Tải bản đầy đủ (.docx) (77 trang)

Đánh giá nhận thức và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu của người dân trong sản xuất nông nghiệp tại xã Quảng Tân, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (749.22 KB, 77 trang )

PHẦN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1.

Tính cấp thiết của đề tài

Bước vào thế kỷ XXI, cùng với tốc độ phát triển kinh tế mạnh mẽ, con người
đang phải đứng trước những thách thức lớn về các vấn đề môi trường, đặc biệt là
vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH). Đây là một trong những vấn đề nóng bỏng nhất
trên phạm vi toàn cầu trong giai đoạn hiện nay, được các quốc gia và vùng lãnh thổ
vô cùng quan tâm.
Trong báo cáo đánh giá lần thứ tư của Ủy ban liên Chính phủ về BĐKH (IPCC)
được công bố tháng 2 năm 2007, nhiệt độ trung bình toàn cầu trong giai đoạn từ
1906 - 2005 đã tăng khoảng 0,74°C và xu thế tăng nhiệt độ trong 50 năm gần đây
là 0,13°C, gấp hai lần so với xu thế tăng của 100 năm qua. Mực nước biển trung
bình toàn cầu đã tăng lên 0,31m trong 100 năm gần đây. Trong những năm qua,
nhiều nơi trên thế giới đã phải chịu nhiều thiên tai nguy hiểm như bão lớn, nắng
nóng dữ dội, lũ lụt, hạn hán và khí hậu khắc nghiệt gây thiệt hại lớn về tính mạng
con người và vật chất. Điều này cho thấy biến đổi khí hậu đã và đang tác động trực
tiếp đến đời sống kinh tế - xã hội và môi trường toàn cầu.
Việt Nam là một trong 5 quốc gia dễ bị tổn thương nhất trên thế giới do sự
biến đổi của khí hậu (Dasgupta và cộng sự, 2007). Theo nghiên cứu của ngân hàng
thế giới (WB, 2009), dự báo đến năm 2100, nhiệt độ trung bình ở Việt Nam có thể
tăng thêm 3ºC, mực nước biển dâng cao từ 0,2 - 0,6m, theo đó sẽ có từ 100.000
đến 200.000 ha đất bị ngập và làm thu hẹp diện tích đất sản xuất nông nghiệp.
Những đợt hạn hán, nắng nóng kéo dài, những đợt rét lịch sử, mực nước biển dâng
là những hậu quả của BĐKH, chúng gây ra nhiều hệ lụy đáng kể đối với phát triển
bền vững ở Việt Nam. Theo những ước tính gần đây, tổng thiệt hại do thiên tai, đặc
biệt là bão, lụt và lở đất chiếm gần 1% GDP của cả nước (MONRE, DFID và
UNDP, 2010). Khác với các ngành khác, ngành nông nghiệp Việt Nam phải chịu
ảnh hưởng lớn từ BĐKH nhưng lại có thể khắc phục những hậu quả không đáng có



nhờ lựa chọn thích ứng của nông dân bởi họ là những người trực tiếp gieo trồng và
chăm sóc trên đồng ruộng. Vì vậy có thể nói nhận thức của họ về BĐKH là vô
cùng quan trọng.
Thanh Hóa là tỉnh nằm trong vùng thiên tai khốc liệt nên rất dễ bị tổn
thương đối với BĐKH. Quảng Tân là một xã vùng đồng bằng của huyện Quảng
Xương - Thanh Hóa, có diện tích tự nhiên là 591,25 ha. Điều đáng nói ở đây là có
384,86 ha đất nông nghiệp, chiếm 65,09% tổng diện tích tự nhiên. Quảng Tân là
một xã xuất phát kinh tế thuần nông với hình thức sản xuất chủ yếu là các hộ nhỏ
lẻ với kiến thức còn hạn chế. Trong những năm gần đây, khí hậu thay đổi liên tục
ảnh hưởng bất lợi đến cây trồng và năng suất, chất lượng sản xuất nông nghiệp tại
địa phương, đặc biệt là các tình trạng: nhiệt độ cực đoan, hạn hán, bão lũ, nước
biển xâm thực v.v... Vì thế việc nâng cao khả năng thích ứng của người dân lại
càng thực sự cần thiết.
Maddison (2006) cũng lập luận rằng thích ứng với biến đổi khí hậu là một
quá trình gồm hai bước có liên quan đến nhận thức rằng khí hậu đang thay đổi và
sau đó đáp ứng những thay đổi thông qua sự thích nghi, hay nói ngắn gọn thì thích
ứng với BĐKH đòi hỏi người nông dân đầu tiên phải nhận thấy rằng khí hậu đang
thay đổi, sau đó xác định sự thích nghi hữu ích và thực hiện. Nhận thức và sự thích
ứng là hai yếu tố luôn gắn kết với nhau bởi mối quan hệ nhân quả. Người dân có
nhận thức được sự BĐKH thì mới có được những biện pháp thích ứng phù hợp và
sự thích ứng cũng thể hiện kết quả nhận thức của người dân là đúng hay sai. Vì thế,
nhận thức của người dân là một vấn đề đáng được quan tâm của các cấp chính
quyền địa phương, nâng cao nhận thức thì khả năng thích ứng với BĐKH cũng sẽ
được cải thiện và ngày càng hiệu quả hơn.
Xuất phát từ thực tiễn cần thiết phải nâng cao nhận thức và khả năng thích
ứng của người dân với BĐKH trong sản xuất nông nghiệp của địa phương, tôi tiến


hành nghiên cứu đề tài: “ Đánh giá nhận thức và khả năng thích ứng với biến

đổi khí hậu của người dân trong sản xuất nông nghiệp tại xã Quảng Tân, huyện
Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa”.
1.2.

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

- Đánh giá nhận thức về BĐKH trong sản xuất nông nghiệp của người dân xã
Quảng Tân.
- Đánh giá khả năng thích ứng với BĐKH trong sản xuất nông nghiệp của người
dân xã Quảng Tân.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao nhận thức và khả năng thích ứng với BĐKH của
người dân xã Quảng Tân trong sản xuất nông nghiệp.
1.3. Yêu cầu nghiên cứu
- Số liệu trung thực, khách quan để đánh giá nhận thức, khả năng thích ứng của
người dân trong sản xuất nông nghiệp xã Quảng Tân.
- Các giải pháp đề xuất phù hợp với điều kiện của địa phương, có tính thực tiễn và
khả năng áp dụng thực tế.

PHẦN 2. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Khái quát chung về biến đổi khí hậu
2.1.1. Một số khái niệm liên quan đến biến đổi khí hậu
 Thời tiết và khí hậu


Thời tiết là tập hợp các trạng thái của các yếu tố khí tượng xảy ra trong khí
quyển ở một thời điểm, được xác định bằng tổ hợp các yếu tố: nhiệt độ, áp suất, độ
ẩm, tốc độ gió, lượng mưa v.v...
Khí hậu là trạng thái vật lý của khí quyển xảy ra ở một vùng địa lý nào đó,
được đặc trưng bởi các trị số thống kê các yếu tố khí tượng nhiều năm về bức xạ,
nắng, nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa, lượng bốc thoát hơi nước, mây, tốc độ và hướng

gió v.v... Các giá trị số thống kê thông dụng là số trung bình, số min, số max, tần
số, tần suất và độ biến động,...
Như vậy, khí hậu phản ánh giá trị trung bình nhiều năm của thời tiết và nó
thường có tính chất ổn định theo những chu kỳ tự nhiên, ít thay đổi. Trên trái đất,
chu kỳ khí hậu tự nhiên là biến đổi mùa, khí hậu mỗi vùng ngoài những đặc điểm
chung theo từng đới thì chúng còn chịu sự chi phối riêng của gió mùa khu vực. Tuy
nhiên, tất cả những đặc điểm chung và riêng đều duy trì tính ổn định thời gian.
Hàng năm, thời tiết thường biến động xung quanh giá trị trung bình đặc trưng của
vùng khí hậu đó (Đoàn Văn Điếm và cộng sự, 2012).
 Thời tiết cực đoan, khí hậu cực đoan

Theo báo cáo đánh giá lần thứ tư của Ủy ban liên Chính phủ về biến đổi khí
hậu của IPCC (2007) định nghĩa “hiện tượng thời tiết cực đoan” và “hiện tượng khí
hậu cực đoan” như sau:
- Hiện tượng thời tiết cực đoan: là hiện tượng hiếm ở một nơi cụ thể khi
xem xét phân bố thống kê của nó. Định nghĩa “hiếm” ở đây có thể hiểu theo nhiều
cách khác nhau nhưng hiện tượng thời tiết cực đoan thông thường được hiểu là tần
suất xuất hiện của nó nhỏ hơn 10%. Theo định nghĩa này, những đặc trưng của thời


tiết cực đoan có thể thay đổi tùy từng khu vực mà đặc trưng cho khu vực đó, nó
phụ thuộc vào các yếu tố địa lý tự nhiên, bức xạ, địa hình v.v…
- Hiện tượng khí hậu cực đoan: là trung bình của số các hiện tượng thời tiết
cực đoan trên một khoảng thời gian nhất định, trung bình tự nó đã là cực đoan.
Hiện tượng khí hậu cực đoan có thể xác định từ các yếu tố khí hậu. Nói cách khác,
hiện tượng khí hậu cực đoan phần lớn không được quan trắc trực tiếp mà người ta
căn cứ vào số liệu quan trắc các yếu tố khí hậu để xác định hoặc quy định một hiện
tượng nào đó có xuất hiện hay không.
 Biến đổi khí hậu (BĐKH)


Hiện nay có rất nhiều khía niệm, định nghĩa về Biến đổi khí hậu đang được
thế giới và Việt Nam sử dụng, ví dụ như:
- Công ước Khung của Liên Hiệp Quốc về BĐKH (2007) định nghĩa: “Biến đổi khí
hậu là sự biến đổi của trạng thái khí hậu do các hoạt động trực tiếp hay gián tiếp
của con người gây ra sự thay đổi thành phần của khối khí quyển toàn cầu và nó có
thể so sánh được”.
- Theo IPCC (2007), “Biến đổi khí hậu là sự biến đổi trạng thái của hệ thống khí
hậu, có thể được nhận biết qua sự biến đổi về trung bình và sự biến động của các
thuộc tính của nó, được duy trì trong một thời gian đủ dài, điển hình là hàng thập
kỷ hoặc dài hơn”.
- Bộ NN&PTNN(2008) nêu ra: “Biến đổi khí hậu đề cập đến sự thay đổi về trạng
thái của khí hậu mà có thể xác định được (ví dụ sử dụng các phương pháp thống
kê) diễn ra trong một thời kỳ dài thường là một thập kỷ hoặc lâu hơn. BĐKH đề
cập đến bất cứ biến đổi theo thời gian, có hay không theo sự biến đổi của tự nhiên
do hệ quả các hoạt động của con người”.


Nhìn chung, các định nghĩa, khái niệm có đôi chút khác nhau song nội dung
chính vẫn đồng quan điểm với nhau, đó là sự thay đổi của trạng thái khí hậu trong
khoảng thời gian dài, có liên quan đến con người. Như vậy, ta có thể hiểu một cách
đơn giản: “BĐKH là sự biến đổi theo một xu thế nào đó dẫn tới các đặc trưng thời
tiết dần dần trở nên khặc nhiệt hơn hoặc ôn hòa hơn, theo thời gian nó không trở
lại xung quanh trị số khí hậu trung bình nữa”.
2.1.2. Biểu hiện của biến đổi khí hậu
Theo nghiên cứu của Uỷ ban liên Chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) năm 2007,
BĐKH thường có một số biểu hiện sau đây:
-

Sự nóng lên của khí quyển và trái đất nói chung.


-

Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường sống
của con người và các sinh vật trên trái đất.

-

Sự dâng cao mực nước biển do băng tan dẫn tới sự ngập úng của các vùng
đất thấp, các đảo nhỏ trên biển.

-

Sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các vùng khác
của Trái đất dẫn tới nguy cơ đe dọa sự sống của các loài sinh vật, các hệ sinh
thái và hoạt động của con người.

-

Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình
tuần hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hóa khác.

-

Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và các thành
phần của thủy quyển, sinh quyển và các địa quyển khác.

Tuy nhiên, sự gia tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu và mực nước biển dâng
thường được coi là hai biểu hiện chính của biến đổi khí hậu.
2.1.3. Nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu
Theo các nghiên cứu khoa học, nhìn chung có 2 nguyên nhân chính gây ra

BĐKH đó là do tự nhiên và do con người.


2.1.3.1. Nguyên nhân do tự nhiên
Nguyên nhân gây ra BĐKH do tự nhiên bao gồm: thay đổi cường độ sáng
của mặt trời, xuất hiện các điểm đen mặt trời (Sunspots), các hoạt động núi lửa,
thay đổi đại dương và thay đổi quỹ đạo quay của trái đất.
(1) Sự thay đổi cường độ sáng của Mặt trời gây ra sự thay đổi năng lượng
chiếu xuống mặt đất thay đổi làm thay đổi nhiệt độ bề mặt trái đất. Cụ thể là từ khi
tạo thành mặt trời đến nay gần 4,5 tỷ năm, cường độ ánh sáng mặt trời đã tăng lên
hơn 30%. Như vậy có thể thấy với khoảng thời gian khá dài như vậy thì sự thay đổi
cường độ ánh sáng mặt trời là không ảnh hưởng đáng kể đến BĐKH.
(2) Sự xuất hiện các Sunspots làm cho cường độ tia bức xạ mặt trời chiếu
xuống trái đất thay đổi, nghĩa là năng lượng chiếu xuống mặt đất thay đổi làm thay
đổi nhiệt độ bề mặt trái đất.
(3) Núi lửa phun trào: Khi một ngọn núi lửa phun trào sẽ phát thải vào khí
quyển một lượng cực kỳ lớn khối lượng sulfur dioxide (SO 2), hơi nước, bụi và tro
vào bầu khí quyển. Khối lượng lớn khí và tro có thể ảnh hưởng đến khí hậu trong
nhiều năm. Các hạt nhỏ được gọi là các sol khí phản chiếu lại bức xạ mặt trời trở
lại không gian, vì vậy chúng có tác dụng làm giảm nhiệt độ lớp bề mặt trái đất.
(4) Đại dương: Các đại dương là một thành phần chính của hệ thống khí
hậu. Dòng hải lưu di chuyển một lượng lớn nhiệt trên khắp hành tinh. Thay đổi
trong lưu thông đại dương có thể ảnh hưởng đến khí hậu thông qua sự chuyển động
của CO2 vào trong khí quyển.
(5) Thay đổi quỹ đạo quay của Trái Đất: Trái đất quay quanh Mặt trời với
một quỹ đạo. Trục quay có góc nghiêng 23,5°. Thay đổi độ nghiêng của quỹ đạo
quay trái đất có thể dẫn đến những thay đổi nhỏ. Tốc độ thay đổi cực kỳ nhỏ có thể
tính đến thời gian hàng tỷ năm, vì vậy có thể nói không ảnh hưởng lớn đến BĐKH.



Có thể thấy rằng các nguyên nhân gây ra BĐKH do các yếu tố tự nhiên đóng
góp một phần rất nhỏ vào sự BĐKH và có tính chu kỳ kể từ quá khứ đến hiện tại.
Tuy nhiên, theo các kết quả nghiên cứu và công bố từ IPCC thì nguyên nhân gây ra
BĐKH chủ yếu là do các hoạt động của con người.
2.1.3.2. Nguyên nhân do con người
Ủy ban liên Chính phủ về BĐKH (IPCC) đã nghiên cứu về nguyên nhân của
BĐKH và được công bố thông qua các báo cáo như sau:
-

Báo cáo đánh giá lần 2 của IPCC (1995) cho rằng hoạt động con người chỉ
đóng góp vào 50% nguyên nhân gây ra BĐKH.

-

Theo báo cáo đánh giá lần 3 của IPCC (2001), sau khi các nhà nghiên cứu
thực hiện các nghiên cứu khoa học thì kết quả chỉ ra rằng hoạt động con
người đóng góp vào 67% nguyên nhân gây ra BĐKH.

-

Theo báo cáo đánh giá lần 4 của IPCC (2007), sau một loạt các nghiên cứu
được thực hiện, kết quả chỉ ra rằng hoạt động con người đóng góp vào 90%
nguyên nhân gây ra BĐKH.

-

Và trong báo cáo đánh giá lần thứ 5, phần 1 của IPCC (2013) kết luận rằng
hoạt động con người đóng góp vào 95% nguyên nhân gây ra BĐKH.
Có rất nhiều bằng chứng khoa học cho thấy tồn tại mối quan hệ giữa quá


trình tăng nhiệt độ trái đất với quá trình tăng nồng độ khí CO 2 và các khí nhà kính
khác trong khí quyển, đặc biệt trong kỷ nguyên công nghiệp (UNDP, 2008). Trong
suốt gần 1 triệu năm trước cách mạng công nghiệp, hàm lượng khí CO 2 trong khí
quyển nằm trong khoảng từ 170 - 280ppm. Hiện tại, con số này đã tăng cao hơn
nhiều và ở mức 387ppm và sẽ còn tiếp tục tăng với tốc độ nhanh hơn nữa (Ngân
hàng Thế giới, 2010). Chính vì vậy, sự gia tăng nồng độ khí CO2 trong khí quyển
sẽ làm cho nhiệt độ trái đất tăng và nguyên nhân của vấn đề biến đổi khí hậu là do


trái đất không thể hấp thụ được hết lượng khí CO2 và các khí gây hiệu ứng nhà
kính khác đang dư thừa trong bầu khí quyển (UNDP, 2008).
Đánh giá khoa học của IPCC cho thấy, việc tiêu thụ năng lượng do đốt nhiên
liệu hóa thạch trong các ngành sản xuất năng lượng, công nghiệp, giao thông vận
tải, xây dựng v.v... đóng góp khoảng một nửa (46%) vào sự nóng lên toàn cầu, phá
rừng nhiệt đới khoảng 18%, sản xuất nông nghiệp khoảng 9%, các ngành sản xuất
hóa chất (CFC, HCFC) khoảng 24%, còn lại 3% là các hoạt động khác (chôn lấp
rác thải,...).
Theo thông báo thứ 2 của Việt Nam với Công ước Khung Liên Hiệp Quốc
về BĐKH thì kết quả kiểm kê khí nhà kính (KNK) năm 2000 của Việt Nam là
khoảng 143 triệu tấn CO2/năm. Trong đó Nông nghiệp chiếm 45% tổng lượng phát
thải KNK của Việt Nam, ngành năng lượng chiếm 35%, lâm nghiệp chiếm 11%,
công nghiệp chiếm 7% và các hoạt động khác (chôn lấp chất thải v.v...) chiếm 2%.
Khác với xu hướng toàn cầu, Việt Nam là một đất nước có tỷ trọng sản xuất nông
nghiệp cao nên lượng phát thải KNK chiếm đến 45% tổng lượng phát thải của cả
nước.
2.2. Thực trạng về biến đổi khí hậu trên thế giới và Việt Nam
2.2.1. Thực trạng về biến đổi khí hậu trên thế giới
Nếu như cách đây khoảng 5 năm, thế giới vẫn còn hoài nghi và tranh luận về vấn
đề liệu biến đổi khí hậu trên thực tế có xảy ra hay không và có phải do con người
gây ra hay không thì ngày nay, cuộc tranh luận này không còn nữa và sự hoài nghi

dần thu hẹp lại. Báo cáo đánh giá lần thứ 4 của IPCC (2007) đã phản ánh sự đồng
thuận rộng rãi về mặt khoa học khi cho rẳng BĐKH là có thật và do con người gây
ra. Mặc dù hiện vẫn còn nhiều điều chưa chắc chắn về tốc độ nóng lên, thời gian
chính xác và các hình thức tác động, nhưng những nguy cơ gắn liền với thực trạng
các lớp băng trên trái đất đang tan ra ngày một nhanh, nhiệt độ các đại dương tăng


lên, các hệ sinh thái rừng nhiệt đới bị hủy hoại và những hậu quả khác có thể xảy
ra là hoàn toàn có thật (UNDP, 2008).
(1) Sự nóng lên toàn cầu

Báo cáo đánh giá lần thứ năm của IPCC công bố tháng 9 năm 2013 đã có
những kết luận chính như sau:
- Sự nóng lên của hệ thống khí hậu trái đất hiện này là một điều chắc chắn và đã
được minh chứng rõ ràng thông qua số liệu quan trắc năm 1950, ghi nhận sự tăng
lên của nhiệt độ không khí và đại dương ấm lên, diện tích băng tuyết đang thu hẹp
và mực nước biển tăng lên.
- Nhiệt độ trung bình trái đất tăng từ cuối thế kỷ 19. Trong 30 năm gần đây, nhiệt
độ bề mặt trái đất ấm hơn so với các thập kỷ trước, và những thập kỷ đầu thế kỷ 21
là ấm nhất.
- Xu thế tăng nhiệt độ trong chuỗi số liệu 110 năm (1901 - 2012) là 0,89°C và
khoảng 0,72°C giai đoạn 1951 - 2012. trong đó riêng ở Bắc cực nhiệt độ đã tăng
1,5°C, gấp đôi tỷ lệ tăng trung bình toàn cầu.
- Nhiệt độ tăng tổng cộng trung bình giữa giai đoạn 1850 - 1900 với giai đoạn
2003 - 2012 là 0,78°C [0,72 - 0,85] °C và nhiệt độ tăng tổng cộng trung bình giữa giai
đoạn 1850 - 1900 với giai đoạn 1986 - 2005 là 0,61°C [0,55 - 0,67] °C . Khi hoàn thành
tính toán số liệu nhiệt độ các vùng trong giai đoạn dài nhất (1901 - 2012) cho thấy nhiệt
độ bề mặt trái đất đang ấm dần lên (Hình 2.1).



Hình 2.1. Thay đổi nhiệt độ bề mặt giai đoạn 1901 - 2012
(Nguồn: IPCC, 2013)
(2) Biến đổi của lượng mưa
Báo cáo tổng hợp thông tin của Viện khí tượng thủy văn và môi trường
(IMHEN, 2010) cho biết trong thời kỳ 1901 - 2005, xu thế biến đổi của lượng mưa
rất khác nhau giữa các khu vực và giữa các tiểu khu vực trên từng khu vực và giữa
các thời đoạn khác nhau trên từng tiểu khu vực:
- Ở Bắc Mỹ, lượng mưa tăng lên ở nhiều nơi, nhất là ở Bắc Canađa nhưng lại giảm
đi ở Tây Nam nước Mỹ, Đông Bắc Mexico và bán đảo Bafa với tốc độ giảm chừng
2% mỗi thập kỷ, gây ra hạn hán trong nhiều năm gần đây.
- Ở Nam Mỹ, lượng mưa lại tăng lên trên lưu vực Amazon và vùng bờ biển Đông
Nam nhưng lại giảm đi ở Chile và vùng bờ biển phía Tây.
- Ở Châu Phi, lượng mưa giảm ở Nam Phi, đặc biệt là ở Sahen trong thời đoạn
1960 - 1980.
- Ở khu vực nhiệt đới, lượng mưa giảm đi ở Nam Á và Tây Phi với trị số xu thế là
7,5% cho cả thời kỳ 1901 - 2005. Khu vực có tính địa phương rõ rệt nhất trong xu
thế biến đổi lượng mưa là Australia do tác động lớn của ENSO.
- Ở đới vĩ độ trung bình và vĩ độ cao, lượng mưa tăng rõ rệt ở miền Trung Bắc Mỹ,
Đông Bắc Mỹ, Bắc Âu, Bắc Á và Trung Á.


- Trên phạm vi toàn cầu lượng mưa tăng lên ở các đới phía Bắc vĩ độ 30°N thời kỳ
1901 - 2005 và giảm đi ở các vĩ độ nhiệt đới, kể từ thập kỷ 1990.
- Tần số mưa lớn tăng lên trên nhiều khu vực, kể cả những nơi lượng mưa có xu
thế giảm.
(3) Băng tan và nước biển dâng

Khi nhiệt độ toàn cầu tăng lên, lượng mưa tại các khu vực khác nhau đang
thay đổi; các vùng biển ấm lên, băng tại các cực đang tan ra và mực nước biển
đang dâng lên (UNDP, 2008).

Tại hội nghị quốc tế về BĐKH họp ở Bruxen (Bỉ), các báo cáo khoa học cho
biết, ở Bắc cực, khối băng dày 2 dặm đang mỏng dần và đã mỏng đi 66cm. Ở Nam
cực tình trạng tương tự cũng diễn ra nhưng với tốc độ chậm hơn và những núi băng
ở Tây Nam cực đổ sụp. Các nhà khoa học phát hiện trong hai mùa hè năm 2007 và
2008, lượng băng bao phủ ở hai cực đã xuống tới mức thấp nhất kể từ lần vệ tinh
ghi được những hình ảnh đầu tiên vào 30 năm trước (IPCC, 2007).
Số liệu vệ tinh cho thấy, trong giai đoạn 1979 - 2012, diện tích băng biển
trung bình hàng năm ở Bắc cực đã thu hẹp khoảng 3,8% /thập kỷ, riêng mùa hè
giảm 9,4 - 13,6%/thập kỷ. Diện tích cực đại của lớp băng phủ ở Bắc bán cầu giảm
13,5 - 14,7%/thập kỷ trong giai đoạn 1979 - 2012. Còn ở Nam cực, diện tích băng
biển đã thu hẹp với tỷ lệ trung bình là 1,5%/thập kỷ trong giai đoạn 1979 - 2012
(IPCC, 2013).
Các nhà khoa học về BĐKH toàn cầu và nước biển dâng cho thấy, đại dương
đã nóng lên đáng kể từ cuối thập kỷ 1950. Các nghiên cứu từ số liệu quan trắc trên
toàn cầu cho thấy, mực nước biển trung bình toàn cầu trong thời kỳ 1961 - 2003 đã
tăng với tốc độ trung bình khoảng 1,8 ± 0,5mm/năm so với mức độ gia tăng trung
bình của thế kỷ 20 là 1,7 ± 0,5mm/năm, trong đó, đóng góp do giãn nở nhiệt
khoảng 0,42 ± 0,12mm và tan băng khoảng 0,70 ± 0,50mm/năm (IPCC, 2007).


Theo báo cáo lần thứ 5 của Ủy ban Liên chính phủ về BĐKH (IPCC, 2013),
tốc độ nước biển dâng từ giữa thế kỷ 19 đã lớn hơn so với tốc độ nước biển dâng
trung bình trong hai ngàn năm trước đó. Trong hơn 100 năm từ 1901 đến 2010,
mực nước biển trung bình toàn cầu tăng 0,19m [0,17 - 0,21] (Hình 2.2).

Hình 2.2. Thay đổi mực nước biển trung bình toàn cầu
(Nguồn: IPCC, 2013)
Bên cạnh nhiệt độ tăng và mực nước biển dâng, con người cũng đã cảm
nhận ngày càng rõ rệt về sự gia tăng các hiện tượng thời tiết cực đoan. Hạn hán và
lũ lụt xảy ra thường xuyên hơn; các cơn bão trở nên mạnh hơn; nhiều đợt nắng

nóng hơn; số ngày lạnh, đêm lạnh và sương giá giảm đi, trong khi các đợt nắng
nóng ngày càng xảy ra thường xuyên hơn; cường độ của những cơn bão và lốc
nhiệt đới đã trở nên nghiêm trọng hơn.

2.2.2. Thực trạng về biến đổi khí hậu ở Việt Nam
(1)

Nhiệt độ tăng

Theo Kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt Nam (2012)
cho thấy rằng:
Ở Việt Nam, xu thế biến đổi của nhiệt độ là rất khác nhau trên các vùng.
Trong 50 năm qua, nhiệt độ trung bình năm tăng khoảng 0,5°C trên phạm vi lãnh


thổ cả nước. Nhiệt độ tháng I (tháng đặc trưng cho mùa đông), nhiệt độ tháng VII
(tháng đặc trưng cho mùa hè) và nhiệt độ trung bình năm tăng trên phạm vi cả
nước. Nhiệt độ mùa đông tăng nhanh hơn so với mùa hè và nhiệt độ vùng sâu trong
đất liền tăng nhanh hơn so với nhiệt độ vùng ven biển, hải đảo. Vào mùa đông,
nhiệt độ tăng nhanh nhất là ở Tây Bắc Bộ, Đông Bắc Bộ, Đồng bằng Bắc Bộ, Bắc
Trung Bộ (khoảng 1,3 - 1,5°C/50 năm). Nam Trung Bộ có nhiệt độ tháng I tăng
chậm hơn so với các vùng khí hậu phía Bắc (khoảng 0,6 - 0,9°C/50 năm). Tính
trung bình cho cả nước, nhiệt độ mùa đông ở nước ta đã tăng lên 1,2°C/50 năm.
Nhiệt độ tháng VII tăng khoảng 0,3 - 0,5°C/50 năm trên tất cả các vùng khí hậu
của nước ta. Nhiệt độ trung bình năm tăng 0,5 - 0,6°C/50 năm ở Tây Bắc, Đông
Bắc Bộ, Đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ, còn mức tăng
nhiệt độ trung bình năm ở Nam Trung Bộ thấp hơn, chỉ vào khoàng 0,3°C/50 năm
(Hình 2.3).

Hình 2.3. Mức tăng nhiệt độ trung bình năm (°C) trong 50 năm qua

(Nguồn: IMHEN, 2010)
Mức thay đổi nhiệt độ cực đại trên toàn lãnh thổ Việt Nam nhìn chung dao
động trong khoàng từ -3°C - 3°C. Mức thay đổi nhiệt độ cực tiểu chủ yếu dao động


trong khoảng -5°C - 5°C. Xu thế chung của nhiệt độ cực đại và cực tiểu là tăng, tốc
độ tăng của nhiệt độ cực tiểu nhanh hơn so với nhiệt độ cực đại, phù hợp với xu thế
chung của biến đổi khí hậu toàn cầu (Bảng 2.1).
Bảng 2.1. Mức tăng nhiệt độ và mức thay đổi lượng mưa trong 50 năm qua ở
các vùng khí hậu của Việt Nam

(Nguồn: IMHEN, 2010)
(2)

Về lượng mưa

Theo Kịch bản Biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt Nam (Bộ Tài nguyên –
Môi trường, 2012):
Lượng mưa mùa khô (tháng XI - IV) tăng lên chút ít hoặc thay đổi không
đáng kể ở các vùng khí hậu phía Bắc và tăng mạnh mẽ ở các vùng khí hậu phía
Nma. Lượng mưa mùa mưa (tháng V - X) giảm từ 5 - 10% trên đa phần diện tích
phía Bắc nước ta và tăng khoàng 5 - 20% ở các vùng khí hậu phía Nam. Xu hướng
diễn biến của lượng mưa trung bình năm tương tự như lượng mưa mùa mưa, tăng ở
các vùng khí hậu phía Nam và giảm ở các vùng khí hậu phía Bắc. Khu vực Nam
Trung Bộ có lượng mưa mùa khô, mùa mưa và lượng mưa năm tăng mạnh nhất so
với các vùng khác ở nước ta, nhiều nơi đến 20% trong 50 năm qua (Hình 2.4 và
Bảng 2.1).


Hình 2.4. Mức thay đổi lượng mưa năm (%) trong 50 năm qua

(Nguồn: IMHEN, 2010)
Lượng mưa ngày cực đại tăng lên ở hầu hết các vùng khí hậu, nhất là
trong những năm gần đây. Số ngày mưa lớn cũng có xu thế tăng lên tương ứng,
nhiều biến động mạnh xảy ra ở khu vực miền Trung. Tồn tại mối tương quan khá
rõ giữa sự nóng lên toàn cầu và nhiệt độ bề mặt biển khu vực Đông xích đạo Thái
Bình Dương với xu thế biến đổi của số ngày mưa lớn trên các vùng khí hậu phía
Nam.
(3) Nước biển dâng

Theo kết luận trong nghiên cứu của Trần Thục, Huỳnh Thị Lan Hương, Đào
Minh Trang (2012): Số liệu mực nước đo đạc từ vệ tinh từ năm 1993 đến 2010 cho
thấy xu thế tăng mực nước biển trên toàn biển Đông là 4,7mm/năm, phía Đông của
biển Đông có xu thế tăng hiều hơn hơn phía Tây. Chỉ tính cho dải ven bờ Việt
Nam, khu vực ven biển Trung Trung Bộ và Tây Nam Bộ có xu hướng tăng mạnh
hơn, trung bình cho toàn dải ven biển Việt Nam tăng khoảng 2,9mm/năm.
Theo viện khoa học khí tượng và thủy văn (2011) đánh giá:
- Trong 50 năm qua, mực nước biển trung bình ở Việt Nam dâng lên khoảng
25 - 30cm.


- Mực nước biển cao nhất có tốc độ xu thế cao hơn, còn mực nước biển thấp
nhất thì ngược lại, tăng ít hơn thậm chí có nơi thấp so với mực nước biển trung
bình.
- Trong thời kỳ gần đây, mực nước biển cao hơn thời kỳ 1961 - 1990 về trị
số trung bình cũng như trị số cao nhất và trị số thấp nhất.
(4) Xoáy nhiệt đới

Kịch bản Biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt Nam (Bộ Tài nguyên – Môi
trường, 2012) kết luận rằng:
Về xoáy thuận nhiệt đới, trung bình hàng năm có khoảng 12 cơn bão và áp

thấp nhiệt đới hoạt động trên Biển Đông, trong đó khoảng 45% số cơn nảy sinh
ngay trên Biển Đông và 55% số cơn từ Thái Bình Dương di chuyển vào. Số cơn
bão và áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng đến Việt Nam vào khoảng 7 cơn mỗi năm
và trong đó có 5 cơn đổ bộ hoặc ảnh hưởng trực tiếp đến đất liền nước ta.
Số lượng xoáy thuận nhiệt đới hoạt động trên khu vực Biển Đông có xu
hướng tăng nhẹ, trong khi đó số cơn ảnh hưởng hoặc đổ bộ vào đất liền Việt Nam
không có xu hướng biến đổi rõ rang (Hình 2.5).

Hình 2.5. Diễn biến số cơn xoáy thuận nhiệt đới hoạt động ở Biển Đông, ảnh
hưởng và đổ bộ vào đất liền Việt Nam trong 50 năm qua


(Nguồn: IMHEN, 2010)
Khu vực đổ bộ của các cơn bão và áp thấp nhiệt đới vào Việt Nam có xu hướng
lùi dần về phía Nam lãnh thổ nước ta; số lượng các cơn bão rất mạnh có xu hướng
gia tăng; mùa bão có dấu hiệu kết thúc muộn hơn, quỹ đạo bão có vẻ dị thường
hơn và số cơn bão ảnh hưởng tới khu vực Nam Bộ có phần tăng lên trong những
năm gần đây. Mức độ ảnh hưởng của bão đến nước ta có xu hướng mạnh lên.
(5) Xâm nhập mặn

Theo kết quả nghiên cứu của Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam (2013),
vùng ven biển Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) có tới 66% lao động bằng nghề sản
xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản với diện tích 306.100 ha chủ yếu là canh
tác lúa nước.
Lưu lượng về hạ du giảm, mực nước sông Hồng xuống thấp và nước biển
dâng cao kết hợp triều cường dẫn đến xâm nhập mặn ngày càng phức tạp. Kết quả
quan trắc, đánh giá số liệu đo độ mặn cho thấy: Vào mùa kiệt nước phục vụ cho
sản xuất nông nghiệp ở Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình có độ mặn
vượt quá nồng độ cho phép đã làm giảm năng suất cây trồng:
-


Giới hạn xâm nhập mặn (từ ngày 19 đến ngày 28 tháng 12 năm 2007) có

đỉnh mặn lớn nhất kỳ triều ở các sông: Trà Lý, sông Hồng, Ninh Cơ, sông Đáy. Độ
sâu xâm nhập mặn diễn biến từ 21,3km đến 28,5km theo S đỉnh max ở mức xâm nhập
mặn 1‰.
- Giới hạn xâm nhập mặn (từ ngày 16 đến ngày 25 tháng 1 năm 2008) gồm
các con triều cường và triều trung bình thuộc 1 kỳ triều cường có đỉnh mặn lớn
nhất ở các sông: Trà Lý. Sông Hồng, Ninh Cơ, sông Đáy. Độ sâu xâm nhập mặn
diễn biến từ 30,3km đến 40km theo Sđỉnh max ở mức xâm nhập mặn 1‰.
- Đỉnh mặn lớn thường xuất hiện ở đầu và cuối kỳ triều, đỉnh mặn ở các con
triều cường thuộc giữa kỳ không lớn. Đỉnh mặn còn phụ thuộc vào lưu lượng nước


xả từ các hồ kịp thời khống chế được mực nước tối thiểu và đẩy xâm nhập mặn
làm giảm độ sâu nhập mặt vào các các cửa sông.
(6) Các hiện tượng thời tiết cực đoan

Theo số liệu quan trắc, trong khoảng 70 năm qua (1931 - 2000):
-

Số đợt không khí lạnh ảnh hưởng đến Việt Nam giảm rõ rệt trong 2 thập kỷ
gần đây, từ 29 đợt mỗi năm trong các thập kỷ 1971 - 1980, 1981 - 1990 xuống
còn 24 đợt mỗi năm trong thập kỷ 1991 - 2000, đặc biệt trong các năm 1994 và
2007, chỉ có 15 - 16 đợt mỗi năm.

-

Hạn hán có xu hướng mở rộng ở hầu hết các vùng, đặc biết là cực Nam Trung
Bộ, dẫn đến gia tăng hiện tượng hoang mạc hóa.


-

Hiện tượng El Nino và La Nina ảnh hưởng đến nước ta mạnh mẽ hơn trong vài
thập kỷ gần đây, gây ra nhiều kỷ lục có tính dị thường về thời tiết như nhiệt độ
cực đại, nắng nóng và hạn hán gay gắt trên diện rộng, cháy rừng khi có El
Nino, điển hình là năm 1997 - 1998; mưa lớn, lũ lụt và rét hại khi có La Nina
như năm 2007.
Như vậy, ngoài biến đổi khí hậu với sự tăng lên của nhiệt độ và mực
nước biển trung bình diễn ra một cách từ từ, có tác động lâu dài, tính cực đoan
và dị thường của thời tiết, khí hậu, đặc biệt là thiên tai cũng trở nên lớn hơn, có
thể gây ra những tổn thất lớn về người và tài sản và làm cho công tác dự báo,
phòng tránh trở nên khó khăn hơn. Đây cũng chính là một thách thức lớn đặt ra
cho các nhà lãnh đạo của Việt Nam trong vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu.

2.3. Tác động của biến đổi khí hậu đối với sản xuất nông nghiệp trên thế giới
và Việt Nam
2.3.1. Tác động của biến đổi khí hậu đối với sản xuất nông nghiệp trên thế giới


Ngành sản xuất nông nghiệp hiện nay còn phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết
và là đối tượng dễ bị tổn thương nhất trước tác động của BĐKH. Khi nhiệt độ tăng,
tính biến động và dị thường của thời tiết và khí hậu cũng tăng lên sẽ ảnh hưởng rất
lớn tới sản xuất nông nghiệp, nhất là trồng trọt. Sự bất thường của chu kỳ sinh thái
khí hậu nông nghiệp không những dẫn tới sự tăng dịch bệnh, dịch hại, giảm sút
năng suất - sản lượng nông sản.
(1) Tác động của nhiệt độ cực đoan

Đối với sản xuất nông nghiệp, nhiệt độ tăng và tính biến động của nhiệt độ
lớn hơn, kể cả nhiệt dộ cực đại và cực tiểu, cùng với biến động của các yếu tố thời

tiết và thiên tai làm tăng khả năng phát triển sâu hại, dịch bệnh dẫn đến giảm năng
suất và sản lượng, tăng nguy cơ và rủi ro đối với nông nghiệp và an ninh lương
thực (IMHEN, 2011).
Một nghiên cứu do Viên Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRR) thực hiện kết luận
rằng: Cứ nhiệt độ tối thiểu ở giai đoạn sinh trưởng tăng lên 1°C thì nhu cầu tưới
tiêu cho nông nghiệp tại các khu vực khô cằn và bán khô cằn ở Đông Nam Á cũng
sẽ tăng 10%, điều này hạn chế khả năng gieo trồng 2 vụ mỗi năm.
Theo đánh giá của ADB, nếu nhiệt độ tăng 1°C, năng suất lúa sẽ giảm 10%,
ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh lương thực quốc gia. Do vậy, giá lương thực
sẽ tăng cao và nạn đói sẽ gia tăng ở quốc gia hiện đang phải đối mặt với những vấn
đề này. “Ngày nay có một tỷ người đang thiếu dinh dưỡng. Nếu như xuất hiện
bùng nổ dân số ở Trung Quốc hay Ấn Độ vào cuối thế kỷ này thì một nửa dân số
thế giới có thể lâm vào tình trạng thiếu ăn”.
Năm 1899, sự suy yếu hoàn lưu gió mùa ở Ấn Độ đã gây ra hạn hán và nạn
đói ở nước này. Năm 2010, Nga đã phải trải qua đợt nắng nóng gay gắt khiến sản


lượng lúa mì và ngũ cốc sụt giảm tới 20% và nước này đã phải tuyên bố ngừng
xuất khẩu lúa mì và ngũ cốc.
(2) Tác động của sự thay đổi lượng mưa, bão, lũ lụt

Bão lũ là hiểm họa thiên nhiên mang lại nhiều mất mát với sức tàn phá nặng
nề cả về người và của. Đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, bão lũ gây ra thiệt hại
nặng nề đến năng suất và chất lượng nông sản.
Theo Viện Lương thực toàn cầu (1998), mưa lũ gây ra sạt lở đất ở Braxin,
Trung Quốc, Philippines; động đất và sóng thần ở Nhật Bản, Myanmar, các nước
ven biển Thái Bình Dương,... Mưa lũ cuốn trôi của cải vật chất, mùa màng, làm
cho đất bị ngập úng. Năm 1987, mưa lũ đã gây ra thiếu hụt trên quy mô lớn về
năng suất cây trồng ở Ấn Độ, Bangladesh và Pakistan, khiến cho 2 nước Ấn Độ và
Pakistan phải quay trở lại tình trạng nhập khẩu lúa mì.

Một số quốc gia Đông Nam Á hiện đang xếp hạng trong số các tiếp xúc với
hầu hết các thảm họa khí hậu: các thiệt hại cho ngành nông nghiệp Philippines sau
khi cơn bão Bopha trong năm 2012 được ước tính khoảng 230 triệu USD; trong
năm 2011 - 2012, có 25% sản lượng gạo của Thái Lan đã bị mất do lũ lụt, ảnh
hưởng đến giá lương thực thế giới.
2.3.2. Tác động của biến đổi khí hậu đối với sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam
Việt Nam là một nước nông nghiệp với 75% dân số sống bằng nông nghịệp
và 70% lãnh thổ là nông thôn với cuộc sống người dân còn phụ thuộc nhiều vào
điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên. Sản xuất nông nghiệp hiện nay vẫn
chủ yếu dựa trên các hộ cá thể, quy mô nhỏ, trình độ khoa học kỹ thuật chưa cao.
Đây là một thách thức lớn dưới tác động của BĐKH.
(1)

Tác động của nhiệt độ cực đoan, rét đậm, hạn hán


Trong báo cáo lần thứ 5 của IPCC về giới thiệu kịch bản BĐKH, nước biển
dâng có đánh giá: Tốc độ BĐKH gia tăng theo hướng cực đoan hơn so với các
đánh giá trước đây, đặc biệt là các hiện tượng cực đoan liên quan đến nhiệt độ cao
gia tăng mạnh mẽ. Nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng lên rõ rệt, tốc độ tăng cao lên
so với trước đó.
Theo báo cáo của Oxfam (2008) thì ở miền Bắc, Trung tâm dự báo khí
tượng thủy văn quốc gia ghi nhận trận rét chưa từng có kéo dài trong 38 ngày, phá
kỷ lục trận rét dài 31 ngày xảy ra năm 1989. Nhiệt độ xuống thấp dưới 10°C, và
xuống đến -2°C ở hai địa phương, đây là điều hiếm khi xảy ra ở Việt Nam. Thời
tiết rét đậm, rét hại đã phá hỏng ít nhất 100.000 ha lúa, và gây thiệt hại kinh tế là
30 triệu đô la Mỹ.
Trung bình trong 10 năm qua, diện tích bị khô hạn ở miền Trung lên tới
140.000 ha và mất trắng gần 50.000 ha. Theo báo cáo mới nhất của Cục Thủy lợi
(Bộ NN&PTNT, 2009), hạn hán đã gây thiếu nước cho trên 120.000 ha đất canh

tác, tập trung ở hầu hết các tỉnh Tây Nguyên, Ninh Thuận và Bình Thuận. Hạn hán
cũng đã bắt đầu ảnh hưởng đến các tỉnh Bắc Bộ và Trung Bộ, mực nước trên các
sông, hồ đều cạn kiệt. Tại các tỉnh miền núi phía Bắc, nơi còn nhiều vùng đồi núi
trọc đang bị mưa lũ làm lỡ đất, xói mòn và suy thoái đến khô cằn hoang mạc.
(2) Tác động của sự thay đổi lượng mưa, bão, lũ lụt

Việt Nam là một nước nằm trong vùng chịu ảnh hưởng của áp thấp nhiệt
đới, có nhiều thiên tai bất thường như bão, lũ lụt, lũ quét. Khi ảnh hưởng kết hợp
của bão, áp thấp nhiệt đới hay dãy hội tụ nhiệt đới sẽ có mưa lớn và sinh ra lũ.
Hằng năm, lũ và lũ quét đã gây ra nhiều thiệt hại cả về người và của.
Nghiên cứu về tác động của biến đổi khí hậu tới tăng trưởng và phát triển
kinh tế ở Việt Nam (IMHEN, 2011) cho biết : Giữa năm 1954 và 2000, trung bình


có 6,9 cơn bão/năm ảnh hưởng tới đất liền dọc theo bờ biển Việt Nam. Cấp độ gió
mạnh và mực nước dâng kết hợp với các cơn bão gây ra phá hủy lớn đối với vùng
duyên hải. Lượng mưa đi kèm với các cơn bão cũng gây ra lũ lụt rộng lớn trong
các vùng thấp hơn một mét so với mực nước biển. Kết quả các trận lụt phá hủy
đáng kể các vùng đất thấp như các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Hồng và gây
ngập lụt ruộng lúa.
Theo nghiên cứu của Mai và các cộng sự (2009), giữa năm 1976 và 2005, lũ
lụt và nước ngập mặn làm hỏng 40.000 hecta đất trồng trọt và phá hủy trên
100.000 tấn lương thực. Tỷ lệ phá hủy có thể tăng do biến đổi khí hậu. Bão cũng
góp phần làm xói mòn bờ biển nghiêm trọng của Việt Nam, dự kiến sẽ tồi tệ hơn
do biến đổi khí hậu. Việt Nam đã phải chịu cả hai xói mòn dọc bờ biển và xói mòn
đất bồi, dẫn đến đào sâu xói mòn thêm các bãi biển ở phía trước đê biển. Trong
100 năm qua, bờ biển tại Việt Nam đã ăn sâu vào bờ khoảng 3.000m và khoảng
18.000 ha đất đã bị mất.
(3) Tác động của mực nước biển dâng


Nước biển dâng vừa là vấn đề có tính toàn cầu nhưng thực sự là vấn đề của
mỗi quốc gia. Nước biển dâng sẽ gây tổn thương nhiều nhất cho các vùng đất thấp
ven biển, trong đó có Việt Nam. Việt Nam, theo dự đoán, là một trong số ít nước sẽ
phải chịu hậu quả năng nề nhất của BĐKH, đặc biệt là hiện tượng nước biển dâng
(Dasgupta et al., 2007).
Đối với nước ta, mực nước biển dâng sẽ làm mất đi một vùng đất thấp rộng
lớn - các hệ sinh thái đất ngập nước của các đồng bằng lớn nhất cả nước - nơi ở của
các cộng đồng dân cư lâu đời, cái nôi của nền văn minh lúa nuớc, vùng có tiềm
năng sản xuất nông nghiệp lớn nhất và các sinh cảnh tự nhiên của nhiều loài bản
địa bao gồm cả các khu bảo tồn thiên nhiên, khu dự trữ sinh quyển. Ngân hàng Thế


giới (2009) xếp hạng Việt Nam là một trong 12 nước vay vốn của ngân hàng thế
giới chịu ảnh hưởng lớn nhất đối với nước biển dâng do biến đổi khí hậu.
(4) Tác động của xâm nhập mặn

Theo WB năm 2007, tại Việt Nam, hai đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) và
đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) chịu ảnh hưởng nặng nhất của nước biển
dâng. Nếu nước biển dâng lên 1m sẽ làm ngập khoảng từ 0,3 đến 0,5 triệu ha tại
ĐBSH và những năm lũ lớn, khoảng trên 90% diện tích của ĐBSCL bị ngập từ 4 5 tháng, vào mùa khô khoảng trên 70% diện tích bị xâm nhập mặn với nồng độ lớn
hơn 4g/l. Ước tính Việt Nam sẽ mất đi khoảng 2 triệu ha đất trồng lúa trong tổng số
hơn 4 triệu ha hiện nay, đe dọa nghiêm trọng đến an ninh lương thực quốc gia và
ảnh hưởng đến hàng chục triệu người dân.
Theo kết quả nghiên cứu của Cục quản lý Tài nguyên nước (2013), trong 3
năm tới, diện tích đất lớn nhất có thể bị ảnh hưởng bởi độ mặn lớn hơn 4‰
khoảng 1.605.200 ha, chiếm 41% diện tích toàn ĐBSCL, tăng 2551 ha so với thời
kỳ nền 1991 - 2000; diện tích chịu ảnh hưởng của độ mặn lớn hơn1‰ khoảng
2.323.100 ha, chiếm 59% tích tự nhiên, tăng 1932 ha. Trong 5 năm tới, diện tích
đất lớn nhất có thể bị ảnh hưởng bởi độ mặn lớn hơn 4‰ khoảng 1.851.200 ha,
chiếm 7% diện tích toàn ĐBSCL, tăng 4392 ha so với thời kỳ nền 1991 - 2000;

diện tích chịu ảnh hưởng của độ mặn lớn hơn 1‰ khoảng 2.524.100 ha, chiếm
diện 64% tích tự nhiên, tăng 4561ha.
2.4. Khái quát chung về vai trò của nhận thức trong thích ứng với BĐKH
Theo kết quả nghiên cứu của Phan Văn Tân và Ngô Đức Thành (2013), về
mặt khoa học, BĐKH là một lĩnh vực liên kết nhiều ngành khoa học khác nhau.
Việc nghiên cứu BĐKH có thể được chia thành ba bước lớn: (1) Bản chất, nguyên
nhân, cơ chế vật lý của sự BĐKH; (2) Đánh giá tác động của BĐKH, tính dễ bị tổn
thương do BĐKH và giải pháp thích ứng và (3) Giải pháp, chiến lược và kế hoạch


hành động nhằm giảm thiểu BĐKH. Ở qui mô khu vực, quốc gia và vùng lãnh thổ,
về cơ bản trình tự bài toán nghiên cứu BĐKH vẫn phải tuân thủ theo từng bước
như đối với qui mô toàn cầu, tuy nhiên có thể kế thừa để “bỏ qua” bước từ (1) sang
bước (3) nhưng không thể tiến hành bước (2) song song hoặc trước bước (1), lại
càng không thể thực hiện bài toán thích ứng với BĐKH trước khi đánh giá tác
động của BĐKH trong bước (2). Nghĩa là để thích ứng với BĐKH cần phải biết
BĐKH sẽ tác động như thế nào, muốn vậy trước đó cần phải chỉ ra khí hậu đã và
sẽ biến đổi như thế nào. Từ đó, ta có thể thấy được việc nhận thức, đánh giá về
BĐKH có vai trò quan trọng trong công tác phòng chống và thích ứng với BĐKH.
Đối với sản xuất nông nghiệp, trước khi thích nghi với biến đổi khí hậu,
người nông dân đầu tiên phải nhận thức được những thay đổi đang diễn ra, và điều
này có nghĩa là nhận thức của nông dân về BĐKH là rất quan trọng trong sự hấp
thu của các biện pháp thích ứng. Thích ứng với BĐKH đòi hỏi người nông dân đầu
tiên phải nhận thấy rằng khí hậu đã thay đổi, sau đó xác định sự thích nghi hữu ích
và tiến hành thực hiện (Maddison, 2006).
2.5. Khái quát chung về giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu ở Việt Nam
2.5.1. Khái niệm
Gần đây, khả năng thích ứng được xem xét trong bối cảnh các vấn đề về biến
đổi khí hậu toàn cầu. Khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu được định nghĩa
theo nhiều cách khác nhau:

- IPPC định nghĩa: “Khả năng thích ứng là khả năng tự điều chỉnh của hệ hống
trước sự biến đổi của khí hậu để làm giảm nhẹ các thiệt hại tiềm tàng, tận dụng các
cơ hội, hoặc đương đầu với các hậu quả” (IPCC, 2007).
- Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường (2008), khả năng thích ứng với biến đổi khí
hậu là “sự điều chỉnh của hệ thống tự nhiên hoặc con người đối với hoàn cảnh môi
trường thay đổi nhằm làm giảm khả năng bị tổn thương do dao động và biến đổi
của khí hậu hiện hữu hoặc tiềm tàng và tận dụng các cơ hội do nó mang lại”.


×