Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

Nghệ thuật tạo thời, lập thế trong khởi nghĩa và chiến tranh chống quân minh xâm lược do lê lợi và nguyễn trãi lãnh đạo 1418 1427

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (543.29 KB, 47 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG HÀ NỘI 2

HÀ NHẬT LINH

NGHỆ THUẬT TẠO THỜI, LẬP THẾ
TRONG KHỞI NGHĨA VÀ CHIẾN
TRANH CHỐNG QUÂN MINH XÂM
LƢỢC DO LÊ LỢI VÀ NGUYỄN TRÃI
LÃNH ĐẠO 1418 - 1427
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh

Hà Nội - 2016


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG HÀ NỘI 2

HÀ NHẬT LINH

NGHỆ THUẬT TẠO THỜI, LẬP THẾ
TRONG KHỞI NGHĨA VÀ CHIẾN
TRANH CHỐNG QUÂN MINH XÂM
LƢỢC DO LÊ LỢI VÀ NGUYỄN TRÃI
LÃNH ĐẠO 1418 - 1427
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

Đại tá, ThS. Phan Xuân Dũng


Hà Nội - 2016


LỜI CẢM ƠN
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn thầy
Phan Xuân Dũng - Phó Giám đốc Trung tâm GDQP Hà Nội 2 đã tận tình trực
tiếp hướng dẫn, cung cấp tài liệu và tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành khóa
tốt nghiệp này.
Trong quá trình làm đề tài, tuy đã cố gắng hết sức nhưng do kiến thức
có hạn nên chắc chắn không tránh khỏi những khiếm khuyết. Tôi rất mong
các thầy, cô giáo và các bạn đóng góp ý kiến để đề tài được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2016
Tác giả đề tài

Hà Nhật Linh


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:
1. Những nội dung trong khóa luận này là do tôi thực hiện dưới sự hướng
dẫn của thầy giáo Phan Xuân Dũng.
2. Mọi sao chép không hợp lệ, vi phạm quy chế đào tạo, hay gian trá tôi
xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Tác giả đề tài

Hà Nhật Linh


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGHỆ THUẬT TẠO THỜI,
LẬP THẾ VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH NGHỆ THUẬT TẠO THỜI LẬP
THẾ TRONG KHỞI NGHĨA VÀ CHIẾN TRANH CHỐNG QUÂN
MINH XÂM LƢỢC DO LÊ LỢI VÀ NGUYỄN TRÃI LÃNH ĐẠO 1418
- 1427................................................................................................................. 4
1.1. Những vấn đề chung về nghệ thuật tạo thời lập thế ............................. 4
1.1.1. Quan niệm về nghệ thuật quân sự ........................................................... 4
1.1.2. Quan niệm “Thế” .................................................................................... 4
1.1.3. Quan niệm “Thời” .................................................................................. 5
1.1.4. Nghệ thuật tạo thời, lập thế..................................................................... 6
1.1.5. Quan niệm về tạo thời, lập thế của Lê Lợi và Nguyễn Trãi trong khởi
nghĩa và chiến tranh chống quân Minh xâm lược 1418 - 1427 ........................ 6
1.2. Cơ sở hình thành nghệ thuật tạo thời, lập thế trong khởi nghĩa và
chiến tranh chống quân Minh xâm lƣợc do Lê Lợi và Nguyễn Trãi lãnh
đạo 1418 - 1427 ................................................................................................ 9
1.2.1. Bối cảnh lị ch sử....................................................................................... 9
1.2.2. Những kinh nghiệm trong sử dụng nghệ thuật quân sự của dân tộc ta
trong lịch sử .................................................................................................... 11
1.2.3. Tài năng của Lê Lợi và Nguyễn Trãi .................................................... 17
Chƣơng 2:NGHỆ THUẬT TẠO THỜI, LẬP THẾ TRONG KHỞI
NGHĨA VÀ CHIẾN TRANH CHỐNG QUÂN MINH XÂM LƢỢC 1418
- 1427 VÀ BÀI HỌC HIỆN NAY ................................................................ 23
2.1. Nghệ thuật tạo thời, lập thế trong khởi nghĩa và chiến tranh chống
quân Minh xâm lƣợc 1418 - 1427 ................................................................ 23


2.1.1. Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã bố trí cán cân lực lượng của ta một cáchkhoa
học và hiệu quả ............................................................................................... 23
2.1.2. Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã thực hiện thành công việc giữ vững tính chủ

động; làm cho địch phải đánh theo cách đánh của ta .................................... 26
2.1.3. Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo các cách đánh
khác nhau ........................................................................................................ 28
2.2. Những bài học kinh nghiệm từ nghệ thuật “tạo thời, lập thế” trong
khởi nghĩa và chiến tranh chống quân Minh xâm lƣợc năm 1418 - 1427
trong giai đoạn hiện nay .............................................................................. 29
2.2.1. Mục tiêu, yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới ........................ 29
2.2.2. Những bài học kinh nghiệm .................................................................. 30
KẾT LUẬN .................................................................................................... 39
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 40


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, Lê Lợi và Nguyễn Trãi
là những nhà chính trị, quân sự tài ba văn, võ song toàn và có ảnh hưởng to
lớn đối với quân và dân ta trong công cuộc chống quân Minh xâm lược.
Trong cuộc kháng chiến này, hai ông đã nghiên cứu, suy xét mọi lẽ hưng
vong của các triều đại, các trận đánh giành chiến thắng hay thất bại chống
quân Minh trước đó; phân tích sâu sắc “thời” và “thế” trong toàn bộ cục diện
của cuộc kháng chiến…
Trong điều kiện từ tay không mà xây dựng được lực lượng để chống một
kẻ thù mạnh gấp bội, có cả quân đội và chính quyền làm chỗ dựa, trong điều
kiện phải“lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều”. Bộ chỉ huy nghĩa quân Lam
Sơn đã biết tạo thời, lập thế, từng bước chuyển hóa lực lượng, xoay chuyển tình
thế, sự phát triển của nghĩa quân gắn liền với nghệ thuật từng bước chuyển thế
trận. Nghĩa quân càng đánh càng mạnh“mất biến thành còn, nhỏ hóa ra lớn”,
còn quân địch càng đánh càng thua “mạnh hóa ra yếu, yếu lại thành nguy”.
Với việc lựa chọn rất đúng đắn phương hướng và mục tiêu của các cuộc tiến
công chiến lược, khéo kết hợp giữa vây thành với diệt viện, bộ chỉ huy nghĩa

quân đã dẫn giải cuộc chiến tranh giải phóng đi hết từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác, cuối cùng đi đến thắng lợi hoàn toàn. Bằng nghệ thuật và phương thức
tác chiến ấy, nghĩa quân Lam Sơn đã liên tiếp tiêu diệt kẻ thù, làm hoang mang
quân địch, tạo nên những chiến thắng vang dội như “Trận Bồ Đằng sấm vang
chớp giật”, trận “Trà Lân trúc chẻ cho bay”, trận “Lạng Sơn, Lạng Giang xác
chất đầy đường”, trận “Ninh Kiều máu chảy thành sông, hôi tanh vạn dặm”,
trận “Xương Giang, Bình Than máu trôi đỏ nước”.
Trong giai đoạn hiện nay, trước yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới; trước thực tiễn, đặc điểm, tình hình của đất
1


nước…đã đặt ra yêu cầu chúng ta cần phải nghiên cứu nghệ thuật quân sự
trong quá khứ của cha ông ta nói chung, nghệ thuật tạo thời, lập thế của Lê
Lợi và Nguyễn Trãi trong kháng chiến chống quân Minh 1418-1427 nói riêng.
Trên cơ sở đó, kế thừa những kinh nghiệm có giá trị, vận dụng linh hoạt, sáng
tạo vào trong bối cảnh mới để quân và dân ta có thể chiến thắng được mọi kẻ
thù khi có chiến tranh xảy ra, góp phần bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ
quốc. Xuất phát từ vấn đề trên, tác giả lựa chọn“Nghệ thuật tạo thời, lập thế
trong khởi nghĩa và chiến tranh chống quân Minh xâm lược do Lê Lợi và Nguyễn
Trãi lãnh đạo1418 - 1427” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Phân tích, làm rõ những nét đặc sắc về nghệ thuật quân sự

“tạo thời,

lập thế” trong khởi nghĩa và chiến tranh chống quân Minh xâm lược do Lê
Lợi và Nguyễn Trãi lãnh đạo(1418 -1427). Từ đó, rút ra những bài học kinh
nghiệm vận dụng vào phát triển nghệ thuật quân sự của quân và dân ta giai
đoạn hiện nay.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu nghệ thuật quân sự trong cuộc kháng chiến chống quân
Minh do Lê Lợi và Nguyễn Trãi lãnh đạo 1418 -1427.
- Phân tích, làm rõ nghệ thuật “tạo thời, lập thế” trong cuộc kháng chiến
chống quân Minh do Lê Lợi và Nguyễn Trãi lãnh đạo 1418 -1427.
- Rút ra những bài học kinh nghiệm từ việc sử dụng nghệ thuật “tạo
thời, lập thế” của Lê Lợi và Nguyễn Trãi trong kháng chiến chống quân Minh
1418 -1427 để áp dụng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc giai đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghệ thuật tạo thời, lập thế trong khởi nghĩa và chiến tranh chống quân
Minh xâm lược do Lê Lợi và Nguyễn Trãi lãnh đạo 1418 - 1427

2


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghệ thuật quân sự trong kháng chiến chống quân Minh xâm lược
1418 - 1427.
5. Phƣơng pháp nghiên cƣ́u
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp lịch sử,
phương pháp lôgíc, so sánh, tổng hợp, phân tích và phương pháp chuyên gia.
6. Kết cấu của khóa luận
Gồm phần mở đầu, 2 chương, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.

3


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGHỆ THUẬT TẠO THỜI, LẬP THẾ

VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH NGHỆ THUẬT TẠO THỜI, LẬP THẾ
TRONG KHỞI NGHĨA VÀ CHIẾN TRANH CHỐNG QUÂN MINH
XÂM LƢỢC DO LÊ LỢI VÀ NGUYỄN TRÃI LÃNH ĐẠO 1418- 1427
1.1. Những vấn đề chung về nghệ thuật tạo thời, lập thế
1.1.1. Quan niệm về nghệ thuật quân sự
Nghệ thuật quân sự có vị trí hết sức quan trọng trong chỉ đạo chiến tranh.
Nó là một trong những nhân tố quyết định thành bại của chiến tranh. Theo Từ
điển Bách khoa quân sự Việt Nam “Nghệ thuật quân sự là lý luận và thực tiễn
chuẩn bị , tổ chức và tiến hành đấu trang vũ trang . Nó nghiên cứu các quy luật
của chiến tranh và đấu tranh vũ trang , xác định những ng uyên tắc và phương
pháp tiến hành các hoạt động quân sự trong chiến tranh . Nghệ thuật quân sự
được hì nh thành từ ba bộ phận : Chiến lược quân sự , nghệ thuật chiến dị ch và
chiến thuật. Ba bộ phận nghệ thuật quân sự là một thể thống nhất có quan hệ
biện chứng chặt chẽ, trong đó chiến lược quân sự đóng vai trò chủ đạo”.
1.1.2. Quan niệm“Thế”
“Thế” là một khái niệm quân sự được đề cập từ lâu trong nghệ thuật
quân sự phương Đông . Ở nước ta , do đặc điểm chiến tranh chống xâm lược
thường phải lấy í t đị ch nhiều , lấy nhỏ thắng lớn , nên việc nghiên cứu và vận
dụng “thế” trong nghệ thuật quân sự để đánh thắng đị ch ngày càng được quan
tâm đặc biệt.
Trong Sách Bin h thư yếu lược

Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn

khẳng định: “Người đánh giỏi vì có thế mà thắng” và “Biết xem thế đất , biết
lập thế quân, khéo dùng kỹ thuật, đánh không đâu là không lợi”.
Cũng đề cập về “thế” trong quân sự, trong thư gửi Vương Thông , chủ
tướng quân Minh , Nguyễn Trãi có viết: “Người dùng binh giỏi là ở chỗ biết
dùng thời thế mà thôi. Được thời được thế thì mất biến thành còn , nhỏ hóa ra
4



lớn; mất thời không thế thì mạnh hóa ra yếu , yên lạ i thành nguy, sự thay đổi
ấy chỉ trong khoảng trở bàn tay” . Đồng thời, trong thư gửi Lương Minh , phó
tướng của Liễu Thăng, ông tiếp tục vạch rõ: “Nay các ngươi đem quân đi sâu
vào, chính là bị hãm vào thế trong miệng cọp , muốn tiến không được, muốn
lui không xong. Còn ta thì nhân thế chẻ tre , sau khi chẻ được mấy đốt , cứ
tọng lưỡi dao mà chẻ đi, thực không khó gì ”.
Từ khái niệm về “thế”, cho thấy, “thế” phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố
như: địa hình địa vật, sự ủng hộ của quần chúng nhân dân, tinh thần của binh
sĩ… Tuy nhiên, trong đó , thế trận là một yếu t ố rất cơ bản để tạo ra thế có lợi
nhằm đánh bại đối phương , giành thắng lợi về mình . Thế trận là hì nh thá i bố
trí, triển khai lực lượng và thiết bị chiến trường theo mưu kế và cách đánh đã
lựa chọn, nhằm tạo thế có lợi để phát huy cao nhất sức mạnh chiến đấu của
các lực lượng tham chiến, giành thắng lợi trên chiến trường.
1.1.3. Quan niệm “Thời”
“Thời” có nghĩa là thời cơ, thời cơ là một yếu tố quan trọng trong mọi
hoạt động của con người . Vấn đề thời cơ trong chiến tranh , trong tác chiến
được các nhà lãnh đạo và chỉ huy quân sự hết sức coi trọng.
Nguyễn Trãi nói : “Thời cơ, thời cơ chớ nên để lỡ” và trong thực tiễn ,
ông luôn chỉ đạo nghĩ a quân Lam Sơn nắm đúng thời cơ mà hành động . Bác
Hồ cũng thường căn dặn bộ đội : “Phải luôn luôn có sán g kiến để lợi dụng
thời cơ”. Thời cơ bao gồm rất nhiều yếu tố, bản chất là khẳng định mọi vấn
đề về “thiên”, “địa”, “nhân” đều ủng hộ và tạo thuận lợi cho ta, nhưng bất
lợi cho kẻ địch.
“Thời” và “thế”, mà cốt lõi là thế trận và thời cơ luôn có quan hệ mật
thiết với nhau, không bao giờ tách rời nhau. Trong bất kỳ một trận đánh hay
một cuộc chiến nhất định, nếu bên nào nắm bắt sâu sắc “thời” và “thế” thì
nhất định thắng; nếu không sẽ bị thất bại.


5


Anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi đã nhấn mạnh:“Được thời , có thế thì
mất biến thành còn, nhỏ hóa ra lớn, mất thời không thế thì mạnh lại h óa yếu,
yên lại thành nguy”. Có thế, có thời thì: “Sức dùng một nửa công thành được
gấp đôi”. Ông còn lấy ví dụ “Lỗ kiến rỗng làm toang đê v ỡ, ngọn gió rung
quét sạch lá khô”.
1.1.4. Nghệ thuật tạo thời, lập thế
Từ cách tiếp cận trên, có thể khẳng định: Nghệ thuật tạo thời, lập thế
trong các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh là quá trình nắm bắt, lựa chọn đúng
thời điểm (thời gian, không gian, lực lượng…) dùng binh, kết hợp chặt chẽ
với việc xây dựng được thế trận vững chắc dựa trên cơ sở điều kiện tự nhiên,
con người… đảm bảo khai thác tối ưu sở trường, hạn chế tối thiểu sở đoản
của ta; đồng thời hạn chế tối đa sở trường của địch, tập trung đánh vào chỗ
hiểm, chỗ yếu của chúng nhằm mục đích giành chiến thắng trong từng trận
đánh cho đến toàn bộ cuộc chiến tranh.
1.1.5. Quan niệm về tạo thời, lập thế của Lê Lợi và Nguyễn Trãi
trong khởi nghĩa và chiến tranh chống quân Minh xâm lược 1418 - 1427
Một trong những đặc điểm nổi bật và cũng là một trong những nguyên
nhân thắng lợi chủ yếu của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là cuộc khởi nghĩa này
có một bộ tham mưu sáng suốt tiêu biểu cho lực lượng tiến bộ trong xã hội, có
uy tín rộng rãi trong nhân dân. Bộ tham mưu đó đã phát huy được sự nỗ lực
chủ quan trong việc chỉ đạo và thực hành chiến tranh với những đường lối
lãnh đạo đúng đắn.
Bộ tham mưu nghĩa quân mà đầu não là Lê Lợi và Nguyễn Trãi, đã tỏ
ra sáng suốt và hoàn toàn thành công trong việc tổ chức và lãnh đạo, cuộc
khởi nghĩa nói chung và chỉ đạo chiến lược, chiến thuật nói riêng. Đó là một
cống hiến to lớn đối với thắng lợi của cuộc chiến tranh giành độc lập đầu thế
kỷ XV và đối với nền khoa học quân sự của nước nhà.


6


Trong chỉ đạo chiến tranh, bộ tham mưu của nghĩa quân Lam Sơn đã
nghiên cứu lịch sử các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta thời
Lý, Trần, Hồ trước kia, biết động viên tinh thần yêu nước quật cường của
nhân dân ta thành sức mạnh to lớn chống quân xâm lược. Đặc biệt Lê Lợi và
Nguyễn Trãi đã rút ra những nguyên nhân thành công và thất bại của thời đại
trước, rút ra bài học kinh nghiệm chỉ đạo chiến tranh. Tuy vậy, nghệ thuật
quân sự của nghĩa quân Lam Sơn cũng có những bước phát triển và sáng tạo
khác với nghệ thuật quân sự thời Lý, Trần, Hồ.
Trong khi chỉ đạo cuộc chiến tranh, Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã từng
“nghiền kỹ những pho thao lược” và đã “ngẫm nay suy trước”, “xét cùng
mọi lẽ hưng vong”. Điều đó chứng tỏ rằng các nhà lãnh đạo của nghĩa quân
Lam Sơn đã từng dày công nghiên cứu binh pháp thời xưa, những cuộc chiến
tranh trước đây để rút ra những bài học kinh nghiệm, vận dụng vào công cuộc
bình Ngô.
Trong Quân trung từ mệnh tập, Nguyễn Trãi nhiều lần bàn đến việc
nắm thời thế: “Người dùng binh giỏi là ở chỗ hiểu biết thời thế mà thôi. Được
thời và có thế thì biến mất thành còn, hóa nhỏ thành lớn. Mất thời và không
thế thì trở mạnh làm nguy chỉ trong khoảng trở bàn tay mà thôi…”.
Vậy thế nào là hiểu thời thế và được thời thế? “Hiểu thời thế” là biết
phân tích tình hình một cách khách quan và nắm vững phương hướng phát
triển tất yếu và theo quy luật của sự vật. “Có thời thế” là đứng về phía đi lên
của sự vật và biết hành động tuân theo quy luật phát triển của chúng. Được
thời và có thế thì tất thắng. Nguyễn Trãi chính là con người biết nắm vững
thời thế.
Nguyễn Trãi coi nhân dân là người tạo nên lịch sử, tạo nên thời thế.
Cho nên muốn được thời thế, trước nhất phải đứng về phía nhân dân. Đứng về

phía nhân dân là đứng về phía đi lên của lịch sử và mặc dù trước mắt có khó

7


khăn đến mấy nhưng sớm muộn sẽ thắng lợi. Ngược lại, kẻ nào đem cường
bạo chống lại nhân dân, thì dù trước mắt có vẻ vững vàng đến mấy cũng là
bước vào con đường tự chuốc lấy bại vong. Nguyễn Trãi suốt đời mình đã
biết lấy tư tưởng nhân nghĩa để tranh thủ lòng dân, cho nên ông đã làm nên sự
nghiệp vĩ đại.
Mặt khác, muốn nắm vững thời thế còn phải biết ta, biết địch, biết phân
tích một cách tỉnh táo chiều hướng phát triển của tình hình từng lúc từng nơi
để xác định được phương châm hành động cho chính xác. Nguyễn Trãi đã
phân tích tương quan lực lượng một giữa nghĩa quân và quân Minh một cách
thực biện chứng.
Vì nắm chắc thời thế và khả năng phân tích tình hình một cách biện
chứng, nên Nguyễn Trãi hoàn toàn tiên liệu được kết quả tất thắng của cuộc
khởi nghĩa:
“Ức tích Lam Sơn ngoạn Vô kinh
Miếu toán tiên tri đại sự thành”.
(Nhớ khi xưa ở Lam Sơn xem sách Võ Kinh
Mưu kế của triểu đình đã biết trước việc lớn tất thành công).
Ông còn biết nhìn tình hình một cách tĩnh: “Bậc trí giả thường biết
trước từ khi sự việc chưa thành hình”. Khi ta còn yếu ông vẫn trông thấy con
đường “tự chuốc lấy bại vong” của địch và tiền đồ to lớn của nghĩa quân, khi
toàn thắng lại không say sưa mà vẫn nhớ đến cái thế lâu dài của nước ta bao
giờ cũng vẫn là một nước nhỏ, yếu tồn tại bên một nước lớn hùng mạnh nên
phải có một đối sách thích đáng.
Từ việc đánh giá tương quan lực lượng chung như vậy, cho đến việc
đối phó với những chuyển biến tình hình đột ngột từng thời kỳ, từng lúc, từ

việc vận dụng đường lối tiến hành chiến tranh giải phóng nói chung, đem tư
tưởng nhân nghĩa mà tranh thủ lòng người, cho đến việc chỉ đạo tác chiến cụ

8


thể… Nguyễn Trãi cùng với Bộ thống soái nghĩa quân đã tỏ ra là hiểu thời
thế, nắm vững và vận dụng được quy luật của chiến tranh giải phóng để đi
đến toàn thắng.
1.2. Cơ sở hình thành nghệ thuật tạo thời, lập thế trong khởi nghĩa
vàchiến tranh chống quân Minh xâm lƣợc do Lê Lợi và Nguyễn Trãi
lãnh đạo 1418 - 1427
1.2.1. Bối cảnh lị ch sử
Vào cuối thế kỉ XIV , triều đì nh nhà Trần ruỗng nát . Hồ Quý Ly , một
quý tộc có thanh thế đã phế truất vua Trần

lập ra vương triều mới : triều Hồ

(1400-1407).
Là một người táo bạo , Hồ Quý Ly đã thực hiện cải cách trên nhiều lĩ nh
vực, hy vọng cứu vãn nguy cơ sụp đổ của nhà nước phong kiến và củng cố
vương quyền của mì nh . Trên lĩ nh vực quân sự, ông cho xét đị nh lại binh chế ,
tăng cường quân số , cải tiến vũ khí trang bị, xây dựng các thành lũy để chống
thù trong giặc ngoài.
Bấy giờ , ở Trung Quốc là thời kỳ thống trị của nhà Minh (1368-1644).
Sang thế kỉ XV, dưới triều Minh Thanh Tổ (1402-1420) nhà Minh đạt đến
giai đoạn cường thị nh và trở thành một quốc gia phong kiến giàu mạnh trên
thế giới . Lợi dụng sự sụp đổ của nhà Trần , nhà Hồ mới lên chưa ổn định ,
Minh Thành Tổ thực hiện âm mưu xâm lược Đại Việt.
Nhà Hồ chống đỡ với quân xâm lược được nửa năm . Đất nước ta một

lần nữa bị phong kiến phương Bắc đô hộ.
Dưới sự đô hộ của nhà Minh, sự phát triển của xã hội ta đã bị ngăn
chặn bởi sự kìm hãm gay gắt của ách thống trị ngoại bang và sự bảo tồn của
những quan hệ lạc hậu trong nước. Với bản chất phản động của một chính
quyền đô hộ, những chính sách thống trị của nhà Minh đã gây ra nhiều hậu
quả tai hại đối với sự phát triển của xã hội.

9


Trong hai mươi năm đô hộ của nhà Minh, nền kinh tế nước ta bị đình
đốn và phá hoại nghiêm trọng.
Về nông nghiệp, chính sách cướp ruộng đất để lập đồn điền và cấp chức
điền cho bọn quan lại làm cho nhiều nơi nông dân bị mất ruộng đất và phá
sản. Những hành động cướp bóc, vơ vét của địch, nhất là việc cướp trâu bò,
đã gây ra rất nhiều khó khăn trong sản xuất, làm cho nền kinh tế nông nghiệp
có khi bị phá hoại. Những cuộc đàn áp khủng bố liên miên của địch còn làm
mùa màng bị tàn phá, đồng ruộng phải bỏ hoang. Trong lúc đó thì đê điều và
các công trình thủy lợi bỏ bê trễ nên thiên tai hoành hành dữ dội. Do đó, trong
thời thuộc Minh, những nạn lụt lội, đê vỡ và mất mùa đói kém, dịch tễ…xảy
ra liên tiếp. Năm 1407, do sự tàn phá của cuộc chiến tranh xâm lược của quân
Minh nên nạn đói và dịch xảy ra nghiêm trọng, “nhân dân không trồng trọt,
cầy cấy được, người chết đói rất nhiều”. Hai năm sau, 1408 và 1409 đều có
nạn đói, dịch và nạn đói, dịch năm 1409 lại lớn hơn năm trước. Năm 1411, lụt
lớn, đê sông đáy bị vỡ, nhà cửa của dân bị trôi dạt. Năm 1412, cả khu vực từ
Diễn Châu trở vào, đồng ruộng bỏ hoang, dân không cày cấy được.
Về công thương nghiệp, chính sách thuế khóa nặng nề cùng với những
thủ đoạn vơ vét tài nguyên, lùng bắt thợ thủ công, hạn chế sự đi lại buôn bán
và cấm chỉ về ngoại thương của giặc Minh là những trở lực nghiêm trọng. Do
những chính sách và thủ đoạn đó, nhiều nghề thủ công bị phá sản, việc buôn

bán trong nước và ngoài nước bị sa sút hẳn.
Đời sống của nhân dân lâm vào một tình trạng rất lầm than, cơ cực.
Ngoài thuế khóa, phú dịch, nhân dân còn phải chịu đựng biết bao nhiêu cảnh
chém giết, cướp bóc và tàn phá của quân địch. Trong Bình Ngô đại cáo,
Nguyễn Trãi đã từng kịch liệt tố cáo tội ác tày trời của quân Minh. Theo
Nguyễn Trãi, tội ác của quân địch đã chất cao như núi, mà dù:
Tát khô nước Đông Hải, khôn rửa sạch tanh hôi
Chẻ hết trúc Nam Sơn, khó ghi đầy tội ác.

10


Và do đó:
Thần dân đều căm giận,
Trời đất lẽ nào dung tha.
Với tất cả những hậu quả trên đây, cuộc xâm lược và ách đô hộ của nhà
Minh đã cản trở và kìm hãm gay gắt sự phát triển của xã hội ta, đe dọa
nghiêm trọng vận mạng của cả dân tộc và chà đạp lên cuộc sống cũng như
mọi phẩm giá của con người. Trong cảnh nước sôi lửa bỏng đó, một lịch sử
cấp thiết đang đề ra trước toàn dân là phải đấu tranh thủ tiêu nền thống trị của
nước ngoài, khôi phục nền độc lập của Tổ quốc.Nhân dân ta vào đầu thế kỉ
XV đã hoàn thành vẻ vang sứ mạng ấy, ghi vào lịch sử dân tộc những trang sử
vàng chói lọi.Hai mươi năm đô hộ của nhà Minh là hai mươi năm đấu tranh
ngoan cường và liên tục của nhân dân ta để hoàn thành thắng lợi sự nghiệp
giải phóng dân tộc.
Từ năm 1417, nhiều cuộc đấu tranh mới lại bắt đầu xuất hiện ở nhiều
nơi, báo hiệu trước một cao trào đấu tranh quyết liệt sắp bùng nổ. Cao trào đó
thực sự bắt đầu từ năm 1418 với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và lấy cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn làm trung tâm. Và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã gắn liền với
tên tuổi của Lê Lợi, Nguyễn Trãi và những người anh hùng đất Lam Sơn.

1.2.2. Những kinh nghiệm trong sử dụng nghệ thuật quân sự của
dân tộc ta trong lịch sử
Từ thực tiễn chống giặc ngoại xâm, dân tộc ta đã hình thành nghệ thuật
chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc, nghệ thuật lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít
địch nhiều, lấy chất lượng cao thắng số lượng đông. Trong quá trình đó, nghệ
thuật quân sự Việt Nam từng bước phát triển và được thể hiện rất sinh động
trong khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh giải phóng, trên các phương diện tư
tưởng chỉ đạo tác chiến, mưu kế đánh giặc.
Về tư tưởng chỉ đạo tác chiến: Giải phóng, bảo vệ đất nước là nhiệm vụ
quan trọng, là mục tiêu cao nhất của các triều đại phong kiến trong chiến

11


tranh giữ nước. Do đó, cha ông ta luôn nắm vững tư tưởng tiến công, coi đó
như một quy luật để giành thắng lợi trong suốt quá trình chiến tranh. Thực
hiện tiến công liên tục mọi lúc, mọi nơi, từ cục bộ đến toàn bộ, để quét sạch
quân thù ra khỏi bờ cõi. Tư tưởng tiến công được xem như sợi chỉ đỏ xuyên
suốt trong quá trình chuẩn bị và thực hành chiến tranh giữ nước. Tư tưởng đó
thể hiện rất rõ trong đánh giá đúng kẻ thù, chủ động để ra kế sách đánh,
phòng, khẩn trương chuẩn bị lực lượng kháng chiến, tìm mọi biện pháp làm
cho địch suy yếu, tạo ra thế và thời cơ để tiến hành phản công, tiến công.
Sử sách còn ghi lại, thời nhà Lý đã chủ động đánh bại kẻ thù ở phía
Nam (quân Chiêm Thành), phá tan âm mưu liên kết của nhà Tống với Chiêm
Thành. Trước nguy cơ xâm lược của nhà Tống, Lý Thường Kiệt đã sử dụng
biện pháp “tiên chế phát nhân” chủ động tiến công trước để xây dựng tuyến
phòng thủ sông Như Nguyệt, thực hiện trận quyết chiến chiến lược, chủ động
chặn và đánh địch từ xa để bảo vệ Thăng Long.
Vào thế kỷ XIII, các quốc gia châu Âu, châu Á đang run sợ trước vó
ngựa của giặc Nguyên Mông, thì cả ba lần tiến quân xâm lược Đại Việt vào

các năm 1258, 1285, 1288, giặc Nguyên Mông đều bị thất bại thảm hại, mặc
dù có số quân lớn hơn nhiều lần quân đội nhà Trần. Có được thắng lợi đó là
do ta đã thực hiện toàn dân đánh giặc, “cả nước chung sức, trăm họ là binh”,
trong đó, tích cực chủ động tiến công giặc là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt
trong các cuộc chiến tranh.
Trước đối tượng tác chiến là giặc Nguyên Mông có sức mạnh lớn hơn,
ông cha ta đã kịp thời thay đổi phương thức tác chiến, tránh quyết chiến với
địch khi chúng còn rất mạnh, chủ động rút lui chiến lược, tạm nhường Thăng
Long cho giặc trong một thời gian nhất định, là để bảo toàn lực lượng và đó là
một nét độc đáo trong nghệ thuật tác chiến, chứ không phải là tư tưởng rút lui.
Quân địch tạm chiến được Thăng Long mà không chiếm được “Thủ đô” của
kháng chiến, bởi vì chỉ chiếm được “thành không, nhà trống”. Trong khoảng
12


thời gian đó, quân đội nhà Trần và nhân dân cả nước đã tích cực tác chiến nhỏ
lẻ, tiêu hao nhiều lực lượng địch, làm cho chúng rơi vào trạng thái “tiến thoái
lưỡng nan”, tạo thời cơ tốt nhất để phản công chiến lược, quét sạch quân thù
ra khỏi đất nước (lần thứ nhất sau 9 ngày tính từ khi giặc Nguyên vào Thăng
Long, lần thứ hai sau 5 tháng, lần thứ ba sau 3 tháng).
Về mưu kế đánh giặc: Mưu là để lừa địch, đánh vào chỗ yếu, chỗ sơ hở,
chỗ ít phòng bị, làm cho chúng bị động, lung túng đối phó. Kế là để điều địch
theo ý định của ta, giành quyền chủ động, buộc chúng phải đánh theo cách
đánh của ta. Trong các cuộc chiến tranh giải phóng, với ý chí kiên cường của
dân tộc, triều đại nhà Lý, Trần…đã tạo được thế trận chiến tranh nhân dân,
thực hiện toàn dân đánh giặc, kết hợp các cách đánh, các lực lượng cùng
đánh. Trong chống giặc ngoại xâm để bảo vệ đất nước, của ông cha ta đã kết
hợp chặt chẽ giữa quân triều đình, quân địa phương và dân binh, thổ binh các
làng xã cùng đánh địch, làm cho lực lượng địch luôn bị phân tán, không thực
hiện được hợp quân tại Thăng Long. Để bảo vệ Thăng Long, Lý Thường Kiệt

đã xây dựng tuyến phòng ngự sông Cầu để chặn giặc, khi quân nhà Tống tiến
công vượt sông không thành công phải chuyển vào phòng ngự. Ông đã dùng
quân địa phương và dân binh liên tục quấy rối, làm cho địch mệt mỏi, căng
thẳng, tạo thời cơ cho quân đội nhà Lý chuyển sang phản công giành thắng lợi
hoàn toàn.
Kế sách đánh giặc của ông cha ta không những sáng tạo, mà còn hết
sức mềm dẻo, khôn khéo đó là “biết tiến, biết thoái, biết công, biết thủ”. Biết
kết hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự với binh vận, ngoại giao, tạo thế
mạnh cho ta, biết phá thế mạnh của giặc, trong đó tiến công quân sự luôn giữ
vai trò quyết định.
Ông cha ta đã phát triển mưu, kế đánh giặc, biến cả nước thành một
chiến trường, tạo ra một “thiên la, địa võng” để diệt địch. Làm cho “địch
đông mà hóa ít, địch mạnh mà hóa yếu”, đi đến đâu cũng bị đánh, luôn bị tập

13


kích, phục kích lực lượng bị tiêu hao, tiêu diệt, rơi vào trạng thái “tiến thoái
lưỡng nan”. Trong tác chiến, ông cha ta đã triệt để khoét sâu điểm yếu của
địch là tác chiến ở chiến trường xa, tiếp tế khó khăn, nên đã tập trung triệt phá
lương thảo, hậu cần của địch. Ngoài thực hiện kế “thanh dã”, làm cho kẻ thù
rơi vào trạng thái “người không có lương ăn, ngựa không có nước uống”,
quân đội nhà Trần tổ chức lực lượng đón đánh các lực lượng vận chuyển
lương thực, hậu cần và đánh phá kho tàng của địch. Điển hình như đội quân
của Trần Khánh Dư đã tiêu diệt toàn bộ đoàn thuyền lương của giặc do
Trương Văn Hồ chỉ huy ở bến Vân Đồn, làm cho giặc Nguyên ở Thăng Long
vô cùng hoảng loạn.
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân, thực hiện toàn dân đánh giặc: Thực
hiện toàn dân đánh giặc là một trong những nét độc đáo trong nghệ thuật quân
sự của tổ tiên ta, được thể hiện cả trong khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng.

Nét độc đáo đó xuất phát từ lòng yêu nước thương nòi của nhân dân ra, từ tính
chất tự vệ, chính nghĩa của các cuộc kháng chiến. Hễ kẻ thù đụng đến nước
ta, thì “Vua tôi đồng lòng, anhem hòa mục, cả nước chung sức, trăm họ là
binh”, giữ vững quê hương, bảo vệ xã tắc.
Từ lời thề của Hai Bà Trưng và nghĩa quân: “Một xin rửa sạch nước
thù; Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng, Ba kéo oan ức lòng chồng; Bốn xin
vẻn vẹn sở công lệnh này”, đến Hịch tướng sĩ, nghệ thuật “lấy đại nghĩa
thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”, nghệ thuật quân sự Việt Nam
đã liên tục phát triển dựa trên nền tảng của chiến tranh nhân dân, thực hiện tốt
đổi yếu thành mạnh, kết hợp lực, thế, thời, mưu, để đạt mục đích là cùng
giành lại và giữ vững chủ quyền đất nước với tư tưởng “dập tắt muôn đời
chiến tranh”, “đem lại thái bình muôn đời”. Nội dung cơ bản của thực hiện
toàn dân đánh giặc là: “Mỗi người dân là một người lính, đánh giặc theo
cương vị, chức trách của mình. Mỗi thôn, xóm, bản, làng là một pháo đài diệt

14


giặc. Cả nước là một chiến trường, tạo ra thế trận chiến tranh nhân dân liên
hoàn, vững chắc làm cho địch đông mà hóa ít, mạnh mà hóa yếu, rơi vào
trạng thái bị động, lung túng và bị sa lầy”. Trong đánh giặc, ông cha ta đã tận
dụng địa hình, xây dựng thế trận làng, nước vững chắc, vận dụng sáng tạo
cách đánh của nhiều lực lượng, nhiều thứ quân. Vận dụng rộng rãi, sáng tạo
nhiều hình thức đánh giặc để đạt hiệu quả cao như: phòng ngự ở sông Cầu,
phản công ở Chương Dương, Hàm Tử,…
Nghệ thuật lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh:
Đây là nét đặc sắc và tất yếu trong nghệ thuật quân sự của ông cha ta, khi dân
tộc ta luôn phải chống lại các đội quân xâm lược có quân số, vũ khí, trang bị
lớn hơn nhiều lần. Nghệ thuật lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu
chống mạnh chính là sản phẩm của lấy “thế” thắng “lực”. Quy luật của chiến

tranh là mạnh được, yếu thua, nhưng từ trong thực tiễn chống giặc ngoại xâm,
cha ông ta đã sớm xác định đúng về sức mạnh trong chiến tranh, đó là: sức
mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố, chứ không thuần túy là sự so sánh, hơn kém
về quân số, vũ khí của mỗi bên tham chiến.
Để chống lại 30 vạn quân xâm lược Tống (1077), nhà Lý trong khi chỉ
có khoảng 10 vạn quân, Lý Thường Kiệt đã tận dụng được ưu thế địa hình và
các yếu tố khác để tạo ra sức mạnh hơn địch và đánh thắng địch.
Thời nhà Trần có khoảng 15 vạn quân, chống lại giặc Nguyên - Mông,
lần thứ 2 là có 60 vạn, lần 3 là khoảng 50 vạn. Nhà Trần đã “lấy đoản binh để
chế trường trận”, hạn chế sức mạnh của giặc, để đánh thắng giặc.
Nghệ thuật kết hợp đấu tranh giữa các mặt trận quân sự, chính trị,
ngoại giao và binh vận: Chiến tranh là sự thử thách toàn diện đối với mỗi
quốc gia trong tham chiến. Trong chống giặc ngoại xâm, ông cha ta đã biết
kết hợp chặt chẽ các mặt trận nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để đánh thắng

15


kẻ thù. Mỗi mặt trận có vị trí, tác dụng khác nhau nhưng cùng thống nhất ở
mục đích tạo ra sức mạnh để giành thắng lợi trong chiến tranh.
Mặt trận chính trị nhằm cổ vũ tinh thần yêu nước của nhân dân, quy tụ
sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, là cơ sở để tạo ra sức mạnh quân sự.
Mặt trận quân sự là mặt trận quyết liệt nhất, thực hiện tiêu diệt sinh lực,
phá hủy phương tiện chiến tranh của địch, quyết định thắng lợi trực tiếp của
chiến tranh, tạo đà, tạo thế cho các mặt trận khác phát triển.
Mặt trận ngoại giao có vị trí rất quan trọng, đề cao tính chính nghĩa của
nhân dân ta, phân hóa, cô lập kẻ thù, tạo thế có lợi cho cuộc chiến. Mặt khác,
mặt trận ngoại giao kết hợp với mặt trận quân sự, chính trị tạo ra thế có lợi để
kết thúc chiến tranh càng sớm càng tốt.
Mặt trận binh vận để vận động làm tan rã hàng ngũ của giặc, góp phần

quan trọng để hạn chế thấp nhất tổn thất của nhân dân ta trong chiến tranh.
Về nghệ thuật tổ chức và thực hành các trận đánh lớn: Trong các triều
đại phong kiến, ông cha ta đã tổ chức và thực hành các trận đánh lớn để giải
phóng đất nước, kết thúc chiến tranh. Thời nhà Lý có phòng ngự đánh lớn để
giải phóng đất nước, kết thúc chiến tranh. Thời nhà Lý có phòng ngự sông
Cầu (Như Nguyệt), đây là một điển hình về kết hợp chặt chẽ hai hình thức tác
chiến phòng ngự và phản công trên cả quy mô chiến lược, chiến thuật. Tác
chiến phòng ngự ở Như Nguyệt không chỉ chặn đứng 30 vạn quân Tống mà
còn làm thất bại ý đồ đánh nhanh, thắng nhanh để chiếm Thăng Long của
chúng, khiến quân địch phải chuyển từ chủ động tiến công sang bị động
phòng ngự.
Thời nhà Trần, lần chống giặc Nguyên thứ 2, Trần Quốc Tuấn đã tổ
chức một cuộc rút lui chiến lược, làm thất bại kế hoạch hợp vây của địch.
Trong cuộc truy đuổi, giặc Nguyên không thực hiện được những đòn quyết
định với chủ lực ta, trái lại, chúng vấp phải một cuộc chiến tranh của toàn dân

16


Đại Việt. Do vậy, quân Nguyên đã sa vào tình trạng muốn đánh mà không
đánh được, “lực càng yếu, thế càng suy”, điều đó đã tạo ra thời cơ phản công
cho quân ta.
1.2.3. Tài năng của Lê Lợi và Nguyễn Trãi
Trong tất cả những cuộc chiến đấu ở thời xưa, tổ tiên chúng ta đều đã
chiến thắng và trải qua mấy nghìn năm đấu tranh liên tục chống thù trong giặc
ngoài, nhân dân Việt Nam đã có một truyền thống quân sự rất vẻ vang.
Truyền thống đánh thắng mọi kẻ thù ở mọi thời đại. Cũng từ muôn vàn cuộc
đấu tranh thắng lợi vẻ vang ấy, đã lần lượt xuất hiện trong lịch sử nhiều bậc
tướng lĩnh kiệt xuất, nhiều nhà quân sự lỗi lạc, đứng ngang hàng với những
tướng lĩnh và những nhà quân sự danh tiếng trên thế giới. Những chiến công

oanh liệt của các bậc anh hùng như Ngô Quyền, Lê Hoàn, Nguyễn Trãi, Lê
Lợi,…còn mãi ghi sâu trong tâm trí người dân Việt Nam.
Trước cuộc khởi nghĩa Lam Sơn,một trong những nguyên nhân thất bại
chủ yếu của phong trào kháng Minh là sự bất lực và sai lầm của những người
lãnh đạo. Hoặc do năng lực chủ quan, hoặc do hạn chế của điều kiện giai cấp,
những người lãnh đạo lúc đó đã không phát huy được đầy đủ sự nỗ lực chủ quan,
tính năng động tự giác trong chiến tranh để đưa cuộc chiến tranh giải phóng có
tính chất yêu nước, chính nghĩa do họ lãnh đạo đến thắng lợi.
Một trong những đặc điểm nổi bật và cũng là một trong những nguyên
nhân thắng lợi chủ yếu của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là cuộc khởi nghĩa này
có một bộ tham mưu sáng suốt tiêu biểu cho lực lượng tiến bộ trong xã hội, có
uy tín rộng rãi trong nhân dân. Bộ tham mưu đó đã phát huy được sự nỗ lực
chủ quan trong việc chỉ đạo và thực hành chiến tranh với những đường lối
lãnh đạo đúng đắn.
Chỉ với vài nghìn nghĩa quân lúc ban đầu, Lê Lợi đã tiến tới đánh thắng
hàng mấy chục vạn quân Minh giành lại độc lập cho Tổ quốc.

17


Suốt gần mười năm kháng chiến chống quân Minh (1418 - 1427) hai
tên tuổi Nguyễn Trãi và Lê Lợi đã gắn bó mật thiết với nhau như hình và
bóng. Hai nhân vật lịch sử đã làm nên đại sự cho Đất nước Đại Việt thời ấy,
xua đuổi quân Minh lui về đất nước của mình, đem lại hòa bình và chủ quyền
cho quê hương, sau hai mươi năm bị chiếm đóng và đô hộ.
Về phương diện cá nhân, Lê Lợi một người yêu nước có đủ đức đủ tài,
có uy tín rộng rãi trong nhân dân. Không can tâm sống trong cảnh nước mất,
nhân dân lầm than, từ lâu Lê Lợi đã nuôi chí diệt thù để “cứu nạn lớn, lập
công to để tiếng thơm muôn đời”. Trong những ngày chuẩn bị khởi nghĩa, Lê
Lợi đã “dốc hết của nhà” để “hậu đãi tân khách” và “chuyên tâm về sách

thao lược”. Tiền tài, chức tước và uy thế của quân địch không làm sao lay
chuyển nổi con người có tấm lòng yêu nước nồng nàn và ý chí kiên cường đó.
Chính lòng yêu nước, đạo đức cao quý, tài năng lỗi lạc cùng với thành
phần xuất thân thuộc tầng lớp tiến bộ trong xã hội đã làm cho Lê Lợi trở thành
lãnh tụ tối cao của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, trở thành con người có khả năng
đoàn kết và tập hợp rộng rãi tất cả các lực lượng yêu nước trong nhân dân. Các
giai cấp và tầng lớp khác nhau trong xã hội tuy có một mâu thuẫn và đối lập về
quyền lợi, nhưng đều nhất trí trong một nhiệm vụ chung là đuổi giặc, cứu nước
và đều tìm thấy ở Lê Lợi, người lãnh tụ xứng đáng của dân tộc có khả năng đưa
cuộc đấu tranh đuổi giặc, cứu nước đến thắng lợi. Vì vậy, Lê Lợi đã sớm tập
hợp được trong bộ tham mưu cuộc khởi nghĩa những người đại biểu ưu tú của
các giai cấp và tầng lớp khác nhau từ địa chủ, quý tộc yêu nước, sĩ phu, tù
trưởng thiểu số cho đến thương nhân, nông dân, nô tỳ,…
Lê Lợi từ đời ông cha, chỉ là một hào trưởng ở vùng Lam Sơn, chưa hề
có người đỗ đạt hay giữ chức tước gì trong chính quyền. Uy tín và ảnh hưởng
của Lê Lợi không phải tạo nên bởi danh nghĩa, mà bởi tài đức và sự nghiệp
anh hùng của chính bản thân.

18


Phong trào đấu tranh đầu thế kỉ XV không thiếu những người anh hùng
đứng ra gánh vác việc nước, nhưng người có khả năng tập hợp hào kiệt bốn
phương, thống nhất phong trào hơn cả chính là Lê Lợi. Bằng tài năng và việc
làm của mình, bằng ý chí và đạo đức của mình, Lê Lợi đã thu được tín nhiệm
của nhân dân.
Bên cạnh Lê Lợi và cùng với Lê Lợi, Nguyễn Trãi cũng là một lãnh tụ
xuất sắc của nghĩa quân Lam Sơn và một anh hùng vẻ vang của dân tộc.
Trong bộ tham mưu nghĩa quân, Nguyễn Trãi giữ cương vị quan trọng
thứ hai sau Lê Lợi. Điều đó được thể hiện rõ trong câu “Lê Lợi vi quân,

Nguyễn Trãi vi thần” được lưu truyền phổ biến trong dân gian, được viết vào
cả lá cây của rừng núi Lam Sơn lúc bấy giờ.
Nguyễn Trãi có mặt ở Lam Sơn từ những ngày chuẩn bị khởi nghĩa và
trong suốt cuộc chiến tranh cứu nước luôn luôn ở bên cạnh Lê Lợi để cùng
bàn mưu tính kế, lãnh đạo cuộc chiến tranh đến thắng lợi.
Lê Thánh Tông ca ngợi Nguyễn Trãi có “tấm lòng sáng như sao Khuê”
và xác nhận rằng:“Lúc Thái Tổ mới dựng nghiệp, về phò tá ở Lỗi Giang, trong
thì giúp mưu lược ở chốn màn quân, ngoài thì thảo văn từ chiêu dụ các thành”.
Lê Quý Đôn cũng nói rằng: Nguyễn Trãi là “người có công lao đứng
đầu về việc giúp rập vua, ngàn năm không thể mai một được”.
Nguyễn Trãi lúc đầu giữ chức tuyên phụng đại phu bàn lâm thừa chỉ,
sau (năm 1427) phong làm nhập nội hành khiển, giữ chức thượng thư bộ lại
kiêm công việc ở viện Xu mật. Nguyễn Trãi “tham dự bàn mưu ở nơi màn
quân, phàm những lời Trãi bàn đều được Vương (tức Lê Lợi) nghe theo”.
Những gì ở trên đã cho thấy cương vị quan trọng và cống hiến to lớn
của Nguyễn Trãi trong bộ tham mưu nghĩa quân. Có thể nói rằng Lê Lợi và
Nguyễn Trãi là linh hồn và đầu não của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

19


×