nghĩa một cách cụ
thể.
Từ những quan điểm về các khái niệm nêu trên có thể hiểu “Xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực VSATTP là hoạt động được tiến hành bởi
các chủ thể có thẩm quyền theo những trình tự và thủ tục luật định nhằm áp
dụng những hậu quả pháp lý bất lợi đối với các tổ chức, cá nhân cố ý hoặc vô
ý vi phạm các quy tắc quản lý nhà nước trong lĩnh vực VSATTP mà chưa
phải là tội phạm”.
1.3.1.2 Đặc điểm
Một là, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực VSATTP chỉ xảy ra
khi có hành vi vi phạm hành chính của tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực
VSATTP. Điều này được khẳng định tại Khoản 2 điều 3 Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008): “Cá nhân, tổ
chức chỉ bị xử phạt hành chính khi có vi phạm hành chính do pháp luật quy
định” và đương nhiên các vi phạm này phải thỏa mãn các điều kiện như đã
phân tích ở trên. Điều này cho thấy nếu không có vi phạm hành chính trong
lĩnh vực VSATTP thì không đặt ra vấn đề xử phạt trong trường hợp này.
Cũng dễ hiểu, nó tương tự như cơ sở của trách nhiệm hình sự là tội phạm, của
trách nhiệm dân sự là vi phạm quan hệ dân sự.
13
Khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 (sửa đổi, bổ sung 2007, 2008)
22
Hai là, việc xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng bởi các chủ thể
có thẩm quyền theo quy định của pháp luật xử phạt vi phạm hành chính nói
chung và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực VSATTP nói riêng. Các
chủ thể có thẩm quyền xử phạt trong lĩnh vực này bao gồm: Thanh tra chuyên
ngành, chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp và các chủ thể khác theo quy định
của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ
được giao mà phát hiện các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực
VSATTP (Theo quy định tại điều 45, 46, 47 Nghị định 45/2005/NĐ-CP
Chính Phủ ngày 06 tháng 04 năm 2005 quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực y tế).
Ba là, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực VSATTP được tiến
hành theo nguyên tắc, trình tự, thủ tục luật định. Trình tự này được pháp luật
về xử phạt vi phạm hành chính quy định rất cụ thể. Đặc điểm nêu trên mang
một ý nghĩa quan trọng, nó đảm bảo được trật tự của quá trình áp dụng biện
pháp chế tài là xử phạt vi phạm hành chính đối với các chủ thể vi phạm. Từ
đó nâng cao được hiệu quả mục đích của việc truy cứu trách nhiệm hành
chính nhằm trừng trị, ngăn chặn hành vi vi phạm qua đó giáo dục pháp luật,
lập lại trật tự kỉ cương, góp phần bình ổn xã hội.
1.3.1.3 Ý nghĩa của hoạt động xử phạt
- Xử lý nghiêm các vi phạm hành chính, đảm bảo tính nghiêm minh của
pháp luật, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa;
- Ngăn ngừa các vi phạm;
- Góp phần thiết lập được trật tự, kỷ cương, trật tự quản lý nhà nước
trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm;
- Đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng.
23
1.3.2 Những quy định pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm
1.3.2.1 Nguyên tắc xử phạt
Cũng như đã đề cập ở các phần trên, hiện nay vẫn chưa có Nghị định
riêng quy định cụ thể về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực VSATTP.
Vấn đề này được quy định tại nghị định chung là Nghị định 45/2005/NĐ-CP
của Chính Phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.
Tuy nhiên, Nghị định này cũng không đưa ra những nguyên tắc dành riêng
cho lĩnh vực mà quy định dẫn đến các nguyên tắc tại Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008). Cụ thể tại Khoản 1 Điều
3 Nghị định này quy định: “Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực y tế được áp dụng theo quy định tại Điều 3 của Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính”. Các nguyên tắc này được xem là tư tưởng chỉ đạo, làm
nền tảng cho việc truy cứu trách nhiệm hành chính một cách chính xác nhằm
đạt được mục đích đấu tranh phòng chống vi phạm hành chính. Theo quy
định tại điều 3 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 (Sửa đổi, bổ sung
2007, 2008) bao gồm các nguyên tắc như sau:
Thứ nhất, nguyên tắc “Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện
kịp thời và phải bị đình chỉ ngay. Việc xử lý vi phạm hành chính phải được
tiến hành nhanh chóng, công minh, triệt để; mọi hậu quả do vi phạm hành
chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật”14
Nguyên tắc này được đặt ra trong pháp luật xử phạt vi phạm hành chính
nói chung và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực VSATTP nói riêng
nhằm đảm bảo đạt hiệu quả các hoạt động đấu tranh phòng chống vi phạm
hành chính. Nhất là trong lĩnh vực VSATTP – một lĩnh vực ảnh hưởng quan
14
Khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 (Sửa đổi, bổ sung 2007, 2008)
24
trọng đến sức khỏe, tính mạng con người khi xảy ra vi phạm. Điều này đòi
hỏi các cơ quan chức năng có thẩm quyền phải thực hiện một cách nhanh
chóng, công minh, triệt để trong việc phát hiện và xử lý hành vi vi phạm. Bên
cạnh đó, để đảm bảo rằng hậu quả của việc vi phạm hành chính trong lĩnh
vực VSATTP phải được khắc phục một cách triệt để, tuân theo những quy
định của pháp luật trong lĩnh vực này nhằm không để bất kì một hậu quả đáng
tiếc nào xảy ra. Bên cạnh đó còn đảm bảo được trật tự quản lý hành chính,
tránh tình trạng đùn đẩy, thiếu trách nhiệm của các chủ thể có trách nhiệm.
Thứ hai, nguyên tắc “Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt hành chính khi
có vi phạm hành chính do pháp luật quy định”15
Nguyên tắc này đảm bảo việc xử phạt vi phạm hành chính có căn cứ
pháp lý và thực tiễn, xử phạt đúng người, đúng tính chất, mức độ và đúng vi
phạm. Theo tinh thần của pháp luật nói chung thì một hành vi được xem là
trái pháp luật thì đòi hỏi hành vi đó phải được quy định trong một văn bản
pháp luật cụ thể. Pháp luật hành chính cũng thế, một hành vi bị coi là hành vi
vi phạm hành chính trong lĩnh vực VSATTP khi hành vi đó đã được pháp luật
hành chính trong lĩnh vực này quy định. Điều này đòi hỏi các chủ thể có thẩm
quyền áp dụng phải nắm vững các quy định của pháp luật trên lĩnh vực mà
mình phụ trách và các lĩnh vực liên quan để có các quyết định xử phạt đúng
đắn, tránh tình trạng oan, sai. Về mặt lập pháp thì các nhà làm luật phải ban
hành các văn bản luật một cách rõ ràng, tránh chồng chéo, cập nhật thường
xuyên sự thay đổi của xã hội, tình hình, mức độ vi phạm để có những bổ sung
kịp thời các quy định cho phù hợp với tình hình hiện tại và cả những dự liệu
về tương lai nhằm tránh bỏ sót các hành vi đáng bị xử phạt.
15
Khoản 2 Điều 3 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 (Sửa đổi, bổ sung 2007, 2008)
25