Tải bản đầy đủ (.docx) (324 trang)

Bộ ba bất khả thi và lựa chọn chính sách cho việt nam luận án tiến sĩ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.38 MB, 324 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

---------------

Đinh Thị Thu Hồng

BỘ BA BẤT KHẢ THI VÀ LỰA CHỌN CHÍNH SÁCH
CHO VIỆT NAM

Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng
Mã số: 62340201

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: GS. TS Trần Ngọc Thơ

TP. Hồ Chí Minh - Năm 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận án Tiến sĩ “Bộ ba bất khả thi và lựa chọn chính sách cho Việt Nam”
do chính tôi nghiên cứu và thực hiện. Các thông tin, số liệu được sử dụng trong luận án là
trung thực và có nguồn đáng tin cậy.

Nghiên cứu sinh:

Đinh Thị Thu Hồng


Khóa 2009
Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh


MUÏC
LUÏC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục

i

Danh mục các bảng

v

Danh mục các hình

vii

Danh mục các chữ viết tắt

ix

MỞ ĐẦU
Chương 1: Khung lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm

1


1.1. Từ mô hình IS-LM đến mô hình Mundell-Fleming

1

1.1.1. Hiệu quả của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ dưới chế độ tỷ giá cố định

3

1.1.2. Hiệu quả của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ dưới chế độ tỷ giá thả nổi

5

1.2. Lý thuyết bộ ba bất khả thi

6

1.3. Các nghiên cứu mở rộng lý thuyết bộ ba bất khả thi

10

1.3.1. Bộ ba bất khả thi mở rộng và mẫu hình kim cương

10

1.3.2. Thước đo mức độ đạt được các mục tiêu của bộ ba bất khả thi

12

1.3.2.1. Độc lập tiền tệ


13

1.3.2.2. Ổn định tỷ giá hối đoái

17

1.3.2.3. Hội nhập tài chính

20

1.3.3. Vai trò của dự trữ ngoại hối

24

1.3.4. Sự lựa chọn chính sách theo lý thuyết bộ ba bất khả thi ở các quốc gia

28

1.3.5. Mối quan hệ giữa lý thuyết bộ ba bất khả thi và các biến số kinh tế vĩ mô

30

Kết luận chương 1

37

Chương 2: Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu

38


2.1. Hồi quy với dữ liệu bảng

39


2.1.1.

Các ước lượng cơ bản

39

2.1.2.

Phương pháp hồi quy FGLS

43

2.1.3.

Hồi quy với biến giả

44

2.2. Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu

45

2.2.1.

Phương pháp kiểm định mối quan hệ tuyến tính giữa các chỉ số bộ ba bất khả thi


45

2.2.2.

Phương pháp kiểm định tác động của việc lựa chọn chính sách đến các biến số

47

kinh tế vĩ mô
2.2.3.

Mô tả biến

48

2.2.4.

Trình tự phân tích

59

2.2.5.

Phương pháp tính các chỉ số bộ ba bất khả thi

61

2.2.5.1.


Chỉ số độc lập tiền tệ (MI)

61

2.2.5.2.

Chỉ số ổn định tỷ giá (ER)

62

2.2.5.3.

Chỉ số hội nhập tài chính (FO)

63

2.3. Thống kê mô tả dữ liệu nghiên cứu

64

2.3.1.

66

Sự lựa chọn các chính sách bộ ba bất khả thi ở các quốc gia trong mẫu quan sát

2.3.1.1.

Mức độ độc lập tiền tệ (MI) của các quốc gia trong mẫu quan sát


67

2.3.1.2.

Mức độ ổn định tỷ giá (ER) của các quốc gia trong mẫu quan sát

70

2.3.1.3.

Mức độ hội nhập tài chính (FO) của các quốc gia trong mẫu quan sát

73

2.3.2.

Sự kết hợp chính sách theo lý thuyết bộ ba bất khả thi

75

2.3.3.

Mức độ dự trữ ngoại hối của các quốc gia trong mẫu và mẫu hình kim cương

78

Kết luận chương 2

83


Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận

84

3.1. Kết quả kiểm định mối quan hệ tuyến tính giữa các biến bộ ba

84

3.2. Kết quả kiểm định tác động của các kết hợp chính sách đến các biến kinh tế vĩ mô

87

3.2.1.

87

Kết quả hồi quy khi biến phụ thuộc là Biến động tăng trưởng

3.2.1.1. Kết quả hồi quy cho toàn mẫu và nhóm nước đang phát triển

87

3.2.1.2. Tác động của các chính sách bộ ba bất khả thi đến Biến động tăng trưởng – trường

94

hợp Việt Nam
3.2.2.

Kết quả hồi quy khi biến phụ thuộc là Tăng trưởng trung bình


3.2.2.1. Kết quả hồi quy cho toàn mẫu và nhóm nước đang phát triển

98
98


3.2.2.2. Tác động của các chính sách bộ ba bất khả thi đến Tăng trưởng trung bình –
trường hợp Việt Nam

102
3.2.3. Kết
quả
hồi
quy
khi
biến
phụ
thuộ
c là
Biến
độn
g
lạm
phát
107
3.2.3.1. Kết
quả
hồi
quy

cho
toàn
mẫu

nhóm
nước
đang
phát
triển
107
3.2.3.2. Tá
c
độ
ng
củ
a

c
chí
nh

ch
bộ
ba
bất

k


111

3.2.4.

Kết quả hồi quy khi biến phụ thuộc là Lạm phát trung bình

116

3.2.4.1. Kết quả hồi quy cho toàn mẫu và nhóm nước đang phát triển

116

3.2.4.2. Tác động của các chính sách bộ bất khả thi đến Lạm phát trung bình
– trường hợp Việt Nam
3.2.5. Kết quả hồi quy khi biến phụ thuộc là Thất nghiệp trung bình
3.2.5.1. Kết quả hồi quy cho toàn mẫu và nhóm nước đang phát triển

119

124
124

3.2.5.2. Tác động của các chính sách bộ bất khả thi đến Lạm phát trung bình

128

– trường hợp Việt Nam
3.3. Phân tích về ảnh hưởng chi phối của mức độ phát triển tài chính và chi
tiêu chính phủ
3.3.1.
Vai trò của mức độ phát triển tài chính


134

136

3.3.1.1. Tác động của các chỉ số bộ ba bất khả thi đến Biến động tăng trưởng
137
3.3.1.2. Tác động của các chỉ số bộ ba bất khả thi đến Biến động lạm phát
139
3.3.2.

Vai trò của chi tiêu chính phủ

141

3.3.2.1. Tác động của các chỉ số bộ ba bất khả thi đến Biến động tăng trưởng
143
3.3.2.2. Tác động đến của các chỉ số bộ ba bất khả thi đến Biến động lạm phát
145
3.3.3.

Mức độ phát triển tài chính và chi tiêu chính phủ của Việt Nam 147

Kết luận chương 3
Chương 4: Một số khuyến nghị chính sách cho Việt Nam
4.1. Vận dụng lý thuyết bộ ba bất khả thi trong việc lựa chọn chính sách mục
tiêu
156
4.2. Nâng cao uy tín và mức độ độc lập của Ngân hàng Nhà nước
4.3. Gia tăng tính linh hoạt của tỷ giá hối đoái


162

4.4. Kiểm soát rủi ro của hội nhập tài chính

164

4.5. Tăng cường tích lũy dự trữ ngoại hối

168

160


4.6. Một số đề xuất khác

170

Kết luận Chương 4

`173

Kết luận và hướng nghiên cứu tiếp theo
Danh mục công trình của tác giả
Tài liệu tham khảo
Phụ lục


DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

Bảng 2.1: Tương quan kỳ vọng của các biến trong mô hình

57

Bảng 2.2: Nguồn dữ liệu

58

Bảng 2.3: Thống kê mô tả các biến cơ sở trong mô hình

65

Bảng 3.1: Kết quả kiểm định mối quan hệ tuyến tính giữa các chỉ số

84

Bảng 3.2: Kết quả hồi quy đối với Biến động tăng trưởng

87

Bảng 3.3: Kết quả hồi quy đối với Biến động tăng trưởng (khi có biến giả VN)

94

Bảng 3.4: Tóm tắt tác động của các chỉ số bộ ba chính sách đến Biến động tăng trưởng

98

Bảng 3.5: Kết quả hồi quy đối với Tăng trưởng trung bình


98

Bảng 3.6: Kết quả hồi quy đối với Tăng trưởng trung bình (khi có biến giả VN)

103

Bảng 3.7: Tóm tắt tác động của các chỉ số bộ ba chính sách đến Tăng trưởng trung bình

107

Bảng 3.8: Kết quả hồi quy đối với Biến động lạm phát

108

Bảng 3.9: Kết quả hồi quy đối với Biến động lạm phát (khi có biến giả VN)

111

Bảng 3.10: Tóm tắt tác động của các chỉ số bộ ba chính sách đến Biến động lạm phát

115

Bảng 3.11: Kết quả hồi quy đối với Lạm phát trung bình

116

Bảng 3.12: Kết quả hồi quy đối với Lạm phát trung bình (khi có biến giả VN)

119


Bảng 3.13: Tóm tắt tác động của các chỉ số bộ ba chính sách đến Lạm phát trung bình

124

Bảng 3.14: Kết quả hồi quy đối với Thất nghiệp trung bình

124


Bảng 3.15: Kết quả hồi quy đối với Thất nghiệp trung bình (khi có biến giả VN)

129

Bảng 3.16: Tóm tắt tác động của các chỉ số bộ ba chính sách đến Thất nghiệp trung

133

bình
Bảng 3.17: Các chỉ số bộ ba bất khả thi tác động đến Biến động tăng trưởng theo mức

137

độ phát triển tài chính
Bảng 3.18: Các chỉ số bộ ba bất khả thi tác động đến Biến động lạm phát theo mức độ

139

phát triển tài chính
Bảng 3.19: Các chỉ số bộ ba bất khả thi tác động đến Biến động tăng trưởng theo mức


143

độ chi tiêu chính phủ
Bảng 3.20: Các chỉ số bộ ba bất khả thi tác động đến Biến động lạm phát theo mức độ

145

chi tiêu chính phủ
Bảng 4.1: Dự trữ ngoại hối và các mục tiêu kinh tế

169


DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 1.1: Quan hệ IS – LM – BP trong chế độ tỷ giá cố định.

4

Hình 1.2: Quan hệ IS – LM – BP trong chế độ tỷ giá thả nổi.

5

Hình 1.3: Tam giác minh họa lý thuyết bộ ba bất khả thi

8

Hình 1.4: Mẫu hình kim cương của lý thuyết bộ ba bất khả thi

12


Hình 2.1: Tốc độ tăng trưởng GDP của các quốc gia trong mẫu

66

Hình 2.2: Mức độ độc lập tiền tệ của các quốc gia trong mẫu

68

Hình 2.3: Tăng trưởng và lãi suất của Việt Nam

69

Hình 2.4: Tăng trưởng và lãi suất của Trung Quốc

70

Hình 2.5: Mức độ ổn định tỷ giá của các quốc gia trong mẫu

71

Hình 2.6: Xu hướng dòng vốn tư nhân thuần vào các nước thị trường mới nổi

73

Hình 2.7: Mức độ hội nhập tài chính của các quốc gia trong mẫu

74

Hình 2.8: Sự lựa chọn chính sách bộ ba bất khả thi ở các quốc gia


75

Hình 2.9: Vốn FDI vào Việt Nam qua các năm (FDI thực hiện)

78

Hình 2.10: Tỷ lệ dự trữ ngoại hối/GDP của các quốc gia trong mẫu

80

Hình 2.11: Đồ thị kim cương của các quốc gia trong mẫu

81

Hình 3.1: Sự kết hợp chính sách của 10 quốc gia Châu Á

85

Hình 3.2: Sự kết hợp chính sách của các quốc gia đang phát triển trong mẫu

85

Hình 3.3: Sự kết hợp chính sách của Việt Nam

86


10


Hình 3.4: Lựa chọn chính sách của Việt Nam

148

Hình 3.5: Mức độ phát triển tài chính của các quốc gia trong mẫu quan sát

149

Hình 3.6: Mức độ chi tiêu chính phủ của các quốc gia trong mẫu quan sát

151

Hình 4.1: Các chỉ tiêu kinh tế của Việt Nam

159


12

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

AREAER

IMF’s Annual Report on Exchange Arrangements and Exchange Restrictions
- Báo cáo hằng năm về cơ chế tỷ giá và những hạn chế ngoại hối

CBI

Central Bank Independence – Chỉ số độc lập của Ngân hàng Trung


ương IFS

International Financial Statistics – Thống kê tài chính quốc tế

IFC

International Finance Corporation - Tổ chức tài chính quốc

tế IIP

International Investment Position – Dữ liệu đầu tư quốc tế

IMF

International Monetary Fund - Quỹ Tiền tệ Quốc tế

MI

Chỉ số độc lập tiền tệ

ER

Chỉ số ổn định tỷ giá

FO

Chỉ số hội nhập tài chính

NHNN


Ngân hàng nhà nước

NHTW

Ngân hàng trung ương

OCA

Optimum Currency Area - Lý thuyết về khu vực tiền tệ tối ưu

OECD

Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

SDR

Special drawing rights – Quyền rút vốn đặc biệt ở

IMF WB

Worldbank – Ngân hàng Thế giới


MỞ ĐẦU

Đặt vấn đề nghiên cứu
Bộ ba bất khả thi là một trong những lý thuyết quan trọng của tài chính quốc tế, được phát
triển dựa trên những ý tưởng của Robert Mundell và Marcus Fleming vào thập niên 1960.
Theo lý thuyết này, một quốc gia không thể đồng thời đạt được cả ba mục tiêu: chính sách
tiền tệ độc lập, tỷ giá cố định và tự do hoá dòng vốn. Hàm ý của lý thuyết cho rằng do các

chính phủ luôn phải đối mặt với sự đánh đổi các mục tiêu này. Chẳng hạn, nếu chọn hội
nhập tài chính sâu hơn thì phải ổn định tỷ giá ít hơn hoặc độc lập tiền tệ ít hơn, hoặc giảm
mức độ đạt được cả hai mục tiêu còn lại. Mặc dù chuẩn mực ban đầu của lý thuyết bộ ba bất
khả thi không đưa ra bất kỳ công thức hay tiêu chuẩn nào để nói lên một cách chính xác sự
kết hợp giữa ba chính sách của bộ ba bất khả thi, nhưng cùng với sự phát triển và những
biến động trên thị trường tài chính quốc tế, đã có rất nhiều nghiên cứu đi sâu tìm hiểu, đo
lường mức độ đạt được các mục tiêu chính sách và mức độ phù hợp của sự đánh đổi giữa ba
mục tiêu, cũng như những khía cạnh khác liên quan mật thiết tới lý thuyết bộ ba bất khả thi.
Một trong những hướng nghiên cứu quan trọng và mang ý nghĩa thực tiễn cao là sự lựa
chọn kết hợp các mục tiêu chính sách theo lý thuyết bộ ba bất khả thi ở từng quốc gia/ khu
vực như thế nào; sự lựa chọn đó có thể tác động ra sao đến nền kinh tế. Xác định được chiều
hướng cũng như mức độ tác động của chính sách sẽ rất quan trọng trong việc giúp chính
phủ và các cơ quan quản lý vĩ mô có thể xây dựng và thực thi chính sách hợp lý nhằm đạt
được những mục tiêu nhất định.
Tình hình nghiên cứu liên quan đến nội dung luận án
Các nghiên cứu về tác động của chính sách độc lập tiền tệ, ổn định tỷ giá và hội nhập tài
chính đến nền kinh tế thường tập trung phân tích việc lựa chọn chính sách tác động đến các
biến vĩ mô như lạm phát, tăng trưởng, bất ổn trong lạm phát và bất ổn tăng trưởng, nhưng
chưa đề cập đến tỷ lệ thất nghiệp. Điển hình như nghiên cứu của Cukierman và cộng sự
(1993) về vai trò của chính sách tiền tệ độc lập đã chứng minh rằng độc lập tiền tệ có tương


quan thuận với tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển. Hay nghiên cứu của Rodrik
(1998), Easterly và cộng sự (2001) cho rằng hội nhập mậu dịch làm gia tăng bất ổn tăng
trưởng; trong khi Krugman (1993) lại có bằng chứng cho thấy hội nhập mậu dịch làm giảm
bất ổn tăng trưởng.
Nghiên cứu của Ed ards và Levy eyati (2003), Haruka (2007) đưa ra kết quả rằng những
nền kinh tế với tỷ giá hối đoái ổn định hơn có khuynh hướng chịu bất ổn tăng trưởng cao
hơn, đối với cả nhóm nước k m phát triển và thị trường mới nổi, điều này hàm ý rằng các
nền kinh tế với tỷ giá hối đoái linh hoạt thì sẽ có mức độ bất ổn tăng trưởng thấp hơn. Tuy

nhiên, khi những nước này tích lũy được lượng dự trữ ngoại hối lớn, có khả năng giảm bất
ổn tăng trưởng.
Nghiên cứu của Ai enman và cộng sự (2008) đã rút ra những khác biệt về sự lựa chọn chính
sách giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển. Các tác giả phát hiện ra rằng ở
các nước đang phát triển: độc lập tiền tệ cao có thể làm giảm bất ổn tăng trưởng trong khi
ổn định tỷ giá hối đoái nhiều hơn làm tăng bất ổn tăng trưởng, nhưng tác động này có thể
giảm bớt bởi sự tích lũy dự trữ ngoại hối; độc lập tiền tệ có tương quan với mức độ lạm phát
cao trong khi ổn định tỷ giá hối đoái và hội nhập tài chính cao có thể làm giảm mức độ lạm
phát; ổn định tỷ giá hối đoái trong khi phát triển tài chính ở mức độ trung bình có thể làm
gia tăng bất ổn tăng trưởng; hội nhập tài chính cao với mức độ phát triển tài chính cao cũng
có thể làm gia tăng bất ổn; dòng vốn đầu tư gián tiếp và vay mượn ngân hàng có thể làm gia
tăng bất ổn trong lạm phát.
Gần đây, nghiên cứu của Ai enman và Ito (2012) về các nền kinh tế thị trường mới nổi cho
thấy ở những nước này, tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý được củng cố bởi lượng dự trữ
ngoại hối lớn, mức độ độc lập tiền tệ trung bình và hội nhập tài chính có kiểm soát. Các nền
kinh tế thị trường mới nổi với những lựa chọn chính sách hội tụ lại vùng trung gian có xu
hướng chịu ít bất ổn trong tăng trưởng hơn trong hai thập niên gần đây. Như vậy ngoài việc
đánh giá xu hướng chính sách và tác động ở các quốc gia, nghiên cứu cũng tiếp tục nhấn
mạnh vai trò của dự trữ ngoại hối như một điều kiện để các quốc gia có thể phát huy tối đa
các kết hợp chính sách của mình.


Các nghiên cứu về bộ ba bất khả thi được công bố trên các tạp chí khoa học quốc tế hầu hết
xem x t cho mẫu bao gồm nhiều quốc gia (như các nghiên cứu của Ai eman và cộng sự
(2008 và 2010) cho trên 170 nước), hoặc cho một nhóm các quốc gia Châu Á (Patnaik và
Shah (2010)), rất ít nghiên cứu cho riêng từng quốc gia (như Hsing (2013) về Bra il, Hsing
(2012) về Hy Lạp). Trong số các quốc gia được quan sát, Việt Nam hầu như rất ít được đưa
vào bởi khó khăn lớn nhất là những hạn chế về mặt số liệu. Những nghiên cứu có Việt Nam
cũng mới dừng lại ở những chỉ tiêu đo lường các chính sách bộ ba về mặt pháp lý mà chưa
phản ánh thực tế việc thực thi các chính sách đó như thế nào.

Trong khi đó ở Việt Nam, một số nghiên cứu đã vận dụng lý thuyết bộ ba bất khả thi để
phân tích sự lựa chọn chính sách hoặc sử dụng các chỉ số của Ai enman, Chinn, Ito để đánh
giá mức độ đạt được các mục tiêu chính sách tiền tệ độc lập, hội nhập tài chính và ổn định
tỷ giá hoặc sự kết hợp các chính sách vĩ mô. Như bài báo của các tác giả Phạm Thị Tuyết
Trinh (2010), Lê Phan Thị Diệu Thảo (2010), Nguyễn Trần Thục Anh (2010), Nguyễn Đại
Lai (2013)… Nhưng hầu hết các nghiên cứu đều dừng ở việc phân tích những biểu hiện của
lý thuyết bộ ba bất khả thi ở Việt Nam dưới góc độ phân tích thực trạng, chưa đi vào đánh
giá vai trò của các kết hợp chính sách đó ảnh hưởng như thế nào đến nền kinh tế, hoặc chưa
lượng hóa được một cách cụ thể vai trò này, do đó chưa có nhiều đóng góp rõ ràng về mặt
chính sách.
Khoảng trống nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
Một số nghiên cứu về chủ đề lý thuyết bộ ba bất khả thi đăng trên các tạp chí khoa học quốc
tế đã đi vào phân tích tác động của ba chính sách (độc lập tiền tệ, ổn định tỷ giá và hội nhập
tài chính) đến các biến số kinh tế vĩ mô, hoặc chỉ tập trung phân tích ảnh hưởng của một
trong ba chính sách đến nền kinh tế. Tuy nhiên, những nghiên cứu này mới chỉ tập trung
vào hai biến số chính đại diện cho nền kinh tế là tăng trưởng và lạm phát mà chưa chú ý đến
tỷ lệ thất nghiệp. Trong khi đó giảm tỷ lệ thất nghiệp cũng là một mục tiêu quan trọng của
các chính sách kinh tế vĩ mô. Chính vì vậy, việc phân tích ảnh hưởng của các kết hợp chính
sách đến tỷ lệ thất nghiệp cũng là một hướng nghiên cứu cần thiết, nhằm cung cấp cơ sở
khoa học cho việc lựa chọn và thực thi chính sách.


Ở Việt Nam, các nghiên cứu về lý thuyết bộ ba bất khả thi hầu hết theo hướng vận dụng lý
thuyết trong việc thực thi chính sách, hoặc phân tích vai trò của từng chính sách đối với tăng
trưởng kinh tế, lạm phát, và chưa có nghiên cứu nào tính toán đầy đủ các chỉ số độc lập tiền
tệ, ổn định tỷ giá, hội nhập tài chính một cách độc lập, chưa đề cập tới vai trò quan trọng
của dự trữ ngoại hối, cũng như chưa có nghiên cứu chuyên sâu về tác động của các chính
sách đến tăng trưởng kinh tế, lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, do đó các đề xuất chính sách được
đưa ra chưa cụ thể hoặc chưa đạt được độ tin cậy.
Từ nền tảng lý thuyết bộ ba bất khả thi, trên cơ sở các nghiên cứu mở rộng xoay quanh lý

thuyết, và để bổ sung thêm một bằng chứng thực nghiệm về trường hợp Việt Nam cùng với
một số quốc gia Châu Á, luận án đặc biệt quan tâm phân tích tác động của các kết hợp chính
sách bộ ba bất khả thi đến tỷ lệ thất nghiệp (bên cạnh các biến số tăng trưởng và lạm phát).
Đồng thời, luận án sẽ tính toán các chỉ số độc lập tiền tệ, ổn định tỷ giá, hội nhập tài chính
về mặt thực tế ở các quốc gia trong mẫu quan sát, từ đó ứng dụng phương pháp của
Aizenman và cộng sự (2008) để kiểm định sự ràng buộc chính sách theo lý thuyết bộ ba bất
khả thi. Mục tiêu nghiên cứu của luận án do đó được thể hiện qua các câu hỏi nghiên cứu cụ
thể:
-

Các quốc gia Châu Á trong mẫu quan sát và Việt Nam đã lựa chọn chính sách bộ ba
bất khả thi trên thực tế như thế nào từ năm 2000 đến năm 2012?

-

Sự lựa chọn chính sách của các quốc gia trong mẫu quan sát có bị ràng buộc bởi lý
thuyết bộ ba bất khả thi hay không?

-

Các chính sách được lựa chọn và vai trò của dự trữ ngoại hối ở các quốc gia trong
mẫu đã ảnh hưởng như thế nào đến biến động tăng trưởng, biến động lạm phát và tỷ
lệ thất nghiệp?

-

Mức độ phát triển tài chính và chi tiêu chính phủ ở các quốc gia trong mẫu có chi
phối đến mối quan hệ giữa các chính sách và sự ổn định nền kinh tế hay không?

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Do việc tính toán và phân tích bằng các mô hình kinh tế lượng cho riêng trường hợp Việt
Nam sẽ không khả thi nếu muốn đo lường các mục tiêu chính sách bộ ba bất khả thi về mặt


thực tế, bởi số liệu thống kê của Việt Nam không đầy đủ cho một thời kỳ quan sát dài.
Thêm vào đó, việc phân tích riêng trường hợp Việt Nam sẽ không cho thấy được những xu
hướng tác động mang tính đặc trưng của các mục tiêu chính sách mà bất kỳ quốc gia nào
cũng muốn đạt được, hoặc khó có thể so sánh kết quả phân tích với những nghiên cứu trước
đây về các nước đang phát triển bao gồm Việt Nam. Vì vậy, với mục tiêu nghiên cứu sự lựa
chọn chính sách bộ ba bất khả thi và tác động tới nền kinh tế vĩ mô, luận án sẽ quan sát mẫu
10 quốc gia Châu Á với nhiều điểm tương đồng để có thể phân tích và rút ra những kết luận
1

chung cho các quốc gia này cũng như những hàm ý riêng cho Việt Nam . Thời gian quan sát
từ năm 2000 đến 2012 – khoảng thời gian mà các số liệu thống kê của Việt Nam tương đối
đầy đủ để tính toán các mục tiêu chính sách bộ ba bất khả thi, đồng thời giúp phân tích được
ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính 2008 đến mối quan hệ giữa các biến số cần nghiên
cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Để tính toán các chỉ số bộ ba bất khả thi về mặt thực tế, luận án sử dụng các phương pháp
đo lường của Ai enman và cộng sự (2008), Ito và Ka ai (2012). Dựa vào các lý thuyết liên
quan, các nghiên cứu thực nghiệm trước và các mối tương quan kỳ vọng, luận án xây dựng
mô hình nghiên cứu chính trên cơ sở mô hình của Ai enman và cộng sự (2010), nhằm phân
tích tác động của sự kết hợp các chính sách, dự trữ ngoại hối và các biến kiểm soát khác đến
biến động tăng trưởng, biến động lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp. Ngoài ra, để kiểm chứng
bằng thực nghiệm xem các chính sách bộ ba bất khả thi có ảnh hưởng đến mức độ tăng
trưởng và mức độ lạm phát ở các quốc gia trong mẫu nghiên cứu, luận án cũng thay đổi các
biến phụ thuộc bằng tăng trưởng trung bình và lạm phát trung bình. Đồng thời, với kỳ vọng
về ảnh hưởng chi phối của mức độ phát triển tài chính và chi tiêu chính phủ đến tác động
của các kết hợp chính sách, luận án đã điều chỉnh mô hình nghiên cứu nhằm kiểm định

những dự đoán về tác động của các chính sách bộ ba đến biến động tăng trưởng và biến
động lạm phát trong điều kiện mức độ phát triển tài chính và chi tiêu chính phủ khác nhau.
Phương pháp định lượng được sử dụng trong luận án là các phương pháp áp dụng cho mô
1 Việc lựa chọn các quốc gia Châu Á trong mẫu quan sát tương tự nghiên cứu của Patnaik và cộng sự (2011), Patnaik
và Shah (2010). Tuy nhiên luận án đã không chọn Đài Loan vì không có đủ dữ liệu về quốc gia này.


hình hồi quy với dữ liệu bảng (chạy trên phần mềm Stata 11) theo từng nội dung nghiên
cứu.
Kết quả đạt được và những đóng góp mới của luận án
Kết quả phân tích định lượng của luận án cho thấy, ở các quốc gia trong mẫu quan sát
và Việt Nam, (i) độc lập tiền tệ và hội nhập tài chính cao có thể làm giảm bất ổn tăng
trưởng trong khi ổn định tỷ giá sẽ làm tăng bất ổn tăng trưởng; (ii) độc lập tiền tệ và hội
nhập tài chính có tương quan âm với tăng trưởng trung bình trong khi ổn định tỷ giá có
tương quan dương; (iii) độc lập tiền tệ và ổn định tỷ giá có tác động làm giảm biến
động lạm phát trong khi hội nhập tài chính cho thấy những tác động không đồng nhất;
(iv) độc lập tiền tệ và ổn định tỷ giá đi kèm với lạm phát cao trong khi hội nhập tài
chính có tác động làm giảm lạm phát trung bình; (v) độc lập tiền tệ và hội nhập tài
chính có tác động tăng tỷ lệ thất nghiệp trong khi ổn định tỷ giá góp phần làm giảm tỷ
lệ thất nghiệp. Tuy nhiên, các kết quả này có thể thay đổi khi kết hợp với mức dự trữ
ngoại hối nhất định hoặc khi xem x t trong bối cảnh mức độ phát triển tài chính hay chi
tiêu chính phủ khác nhau ở các quốc gia.
So với các nghiên cứu trước cùng chủ đề, luận án có những đóng góp mới:
-

Luận án lần đầu tiên phân tích tác động của kết hợp các chính sách trong lý thuyết bộ
ba bất khả thi đến tỷ lệ thất nghiệp và đạt được những kết quả thống nhất, với độ tin
cậy cao;

-


Luận án lần đầu tiên ứng dụng các phương pháp đo lường các chỉ số độc lập tiền tệ,
ổn định tỷ giá và hội nhập tài chính trên thực tế để tính toán các chỉ số này cho 10
quốc gia Châu Á trong giai đoạn năm 2000 – 2012;

-

Mẫu quan sát của luận án tương đồng với một vài nghiên cứu trên thế giới, song mục
tiêu nghiên cứu tác động của sự lựa chọn chính sách đến các biến số kinh tế vĩ mô
cho mẫu nghiên cứu này không trùng lắp với các nghiên cứu đã có;

-

Luận án lần đầu tiên tính toán một cách đầy đủ các giới hạn về dự trữ ngoại hối để
đạt được các mục tiêu kinh tế cụ thể; lấy đó làm căn cứ cho sự lựa chọn chính sách
trong thực tiễn;


-

Nghiên cứu của Ai enman và cộng sự (2010) đã phân tích ảnh hưởng chi phối của
mức độ phát triển tài chính đến mối quan hệ giữa lựa chọn chính sách và các biến đại
diện cho sự ổn định kinh tế vĩ mô, song luận án còn xem x t thêm ảnh hưởng của
mức độ chi tiêu chính phủ đến mối quan hệ này.

Kết cấu của luận án
Nội dung của luận án có kết cấu bốn Chương:
Chương 1: Khung lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Chương 4: Một số khuyến nghị chính sách cho Việt Nam


KHUNG LÝ THUYẾT
CHƯƠNG 1

VÀ BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM

Bộ ba bất khả thi là một trong những lý thuyết quan trọng của tài chính quốc tế, được phát
triển dựa trên những ý tưởng của Robert Mundell và Marcus Fleming vào thập niên 1960
(Fleming, 1962; Mundell, 1963). Đây là một trong những kết luận cơ bản của các ông khi
nghiên cứu về những điều kiện của chính sách tiền tệ trong một nền kinh tế mở, và đồng
thời là một trong những đóng góp vào giải Nobel mà giáo sư Mundell được trao vào năm
2

1999 . Chương 1 của luận án sẽ tìm hiểu về những nền tảng của lý thuyết bộ ba bất khả thi,
cũng như những nghiên cứu lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm có liên quan, từ đó xác
định mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu.
1.1 Từ mô hình IS – LM đến mô hình Mundell-Fleming:
- Nền tảng sâu xa của mô hình IS – LM chính là tư tưởng của Keynes trong tác phẩm
“Theory of Employment, Interest and Money” (1936). Trong bài báo năm 1937, John R.
Hicks đã tóm lược những điểm chính về mối liên hệ giữa thị trường hàng hóa và thị trường
3

4

tài chính trong tác phẩm của Keynes . Alvin Hansen (1949, 1953) sau đó phát triển những
ý tưởng của Hicks và gọi là mô hình IS – LM. Trong đó, IS thể hiện mối quan hệ giữa đầu
tư (Investment) và tiết kiệm (Saving) trong thị trường hàng hóa; LM thể hiện mối quan hệ
giữa cầu tiền thực tế (Liquidity) và cung tiền (Money) trong thị trường tiền tệ. Cho tới nay,

mô hình IS – LM trở nên rất phổ biến và hữu ích cho việc phân tích các vấn đề về chính
sách tài khóa và tiền tệ, cũng như cân bằng ngắn hạn của nền kinh tế.
2 Robert Mundell được trao giải Nobel Kinh tế vào năm 1999 vì những nghiên cứu của ông về chính sách tài khóa và tiền
tệ dưới các chế độ tỷ giá khác nhau và những phân tích về khu vực tiền tệ tối ưu.
3 John Hick, 1937, “Mr Keynes and the “Classics”: The Suggested Interpretation,” Econometrica, Vol. 5, No. 2. (Apr.,
1937), pp. 147-159. – theo Sách Kinh tế học Quốc tế - Lý thuyết và chính sách, NXB Chính trị Quốc gia (1996).
4 Hansen, A.H. (1949), Monetary Theory and Fiscal Policy, New York: McGraw Hill; Hansen, A.H. (1953), A Guide to
Keynes. New York: McGraw Hill - – theo Sách Kinh tế học Quốc tế - Lý thuyết và chính sách, NXB Chính trị Quốc gia
(1996).


20

-

Từ mô hình IS – LM, một trong những câu hỏi chính mà Mundell đặt ra là làm thế nào chính
phủ có thể ổn định nền kinh tế - duy trì tăng trưởng đồng thời tránh lạm phát cao
– trong một thế giới hội nhập về thương mại và tài chính. Ông đã chỉ ra rằng khi tỷ giá hối
đoái được giữ cố định, việc dùng chính sách tiền tệ để ổn định nền kinh tế là không có tác
dụng. Nguyên nhân là do khi cố định tỷ giá so với các đồng tiền khác, chính phủ sẽ phải
chuẩn bị cung tiền ở bất cứ mức cầu nào nhằm duy trì mức tỷ giá đó, cũng có nghĩa là chính
sách tiền tệ trở nên bị động. Trong trường hợp này, nếu chính phủ muốn ổn định nền kinh
tế, chỉ còn cách sử dụng chính sách tài khóa – tức là thông qua những điều chỉnh trong
chính sách thuế hay chi tiêu của chính phủ. Ngược lại, với cơ chế tỷ giá thả nổi, chính phủ
có thể sử dụng chính sách tiền tệ một cách hiệu quả hơn, trong khi chính sách tài khóa lúc
này trở nên vô hiệu. Mô hình được Mundell đưa ra năm 1960 sau này được gọi là mô hình
Mundell-Fleming do nhà kinh tế Marcus Fleming cũng phát triển một mô hình tương tự
5

trong cùng thời gian này .

-

So với mô hình IS – LM cổ điển, mô hình Mundell-Fleming đã có thêm một đóng góp
quan trọng, đó là mở rộng phân tích thêm yếu tố cán cân thanh toán (bổ sung thêm
đường cán cân thanh toán BP – Balance of Payment), và do đó còn được gọi là mô hình
IS- LM-BP. Mô hình Mundell-Fleming được đặt trong bối cảnh nền kinh tế mở, trong
khi mô hình IS-LM xem x t trong điều kiện nền kinh tế đóng. Theo đó, hiệu quả của
chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong các cơ chế tỷ giá khác nhau được phân
tích dựa trên mối quan hệ ngắn hạn giữa tỷ giá danh nghĩa, lãi suất và sản lượng.

5 Fleming, J. Marcus (1962). "Domestic financial policies under fixed and floating exchange rates". IMF Staff Papers
9: 369–379. Reprinted in Cooper, Richard N., ed. (1969). International Finance. New York: Penguin Books.


22

1.1.1. Hiệu quả của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ dưới chế độ tỷ giá cố định
-

Mundell và Fleming đã phân tích hiệu quả của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ dưới
chế độ tỷ giá cố định thông qua mô hình IS-LM-BP.

-

Trong đó, đường IS là tập hợp các phối hợp khác nhau giữa thu nhập và lãi suất mà tại đó thị
trường hàng hóa cân bằng. Đường IS dịch chuyển thể hiện tác động của chính sách tài khóa.
Đường LM là tập hợp các phối hợp khác nhau giữa thu nhập và lãi suất mà tại đó thị trường
tiền tệ cân bằng. Đường LM dịch chuyển thể hiện tác động của chính sách tiền tệ. Trong khi
đó, đường BP là tập hợp những phối hợp khác nhau giữa thu nhập và lãi suất mà ở đó cán
cân thanh toán cân bằng. Tương tự LM, đường BP dốc lên thể hiện mối quan hệ đồng biến

giữa lãi suất và thu nhập. Đặc biệt là sự tác động của chính sách tài khóa và chính sách tiền
tệ có thể làm thay đổi tình trạng của cán cân thanh toán. Đây chính là một bước phát triển
lớn của mô hình Mundell-Fleming so với mô hình IS – LM nguyên thủy.

-

Giả sử ban đầu cán cân thanh toán cân bằng (BP = 0) ở mức thu nhập Y và lãi suất r. Nếu
tăng, có thể dẫn tới lượng nhập khẩu (M) tăng, làm cho tài khoản vãng lai (NX) giảm, và
do đó cán cân thanh toán thâm hụt (BP < 0). Vì vậy, để cán cân thanh toán cân bằng trở lại,
cần phải gia tăng tài khoản vốn (KA), muốn tăng thu hút dòng vốn cũng có nghĩa là phải gia
tăng mức lãi suất trong nước (r). Tóm lại, khi thu nhập tăng làm cán cân thanh toán thâm
hụt, lãi suất trong nước phải tăng lên để cán cân thanh toán trở về vị trí cân bằng và ngược
lại.

-

Trong thực tế, không phải lúc nào cán cân thanh toán của một quốc gia cũng luôn cân bằng
(BP = 0). Nếu điểm cân bằng bên trong giữa thu nhập và lãi suất nằm bên phải đường BP
(như điểm B trong hình 1.1) thì cán cân thanh toán thâm hụt (BP < 0). Nếu điểm cân bằng
này nằm bên trái đường BP (điểm C) thì cán cân thanh toán thặng dư (BP > 0).

-

Giả sử ban đầu, nền kinh tế đang đạt trạng thái cân bằng tổng thể - cân bằng bên trong và bên
ngoài tại điểm A( *, r*) trên đồ thị 1.1. Khi chính phủ áp dụng chính sách tài khóa mở rộng,
đường IS dịch chuyển tạo ra điểm cân bằng mới: sản lượng tăng đồng thời lãi suất cũng
tăng. Lãi suất tăng có xu hướng thu hút dòng vốn chảy vào trong nước nên cán


cân thanh toán sẽ thặng dư, đồng thời gây áp lực tăng giá đồng nội tệ (tỷ giá giảm, yết giá

trực tiếp). Để duy trì tỷ giá cố định, NHTW phải tung thêm nội tệ vào nền kinh tế để mua
ngoại tệ. Do đó, đường LM dịch chuyển sang phải, xác lập điểm cân bằng vĩ mô mới tại D.
-

Hình 1.1: Quan hệ IS – LM – BP trong chế độ tỷ giá cố định.
r
IS’
LM

IS
BP>0
r*

C
A

BP<0

Y*

-

BP
D

B

-

LM’


Y

Nguồn: tham khảo từ giáo trình Kinh tế Vĩ mô (2013)

Nhưng nếu thay vì chính sách tài khóa, trong trường hợp NHTW áp dụng chính sách tiền tệ
mở rộng, đường LM dịch chuyển sang phải, nền kinh tế cân bằng bên trong tại điểm B, tại
đó sản lượng tăng lên, lãi suất giảm. Lãi suất giảm lại khiến dòng vốn có xu hướng chảy ra
nước ngoài, dẫn đến cán cân thanh toán thâm hụt và tỷ giá có xu hướng tăng lên (nội tệ
giảm giá). Để duy trì tỷ giá cố định, NHTW sẽ phải bán ngoại tệ ra để đổi lấy nội tệ, khiến
cho lượng dự trữ ngoại hối giảm và cung nội tệ cũng giảm. Kết quả là đường LM dịch
chuyển sang trái trở lại vị trí ban đầu và điểm cân bằng cũng quay về lại điểm cân bằng ban
đầu. Nghĩa là sản lượng chỉ gia tăng trong ngắn hạn rồi sau đó sẽ quay lại điểm cân bằng
ban đầu.

-

Như vậy, dưới chế độ tỷ giá cố định và hoạt động chu chuyển vốn tự do, chính sách tài khóa
có hiệu quả cao trong khi chính sách tiền tệ không có hiệu quả.
1.1.2. Hiệu quả của chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa dưới chế độ tỷ giá thả nổi


-

Giả sử nền kinh tế đang ở trạng thái cân bằng bên trong và bên ngoài tại điểm A(Y*, r*) trên
đồ thị 1.2. Chính sách tiền tệ mở rộng sẽ làm đường LM dịch chuyển sang phải, tạo ra điểm
cân bằng mới với sản lượng tăng, lãi suất giảm xuống (điểm B). Khi lãi suất giảm, dòng vốn
lại có xu hướng chảy ra nước ngoài khiến cán cân thanh toán thâm hụt và gây áp lực giảm
giá đồng nội tệ (tỷ giá tăng). Nhưng lúc này nội tệ giảm giá lại giúp làm tăng sức cạnh tranh
của hàng hóa trong nước, dẫn đến xuất khẩu tăng và nhập khẩu giảm, cán cân tài khoản

vãng lai (NX) tăng. Sự gia tăng của tài khoản vãng lai góp phần dịch chuyển đường IS và
BP sang phải (IS’ và BP’), hình thành nên điểm cân bằng mới tại mức sản lượng cao hơn
sản lượng cân bằng ban đầu (điểm E). Như vậy, trong cơ chế tỷ giá thả nổi, chính sách tiền
tệ đã phát huy tác dụng làm gia tăng sản lượng.
-

Hình 1.2: Quan hệ IS – LM – BP trong chế độ tỷ giá thả nổi.
r
I

IS’

IS’

LM

G

LM’

BP’’
BP
BP’

F
A

r*

E

B

Y* YF* YE*

-

Y

Nguồn: tham khảo từ giáo trình Kinh tế Vĩ mô (2013)

Trong khi đó, một chính sách tài khóa mở rộng làm đường IS dịch chuyển sang phải (IS’’),
tạo ra điểm cân bằng mới với sản lượng tăng và lãi suất tăng. Lãi suất tăng sẽ hấp dẫn các
dòng vốn chảy vào, góp phần tạo ra thặng dư cán cân thanh toán, đồng thời làm tăng giá
đồng nội tệ (tỷ giá giảm). Nhưng việc đồng nội tệ tăng giá sẽ làm giảm sức cạnh tranh của
hàng hóa trong nước, khiến cho xuất khẩu giảm, tài khoản vãng lai giảm và đường BP dịch
chuyển sang trái (BP’’), trong khi IS’’ cũng có xu hướng dịch chuyển trở lại vị trí ban đầu,


hình thành nên điểm cân bằng mới với sản lượng và lãi suất đều giảm so với mục tiêu. Hay
nói cách khác, chính sách tài khóa có tác dụng yếu hơn trong việc gia tăng sản lượng.
-

Như vậy, trong chế độ tỷ giá thả nổi và hoạt động chu chuyển vốn tự do, chính sách tiền tệ có
tác dụng mạnh hơn trong khi chính sách tài khóa có tác dụng yếu.

-

Từ những phân tích trên, mô hình Mundell-Fleming hàm ý rằng: hiệu quả của chính sách tiền
tệ và chính sách tài khóa phụ thuộc vào cơ chế tỷ giá hối đoái và mức độ kiểm soát vốn ở
mỗi quốc gia. Đây chính là ý tưởng cốt lõi của lý thuyết “Bộ ba bất khả thi”.

1.2 . Lý thuyết bộ ba bất khả thi
Với lý thuyết về khu vực tiền tệ tối ưu (OCA), Mundell (1961) cho rằng đặc điểm về địa lý
và thương mại sẽ quyết định những lợi ích trong thương mại và phúc lợi xã hội từ cơ chế tỷ
giá ổn định so với cơ chế tỷ giá linh hoạt (vốn được xem như công cụ hấp thụ các cú sốc).
Theo tác giả, vì tỷ giá cố định tạo điều kiện cho hoạt động thương mại, nên cơ chế neo tỷ
giá sẽ thích hợp với các nước có độ mở thương mại cao. Và do đó, neo tỷ giá thích hợp với
các nền kinh tế nhỏ, bởi các nước nhỏ thường giao dịch thương mại nhiều với thế giới. Hơn
nữa, sự tập trung về mặt địa lý trong thương mại cũng khuyến khích các quốc gia neo đồng
tiền của mình với các đối tác thương mại chính.
Robert Mundell cũng là một trong những người đầu tiên nghiên cứu về cách tiếp cận tiền tệ
đối với cán cân thanh toán. Ông đã chỉ ra rằng một nền kinh tế sẽ điều chỉnh mức thâm hụt
hay thặng dư trong cán cân thanh toán gây ra bởi những thay đổi trong cung tiền dưới chế
độ tỷ giá hối đoái cố định như thế nào. Giả sử có chu chuyển vốn giữa các quốc gia, khi
FED tăng cung tiền để giảm lãi suất, chi tiêu nội địa sẽ tăng và nhập khẩu tăng. Kết quả là
cán cân thanh toán thâm hụt, dòng tiền đi ra khỏi quốc gia. Điều này lại làm cầu trong nước
sụt giảm, đưa cán cân thanh toán trở về vị trí cân bằng. Như vậy tác động ròng trong dài hạn
là mức giá cả tăng trong khi không đạt được hiệu quả kinh tế thực.

-

Ngoài ra, Mundell cũng phân tích những công cụ chính sách mà chính phủ nên sử dụng để
đạt được các mục tiêu vĩ mô. Cụ thể, theo ông, trong cơ chế tỷ giá cố định, nên sử


×