Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

Vai trò của chủ tịch hồ chí minh trong xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng việt nam 1941 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.83 KB, 55 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG HÀ NỘI 2

ĐẶNG THỊ KIM NGÂN

VAI TRÒ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
TRONG XÂY DựNG Lực LƯỢNG vũ TRANG
CÁCH MẠNG VIỆT NAM THỜI KỲ 1941 ■ 1945

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh

HÀ NỘI - 2016


ĐẶNG THỊ KIM NGÂN

VAI TRÒ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
TRONG XÂY

DựNG Lực LƯỢNG vũ

TRANG CÁCH MẠNG VIỆT NAM THỜI KỲ
1941 -1945
KHÓA LUẬN TÓT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh
Ngưòi hướng dẫn khoa học

Đại tá Đào Văn Chung
Để hoàn thành khóa luận này, bằng sự cố gắng, nỗ lực của bản thân và những kiến thức được học tại trường,
cùng với sự hướng dẫn tận tình của thầy Đào Văn Chung, em đã hoàn thành khóa luận này.


Lời đàu tiên em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới thày giáo, Đại tá Đào Văn Chung đã trực tiếp hướng


dẫn, giúp đỡ em ttong suốt quá trình thực hiện khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô ttong Trung tâm Giáo dục quốc phòng Hà Nội 2.
Vì mói làm quen với phương pháp nghiên cứu khoa học nên khóa luận này không tránh khỏi những thiếu sót.
Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp quý báu của thầy cô giáo trong Trung tâm Giáo dục quốc phòng và các bạn
đồng nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 21 tháng 04 năm 2016
Sinh viên

Đặng Thị Kim Ngân
Luận văn này được hoàn thành vói sự hướng dẫn của thày Đào Văn Chung. Em xin cam đoan kết quả nghiên
cứu trong đề tài này đích thực của riêng em.
Đề tài của em không trùng vói kết quả nghiên cứu của tác giả khác và chưa có một đề tài nghiên cứu nào. Nếu
sai em xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 21 tháng 04 năm 2016 Sinh viên

Đặng Thị Kim Ngân


KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

NXB

Nhà xuất bản


QDND

Quân đội nhân dân

LLVT

Lực lượng vũ trang

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

CAND

Công an nhân dân

ANTT

An ninh trật tự

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

BVTQ

Bảo vệ tổ quốc
MỤC LỤC


1.3.1.


1.3.2. Cao

trào

1.3.3. Cách

mạng

kháng
tháng

Nhật

10
11

Tám 12

1.3.4. Tuyên ngồn Độc lập Việt Nam........................................................


2.4.3. Sự ra đời và những hoạt động của đội Việt Nam tuyên truyền giải
3.2.1.
3.2.2. Chất lượng chính trị là sổ 1, là cơ sở nâng cao chất lượng tổng
hợp, sức mạnh chiến đẩu trực tiếp, đẩu tranh trên lĩnh vực lí luận, chính
trị, tư tưởng,... chổng lại âm mưu và hành động của các thế lực thù địch
33

3.1. Xây dụng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thấm nhuần sâu sắc, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, kế thừa những bài học kinh
nghiệm của ông cha ta về xây dựng tổ chức quân sự trong lịch sử giữ nước của
dân tộc, đồng thời đi sâu phân tích bản chất của chủ nghĩa thực dân, Hồ Chí
Minh đã sớm chỉ ra đối với các dân tộc thuộc địa, muốn chiến thắng kẻ thù
hung bạo thì không có sự lựa chọn nào khác là phải “dùng bạo lực cách mạng
chống bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”.
Đầu năm 1941 sau gần ba mưoi năm hoạt động ở nước ngoài, Hồ Chí
Minh trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trực tiếp chỉ đạo xây
dựng lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam. Sự ra đòi và lớn mạnh không
ngừng của lực lượng vũ trang làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, dân tộc ta
đã giành được thắng lợi vẻ vang trong Cách mạng Tháng 8 năm 1945, trong hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Những thắng lợi vĩ đại
đó là minh chứng cho sự chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo và vai trò to lớn của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, nhà chiến lược quân sự thiên tài, người cha thân yêu của lực
lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, người sáng lập, giáo dục rèn luyện Quân
đội nhân dân Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân là một
bộ phận quan trọng trong toàn bộ di sản quân sự mà người để lại cho toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Nội dung những quan điểm đó không chỉ có ý
nghĩa trực tiếp đến việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng Quân
đội nhân dân trong đấu tranh cách mạng, mà còn là cơ sở nền tảng để Đảng ta
xây dựng lực lượng vũ ừang nhân dân trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Trước yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu và vận


7


dụng sáng tạo tư tưởng quân sự của Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp
ttong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhận thức được vai trò quan trọng của việc xây dựng lực lượng vũ trang
cách mạng Việt Nam, ý nghĩa và tính thực tiễn của vấn đề này nên em đã chọn
đề tài: “Vai trò của Chủ Tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng lực lượng vũ
trang cách mạng Việt Nam thời kỳ 1941 - 1945” làm đề tài nghiên cứu khóa
luận tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
-

Góp phần làm rõ vai trò to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc xây
dựng lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam thòi kỳ 1941 - 1945.

-

Vận dụng những quan điểm cơ bản của Chỉ tịch Hồ Chí Minh về xây
dựng lực lượng vũ hang nhân dân hiện nay.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu về bối cảnh tình hình thế giới và Việt Nam trong những năm
đầu của cuộc chiến ưanh thế giới thứ hai.
-

Nghiên cứu vai trò Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng lực lượng vũ
trang cách mạng Việt Nam thòi kỳ 1941 - 1945.


-

Vận dụng những quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

4. Đổi tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.

Đối tượng nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu vai trò của Hồ Chí Minh trong xây dựng lực
lượng vũ trang Cách mạng Việt Nam thời kỳ 1941 - 1945.
4.2.
-

Phạm vỉ nghiên cứu

Nghiên cứu vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc xây dựng lực
lượng vũ trang cách mạng Việt Nam thời kỳ 1941 - 1945 và vận dụng
trong xây dựng lực lượng vũ trang hiện nay.

8


5. Phương pháp nghiền cứu
-

Phương pháp lịch sử

-


Phương pháp logic

-

Phương pháp liệt kê

-

Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu

-

Một số phương pháp chuyên ngành

6. Ý nghĩa khoa học thực tiễn của đề tài
-

Từ kết quả nghiên cứu của đề tài, khẳng định vai trò to lớn của Chủ tịch
Hồ Chí Minh trong xây dựng lực lượng vũ trang Cách mạng Việt Nam.

-

Đề tài góp phàn bổ sung những cơ sở, nền tảng trong xây dựng lực lượng
vũ ừang nhân dân trong giai đoạn cách mạng hiện nay.

7. Kết cấu đề tài
-

Mở đầu


-

Nội dung gồm: 3 chương
Chương 1: Bối cảnh tình hình thế giới và Việt Nam trong những năm đầu

của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai
Chương 2: Vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng lực lượng
vũ trang cách mạng Việt Nam thời kỳ 1941 - 1945
Chương 3: Vận dụng những quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về xây dựng lực lượng vũ ừang nhân dân hiện nay
-

Kết luận và kiến nghị

-

Tài liệu tham khảo
Chương 1

BỐI CẢNH TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM TRONG NHỮNG
NĂM ĐẦU CỦA CUỘC CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI


9


1.1.

Vài nét về tình hình thế giói


1.1.1. Sau chim tranh thế giới thứ hai, tình hình thế giới từng bước có
những chuyển biến to lớn, tác động tới quan hệ quốc tế, tác động tới
từng nước, từng khu vực và cả trật tự thế giới vừa được thỉấ lập
- Thứ nhất, Chiến tranh thế giói thứ hai kết thúc, nhưng các nước châu
Âu, Nhật Bản và Liên Xô bị chiến tranh tàn phá nặng nề, bị tổn thất lớn cả về
người và của. Chỉ có Mỹ giàu lên nhanh chóng trong chiến tranh (thu về 114 tỉ
đô la lợi nhuận do bán vũ khí và phương tiện chiến tranh) và trở thành nước
mạnh nhất về kinh tế trong khoảng 3 năm sau chiến tranh thế giói thứ hai, Mỹ
là chủ nợ lớn nhất thế giới (riêng về vũ khí, các nước đồng minh châu Âu đã nợ
Mỹ 41,751 tỉ USD) và nắm trong tay một lọi thế khiến các nước phải kiêng nể,
e dè là độc quyền về bom nguyên tử.
Trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ chỉ có 30 vạn người chết
(trong khi Liên Xô là hơn 26,5 triệu người, và toàn thế giới là 56 triệu người),
đất nước Mỹ lại không bị chiến tranh tàn phá (vì mặt trận chính là chiến trường
châu Âu bị tàn phá lên tới 260 tỉ đô la, trong đó Liên Xô chiếm 49,3%). Có thể
thấy rằng, Mỹ đã làm giàu trên sự đổ nát của châu Âu và thế giới. Sau chiến
tranh, nước Mỹ đã ừở thành nước giàu mạnh nhất, chiếm ưu thế về mọi mặt
trong thế giới tư bản chủ nghĩa.
Có thể nói, Mỹ vượt trội hơn tất cả các nước về kinh tế, quân sự và chính
trị... Từ đây tham vọng làm bá chủ thế giới của Mỹ ngày càng bộc lộ và đây
cũng là cơ sở để Mỹ triển khai nhanh chóng kế hoạch của mình trong một bối
cảnh quốc tế và tương quan so sánh lực lượng hết sức thuận lợi đứng cả về hai
phía quan hệ: Mỹ với các nước trong khối đồng minh tư bản chủ nghĩa; Mỹ với
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, sức mạnh và ưu thế của Mỹ không kéo dài được mãi, nó đã bị
giảm sút tương đối từ những năm 60 của thế kỷ XX trở đi, đặc biệt từ những

1
0



năm 70 khi các nước tư bản phục hồi và vươn lên nhanh chóng, trước hết là Tây
Âu và Nhật Bản.
Bị thiệt hại trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản chẳng những mất
hết thuộc địa mà nền kinh tế cũng lâm vào tình ừạng bị phá hủy hoàn toàn. Đất
nước tiêu điều, các thành phố lớn bị tàn phá nặng nề, Nhật Bản bị kiệt quệ về
kinh tế, bị đè bẹp về quân sự, bị suy sụp về tinh thần, bị thiệt hại lớn về người
và của. Nhờ vào kế hoạch đầu tư của Mỹ mà bước sang những năm 60 của thế
kỷ XX, kinh tế Nhật Bản đã có bước phát triển nhanh chóng, đuổi kịp và vượt
các nước Tây Âu, vươn lên đứng thứ hai (sau Mỹ) trong thế giới tư bản chủ
nghĩa. Thực ra sự phát triển nhanh chóng vượt bậc này của kinh tế Nhật Bản có
những nguyên nhân khách quan, chủ quan của nó, và sự “thần kỳ” này đã chứa
đựng những mặt trái của nó mà từ đầu những năm 70 trở đi đã ngày càng bộc lộ
rõ ràng. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng Nhật Bản đã có những bước tiến
hết sức kỳ diệu trong tất cả các lĩnh vực, khiến cả thế giới phải kinh ngạc.
- Thứ hai, hai cường quốc Xô - Mỹ từ quan hệ đồng minh trong Chiến
tranh thế giới thứ hai, sau chiến tranh quan hệ ấy nhanh chóng chuyển thành
quan hệ đối đầu. Từ quan hệ đối đàu giữa hai nước chuyển thành quan hệ đối
đầu giữa hai phe - phe xã hội chủ nghĩa và phe tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên,
trong bối cảnh thế giới hai cực, quan hệ Xô - Mỹ, quan hệ giữa hai phe, mặc dù
mâu thuẫn, nhưng vẫn phụ thuộc và kiềm chế nhau, đều thực hiện chiến lược
phòng ngự, đều tránh đụng đầu trực tiếp vói nhau. Vì thế, về đại cục, hòa bình
thế giới được duy trì trong suốt thời kì chiến tranh lạnh và cả sau đó.
Giữa “hai cực” Liên Xô và Mỹ có những mâu thuẫn rõ ràng. Trong khi
“cực” Liên Xô luôn luôn làm hậu thuẫn cho phong trào cách mạng xã hội chủ
nghĩa, cách mạng giải phóng dân tộc và sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, dân
chủ và tiến bộ xã hội; ngược lại, “cực” Mĩ luôn ra sức cấu kết, giúp đỡ các thế
lực phản động chống phá cách mạng thế giới với mưu đồ vươn lên vị trí thống


1
1


trị thế giới. Đúng như Thomas L. Friedman trong tác phẩm của mình có nhan
đề “Chiếc Lexus và cây ô liu” đã nhận xét khá chính xác về mối quan hệ giữa
hai cường quốc vốn là bạn bè và liên minh vói nhau trong chiến tranh, giờ lại là
những đối thủ cạnh tranh của nhau: “Khi Mỹ trỗi lên từ sau Chiến tranh Thế
giới thứ hai, cưỡi trên lưng thế giới như một siêu cường vô địch, có trọng trách
toàn cầu và tham gia tranh giành quyền lực với Liên Xô... Bỗng nhiên, cả thế
giới trở thành sân chơi của Hoa Kỳ và cả thế giói chỗ nào cũng quan trọng, vì
mọi ngõ ngách trên thế giới đều có sự tranh giành với Liên Xô”. Có thể nói,
trong hơn nửa thế kỷ tồn tại của trật tự hai cực Ianta, một đặc điểm lớn của tình
hình thế giói là giữa Liên Xô và Mỹ, giữa hai phe vừa đấu tranh gay gắt với
nhau lại vừa chung sống hòa bình và họp tác với nhau thông qua diễn đàn của
tổ chức quốc tế Liên Họp Quốc.
- Thứ ba, một biến chuyển lớn sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đó là sự ra
đòi của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Một loạt các nước Đông Âu, Châu Á và khu
vực Mỹ Latinh sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, đã
tuyên bố đi lên chủ nghĩa xã hội cùng với Liên Xô họp thành một hệ thống xã
hội chủ nghĩa hùng mạnh. Những thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội trong
những năm 50 - 60 đã thu hút sự chú ý của thế giới và tác động tới chiều hướng
phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới. Anh hưởng của chủ nghĩa xã hội
ngày càng lớn, chủ nghĩa xã hội là chỗ dựa tin cậy của phong trào đấu tranh vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chủ nghĩa tư bản không
còn là một hệ thống duy nhất chi phối nền chính tri thế giới. Tình hình trên đây
đã dẫn tới một vấn đề: trong chiến lược của mình, Mỹ và các nước đồng minh
không thể không tính đến việc hạn chế sự phát triển của chủ nghĩa xã hội.
-


Thứ tư, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, cao trào giải phóng dân tộc diễn
ra sôi nổi ở khắp các lục địa của Ắ, Phi, Mỹ Latinh, hệ thống thuộc địa
của chủ nghĩa thực dân bị tan vỡ từng mảng lớn và đến giữa những năm

1
2


60 đã sụp đổ về cơ bản. Hơn 100 quốc gia dân tộc trẻ tuổi ra đòi, ngày
càng tham gia tích cực vào đời sống chính trị thế giới. Bộ mặt hành tinh
thay đổi to lớn. Trong chiến lược của hai cường quốc Xô - Mỹ và hai hệ
thống không thể không tính đến lực lượng này.
-

Thứ năm, cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật bùng nổ vào những năm
40 của thế kỷ XX và diễn ra mạnh mẽ sau đó. Cuộc cách mạng này đã
đưa lại những tiến bộ nhảy vọt, những thành tựu kì diệu, những tác động
tích cực và những hậu quả của nó rất to lớn. Những nước nào đi sâu vào
cách mạng khoa học - kỹ thuật, tận dụng những thành tựu của nó thì
vươn lên mạnh mẽ, tiếng nói của họ trong quan hệ quốc tế ngày càng có
trọng lượng hơn. Những nước bỏ lỡ cơ hội tận dụng thành tựu của cách
mạng khoa học - kỹ thuật, thì tụt hậu, hình bóng của các nước ấy trong
quan hệ quốc tế cũng trở nên mờ nhạt.

1.1.2. Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hay còn gọi là cách mạng kỹ
thuật lần thứ hai có những điểm khác biệt so vói cuộc Cách mạng kỹ
thuật lần thứ nhất
Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật, hay còn gọi là cách mạng kỹ thuật
làn thứ hai có những điểm khác biệt so với cuộc Cách mạng kỹ thuật làn thứ
nhất, vì có nội dung phong phú hơn và phạm vi rộng lớn hơn nhiều, nó diễn ra

ừong lĩnh vực khoa học cơ bản gồm toán học, vật lí học, hóa học, sinh vật học.
Trải qua nửa thế kỷ, nhất là giữa thập niên 70 của thế kỷ XX, cuộc cách mạng
khoa học - kỹ thuật đã thu được những thành tựu to lớn và kỳ diệu trên nhiều
lĩnh vực. Trong đó, sự kiện đáng chú ý, có ảnh hưởng trực tiếp đến hai khối
quân sự được hình thành sau này là năm 1945, bom nguyên tử đã ra đời ở Mỹ,
có thể dẫn tới những sự tàn phá không lường hết được của đất nước này đối với
hòa bình thế giới.
-

Tóm lại, Chiến tranh lạnh gần như là một hệ quả tất yếu của tình hình

1
3


đối đầu, căng thẳng giữa hai phe thời kỳ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
1.2.

Khái quát tình hình Việt Nam trong những năm đầu của

chiến tranh thế giới lần thứ hai
1.2.1. Ở Đông Dương, thực dân Pháp thỉ hành chính sách thời chiến rất
phản động
-

Ở Đông Dương, thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến rất phản
động: thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta, tập trung
lực lượng đánh vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Thực hiện chính sách
“kỉnh tế chỉ huy” tăng cường vơ vét sức ngưòi, sức của phục vụ chiến
tranh, bắt lính sang Pháp làm bia đỡ đạn.


1.2.2. Đời sắng của nhân dân Việt Nam lâm vào cảnh ngột ngạt về chính
trị, bần cùng về kỉnh tế, chịu cảnh “một cồ hai tròng”
Lợi dụng sự thất thủ của Pháp ở Đông Dương, tháng 9/1940 Nhật Bản
cho quân xâm lược Đông Dương, Pháp nhanh chóng đầu hàng và dâng Đông
Dương cho Nhật. Chịu cảnh “một cổ hai tròng” đòi sống của nhân dân Việt
Nam lâm vào cảnh ngột ngạt về chính trị, bần cùng về kinh tế.
-

Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam vói Pháp, Nhật và tay sai phản động
ngày càng trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.

1.3.

Các cuộc khởi nghĩa vũ trang đầu tiên bùng nổ

1.3.1. Khởi nghĩa Bắc Sơn, Khởi nghĩa Nam Kỳ và Bỉnh biến Đô Lương
-

Ngày 27 tháng 9 năm 1940, người dân Bắc Sơn do Đảng bộ Đảng Cộng
sản Đông Dương địa phương lãnh đạo đã chớp cơ hội đế quốc Nhật tấn
công vào Lạng Sơn, đế quốc Pháp trốn chạy về Thái Nguyên qua Bắc
Sơn,

Đảng bộ Bắc Sơn huy động dân chúng vũ trang cướp chính quyền, tấn công
chiếm được đồn Mỏ Nhài, tiếp tục tấn công tàn quân Pháp ở đèo Canh Tiêm,
Sập Dì. Xứ ủy Bắc Kỳ Đảng Cộng sản Đông Dương cử Trần Đăng Ninh lãnh

1
4



đạo phong ttào và xây dựng lực lượng để chiến đấu lâu dài. Pháp sau đó tập
trung quân chiếm lại các đồn và đàn áp phong trào. Khởi nghĩa Bắc Sơn tan rã
nhưng phong trào du kích vẫn tiếp tục.
-

Năm 1940, Xứ ủy Nam Kỳ của Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương
và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ trong hoàn cảnh nước Pháp bị bại
trận trong “Đệ nhị thế chiến”, Phát xít Nhật xâm chiếm Đông Dương,
chiến ưanh Pháp - Xiêm có nguy cơ bùng nổ, phong ưào phản kháng của
binh sĩ người Việt trong quân đội Pháp ở miền Nam Việt Nam có dấu
hiệu phát triển. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Đông Dương họp tháng 11 nhận định điều kiện cách mạng chưa chín
muồi, đã quyết định đình hoãn cuộc khởi nghĩa. Nhưng quyết định đó
chưa kịp phổ biến thì lệnh khởi nghĩa đã được ban bố. Ngày 23 tháng 11,
khởi nghĩa đã diễn ra ở Mỹ Tho, Gia Định, Chợ Lớn, Tân An, Sóc
Trăng, cần Thơ, Vĩnh Long, Long Xuyên, Bạc Liêu... Chính quyền cách
mạng được thành lập ở một số nơi và đã bắt đầu ngay một số cải cách
dân chủ. Riêng ở Sài Gòn, kế hoạch bị lộ, Pháp kịp đề phòng, và khởi
nghĩa không thực hiện được. Pháp thẳng tay đàn áp phong trào khởi
nghĩa. Hàng nghìn người bị giết và bị bắt, nhiều làng mạc bị triệt phá,
nhiều cán bộ Đảng Cộng sản Đông Dương (Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy
Tập, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai...) bị xử tử.
Lực lượng khởi nghĩa một số rút được về Ư Minh, Đồng Tháp... Khởi
nghĩa Nam Kỳ đã nêu cao ý chí đấu tranh của người dân Việt Nam và
báo hiệu một cuộc khỏi nghĩa toàn quốc, bước đầu đấu ừanh vũ trang
của các dân tộc ở Đông Dương.

-


Ngày 13/1/1941, dưới sự chỉ huy của Đội Cung (Nguyễn Văn Cung),
binh lính người Việt trong quân đội Pháp đang đóng ở đồn Chợ Rạng
(Thanh

1
5


Chương, Nghệ An) đã nổi dậy. Tối hôm đó, họ đánh chiếm đồn Đô Lương rồi
lên xe kéo về Vinh, định cùng binh lính người Việt ở đây tấn công Pháp để
chiếm thành. Ke hoạch không thành, Đội Cung bị bắt và bị xử tử cùng với 10
đồng đội của ông tại Vinh ngày 24/4/1941. Nhiều người khác bị kết án khổ sai
và đưa đi đày.
1.3.2. Phong trào Việt Minh
Đầu năm 1941, Nguyễn Ái Quốc về Việt Nam và trực tiếp lãnh đạo cách
mạng chống Pháp. Sau một thòi gian nắm tình hình quốc nội và chuẩn bị,
Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị lần vm Ban chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Đông Dương từ ngày 10 đến ngày 19 tháng 5 năm 1941
trong rừng Khuổi Nậm, thuộc Pác Bó, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Hội
nghị Pác Bó đã xác định cuộc cách mạng ở Đông Dương ừong giai đoạn hiện
tại là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng và chủ trương thành lập Mặt trận
dân tộc thống nhất riêng cho mỗi nước Việt Nam, Lào, Cam-pu- chia. Ngoài ra,
hội nghị cũng hoàn chỉnh hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng được đề ra từ
hội nghị VI vào tháng 11 năm 1939 là đề cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên
hàng đầu. Theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, vào ngày 19 tháng 5 năm 1941,
Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh (gọi tắt là
Việt Minh).
1.3.3. Cao trào kháng Nhật
Cao trào kháng Nhật cứu nước và Khởi nghĩa Ba Tơ

+ Tối 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp trên toàn bán đảo Đông Dương,
trong đó có Việt Nam. Sau khi lật Pháp độc chiếm Đông Dương, chính quyền
Nhật liền thi hành chính sách mua chuộc, mỵ dân, kết hợp với chính sách đàn
áp.

+ về chính trị, Phát xít Nhật Bản tuyên bố trao trả “độc lập” cho Việt
Nam, thành lập và bảo hộ Đe quốc Việt Nam, nhưng giữ nguyên bộ máy cai tri

1
6


của Pháp và thay người Nhật vào vị trí người Pháp. Nhật cho quân đội Thiên
Hoàng tấn công vào các chiến khu và cơ sở cách mạng của Việt Minh.

+ về kinh tế, Nhật chiếm các cơ sở kinh tế của chế độ cũ, in giấy bạc
mới tung ra thị trường, vơ vét tư liệu sản xuất, hàng hóa, lương thực và cướp
đoạt tài sản của dân chúng Việt Nam; làm cho nền kinh tế Việt Nam bị kiệt quệ,
cuộc sống người dân điêu đứng, cùng quẫn. Giá gạo ở Bắc Kỳ vào tháng
10/1944 còn là 1150 đồng/tạ, thì đến tháng 2/1945 đã là 1.000 đồng/tạ. Tình
trạng đó đã dẫn đến nạn đói Ất Dậu, làm gần 2 triệu ngưòi bị chết đói.
Ngày 12 tháng 3 năm 1945, Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương ra chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Đảng
Cộng sản Đông Dương chủ trương phát động cao trào kháng Nhật mạnh mẽ và
chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa; đồng thời thay đổi hình thức tuyên truyền, thay
đổi khẩu hiệu tuyên truyền, tổ chức đấu ừanh để thích hợp với tình hình mới.
Phong trào đã diễn ra mạnh mẽ, phong phú về nội dung và hình thức, tấn
công Nhật toàn diện trên các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa v.v. trên
khắp các thành thị, nông thôn và vùng thượng du. Phong trào đã chiếm giữ
được nhiều vùng rộng lớn, hình thành nhiều căn cứ cộng sản.

Quân đội Nhật đã mở các cuộc càn quét, bình định, tấn công mạnh vào các
vùng của Việt Minh. Quân Việt Minh, các đội dân quân - tự vệ, du kích đã
chống trả quyết liệt, bảo vệ căn cứ của họ. Tại các đô thị, các phong trào đấu
tranh của công nhân, học sinh, viên chức dâng cao. Nhiều tổ chức công nhân
cứu quốc được xây dựng ở nhiều xí nghiệp. Cao trào kháng Nhật hoạt động sôi
nổi trên cả nước.
1.3.4. Cách mạng tháng Tám
- Khi Đế quốc Nhật đầu hàng phe Đồng Minh giữa năm 1945, Việt Nam
có cơ hội lớn giành lại độc lập. Cơ hội này đã được Hồ Chí Minh và Việt
Minh tận dụng. Ngày 19 tháng 8 năm 1945, Đảng Cộng sản Đông Dương và

1
7


Mặt trận Việt Minh tổ chức cuộc Cách mạng tháng Tám, khởi đầu từ Tổng khởi
nghĩa Hà Nội rồi dần lan rộng ra khắp miền Bắc, miền Trung, miền Nam và cả
nước. Kết quả Đe quốc Nhật và chính phủ Đe quốc Việt Nam do họ thành lập
và bảo hộ đã sụp đổ.
- Việt Nam phục hồi độc lập.
1.3.5. Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam
Sáng ngày 26 tháng 8 năm 1945, tại ngôi nhà số 48 Hàng Ngang, Hà Nội,
Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì cuộc họp của Thường vụ Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam. Trong số các quyết định của cuộc họp này, Thường vụ
nhất trí chuẩn bị Tuyên ngôn độc lập và tổ chức mít tinh lớn ở Hà Nội để ra mắt
người dân và chính thức công bố quyền độc lập và thiết lập chính thể dân chủ
cộng hòa.
Ngày 30 tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh mời một số người đến góp ý
cho bản Tuyên ngôn độc lập do ông soạn thảo.
Ngày 31 tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh bổ sung thêm cho dự thảo

Tuyên ngôn độc lập.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập
trước đông đảo nhân dân, chính thức khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Việt Nam chính thức phục hồi nền độc lập sau gần 100 năm Pháp thuộc.
Đây được nhiều người xem là bản Tuyên ngôn độc lập thứ ba trong lịch sử
Việt Nam, sau bài thơ thần Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt ở thế kỷ 10
và Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi viết năm 1428.
Chương 2
VAI TRÒ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TRONG XÂY DƯNG Lực
LƯỢNG VŨ TRANG CÁCH MẠNG VIỆT NAM
THỜI KỲ 1941 -1945

1
8


2.1.

Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam

2.1.1. Nguyễn Ái Quắc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng
-

Ngày 28/1/1941, sau 30 năm tìm đường cứu nước và hoạt động yêu nước
ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã trở về Tổ quốc. Pắc Bó (Hà Quảng Cao Bằng) là nơi đầu tiên được Người chọn đặt cơ quan lãnh đạo cách
mạng.

2.1.2. Nguyễn Ái Quắc bắt tay ngay vào việc xây dựng cơ sở cách mạng,
tổ chức quần chúng, chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương lần thứ tám
của Đảng

-

về đến Tổ quốc, Nguyễn Ái Quốc bắt tay ngay vào việc xây dựng cơ sở
cách mạng, tổ chức quần chúng, chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương lần
thứ tám của Đảng. Hội nghị họp trong tháng 5/1941 tại Pắc Bó do Ngưòi
chủ trì, tiếp tục chủ trương của Hội nghị Trung ương lần thứ sáu, nhưng
nêu cao hơn nữa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và chủ
trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước Việt Nam,
Lào, Cam-pu-chia, ở mỗi nước thành lập một mặt trận đoàn kết dân tộc
đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không
phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cầu cuộc
dân tộc giải phóng. Chuẩn bị tiến tói cuộc khởi nghĩa vũ trang khi thời
cơ đến lúc này được coi là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân
ta.

-

Cuối năm 1940, sau khởi nghĩa Bắc Sơn thất bại, theo chủ trương của
Đảng, một bộ phận lực lượng vũ trang chuyển sang xây dụng các đội du
kích, sau thống nhất thành đội Cứu quốc quân hoạt động ở căn cứ Bắc
Sơn - Võ

Nhai. Cứu quốc quân phát động chiến tranh du kích trong 8 tháng (từ tháng 71941 đến tháng 2/1942) sau đó phân tán thành nhiều bộ phận để chấn chỉnh lực

1
9


lượng và tiến hành công tác vũ trang tuyên truyền, xây dựng cơ sở chính trị
trong quàn chúng ở các tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn.

-

Thời gian này, Cao Bằng được coi là nơi thí điểm cuộc vận động xây
dựng các Hội cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh. Đến năm 1942, khắp
chín châu của Cao Bằng có Hội cứu quốc, trong đó có ba châu “hoàn
toàn”, nghĩa là mọi người đều gia nhập tổ chức Việt Minh, xã nào cũng
có Uỷ ban Việt Minh. Uỷ ban Việt Minh tỉnh Cao Bằng và Uỷ ban Việt
Minh lâm thời liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng được thành lập. Sang năm
1943, Uỷ ban Việt Minh lâm thời liên tỉnh lập ra 19 ban xung phong
“Nam tiến” để liên lạc với căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai và phát triển
lực lượng cách mạng xuống các tinh miền xuôi.

-

Trong khi chú trọng xây dựng lực lượng chính trị trong quàn chúng cơ
bản ở nông thôn và thành thị, Đảng vẫn không xem nhẹ việc tập họp
rộng rãi các tầng lớp nhân dân khác, như học sinh, sinh viên, trí thức, tư
sản dân tộc vào Mặt trận cứu nước. Năm 1943, Đảng đưa ra bản Đề
cương văn hoá Việt Nam, vận động thành lập Hội văn hoá cứu quốc Việt
Nam (cuối năm 1944) và Đảng Dân chủ Việt Nam đứng trong Mặt trận
Việt Minh (tháng 6/1944). Đảng còn chủ trương vận động binh lính
người Việt trong quân đội Pháp, tranh thủ cả những ngoại kiều ở Đông
Dương có tinh thần chống phát xít.

2.1.3. Giữa năm 1944, tình hình thế giói và nước ta chuyển biến mau lẹ
có lợi cho cách mạng
-

Giữa năm 1944, tình hình thế giới và nước ta chuyển biến mau lẹ có lợi
cho cách mạng. Căn cứ vào đó, ngày 7/5/1944 Tổng bộ Việt Minh ra chỉ

thị cho các cấp sửa soạn khởi nghĩa và kêu gọi nhân dân “Sắm vũ khí
đuổi thù chung”. Tháng 10/1944, Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào
toàn quốc nêu rõ: “phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt... Cơ hội cho
1 dân tộc ta chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thòi gian rất gấp,

2
0


ta phải làm nhanh”.
2.1.4. Hai đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân
cùng nhau hợp nhất thành Việt Nam Giải phóng quân
-

Thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng và được Hồ Chí Minh giao trọng
ttách, ngày 22/12/1944 Võ Nguyên Giáp thành lập “Đội Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân” gồm 34 chiến sĩ trong một khu rừng thuộc
huyện Nguyên Bình - Cao Bằng. Sau đó, Đội xuất quân và giành chiến
thắng liền trong hai trận, tiêu diệt gọn hai đồn Phai Khắt và Nà Ngần
(Cao Bằng) ngày 25 và 26/12/1944.

-

Phát huy trận đầu ra quân là chiến thắng, đội đẩy mạnh hoạt động vũ
trang tuyên truyền, kết hợp chính trị và quân sự, xây dựng cơ sở cách
mạng, góp phần củng cố và mở rộng khu căn cứ Cao - Bắc - Lạng, cổ vũ
và thúc đẩy phong trào cách mạng trong cả nước.
+ Ở Thái Nguyên, đội Cứu quốc quân phát động chiến tranh du kích, hạ

nhiều đồn địch, phối họp cùng với nhân dân thành lập chính quyền ở một số

nơi. Đến giữa tháng 5/1945, hai đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và
Cứu quốc quân cùng nhau họp nhất thành Việt Nam Giải phóng quân.
Như vậy, bên cạnh lực lượng hùng hậu của quần chúng, lực lượng vũ
trang ra đời và trưởng thành nhanh chóng, trở thành chỗ dựa cho cách mạng.
-

Đấu tranh ừên lĩnh vực văn hoá tư tưởng. Trên lĩnh vực văn hoá tư
tưởng, Đảng Cộng sản đấu tranh chống lại nọc độc văn hoá tư tưởng
phản động, phản khoa học của Nhật - Pháp và tay sai, tuyên truyền phổ
biến văn hoá tư tưởng tiến bộ, khoa học, cách mạng, đường lối chính
sách của Đảng và Mặt trận, nhằm giác ngộ cổ vũ quần chúng tham gia
cách mạng.

-

Một trong những vũ khí sắc bén nhất của cuộc đấu tranh là sách báo.
Nguyễn Ái Quốc và Đảng ta luôn quan tâm đến báo chí. Báo của Đảng

2
1


và Việt Minh lần lượt ra đời, ngày càng nhiều về số lượng và tốt về chất
lượng, đã giữ vai trò hết sức to lớn trong đấu tranh. Đó là những tờ báo:
Giải phóng,
Cờ giải phóng, Chặt xiềng, Cứu quốc, Việt Nam độc lập, Bãi sậy, Đuổi giặc
nước, Tiền phong, Kèn gọi lính, Quân giải phóng, Kháng địch, Độc lập... Ngay
trong một số nhà tù đế quốc các chiến sĩ cộng sản của ta cũng đã cho ra báo,
như Suối reo (Sơn La), Bình Minh (Hoà Bình), Thông reo (Chợ Chu), Dòng
sông Công (Bà Vân),...

-

Đảng và Mặt trận Việt Minh còn phái các cán bộ hoạt động dưới hình
thức công khai, bán công khai trong lĩnh vực văn hoá tư tưởng để gây
dựng phong trào văn hoá tư tưởng tiến bộ, cách mạng, mang tính chất
quần chúng; họ đi sâu đi sát với những người làm công tác văn hoá - văn
nghệ, với giới trí thức, thanh niên để tổ chức, đoàn kết họ, hướng họ
tham gia vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, vào công cuộc chuẩn bị khởi
nghĩa của toàn dân.

-

Đề cương văn hoá Việt Nam do Đảng Cộng sản đưa ra năm 1943 đã
vạch rõ tính chất phản động của văn hoá nô dịch của thực dân Pháp phát xít Nhật và tay sai, nêu lên tầm quan trọng của cách mạng văn hoá,
là một trong ba mặt trận đấu ừanh do Đảng lãnh đạo đó là chính ừị, kinh
tế và tư tưởng văn hoá.

-

Văn hoá mới của Việt Nam là nền văn hoá mang tính chất dân tộc và dân
chủ. Nền văn hoá đó phải được xây dựng trên ba nguyên tắc cơ bản:
khoa học, dân tộc, đại chúng.
Muốn cho ba nguyên tắc đó được thực hiện, một mặt, cần ra sức xây dựng

nó; mặt khác, cần tích cực đấu tranh chống lại văn hoá tư tưởng thực dân phong
kiến, nô dịch, phản khoa học, phản dân tộc, phản nhân dân, xa ròi quàn chúng.
Cùng với “Đe cương văn hoá Việt Nam”, Hội văn hoá cứu quốc Việt Nam ra

2
2



đòi và tham gia Việt Minh.
Đảng còn vận động, giúp đỡ một số sinh viên, trí thức yêu nước tiến bộ
thành lập Đảng Dân chủ Việt Nam, một chính Đảng của tư sản dân tộc và trí
thức yêu nước, tiến bộ Việt Nam. Đảng Dân chủ Việt Nam ra đời tháng 6/1944
và gia nhập Việt Minh.
Như vậy, bên cạnh lực lượng hùng hậu của quàn chúng, lực lượng vũ
trang ra đời và trưởng thành nhanh chóng, ttở thành chỗ dựa cho cách mạng.
2.2.

Xây dựng lực lượng chính trị quần chúng

Xây dựng lực lượng vũ hang là vấn đề cơ bản, ttọng yếu của mọi cuộc
cách mạng. Nắm vững nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và vói tầm nhìn
chiến lược, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã có nhiều chỉ thị, huấn thị về công tác chính
trị trong xây dựng lực lượng vũ hang nhân dân qua các thòi kỳ. Những quan
điểm đúng đắn, sáng tạo của Người đến nay còn nguyên giá trị lý luận và thực
tiễn.
2.2.1. Tiếp thu quan diểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng Hồng
quân công nông, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng một cách sáng
tạo, phù hợp vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam
- Ngay từ năm 1930, trong “Chánh cương vắn tắt” của Đảng, Nguyễn Ái
Quốc đã chủ trương: “Tổ chức ra quân đội công nông” nhằm thực hiện các
nhiệm vụ chính trị do Đảng xác định. Đặc biệt, giai đoạn 1941 - 1945, khi mới
về nước trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng, Hồ Chí Minh đã có nhiều chỉ
thị cơ bản về lực lượng vũ trang nhân dân làm cơ sở để từng bước xây dựng và
phát triển lực lượng vũ trang nhân dân một cách toàn diện; trong đó, công tác
chính trị được Hồ Chí Minh đặc biệt coi họng. Quan điểm đó được đúc kết
trong các tác phẩm, các bài nói, bài viết và hoạt động chỉ đạo thực tiễn của

Người, được thể hiện trên một số nội dung cơ bản sau:
+ Một là, lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam phải do Đảng tổ chức,

2
3


lãnh đạo, giáo dục và luôn mang bản chất giai cấp công nhân. Để đáp ứng tình
hình phát triển của phong trào cách mạng, ngay sau khi về nước (đầu năm
1941), Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng tháng 5/1941. Người xác định: Cách mạng Đông Dương phải kết
liễu chế độ thực dân phong kiến bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang. Muốn vậy,
Đảng phải thành lập những đội tuyên truyền để tổ chức bảo vệ tất cả hội viên
cách mạng và đông đảo dân chúng tham gia khởi nghĩa, phải lập những đội tự
vệ làm quân chủ lực ttong khởi nghĩa. Như vậy, theo Người, vấn đề cốt lõi là
lực lượng vũ trang phải do Đảng Cộng sản tổ chức, lãnh đạo và giáo dục, rèn
luyện. Trong “Cuốn sách của người chính trị viên” Nguyễn Ái Quốc viết:
Người đứng ra tổ chức và lãnh đạo lực lượng vũ trang là Đoàn thể (Đảng) của
chúng ta. Tiếp đó, Nguyễn Ái Quốc viết tác phẩm “Cách đánh du kích”, trong
đó vạch ra những nguyên tắc và phương pháp tác chiến của lực lượng vũ trang
trong thời kỳ khởi nghĩa giành chính quyền. Để đánh du kích giành thắng lợi,
trước hết phải “có con đường chính trị đúng”; “dựa trên cơ sở quần chúng”; “có
tổ chức vững chắc và nghiêm mật”; “có một lối đánh tài giỏi”.
Theo Người, đánh du kích của lực lượng vũ ừang không phải là hoạt động
nhỏ, lẻ theo kiểu manh động, mà là hoạt động của một tổ chức vũ trang cách
mạng, có kỷ luật chặt chẽ, dựa vào đường lối chính trị đúng đắn của đoàn thể
cách mạng tiên phong và cao trào cách mạng của quần chúng. Quan điểm của
Người là, lực lượng vũ trang nhân dân phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Đông Dương và mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân.
Điều này càng được khẳng định khi thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải

phóng quân, Người căn dặn đồng chí Võ Nguyên Giáp: tổ chức đội phải lấy chi
bộ Đảng làm hạt nhân lãnh đạo.
Những quan điểm vừa mới, vừa đúng đắn, sáng tạo nêu trên đánh dấu sự
phát triển lý luận của Người về xây dựng lực lượng vũ trang nói chung, công

2
4


tác chính trị trong xây dựng lực lượng vũ ừang nói riêng ở giai đoạn đầu của sự
nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Thực tế đã chứng minh, sự lãnh đạo của
Đảng là nhân tố quyết định bản chất giai cấp cùng mọi thắng lợi của lực lượng
vũ trang. Đó là sự quán triệt quan điểm của Đảng về xây dựng chính trị, tư
tưởng, tổ chức trong lực lượng vũ trang; trong đó, Quân đội nhân dân là một lực
lượng nòng cốt. Vì vậy, Quân đội phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quyền
lãnh đạo đó là tuyệt đối, không chia sẻ cho bất cứ giai cấp nào.
+ Hai là, chính trị ttọng hơn quân sự, đặt chế độ chính trị viên ttong Quân
đội. Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình cách mạng nước ta giai đoạn 1941
- 1945, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khẳng định: thời kỳ cách mạng hòa bình phát
triển đã qua, nhưng thời kỳ khởi nghĩa chưa tới. Do đó, cuộc đấu tranh lúc này
phải từng bước, từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự. Song, hiện tại
chính trị trọng hơn quân sự. Từ đó, Người chỉ thị, việc xây dựng các tổ, đội du
kích trước hết, phải là đội vũ trang tuyên truyền nhằm động viên, hướng dẫn
toàn dân tham gia phong trào cách mạng. Người chỉ rõ: “Vê mặt chính trị, cấp
nào cũng có một ngưòi chính trị phái viên do đoàn thể cách mạng chọn trong bộ
đội ấy hoặc phái người ngoài đến làm”. Chính trị viên phải là “linh hồn” của
đội du kích; phải đi đúng đường lối chính trị của đoàn thể; có nhận thức cách
mạng vững vàng, trinh độ giác ngộ cách mạng sâu sắc; đồng thời, có lý luận
cách mạng và năng lực tự động công tác thực sự. Năng lực lãnh đạo của chính
trị viên phải gồm đủ mọi mặt: quân sự, chính trị, tuyên truyền, tổ chức, xếp đặt

kế hoạch hoạt động, giải quyết kịp thời đúng đắn các việc cấp bách trước mắt
và các việc sinh hoạt tinh thần, vật chất hằng ngày. Chính trị viên phải nhúng
tay vào tất cả mọi việc để dìu dắt người khác. Người cũng đã bồi dưỡng và chỉ
đạo các đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp biên soạn hai tác phẩm:
“Công tác chính trị ừong quân đội cách mạng” và “Chính trị viên trong quân
đội”. Đây là hai cuốn sách đầu tiên ở Việt Nam về công tác Đảng, công tác

2
5


×