Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Hoạt động thông tin thư viện khoa học và công nghệ ở Việt Nam, định hướng hoạt động và phát triển giai đoạn tự chủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.63 MB, 93 trang )

Tuyển tập công trình Hội nghị khoa học công nghệ và môi trường năm 2009
Viện Khoa học và Công nghệ GTVT
Hà Nội, 30/10/2009

Hoạt động thông tin thư viện khoa học và công nghệ ở Việt Nam,
định hướng hoạt động và phát triển giai đoạn tự chủ
theo Nghị định 15/2005/NĐ-CP tại Viện Khoa học và Công nghệ GTVT
KS. Vũ Đăng Điệt
TS. Đào Huy Hoàng
Viện Khoa học và Công nghệ GTVT
Tóm tắt: Hoạt động thông tin khoa học và công nghệ (KH&CN) ở nước ta đã trải qua quá trình
gần 50 năm phát triển. Các tổ chức thông tin KH&CN đã được thành lập ở tất cả các ngành, các
cấp, các địa phương và tạo nên một hệ thống thông tin KH&CN quốc gia rộng khắp. Tổ chức
Thông tin, thư viện KH&CN ngành GTVT là một bộ phận trực thuộc Viện Khoa học và Công nghệ
GTVT. Trong nhiều năm qua, các sản phẩm và dịch vụ thông tin, thư viện đã có nhiều nỗ lực trong
hoạt động, tuy nhiên còn gặp rất nhiều khó khăn trong tổ chức quản lý cũng như triển khai công
việc. Để chuyển đổi phù hợp theo cơ chế tự chủ theo Nghị định 115/2005/NĐ-CP thì trong thời
gian tới, hoạt động thông tin, thư viện KH&CN cần phải xây dựng định hướng phát triển và hoạt
động một cách phù hợp nhằm tồn tại, phát triển và đáp ứng những yêu cầu, nhiệm vụ đề ra, góp
phần phát triển KH&CN, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong ngành GTVT.
Abstract: Operation of Science and Technology Information of our country has been developed
for nearly 50 years. Organizations of Science and Technology Information have been established
in many industries, levels and localities creating a nation-wide science and technology
information system. Transport Science and Technology Library, Information Center is a unit
directly under Institute of Transport Science and Technology. In the past years, information and
library products/ services have been improved much; however, there are still many difficulties in
management and execution. In order to change into self-control regime according to the
Governmental Decree No. 115, in the coming time, operation of scientific and technological
information, library activities must formulate an orientation of development in conformity with
planed requirements and targets, contributing to developing the course of science and technology
development, supporting industrialization and modernization process in transport sector.



1. Hiện trạng hoạt động thông tin, thư viện khoa học công nghệ quốc gia và một số vấn
đề đặt ra.
Hoạt động thông tin, thư viện khoa học và công nghệ có vai trò hết sức quan trọng trong bối cảnh
nguồn thông tin gia tăng mạnh mẽ như hiện nay. Nó không những phục vụ nhu cầu tra cứu của các nhà
khoa học, cán bộ, công nhân kỹ thuật, những người quan tâm mà còn đảm nhiệm vai trò phổ biến, lưu
trữ và bảo tồn các kết quả nghiên cứu khoa học, giá trị văn hoá của dân tộc và thế giới.
Hoạt động thông tin KH&CN ở nước ta được hình thành từ cuối những năm 50 của thế kỷ XX,
đến nay, cùng với hoạt động thư viện đã tạo thành một hệ thống thông tin KH&CN quốc gia rộng khắp
với hơn 500 cơ quan thông tin KH&CN hoạt động ở Trung ương, các bộ ngành, các tổng công ty, các
địa phương và các đơn vị cơ sở. Sản phẩm mà hệ thống đưa ra phục vụ cũng rất đa dạng, từ những sản
phẩm truyền thống như ấn phẩm, các bộ phiếu tra cứu cho tới các cơ sở dữ liệu (CSDL), các Website,
các bản tin điện tử, các băng hình, đĩa hình với âm thanh, hình ảnh động. Phương thức phục vụ thông
tin cũng hết sức linh hoạt: Kết hợp từ thủ công cho tới tự động hoá và phục vụ on-line: Truy cập và
khai thác trực tuyến, thuê bao nguồn tin trên Internet... Tất cả những điều đó đã làm thay đổi hoàn toàn
bộ mặt của hệ thống thông tin KH&CN ở nước ta.
Cùng với các cơ quan hoạt động trong lĩnh vực Khoa học và Công nghệ, giai đoạn hiện nay các
cơ quan thông tin KH&CN các ngành, các cấp khẩn trương đổi mới các hoạt động theo hướng bám sát
thực tế, thiết thực và hiệu quả; trước hết là cụ thể hoá và tập trung nỗ lực để thực hiện: Nghị quyết
299


Trung ương 2 (khoá VIII); Luật KH&CN; Kết luận Hội nghị Trung ương 6 (khóa IX); Chiến lược phát
triển KH&CN đến năm 2010; Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Kết luận Hội nghị
Trung ương 6 (khóa IX) về KH&CN.

Hình 1. Một phòng đọc tại thư viện khoa học khoa học kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh
Những nội dung cơ bản mà các cơ quan thông tin KH&CN các ngành, các cấp tập trung triển khai
trong những năm gần đây là:
™


Kiện toàn bộ máy, tổ chức lại dây chuyền công nghệ theo hướng gọn nhẹ và hiệu quả;

™ Tạo lập tiềm lực thông tin cục bộ, nhất là nguồn tin nội sinh; tăng cường nguồn tin điện tử,
tận dụng khai thác Internet và các nguồn tin trên CD/ROM; tận dụng các khả năng chia sẻ, hỗ trợ
nguồn tin trong và ngoài nước;
™ Cải tiến sản phẩm theo hướng hiện đại; lấy công cụ mạng và các CSDL làm xương sống
cho mọi hoạt động;
™ Tham gia tích cực các triển lãm, hội chợ, Techmart (Chợ công nghệ và thiết bị), tăng
cường phổ biến thành tựu KH&CN...;
™ Áp dụng những hình thức phục vụ mới: Kho mở (với cổng từ, mã vạch), phòng đa phương
tiện, truy cập trực tuyến;
™

Đẩy mạnh việc xây dựng thư viện điện tử;

™ Triển khai rộng "Mô hình cung cấp thông tin KH&CN phục vụ phát triển kinh tế - xã hội
nông thôn, miền núi"...
Về thông tin tư liệu tại Việt Nam:
Nguồn tin - nguyên liệu cơ bản của hoạt động thông tin ngày càng được chú trọng lựa chọn, thu
thập bổ sung một cách chủ động. Trong những năm gần đây, hàng năm Nhà nước đầu tư trên 1 triệu
USD cho các cơ quan thông tin, thư viện để mua sách báo và các nguồn tin điện tử của nước ngoài.
Đến nay trong toàn hệ thống đã có hơn 2 triệu đầu sách; 6.000 tên tạp chí (mỗi năm được bổ sung
thêm khoảng 1.500 tên); 20 triệu bản mô tả sáng chế phát minh; 200.000 tiêu chuẩn; 50.000 catalo
công nghiệp; 4.000 bộ báo cáo địa chất, 4.000 báo cáo lâm nghiệp; 13.000 báo cáo kết quả nghiên cứu,
luận án tiến sĩ; 20 triệu biểu ghi trên CD/ROM...
300


Hệ thống sản phẩm và dịch vụ thông tin đa dạng từ truyền thống tới hiện đại:

- Ấn phẩm thông tin: Hiện tại, trong toàn hệ thống quốc gia có gần 300 ấn phẩm thông tin định
kỳ, trong đó có hàng chục ấn phẩm bằng tiếng Anh dùng để trao đổi quốc tế. Ngoài ra, hàng năm các
cơ quan thông tin KH&CN còn xuất bản nhiều sách chuyên đề, tài liệu hướng dẫn kỹ thuật, tài liệu
dịch, các nông lịch...
- CSDL, ngân hàng dữ liệu: Trong hệ thống thông tin KH&CN quốc gia có tới trên 300 CSDL tư
liệu và dữ kiện. Hầu hết là các CSDL nhỏ dùng để quản trị các kho tư liệu của cơ quan. Tuy nhiên,
cũng có những CSDL lớn tới 500.000 biểu ghi như một số CSDL của Trung tâm Thông tin KH&CN
Quốc gia. Các CSDL bắt đầu được xây dựng từ cuối những năm 80 và phát triển mạnh vào những năm
90, chủ yếu được thiết kế theo CDS/ISIS, FOXPRO, ORACLE, ACCESS... Phổ biến nhất vẫn là các
CSDL về sách, các bài báo, tài liệu hội thảo, hội nghị, luận văn, kết quả nghiên cứu, tiêu chuẩn, mô tả
sáng chế, thiết bị và công nghệ, chuyên gia tư vấn.

Hình 2. Tra cứu và khai thác tài liệu khoa học kỹ thuật trên (e-lib).
- Các CSDL được coi là nền tảng của hoạt động thông tin KH&CN trong phạm vi một cơ quan,
một ngành và cả hệ thống. CSDL là phương tiện hữu hiệu nhất để lưu trữ và phục vụ thông tin, đảm
bảo việc tra cứu và cung cấp thông tin phù hợp cho các đối tượng một cách nhanh chóng, chính xác và
đầy đủ. Từ CSDL có thể bao gói và in ra các ấn phẩm hoặc tạo thành các bản tin điện tử theo chuyên
đề; có thể chuyển giao một phần hoặc toàn bộ CSDL trên CD/ROM hoặc đưa các CSDL lên mạng để
phục vụ rộng rãi trong nước và trên thế giới. Từ chỗ chỉ có các CSDL thư mục, chỉ dẫn và sau đó là
các CSDL tóm tắt, đến nay nhiều cơ quan thông tin đã xây dựng các CSDL toàn văn. Các CSDL đó
liên kết với nhau tạo thành ngân hàng dữ liệu và hình thành các thư viện điện tử về KH&CN.
- Các bản tin điện tử: Là dạng sản phẩm mới của các cơ quan thông tin KH&CN. Sản phẩm này
bắt đầu xuất hiện ở nước ta từ năm 1995 và đặc biệt phát triển nhanh về số lượng cũng như chất lượng
từ năm 1997, khi Việt Nam bắt đầu hoà nhập Internet. Trong toàn hệ thống hiện nay có tới hàng trăm
bản tin điện tử. Sản phẩm này đã ngày càng chứng tỏ những ưu điểm nổi trội như: Trao đổi thuận tiện,
nhanh, bao gói thông tin dễ dàng (do tận dụng nhanh, nhiều nguồn tin, đa dạng và linh hoạt trong xuất
bản). Hiện nay hầu hết các cơ quan thông tin trung ương, bộ/ngành, địa phương, thậm chí cả cơ sở,
đều xuất bản bản tin điện tử và vai trò của nó ngày càng tăng. Hầu hết các ấn phẩm thông tin KH&CN,
ngoài bản in trên giấy đều có bản điện tử đưa lên mạng hoặc trên CD/ROM.


301


- Các Website, các thư viện điện tử, các mạng thông tin phục vụ chuyên ngành: Việc áp dụng các
công nghệ thông tin mới trong hoạt động thông tin KH&CN ngày càng được chú trọng và phát triển
mạnh mẽ. Đến nay, hầu hết các cơ quan thông tin KH&CN ở trung ương, bộ/ngành và những thành
phố lớn đếu đã xây dựng Website về KH&CN; một số cơ quan đã tạo lập thư viện điện tử chuyên
ngành. Đặc biệt, trong phạm vi hệ thống thông tin KH&CN quốc gia có: Mạng thông tin KH&CN Việt
Nam (VISTA); mạng thông tin KH&CN phục vụ vùng sâu, vùng xa; mạng thông tin KH&CN phục vụ
doanh nghiệp; Chợ ảo về Công nghệ và Thiết bị Việt Nam... Những mạng này đã có nhiều đóng góp
trong việc cung cấp thông tin KH&CN một cách kịp thời, thiết thực cho các đối tượng dùng tin trên
khắp mọi miền đất nước và ở nước ngoài.
Hình thành đội ngũ cán bộ thông tin chuyên nghiệp:
Tính đến nay, trong toàn hệ thống có khoảng 5.000 người, trong đó khoảng 65% cán bộ có trình
độ đại học và 4% trên đại học. Đội ngũ này thường xuyên được bồi dưỡng, đào tạo qua các lớp tập
huấn nghiệp vụ thông tin ngắn hạn trong và ngoài nước.
Hợp tác quốc tế được mở rộng:
Hiện tại, các cơ quan thông tin KH&CN trong toàn hệ thống đã thiết lập được mối quan hệ hợp
tác nhiều mặt với nhiều tổ chức quốc tế thuộc Liên hiệp quốc; khu vực châu Á - Thái Bình Dương;
khối ASEAN; đồng thời có quan hệ song phương với hàng chục nước và quan hệ trao đổi tư liệu với
hơn 300 thư viện của hơn 100 nước.
Hoạt động thư viện:
Đặc điểm của hoạt động thông tin KH&CN trong giai đoạn hiện tại là tăng cường kết hợp ngày
càng chặt chẽ giữa hoạt động thông tin KH&CN với hoạt động thư viện và hướng tới xây dựng các thư
viện điện tử; giữa thông tin KH&CN với thông tin kinh tế, thông tin thị trường, thông tin công nghệ,
thông tin thống kê; giữa hoạt động thông tin KH&CN với thông tin đại chúng; giữa hoạt động thông
tin KH&CN với tin học và viễn thông.
Trong quá trình thay đổi quan niệm về vai trò và nhiệm vụ của thư viện trên thế giới ngày nay đã
thoát khỏi khía cạnh tĩnh của những kho chứa sách và phòng đọc sách để trở thành năng động hơn đối
với ba vai trò chính yếu sau đây:

- Thư viện là một cơ quan truyền thông đại chúng;
- Thư viện là một trung tâm phát triển văn hóa;
- Thư viện là một động lực đóng góp vào việc đổi mới giáo dục.

Hình 3. Phục vụ tài liệu lại thư viện và tra cứu các tài liệu đặc biệt.
Giữa ba vai trò trên, thư viện khoa học công nghệ đã làm nổi bật vai trò là một động lực đóng góp
vào việc đổi mới khoa học công nghệ.
Tại Mỹ, hình ảnh một thư viện với đầy ắp những trang thiết bị hiện đại và hàng trăm ngàn đầu
sách là một hình ảnh điển hình của một thư viện đạt chuẩn phục vụ cho chương trình nghiên cứu, đào
tạo.
302


Hình 4. Ảnh bên ngoài của một thư viện tại Mỹ
Như Auraria Library – nằm trong khu Auraria Campus ở Denver, Colorado là thư viện lớn nhất
phục vụ cho 3 trường đại học Community College of Denver, Metropolitan State College of Denver và
University of Colorado at Denver. Để phục vụ nhu cầu học tập và nghiên cứu của các nhà khoa học,
giảng viên và hơn 20.000 sinh viên của 3 trường này. Với hơn 70.000 đầu sách thuộc mọi thể loại, hơn
50 máy vi tính hiện đại kết nối Internet tốc độ cao, thư viện mở cửa phục vụ hơn 10 tiếng mỗi ngày, đủ
7 ngày trong tuần. Ngoài ra, trong thư viện còn có một khu dành cho những tư liệu video. Với đầu
DVD và tivi có sẵn, bạn chỉ cần mượn DVD để bắt đầu xem những đoạn phim khoa học hoặc những
nghiên cứu mới. Ngoài ra, Auraria Library còn có một khu vực có máy in, máy scan và photocopy để
người đọc sử dụng. Để sử dụng những thiết bị này đòi hỏi bạn phải có thẻ ID và credit card. Mức giá
in, scan hay photocopy khá đắt, nhưng nếu so với việc phải mua sách để tham khảo và sử dụng thì vẫn
rẻ hơn rất nhiều.
Mặc dù đã có những đóng góp nhất định và quan trọng vào quá trình phát triển đất nước, song
hoạt động thông tin, thư viện KH&CN vẫn còn không ít vấn đề đặt ra, cần được giải quyết một cách
có hệ thống. Điều đó được phản ánh cụ thể qua các khía cạnh sau:
- Cơ sở vật chất dành cho hoạt động thông tin, thư viện tuy đã được quan tâm nhưng so với yêu
cầu vẫn còn hạn chế, cần được đầu tư một cách toàn diện, đồng bộ hơn nữa nhằm đáp ứng đòi hỏi của

thực tiễn.
- Chính sách, cơ chế, các giải pháp lưu giữ, quản lý, phát triển nguồn tin KH &CN còn chưa được
chú trọng một cách hợp lý. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả khai thác nguồn tin này phục
vụ quá trình phát triển của đất nước nói chung, cho nghiên cứu nói riêng.
- Tính chất biệt lập, cát cứ còn rất nặng nề và phổ biến, cùng với sự hạn chế về các nguồn đầu tư
đã dẫn đến nguồn thông tin KH&CN còn chưa được đầy đủ và tập trung.
- Đội ngũ cán bộ thông tin, thư viện cần được kiện toàn để có đủ khả năng hoạt động một cách
chuyên nghiệp hơn, có thể đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn với một hiệu quả cao và ổn định.

2. Định hướng phát triển trong giai đoạn 2010-2015 và một số năm tiếp theo của hoạt
động thông tin thư viện khoa học và công nghệ.
Bên cạnh những thành tựu đạt được trong thời gian vừa qua, hoạt động thông tin, thư viện
KH&CN vẫn còn một số tồn tại. Chính vì vậy, hoạt động này cần phải được định hướng phát triển
trong giai đoạn 2010-2015 và những năm tiếp theo một cách phù hợp nhằm khắc phục những tồn tại
và đáp ứng tốt nhất nhu cầu của đông đảo các nhà nghiên cứu, cán bộ, công nhân kỹ thuật và những
người quan tâm.
Thực hiện chủ trương đường lối đổi mới hoạt động khoa học và công nghệ của Đảng và Nhà
nước ta, để khoa học và công nghệ, trong đó có thông tin KH&CN, ngày càng đóng góp nhiều hơn nữa
cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hệ thống thông tin KH&CN cần nỗ lực hơn để
có thể thực hiện được mục tiêu và các nội dung định hướng.
Phương hướng trọng tâm để nâng cao hiệu quả hoạt động thông tin, thư viện KH&CN giai đoạn
hiện nay là cùng với quá trình hiện đại hoá, phát triển các ứng dụng công nghệ thông tin và truyền
303


thông, tạo nên sự kết nối các cơ quan thông tin, thư viện chuyên ngành thành một hệ thống thống nhất
- Hệ thống thông tin, thư viện KH&CN. Các nhiệm vụ trọng tâm mà hệ thống thông tin, thư viện khoa
học và công nghệ cần phải giải quyết đến 2010 là:
- Hình thành và phát triển hệ thống thông tin, thư viện KH&CN trên cơ sở liên kết mạng giữa các
đơn vị thành viên và các tổ chức khác nhau. Như vậy, vấn đề phát triển các ứng dụng công nghệ thông

tin và truyền thông vào việc phát triển mỗi tổ chức thành viên của hệ thống thông tin KH&CN cần
được đặc biệt quan tâm. Mục tiêu lâu dài là hướng đến hình thành một cổng thông tin quốc gia về
KH&CN, trong đó tích hợp mọi nguồn dự trữ thông tin và phát triển các dịch vụ cần thiết đến người
dùng tin trên mọi địa bàn, khu vực.
- Mặt khác, có thể thấy hệ thống thông tin KH&CN trong tương lai cần phải thu hút được sự tham
gia của các cơ quan thông tin, thư viện thuộc các viện nghiên cứu, trường đại học có liên quan, các
trung tâm thông tin, thư viện - tư liệu về các vùng, khu vực,… Có như vậy, hệ thống thông tin
KH&CN mới được hình thành và phát triển trên phạm vi ngành, quốc gia và có thể đáp ứng được một
cách đầy đủ những yêu cầu.
- Hình thành và phát triển ngân hàng thông tin KH&CN. Ngân hàng thông tin chung được tạo nên
bởi sự phân hoạch một cách hợp lý các nguồn thông tin, chứ không thể được tạo nên trên cơ sở đưa ra
các giải pháp về hành chính để tích tụ tại một nơi nào đó. Nếu tích tụ lại một nơi thì vừa không khả thi
về năng lực tổ chức, vừa không có hiệu quả từ góc độ của người dùng tin và không mang tính hệ thống
bởi sự đa dạng của loại hình thông tin cũng như khối lượng nguồn tin khổng lồ được gia tăng với tốc
độ rất cao.
- Nâng cao năng lực và hiệu quả đáp ứng nhu cầu thông tin KH&CN, phục vụ quá trình nghiên
cứu và phát triển trên các phạm vi. Hoạt động thông tin, thư viện KH&CN mặc dù đã có những đóng
góp nhất định vào các quá trình nghiên cứu khoa học, phát triển kinh tế - xã hội, song phải luôn không
ngừng đổi mới và phát triển để nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của mình. Cùng với việc hiện
đại hoá các cơ quan thông tin, thư viện, hình thành các mạng thông tin, các thư viện điện tử, với việc
hình thành và phát triển ngân hàng thông tin KH&CN … thì vấn đề đa dạng hoá các loại hình sản
phẩm, dịch vụ thông tin luôn cần được đặt ra và triển khai. Chính xuất phát từ việc xác định một cách
đầy đủ mọi loại nhu cầu thông tin và tận dụng các kết quả ứng dụng công nghệ thông tin và truyền
thông mà các thế hệ sản phẩm, dịch vụ thông tin mới không ngừng được tạo ra. Đó sẽ là những kết quả
cụ thể của việc nâng cao vai trò và hiệu quả của thông tin KH&CN và là nhiệm vụ cụ thể của chúng ta.
- Xây dựng mô hình thư viện điện tử (e-lib) cho thư viện KH&CN. Xây dựng thư viện điện tử
đang là xu thế phát triển chung. Trong lĩnh vực KH&CN, mô hình này có sự khác biệt rất cơ bản so
với các lĩnh vực khác. Điều đó do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Thư viện điện tử là một giải pháp căn bản để dung hoà các mâu thuẫn trên, đồng thời cần chú
trọng phát triển một số dịch vụ hỗ trợ làm cho các di sản văn hoá này đến được với mọi thành viên

trong xã hội một cách trọn vẹn ở mức cao nhất.
- Xây dựng quy hoạch và chiến lược đào tạo đội ngũ cán bộ thông tin, thư viện KH&CN chuyên
nghiệp. Đây là một trong những vấn đề rất quan trọng, quyết định trực tiếp đến thành bại của sự phát
triển hoạt động thông tin, thư viện KH&CN.
- Mục tiêu tổng quát: Tăng cường và phát triển hạ tầng cơ sở thông tin KH&CN của đất nước
(hiện đại hoá hệ thống) nhằm đáp ứng một cách hiệu quả các nhu cầu thông tin của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hoà nhập vào xã hội thông tin toàn cầu.
- Một số nội dung tăng cường hoạt động thông tin KH&CN trong thời gian tới: Kiện toàn hệ
thống thông tin KH&CN quốc gia; phát triển ngân hàng dữ liệu quốc gia về KH&CN; hình thành, phát
triển và liên kết mạng trong hệ thống; đẩy mạnh thông tin công nghệ phục vụ doanh nghiệp; tăng
cường tuyên truyền, phổ biến tri thức KH&CN, góp phần nâng cao dân trí; đặc biệt tăng cường thông
tin KH&CN phục vụ nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa; xây dựng các thư viện điện tử và mở
rộng hoạt động thông tin KH&CN ở các trường đại học, cao đẳng; chú trọng công tác cảnh báo công
nghệ, phát triển và quản lý tốt mạng lưới thu thập, xử lý thông tin về KH&CN nước ngoài; đẩy mạnh
các dịch vụ thông tin KH&CN.

304


Hoạt động thông tin KH&CN đang đứng trước những thử thách mới, những nhiệm vụ mới không
kém phần khó khăn. Nhưng với đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước, cùng với sự đổi mới toàn
diện trong hoạt động KH&CN, với truyền thống và kinh nghiệm đã có của đội ngũ cán bộ thông tin
KH&CN và với những kết quả đã đạt được, chúng ta tin tưởng rằng, các cơ quan thông tin KH&CN
nước ta sẽ thực hiện tốt những mục tiêu và những nhiệm vụ được giao, góp phần đắc lực phục vụ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

3. Định hướng hoạt động và phát triển của bộ phận thông tin - thư viện khoa học và
công nghệ tại Viện Khoa học và Công nghệ GTVT.
Năm 2003, bộ phận thông tin, thư viện của Bộ Giao thông Vận tải được chuyển về Viện Khoa
học và Công nghệ GTVT kết hợp với bộ phận thư viện của Viện cũ tạo thành một bộ phận thông tin và

thư viện mới với quy mô khá đồ sộ với tổng số nhân viên làm công tác là trên 10 cán bộ.
Thư viện khoa học kỹ thuật của Viện với trên 3 vạn đầu sách, báo, tạp chí đựơc bố trí hai phòng
liền kề diện tích 70m2. Có thể nói đây là thư viện khoa học kỹ thuật lớn nhất ngành GTVT tuy nhiên
chưa được quan tâm đầu tư và nâng cấp cũng như chưa có các loại hình phục vụ hiện đại như các thư
viện lớn trong nước.
Bộ phận thông tin thực hiện các công việc như tham dự các hội chợ KH&CN, tham gia xây dựng
website, xuất bản bản tin KHKT tuy nhiên hoạt động còn gặp rất nhiều khó khăn trong các hoạt động
có thu.
Để chuyển đổi phù hợp theo cơ chế tự chủ theo Nghị định 115/2005/NĐ-CP thì trong thời gian
tới, hoạt động thông tin, thư viện KH&CN tại Viện cần phải được xây dựng định hướng phát triển và
hoạt động một cách phù hợp. Dựa trên tình hình hoạt động và định hướng hoạt động thông tin thư viện
đã nêu trên cũng xin mạnh dạn đề xuất phương hướng hoạt động trong thời gian tới như sau:
3.1. Về nhân sự:
- Kiện toàn lại bộ máy tổ chức của bộ phận thông tin thư viện theo hướng gọn nhẹ hiệu quả.
Thông tin và thư viện cần xem xét điều chỉnh về một mối.
- Bố trí nhân lực hợp lý, có chế độ đãi ngộ với cán bộ có khả năng thực sự nhưng cũng cần xử lý
những cán bộ không có khả năng và thiếu ý thức trách nhiệm theo đúng quy định của Luật Lao động,
quy định của Viện cũng như của các đơn vị trực thuộc.
- Chuẩn bị phương án bổ sung nguồn nhân lực trẻ, lên phương án đào tạo bồi dưỡng cán bộ thông
qua các lớp tập huấn nghiệp vụ thông tin ngắn hạn trong và ngoài nước.
3.2. Về hoạt động:
- Tham gia tích cực các triển lãm, hội chợ, Techmart (Chợ công nghệ và thiết bị), tăng cường phổ
biến thành tựu KH&CN...
- Xây dựng ngân hàng cơ sở dữ liệu các lĩnh vực mũi nhọn trong ngành GTVT. Đặc biệt cần xây
dựng ngân hàng dữ liệu phục vụ các công tác cấp thiết hiện nay như:
+ An toàn giao thông;
+ Môi trường.
+ Hệ thống cơ sở hạ tầng ngành GTVT: Đường ôtô, đường sắt, đường thủy, hàn
không, cảng biển …
- Tiếp tục duy trì và phát triển bản tin, cần nâng cao hơn nữa chất lượng bản tin khoa học công

nghệ (cả về nội dung, bố cục, trình bày …) thể hiện là bản tin của ngành nhưng do Viện Khoa học và
Công nghệ thực hiện. Vừa thông tin về khoa học công nghệ vừa quảng bá Viện với các đối tác. Đồng
thời cũng chuẩn bị phương án cho xây dựng bản tin điện tử và trên cơ sở bản tin này xây dựng đề án
thành lập tạp chí Khoa học và công nghệ GTVT.
- Xây dựng Website khoa học công nghệ.

305


- Xây dựng Thư viện điện tử về khoa học công nghệ ngành GTVT.
- Xây dựng các kỷ yếu ngành GTVT, các đơn vị trực thuộc ngành...
- Mở rộng, liên kết trao đổi, cung cấp dữ liệu với các thư viện khoa học kỹ thuật trong cả nước.
- Liên doanh liên kết với các tổ chức quốc tế và nước ngoài.
- Đăng ký nghiên cứu đề tài nhằm nâng cao hiệu quả công tác thông tin thư viện trong ngành
GTVT.
3.3. Lập dự án đầu tư và xin hỗ trợ từ Bộ GTVT và Viện:
- Lập đề án xây dựng bản tin điện tử Khoa học và Công nghệ GTVT thay cho bản tin hiện nay.
- Lập đề án nâng cấp và cải tạo thư viện khoa học kỹ thuật của Bộ GTVT do Viện quản lý.
+ Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất (Phòng đọc, phòng tra cứu, kho lưu trữ…)
+ Đầu tư về cơ sở dữ liệu (Mua tư liệu, sách báo, ấn phẩm về Khoa học và Công nghệ của
các nước tiên tiến).
+ Đầu tư về nhân lực.
- Lập đề án xây dựng và phát triển thư viện điện tử ngành GTVT.
- Xây dựng quy chế hoạt động thông tin của Viện, đề nghị Viện giao cho bộ phận thông tin làm
đầu mối hoặc kết hợp với phòng KQH tổ chức các hội thảo, hội nghị KHCN trong và ngoài nước.
- Lập Đề án tăng cường trang thiết bị thông tin Khoa học và Công nghệ của Viện.
3.4. Về tìm kiếm, tăng cường triển khai các hoạt động có thu:
Cần triển khai một loạt các hoạt động theo nhu cầu thực tế hiện nay, cụ thể như:
- Dịch vụ cung cấp tư liệu, thông tin thư viện khoa học và công nghệ ngành GTVT.
- Dịch vụ quảng cáo, marketing, làm kỷ yếu cho các đơn vị trong ngành GTVT.

- Tổ chức hội thảo, triển lãm cho các đơn vị khoa học công nghệ trong ngành GTVT.
- Các hoạt động khác.
Hoạt động thông tin, thư viện tại Viện Khoa học và Công nghệ GTVT giai đoạn hiện nay cần
thực hiện theo phương châm là cùng với quá trình hiện đại hoá, phát triển các ứng dụng công nghệ
thông tin và truyền thông, tạo nên sự kết nối các cơ quan thông tin, thư viện chuyên ngành thành một
hệ thống thống nhất - Hệ thống thông tin, thư viện Khoa học và công nghệ của ngành GTVT. Để đạt
được điều này cần sự quan tâm đặc biệt của Đảng ủy, Lãnh Đạo Viện cũng như cần có sự quyết tâm và
nỗ lực rất lớn của tập thể cán bộ công nhân viên làm công tác thông tin - thư viện hiện nay.

Tài liệu tham khảo
[1]. Kỷ yếu hội thảo quốc tế về thư viện .– TP. Hồ Chí Minh (28-30/8/2006).
[2]. "Hoạt động Thông tin, thư viện trong khoa học xã hội: hiện trạng và định hướng phát triển”, nguồn:
/>[3]. PTS Bùi Loan Thùy – Đào Hoàng Thúy (1998), Tổ chức và quản lý công tác thông tin – thư viện, Nxb TP.
Hồ Chí Minh.
[4]. Trần Thanh Tùng “Thư viện – một phần không thể thiếu của trường đại học Mỹ”, Nguồn:
.
[5]. Kỷ yếu hội thảo, “45 năm hoạt động thông tin khoa học và công nghệ (KH&CN) ở nước ta”.
[6]. Ths. Phan Thu Nga, “Chiến lược Marketing trong hoạt động thông tin thư viện”.

[7]. PGS. TS. Vương Toàn, “Đóng góp của hoạt động thông tin khoa học vào nâng cao chất lượng luận văn”.
[8]. Nguyễn Văn Mỹ Danh, “Vai trò của Trung tâm thư viện trong việc đổi mới phương pháp dạy học”.
306


Tuyển tập công trình Hội nghị khoa học công nghệ và môi trường năm 2009
Viện Khoa học và Công nghệ GTVT
Hà Nội, 30/10/2009

Nghiên cứu, thiết kế chế tạo thử nghiệm thiết bị tự động đếm xe phục vụ
giám sát và quản lý giao thông

Ks.Nguyễn Anh Tuấn
Ks.Đinh Tiến Khiêm
Ks.Nguyễn Minh Hải
Viện Khoa học và Công nghệ GTVT
Tóm tắt: Việc tự động thu thập số liệu về tốc độ, lưu lượng xe ngày càng trở nên quan trọng, khi
chúng ta đang tiến hành nghiên cứu, triển khai ứng dụng của hệ thống giao thông thông minh. Khi
các số liệu về dòng xe này được tự động thu thập thì một loạt bài toán giao thông sẽ được giải,
như: giám sát, quản lý giao thông; hiệu chỉnh chu kỳ đèn tín hiệu; phân làn, phân tuyến kịp thời;
tránh ách tắc; quản lý phương tiện....Báo cáo sẽ trình bày tóm tắt kết quả nghiên cứu, thiết kế,và
chế tạo thử nghiệm các thiết bị tự động đếm xe. Với lượng phương tiện rất lớn lưu thông trên
đường như hiện nay, dự kiến sau khi hoàn thiện, các thiết bị này sẽ góp phần làm tăng hiệu quả
khai thác giao thông, giám sát, quản lý, phân luồng giao thông.
Abstract: Automatically collecting data on speed, traffic volume has been becoming more and
more important while reaserching and deploying Inteligent Transport System (ITS). Once data on
traffic flows is automatically collected, a series of traffic matters will be solved such as:
monitoring, managing traffic; ajusting periods of traffic lights; separating lanes, lines in timely
manner; avoiding traffic jams, managing vehicles… This paper briefs the results of research,
design and experimental manufacture of automatic vehicles enumerating devices. Given the
massive volume of vehicles travelling on roads at present, it is expected that upon completion,
these devices will contribute to increasing effectiveness in traffic operation as well as monitoring,
managing and separting traffic flows.

1. Giới thiệu chung về Hệ thống giao thông thông minh
ITS được hoạch định để giảm bớt tắc nghẽn giao thông, bảo đảm an toàn, giảm nhẹ những tác
động xấu tới môi trường, tăng cường năng lực vận tải hành khách. Không những trong lĩnh vực giao
thông đường bộ, ITS còn được áp dụng với hàng không, đường sắt, đường sông và cả trong đường
biển; song đa dạng và hiệu quả hơn cả vẫn là trong giao thông vận tải đô thị.

Hình 1: Tổ chức mạng lưới giao thông thông minh
380



Hệ thống ITS được tổ chức thành một mạng lưới gồm nhiều thành phần tham gia: các trạm thu
nhận tín hiệu, các nhà quản lý, các hệ thống quản lý thông tin, hệ thống thông tin cung cấp cho người
sử dụng, hệ thống biển báo thông minh,…Khi các thông tin về hệ thống giao thông: lưu lượng xe, tốc
độ xe tham gia giao thông, tắc đường, tai nạn,… được đưa về một Trung tâm quản lý, điều hành giao
thông, từ đây, các thông tin sẽ được xử lý, đưa vào cơ sở dữ liệu, cung cấp đến các hệ thống thông tin
con của nó: hệ thống biển báo, hệ thống thông tin cung cấp trực tiếp cho người tham gia giao thông,…
Hệ thống giao thông thông minh (ITS) là hệ thống giao thông được áp dụng hoàn hảo công nghệ
tiên tiến và phần mềm máy tính vào các thiết bị kiểm soát, chỉ dẫn, điều khiển, thông tin liên lạc để
nâng cao năng lực giao thông trên các tuyến đường cũng như trong các loại hình vận tải. Sự định nghĩa
đơn giản này đã và đang có những thay đổi tốt trong công tác vận hành, quản lý hệ thống giao thông
nói chung và giao thông đô thị nói riêng ở một số nước trên thế giới.
Chương trình ITS của một số nước được nghiên cứu và ứng dụng rất đa dạng, hiệu quả với các
mức độ khác nhau. Tùy theo đặc điểm của mỗi quốc gia mà tập trung vào các lĩnh vực chính sau đây:
Hoàn thiện kết cấu hạ tầng đường bộ, xử lý khẩn cấp các sự cố giao thông; Hiện đại hóa các trạm thu
phí tự động, trạm cân điện tử; Quản lý các đường trục giao thông chính; Hệ thống thông tin cho người
tham gia giao thông; Phổ cập giao thông tiếp cận; Khai thác, điều hành hệ thống giao thông công cộng
tiên tiến (xe buýt, đường sắt đô thị, trung tâm đèn đường tín hiệu); Cải thiện các vấn đề về thể chế,
nguyên tắc giao thông tại các nút giao cắt; Nghiên cứu sản xuất phương tiện giao thông thông minh;
ứng dụng công nghệ tin học, điện tử trong đào tạo, sát hạch và quản lý lái xe
Qua đó, ta thấy về cơ bản, hệ thống giao thông thông minh là ứng dụng công nghệ cao điện tử, tin
học và viễn thông để điều hành và quản lý hệ thống GTVT. Việc thu thập các số liệu là việc quan
trọng đầu tiên trong việc xử lý thông tin ở Trung tâm điều hành và quản lý giao thông. Như trên, ta
thấy có rất nhiều số liệu cần thu thập và báo cáo sẽ tập trung vào việc nghiên cứu, thiết kế và chế tạo
thử nghiệm Thiết bị tự động đếm xe.

2. Tổng quan về cảm biến phát hiện xe trên đường và lựa chọn công nghệ, cảm biến sử
dụng
Phần này sẽ giới thiệu một số loại cảm biến sử dụng trong phát hiện, đếm xe đang được sử dụng

nhiều, cũng như ưu nhược điểm của các cảm biến này. Loại cảm biến được lựa chọn khi chế tạo thiết
bị cũng được trình bày.
2.1 Tổng quan về cảm biến phát hiện xe

Hình 2: Cảm biến phát hiện xe trên đường
Để phục vụ cho công việc phát hiện xe trên đường, có hai phương pháp, đó là:
381


- Phương pháp trực tiếp, sử dụng các thiết bị đếm trực tiếp xe trên đường, hoặc sử dụng những
cảm biến chịu sự tác động trực tiếp của xe, ví dụ như: ống khí động học, cảm biến điện piezo, hay
vòng cảm ứng,….Khi xe đi qua những cảm biến này, nó tác động vào cảm biến. Tùy theo đặc tính của
từng loại cảm biến, khi có tín hiệu truyền về từ cảm biến, chúng ta xác định được là có xe đi qua. Theo
phương pháp này, các thiết bị, các cảm biến có thiết kế đơn giản, dễ chế tạo, có tính linh hoạt cao.
Nhưng chúng có nhược điểm lớn là dễ gây cản trở giao thông trong quá trình lắp đặt, sửa chữa, bảo
dưỡng. Bên cạnh đó, độ chính xác, độ ổn định của những thiết bị, cảm biến này vẫn cần phải được
xem xét, nghiên cứu thêm.

Bảng 1: Giới thiệu nguyên lý, cũng như ưu, nhược điểm của một số loại cảm biến trực tiếp:
Thứ tự

1

2

3

4

Phương pháp


Đếm bằng tay

Cảm biến điện
Piezo

Hình minh họa

Nguyên lý
Người đếm xe sẽ
đếm trực tiếp số
xe đi qua vị trí
quan sát, xác nhận
vào thiết bị mỗi
khi có xe đi qua

Ưu điểm
- Thiết kế
đơn giản, dễ
chế tạo
- Di động, có
tính linh hoạt
cao

Khi có xe đi qua
cảm biến, một
điện áp được sinh
ra bởi vật liệu chế
tạo cảm biến, để
phản ứng lại lực

cơ học tác dụng
lên nó.

- Phát hiện, - Cản trở giao
đếm được xe thông khi lắp
đặt và bảo
- Phân loại dưỡng
- Kết quả
được xe
đếm
phụ
thuộc
vào
nhiệt độ và
tốc độ
- Đơn giản, -Thiếu chính
xác.
di động
- Chi phí lắp - Dùng trong
đặt,
bảo nghiên cứu
ngắn hạn.
dưỡng thấp
- Dễ bị phá
hủy.

Ống khí động
học

Hệ thống ống khí

được bố trí trên
đường. Khi có xe
đi qua, hệ thống
khí bị ngắt quãng,
không lien tục,
báo cho biết có xe
đi qua.

Vòng
cảm
biến

Inductive loop

Khi
xe
đi
quavùng có đặt
cảm biến, nó sẽ
gây ra những
trường điện từ ở
những vòng dây
được chôn bên
dưới bề mặt của
con đường, làm
cho độ tự cảm của
các vòng dây bị
thay đổi, làm cho
tần số của mạch
cảm biến bị thay

đổi theo. Từ đó
nhận biết được có
xe đi qua.
382

Nhược điểm
- Thiếu chính
xác
- Phụ thuộc
vào người sử
dụng thiết bị
đếm xe

- Độ chính - Độ tin cậy
xác
cao thấp khi lắp
(>97%).
đặt
không
đúng
kỹ
- Thiết kế
thuật.
linh hoạt.
- Cản trở giao
-Có thể nhận
thông khi lắp
biết
được
đặt,

bảo
loại ô tô, kể
dưỡng.
cả
phương
- Giá thành
tiện 2 bánh.
cao.
-Hoạt động
được trong
mọi
điều
kiện thời tiết.


- Phương pháp gián tiếp không cần đến sự tác động trực tiếp của xe. Phương pháp này chủ yếu
sử dụng những cảm biến có nguyên lý như: siêu âm, âm học, radar, hồng ngoại,…Các cảm biến này có
độ chính xác tương đối cao và có thể áp dụng cho nhiều làn đường, giá thành rẻ, dễ lắp đặt và đảm bảo
sự an toàn cũng như tính thẩm mỹ sau khi lắp đặt.

Dưới đây, báo cáo sẽ trình bày về cảm biến theo nguyên lý hồng ngoại và siêu âm được dùng
trong thiết bị.
2.2. Nguyên lý, các ưu điểm của cảm biến hồng ngoại và lựa chọn cảm biến
Cảm biến hồng ngoại hoạt động theo nguyên lý: chiếu ánh sáng có độ nhạy và thu lại luồng phản
xạ hoặc năng lượng tỏa ra trong những tín hiệu điện. Tín hiệu tức thời được phân tích để nhận lại tín
hiệu cho sự hiện diện của xe.
Cảm biến hồng ngoại được chia làm 2 loại: loại chủ động và loại thụ động. Các cảm biến này
được đặt trên cao để quan sát sự hoạt động, sự khởi hành của xe cộ.
*) Cảm biến kiểu chủ động chiếu chùm sáng hồng ngoại yếu vào vùng nhận diện, năng lượng
được cấp bởi các diot laze hoạt động ở gần phổ điện từ của vùng hồng ngoại khoảng 0.85 µm. Năng

lượng hồng ngoại phản chiều từ xe đang chạy qua vùng nhận diện được phát hiện nhờ hệ thống quang
học thu tia hồng ngoại đặt ở trong cảm biến được lắp đặt phía trên làn đường– đó là một loại kim loại
nhạy được đặt ở trên mặt phẳng tiêu cự của hệ quang học. Với kết cấu như trên thì hệ quang học này
có một vùng phát hiện rộng hơn để nó có thể nhận được tổng năng lượng từ những xe tốt hơn, vì trong
thực tế phân bố nhiệt trên xe là khác nhau. Bằng việc truyền hai hoặc nhiều hơn các chùm (tia), những
rađa laze đo tốc độ xe bằng việc ghi những lần mà xe vào vùng dò tìm của mỗi chùm (tia).

Hình 3: Bố trí cảm biến kiểu chủ động nhận biết xe trên nhiều làn đường
*) Cảm biến kiểu thụ động nhận ra năng lượng phát ra từ xe cộ, mặt đường và các vật thể khác
trong tầm quan sát của nó và cả từ không khí, mà nó không cần truyền năng lượng của mình. Cảm
biến hồng ngoại thụ động được sử dụng trong các ứng dụng quản lý giao thông bao gồm một hoặc vài
vật liệu nhạy với năng lượng trên mặt phẳng tiêu cự để tập hợp năng lượng từ toàn bộ khung cảnh.
Thiết bị có phổ quan sát rộng và tức thời. Những cảm biến hồng ngoại kiểu thụ động với một khu vực
dò tìm đơn, đo thể tích, làn đường riêng, và lối đi. Nguồn của năng lượng được nhận diện bởi những
cảm biến thụ động là sự phát xạ “vật thể xám” vì nhiệt độ bề mặt khác “không” của những đối tượng
phát ra. Sự phát xạ của “vật thể xám” xuất hiện tại mọi tần số, bởi những đối tượng không phải là số
không tuyệt đối (- 273, 15 0C). Nếu tính phát xạ của đối tượng hoàn hảo, hệ số phát xạ = 1, đối tượng
được gọi là “vật thể đen”. Hầu như các vật thể đều có hệ số phát xạ nhỏ hơn 1 do đó đều là “vật thể
xám”. Những cảm biến thụ động có thể được thiết kế để nhận được năng lượng phát ra tại bất kỳ tần
số nào. Cân nhắc cho thấy băng hồng ngoại là một sự lựa chọn tốt cho những cảm biến xe với một số
lượng điểm ảnh hạn chế. Khi một xe đi vào thị trường của cảm biến, sự thay đổi năng lượng phát ra sẽ
được dùng để phát hiện ra sự có mặt của xe.

383


Hình 4: Cảm biến kiểu thụ động nhận năng lượng phát xạ từ xe
Qua phân tích ở trên ta thấy cảm biến kiểu thụ động có những ưu điểm vượt trội so với cảm biến
kiểu chủ động:
- Tiêu thụ năng lượng ít hơn do không phải phát ra tia hồng ngoại

- Phổ quan sát rộng và tức thời
- Các cảm biến đơn vị không cần phải được nằm ngay phía trên làn xe bị quét, nhưng thay vào
đó có thể định vị không thẳng ở trên làn. Do vậy, lắp cảm biến không cần nối dài giá lắp, đảm
bảo tính thẩm mỹ cho không gian lắp
- Giá thành rẻ hơn so với cảm biến hồng ngoại chủ động, do giá thành sản xuất rẻ hơn
Ta chọn kiểu cảm biến hồng ngoại loại thụ động kí hiệu IR201-329 của hãng ASIM
*) Giới thiệu thông số kỹ thuật của cảm biến IR201-329
- Nhỏ, gọn
- Tầm hoạt động bình thường: 30m
- Cấu tạo vỏ nhôm hợp kim
- Hoạt động trong 1 khu vực (không quét)
- Nguồn cấp: 12V DC, 20mA
- Tín hiệu ra: Trans open collector: Max 60V/50mA
- Thời gian bật: 30s
- Khả năng làm việc ngoài môi trường:
o

Chịu nhiệt độ : -40 – +700C

o

Chịu độ ẩm

: 95%

2.3. Nguyên lý, phân tích các ưu điểm của các loại cảm biến đếm xe bằng siêu âm và lựa chọn cảm
biến
Cảm biến siêu âm truyền những sóng năng lượng âm thanh tại một tần số giữa 25 và 50 KHz, ở
trên phạm vi con người có thể nghe được. Hầu hết các cảm biến siêu âm vận hành với sóng xung và
cung cấp sự đếm xe, sự hiện diện xe và thông tin về sự chiếm chỗ của xe. Sóng xung đo khoảng cách

tới mặt đường và bề mặt xe bằng việc nhận diện phần năng lượng mà được phản chiếu về phía cảm
biến từ một vùng được định nghĩa bởi độ rộng chùm được phát ra từ máy phát. Khi có một khoảng
cách khác khoảng cách chuẩn đã được đo đến mặt đường, cảm biến đo lường phát hiện rằng có sự hiện
diện của một xe. Năng lượng siêu âm nhận được được chuyển đổi vào trong năng lượng điện mà được
phân tích bởi các tín hiệu xử lý điện tử, nó cũng được sắp xếp với bộ chuyển đổi hay được đặt trong
một bộ điều khiển vệ đường.

384


Hình 5: Bố trí cảm biến siêu âm
Những kiểu lắp đặt cảm biến siêu âm hay dùng là chiếu thẳng từ trên xuống hay lắp chiếu từ bên
cạnh sang. Phạm vi đo lường của cảm biến siêu âm phát ra một loạt xung có chiều rộng điển hình từ
0,02 đến 2,5 ms và sự lặp lại của xung (thời gian giữa các lần phát xung) thông thường là 30 đến 170
ms. Các cảm biến đo thời gian từ khi phát xung đến xe và trở lại cảm biến. Thiết bị thu có thể bật hoặc
tắt với sự điều chỉnh bên ngoài của người sử dụng, điều đó giúp phân biệt những xung phản xạ từ mặt
đường và những xung phản xạ từ xe. Cổng dò tìm được điều chỉnh để nhận diện đối tượng ở một
khoảng cách lớn hơn khoảng 0,5m so với mặt đường.
Điều khiển tần số lặp lại xung tự động giảm bớt những hiệu ứng của những phản xạ nhiều lần và
cải thiện sự phát hiện những xe tốc độ cao. Điều khiển này được thực hiện bằng việc làm chu kỳ xung
càng ngắn càng tốt, bằng việc truyền xung tiếp theo ngay lập tức sau khi nhận được tín hiệu phản hồi
từ con đường. Thời gian giữ T (những giá trị tổng hợp do nhà sản xuất quy định từ 115ms đến 10s)
được chế tạo trong cảm biến để tăng cường sự dò tìm hình dáng.
Qua phân tích ở trên ta thấy cảm biến siêu âm có những ưu điểm như sau:
- Phổ quan sát rộng và tức thời
- Sự cài đặt cảm biến không yêu cầu phải xâm lấn vỉa hè, dễ dàng lắp đặt
Tuy nhiên cảm biến siêu âm lại có một số đặc điểm cần lưu ý khi sử dụng:
- Sự thay đổi nhiệt độ và sự xao động không khí tột bậc có thể ảnh hưởng đến hoạt động những
cảm biến siêu âm
- Những chu kỳ lặp xung lớn có thể giảm sút phép đo sự chiếm diện tích trên đường với những

xe hoạt động ở tốc độ cao
Lựa chọn cảm biến siêu âm kí hiệu SM950A-80000 của hãng SUPERPROX
*) Giới thiệu thông số kỹ thuật của cảm biến SM950A-80000
- Nhỏ, gọn
- Tầm hoạt động bình thường: 203mm đến 8m
- Hoạt động trong 1 khu vực: 1m đến 7,6m
- Nguồn cấp: 12VDC hoặc 24VDC có đầu chuyển đổi
- Tín hiệu ra: thường mở - NPN hoặc PNP
- Thời gian bật: 25ms (1m)/ 35ms (2m)/ 250ms (8m)

3. Thiết kế, chế tạo thử nghiệm thiết bị
3.1. Yêu cầu chung của thiết bị
Thiết bị đếm xe sẽ nhận dạng xe và truyền tín hiệu khi các xe ô tô đi qua các làn đường trên
đường cao tốc về Trung tâm điều khiển giao thông. Tại đây, máy chủ nhận tín hiệu và sẽ xử lý, thu
nhận số liệu để điều tiết giao thông như phân luồng giao thông, xử lý các xe chạy quá tốc độ cho
phép… nhằm giải quyết nạn ùn tắc khi vào thành phố và kiểm soát độ an toàn trên các tuyến đường.
Các yêu cầu kỹ thuât cơ bản về thiết bị đếm xe:
385


- Độ chính xác > 95%
- Khoảng cách đo: 6 – 11 m
- Truyền dữ liệu: RS232 với máy tính để kiểm tra thiết bị.
- Truyền qua mạng GPRS về trung tâm để phục vụ quản lý và điều khiển
3.2. Sơ đồ khối thiết bị
Từ yêu cầu trên, ta có sơ đồ khối của thiết bị như sau:

Máy tính

Cảm biến


Khối
Xử lý tín hiệu

GSM - GPRS

Nguồn
Hình 6: Sơ đồ khối của thiết bị
Trong đó:
+ Module cảm biến có nhiệm vụ nhận dạng xe đi qua, đưa thông tin về khối xử lý tín hiệu. Có hai
loại cảm biến như đã trình bày ở trên:


Cảm biến đếm xe theo nguyên lý siêu âm kí hiệu SM950A-80000;



Cảm biến đếm xe theo nguyên lý hồng ngoại IR201-329.

+ Module xử lý tín hiệu có chức năng xử lý tín hiệu từ cảm biến, hiển thị thông tin về số lượng
xe, kết nối với máy tính để thiết lập thông số, kết nối với máy tính ở Trung tâm thông qua khối mạch
GSM truyền theo chuẩn GPRS;
+ Module GSM truyền thông tin từ khối xử lý tín hiệu về Trung tâm theo chuẩn GPRS;
+ Module nguồn cung cấp cho từng module trong thiết bị: cảm biến, khối xử lý tín hiệu, GSM.
Dưới đây, báo cáo sẽ trình bày cụ thể về hai module ứng dụng những công nghệ mới hiện nay. Đó
là module xử lý tín hiệu và module mạch truyền thông GSM của thiết bị.
3.3. Khối xử lý tín hiệu
3.3.1 Yêu cầu kỹ thuật
Khối xử lý tín hiệu phải đáp ứng được các chức năng sau:
- Có 2 cổng kết nối chuẩn RS232 để kết nối mạch xử lý với 1 máy tính và hiển thị số lượng

xe đã đếm được;
- Lựa chọn số hiệu của thiết bị đếm xe;
- Gửi các thông tin về số lượng xe đếm được trong từng khoảng thời gian nhất định (đặt
trước) về trung tâm thông qua 1 mạch GSM;
- Kết nối với cảm biến hồng ngoại để lấy dữ liệu và xử lý;
- Có đồng hồ thời gian thực để Reset lại bộ đếm xe mỗi ngày (24h);
- Tốc độ xử lý nhanh, độ ổn định và tin cậy cao;
- Nhỏ gọn dễ ghép nối với các mạch khác chế tạo thành một bộ đếm xe hoàn chỉnh;
386


- Chịu được điều kiện môi trường Việt Nam, vì chủ yếu hoạt động ngoài trời.
Với những yêu cầu trên, thiết bị sử dụng vi điều khiển STR711FR2T6 vì đáp ứng được các yêu
cầu kỹ thuật của mạch xử lý tín hiệu như đã nêu.
3.3.2 Giới thiệu vi điều khiển ARM 32bit STR711FR2T6
Hầu hết các nguyên lý của hệ thống trên chip (Systems on chip-SoC) và cách thiết kế bộ xử lý
hiện đại được sử dụng trong ARM, ARM còn đưa ra một số khái niệm mới (như giải nén động các
dòng lệnh). Việc sử dụng 3 trạng thái nhận lệnh-giải mã-thực thi trong mỗi chu kì máy mang tính quy
phạm để thiết kế các hệ thống xử lý thực. Do đó, nhân xử lý ARM được sử dụng rộng rãi trong các hệ
thống phức tạp.
*) Điểm mạnh của bộ xử lý dùng tập lệnh RISC:
- Kích thước miếng bán dẫn nhỏ hơn: bộ xử lý đơn giản đòi hỏi ít transistor hơn, do đó, kích
thước cần dùng nhỏ lại, dành vùng diện tích trống để tăng các chức năng như bộ nhớ cache,
chức năng quản lý bộ nhớ, v.v…
- Thời gian phát triển một sản phẩm ngắn hơn <do kĩ thuật đơn giản hơn>
- Cấu hình mạnh hơn
*) Thông số của vi điều khiển ARM STR711FR2T6
Vi điều khiển có 64 chân, là loại chip dán, kích thước 10x10 mm.
- Core ( Nhân ):
ARM7TDMI 32-bit RISC CPU (Kiến trúc tập lệnh RISC)

- Bộ nhớ:
• Mở rộng tới 256 Kbytes bộ nhớ ngoài ( 10 000 lần đọc/ghi, sử dụng được 20 năm, chịu
nhiệt 850C )
• 16 Kbytes bộ nhớ Flash (100 000 lần đọc/ghi, sử dụng được 20 năm, chịu nhiệt độ từ 400C ÷ 850C)
• Có tới 16 Kbytes RAM
• Có thể mở rộng được dung lượng của SRAM, FLASH, ROM
• Có khả năng khởi động chip (Multi-boot capability)
- Xung nhịp, Reset và nguồn cấp:
• Nguồn cấp 3,3V (Nhân chip cần 1,8V)
• Tần số dao động: 0 ÷ 16 MHz
• Có chức năng RealTime Clock
• Có 4 chế độ tiết kiệm năng lượng: SLOW, WAIT, STOP và STANDBY (chạy chậm,
chờ, dừng và nghỉ)

387


3.3.3 Lưu đồ tổng thể chương trình

Khởi tạo:- Cấu hình chân vi điều khiển I/O
- Cấu hình RS232
- Cấu hình GPRS
- RTC, Timer

Nhận tín hiệu và xử lý tín hiệu có xe

Có xe
Sai
Đúng
Số lượng xe = Số lượng xe +1


- Hiện số LED
- Gửi RS232

Sai

Đến thời điểm
gửi GPRS?
Đúng
Gửi GPRS

Hết 1 ngày
Sai
Đúng

Hình 7: Lưu đồ tổng thể của chương trình
3.4. Mạch GSM truyền tín hiệu chuẩn GPRS
3.4.1 Yêu cầu kỹ thuật
- Kết nối với mạch xử lý tín hiệu theo chuẩn RS232 để nhận dữ liệu truyền về trung tâm theo
chuẩn GPRS;
- Mạch nhỏ gọn, dễ dàng trong việc lắp đặt cùng với mạch xử lý tạo thành bộ thiết bị đếm xe;
388


- Hoạt động ổn định;
- Chịu được môi trường làm việc ngoài trời.
Theo yêu cầu kỹ thuật của mạch ta chọn modem GM862 của hãng Telit.
3.4.2 Giới thiệu modem GM862 của Telit
*) Giới thiệu truyền thông tin chuẩn GPRS (General Packet Radio Services)
GPRS (dịch vụ vô tuyến gói tổng hợp) theo tiêu chuẩn cho phép dữ liệu truyền và nhận theo

những cách thức hoàn toàn khác nhau từ một điểm tới điểm liên lạc bằng vòng chuyển đổi dữ liệu
(CSD) GSM modem.
GPRS là công nghệ truyền thông không dây dạng gói tin có tốc độ truyền dữ liệu cao, kết nối
Internet liên tục, được sử dụng cho mạng điện thoại và máy tính. Công nghệ GPRS có khả năng tăng
tốc độ truyền dữ liệu lên 10 lần, từ 9,6kbps đối với mạng di động hiện nay đến 115kbps.
Trong hoạt động của CSD modem được thiết lập để kết nối với một thiết bị khác (modem khác)
theo cách mà tất cả các thiết bị trong mạng có thể truyền và trao đổi dữ liệu, mô phỏng một kết nối
điểm tới điểm thực, cũng như khi thiết bị kia được kết nối trực tiếp để điều khiển các ứng dụng của
modem.
Dịch vụ này cho phép giảm chi phí đối với người dùng cuối so với dịch vụ chuyển mạch điện tử
vì nó hoạt động trên cơ sở truyền thông được chia sẽ cho nhiều người dùng thay vì dành riêng cho 1
người tại mỗi thời điểm.
Các mạng truyền thông di động hiện nay trên thế giới (kể cả Việt Nam) đang sử dụng công nghệ
thế hệ 2, gồm GSM, CDME, TDMA… Mục tiêu của các nhà cung cấp dịch vụ thông tin di động hiện
nay là tìm ra phương thức tối ưu để chuyển dịch mạng thông tin di động thế hệ 2 của họ sang thế hệ
thứ 3. Để đạt mục tiêu trên, một trong các giải pháp đó là tiến lên mạng 2,5G vừa mở ra một cơ hội để
phát triển lên mạng 3G trong khi vẫn kế thừa được cơ sở hạ tâng mạng 2G sẵn có. Như vậy GPRS chỉ
là một trong những bước chuyển tiếp từ thế hệ 2 sang thế hệ 3 và có thể được coi là thế hệ 2,5G.
*) Cấu hình modem Telit GM862
- Kích thước: dài x rộng x cao: 43,9x43,9x6,9 (mm3);
- Thể tích: 13 cm3;
- Khối lượng: 23g;
- Nhiệt độ hoạt động: -30 – 85 0C;
- Có 50 chân.
Để hoạt động ngoài mạch khởi động còn cần: ăngten và sim card. Modem có các chức năng sau:
- Giao tiếp UART;
- Audio (Microphone);
- Speaker;
- ADC 11bit (đầu vào 0-2V);
- Cấu hình GPIO chung hoạt động với mức logic CMOS 2.8V.


389


3.4.3 Lưu đồ GPRS

Bắt đầu

Kiểm tra mạng GSM
Sai
Đúng

Cài đặt tham số khởi tạo
để truy cập GPRS
Sai
Đúng
Truy cập GPRS
Sai
Đúng
Mở cổng địa chỉ cần gửi dữ liệu

Báo lỗi

Gửi dữ liệu
Sai
Đúng
Hình 8: Lưu đồ module GSM
Lời kết

Với quá trình nghiên cứu, lựa chọn chi tiết các thiết bị, cán bộ Trung tâm Tự động hóa và Đo

lường đa chế tạo thành công thiết bị đếm xe sử dụng cảm biến nguyên lý hồng ngoại và nguyên lý siêu
âm. Các thiết bị này đã được thử nghiệm trực tiếp trên đường, tại một số nút giao thong có lưu lượng
xe cộ tương đối lớn qua lại như: nút giao thông Pháp Vân, nút giao thông Cầu Giấy,.... Kết quả do
thiết bị đếm được so với việc đếm thủ công là tương đối chính xác, đạt trên 90%.

390


(a)

(b)

Hình 9: Thiết bị đếm xe sử dụng đầu đo hồng ngoại (a) và đầu đo siêu âm (b)
Qua việc thử nghiệm thiết bị ngoài thực tế, một số vấn đề đã được đặt ra để nâng cao độ chính
xác của thiết bị: cảm biến bị ảnh hưởng bởi các yếu tố môi trường, đặc biệt là khói bụi, sương
mù,....Bên cạnh đó, việc khoảng cách giữa các xe lưu thông trên đường không đảm bảo, cũng ảnh
hưởng đến kết quả đếm xe.
Những kết quả ban đầu, cùng với những vấn đề đặt ra đã cho thấy khả năng thành công trong
tương lai không xa của thiết bị. Dự kiến sau khi hoàn thiện, các thiết bị này sẽ góp phần làm tăng hiệu
quả khai thác giao thông, giám sát, quản lý và phân luồng giao thông.

391


Tuyển tập công trình Hội nghị khoa học công nghệ và môi trường năm 2009
Viện Khoa học và Công nghệ GTVT
Hà Nội, 30/10/2009

Nâng cao chất lượng bồi dưỡng nghiệp vụ Giám sát thi công
xây dựng công trình giai đoạn hiện nay

TS. Đào Huy Hoàng và các đồng nghiệp
Viện Khoa học và Công nghệ GTVT
Tóm tắt: Những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước, với chính sách mở cửa của Đảng và Nhà
nước, các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài đã được triển khai thực hiện ở hầu khắp các tỉnh
thành trong cả nước. Trong lĩnh vực xây dựng công trình, thông qua các tổ chức tư vấn nước
ngoài tham gia thực hiện các dự án bắt đầu hình thành các tổ chức ‘Tư vấn đầu tư’, ‘Tư vấn thiết
kế’, ‘Tư vấn giám sát’ .... Các khóa đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Tư vấn giám sát cũng bắt đầu được
tổ chức nhằm phục vụ cho các dự án này. Từ đó đến nay, cùng với sự điều chỉnh về mặt thể chế
trong thi công xây dựng công trình, các chương trình đào tạo cũng được nâng cấp đảm bảo tính
pháp lý phù hợp với hoạt động xây dựng. Trong hơn 15 năm qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng Tư
vấn giám sát thi công xây dựng lĩnh vực Giao thông vận tải đã tạo được những uy tín nhất định,
góp phần hình thành một đội ngũ đông đảo những người hành nghề giám sát, đáp ứng nhu cầu
phát triển ngày càng cao, càng nhanh về quy mô và chất lượng của hoạt động giám sát thi công.
Trong năm 2009 Bộ Xây dựng đã có những điều chỉnh quy định về đào tạo và cấp chứng chỉ hành
nghề giám sát thi công XDCT, tuy nhiên công tác đào tạo cũng còn nhiều vấn đề đáng bàn, đặc
biệt là việc nâng cao chất lượng đào tạo cho phù hợp với giai đoạn hiện nay.
Abstract: In the early 1990s of the previous century, with the open-door policy of the Party and
the Government, foreign directly invested projects were implemented in almost all provinces
across the country. In the field of construction, through the participation of foreign consultancy
organizations in these projects, “Investment consultancy organizations”, “Design consultancy
organizations”, “Supervision consultancy organizations” were established…Training courses for
supervisors were also held in order to support these projects. Since then, together with amendment
of execution regimes, training courses have been also upgraded in accordance with requirements
of construction. Over the past 15 years, training of supervisors in the field of transport
construction has created significant prestige, contributed to shaping numerous supervising staff,
satisfying quick and high demand for the scale and quality of supervision execution. In 2009,
Ministry of Construction adjusted the regulations on training program and issuing supervision
certificates, however, the training programs still have many matters to discuss, especially,
improvement of training program’s quality in conformity with the current period.


1. Nhu cầu về nguồn nhân lực Tư vấn giám sát thi công xây dựng công trình.
Từ năm 1990, tư vấn xây dựng Việt Nam theo cơ chế thị trường của nền kinh tế hàng hoá đã thực
sự biến thành một nghề kinh doanh ngày càng được luật pháp và cộng đồng công nhận. Đây thực sự là
một sự biến đổi cả về lượng lẫn về chất . Có thể nói rằng gần 20 năm qua là một thời gian phát triển
mạnh mẽ của các doanh nghiệp tư vấn xây dựng, các hoạt động tư vấn xây dựng đã đóng góp tích cực
trong xây dựng kết cấu hạ tầng cũng như phát triển nền kinh tế quốc dân.
Nghiên cứu các dự án ở Australia chỉ rõ đầu tư cho chi phí phòng ngừa thêm 1% đã giảm được
chi phí khắc phục hư hỏng và sự cố từ 10% xuống còn 2%. Theo kinh nghiệm Trung Quốc, nếu tính
theo mức độ đầu tư cứ đầu tư trung bình tương đương 1 tỷ VNĐ cần 0.6 ÷ 1 kỹ sư tư vấn giám sát.
Như vậy với tình hình đầu tư và xây dựng ở nước ta hiện nay cần hàng vạn kỹ sư tư vấn giám sát xây
dựng. Đối với lĩnh vực xây dựng Cầu đường cũng theo kinh nghiệm của Trung Quốc cứ trên 1 km cần
1 tư vấn giám sát.
Mạng lưới giao thông đường bộ cả nước có tổng chiều dài 219.192 km, 6280 chiếc cầu và 161
bến phà. Trong đó bao gồm: 89 tuyến đường quốc lộ dài 15.770 (14.935) km; 740 tuyến đường tỉnh lộ
307


dài 17.450 km; Tổng chiều dài đường cao tốc 61 km. Theo nhu cầu xây mới và nâng cấp cải tạo hệ
thống cầu đường hiện nay thì chúng ta đang cần hàng ngàn giám sát.
Về phía các doanh nghiệp, trên cả nước hiện có khoảng gần 1000 doanh nghiệp tư vấn xây dựng,
bao gồm đủ các ngành chủ chốt xây dựng, từ trung ương đến địa phương, bao gồm đủ mọi thành phần
kinh tế, trong đó 70% là doanh nghiệp nhà nước, 27% là công ty ngoài quốc doanh và 3% công ty liên
doanh nước ngoài , một số rất ít công ty tư vấn xây dựng với 100% vốn nước ngoài và công ty cổ
phần, khoảng 300 tổ chức chuyên về tư vấn xây dựng , số còn lại làm thêm nhiều việc khác.
Tại thành phố Hồ Chí Minh có trên 250 đơn vị tư vấn xây dựng chiếm 34% tổng số đơn vị tư vấn
xây dựng trong cả nước (bao gồm các công ty của Trung ương và địa phương đặt trụ sở tại thành phố)
trong đó có trên 50% doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Tại Hà Nội có trên 200 đơn vị tư vấn xây dựng
chiếm 27% tổng số đơn vị tư vấn xây dựng trong cả nước ( bao gồm các công ty của Trung ương và
địa phương đặt trụ sở tại Hà Nội ) trong đó có khoảng 25% doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Tại Đà
Nẵng có trên 50 đơn vị tư vấn xây dựng, trong đó có khoảng 30% doanh nghiệp ngoài quốc doanh.

Ngoài 3 thành phố trên, các tỉnh thành còn lại trung bình mỗi tỉnh có từ 2 đến 20 doanh nghiệp tư vấn
xây dựng.
Quy mô của các tổ chức, doanh nghiệp - trừ một số ít công ty vốn là các Viện thiết kế lâu đời của
các Bộ Giao thông vận tải, Bộ Thuỷ lợi, Bộ Công nghiệp, Bộ Xây dựng - về nhân lực nói chung dưới
100 người, về vốn, về doanh thu về trang thiết bị có thế xem là một loại doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các
doanh nghiệp này đã cố gắng đầu tư chiều sâu: Nơi làm việc, thiết bị văn phòng, máy móc do đạc, thí
nghiệm, nối mạng máy tính, lập các cơ sở dữ liệu (đã có nhưng còn rất ít), trang bị các phần mềm; Chú
trọng đào tạo, huấn luyện bằng mọi hình thức: Tại chỗ, cử đi học, tìm đối tác liên doanh để được
chuyển giao công nghệ, nắm bắt các kỹ thuật mới; Cải tiến quản lý theo cơ chế thi trường, chủ động
tìm việc, tăng cường chất lượng, hạ giá thành, tạo uy tín trong và ngoài nước. Nhờ các cố gắng trên,
các doanh nghiệp này đã có thể đảm nhiệm hầu hết các công việc vừa và nhỏ có tính truyền thống
được đối với các công việc lớn, mới mẻ, kỹ thuật phức tạp đều có thế làm được một số qua sự hợp
tác, làm thầu phụ với chuyên gia nước ngoài (qua đó các công trình sau đã chủ động được).
Tuy nhiên, nhìn chung các doanh nghiệp này còn chưa thật thông hiểu chu đáo thông lệ quốc tế,
luật pháp, tính toán kinh tế, giải quyết các mối quan hệ có tính xã hội như môi trường, tái định cư. Đặc
biệt là ngoại ngữ còn quá yếu, cách trình bày văn bản hoặc khi tiếp xúc còn chưa đạt yêu cầu. Trong
công tác tư vấn còn thể hiện sự phối hợp giữa các bộ môn với nhau còn yếu (thiếu người đứng đầu đủ
uy tín và năng lực), chưa thật quen với tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế, chất lượng chưa cao (nhất là khâu
làm dự án), nhiều trường hợp thiếu tính chất độc lập của nhà tư vấn, khả năng thuyết phục còn yếu.
Ngoài ra trong quá trình kinh doanh còn nhiều hiện tượng thiếu lành mạnh, sử dụng các biện pháp
tiêu cực để có việc, hạ giá một cách phi lý, lôi kéo người của đơn vị khác, nói xấu nhau ... Về khách
quan mà nói, các thể chế đối với công tác đầu tư xây dựng, đối với tư vấn xây dựng còn có những vấn
đề tồn tại, thị trường tư vấn, thuế, giá cũng có những điều cần đề nghị xét lại. Tất cả những tình hình
đó dẫn tới việc hoà nhập kinh tế khu vực cũng như quốc tế của các doanh nghiệp tư vấn còn có nhiều
vấn đề chủ quan và khách quan phải cố gắng khắc phục mạnh mẽ trong thời gian tới để tăng cường
sức cạnh tranh nếu không muốn bị tụt hậu.
Cùng với sự phát triển đó, các tổ chức tư vấn xây dựng đã có những bước phát triển khá mạnh mẽ
và đã hoạt động theo cơ chế mới. Các vần đề tồn tại nói trên cũng cho thấy nhu cầu cũng như hiện
trạng tổ chức và nguồn nhân lực trong các tổ chức tư vấn để có kế hoạch, chương trình cũng như nội
dung đào tạo, bồi dưỡng phù hợp trong giai đoạn hiện nay.


2. Bản chất của công tác Tư vấn giám sát thi công xây dựng công trình.
2.1. Tư vấn xây dựng công trình.
Tư vấn là cung ứng lời khuyên đúng đắn và thích hợp chứ không phải lời khuyên chung chung.
Một lời khuyên đúng đắn có thể thích hợp với một bối cảnh, một tình huống, một thời gian nhất định,
nhưng lại không thích hợp cho một thực thể khác, vào hoàn cảnh và thời gian khác. Tư vấn không chỉ
đơn thuần là đưa ra lời khuyên, mà còn phải chỉ vẽ, hướng dẫn thực hiện lời khuyên đưa ra sao cho có
308


thể đạt hiệu quả cao nhất. Tư vấn cũng giúp đỡ kỹ thuật, tổ chức việc điều tra, khảo sát, nghiên cứu
soạn thảo các văn kiện, dự án, qui hoạch, thiết kế và quản lý các dự án xây dựng cho khách hàng.
Tư vấn xây dựng - hay kỹ sư tư vấn - là một loại hình tư vấn đa dạng trong công nghiệp xây
dựng, kiến trúc, qui hoạch đô thị và nông thôn... có quan hệ chặt chẽ với tư vấn đầu tư, thực hiện phần
việc tư vấn tiếp nối cho dự án sau tư vấn đầu tư. Tư vấn xây dựng giúp cho khách hàng - chủ dự án tổ chức việc khảo sát, thiết kế (hoặc chủ trì đấu thầu khảo sát, thiết kế) và tổ chức đấu thầu mua sắm
thiết bị đầu tư, đấu thầu xây lắp công trình, giám sát thi công, nghiệm thu công trình hoàn thành.
Ở Việt Nam, hiệp hội các Công ty Tư vấn Xây dựng đã hình thành và hoạt động. Trên thế giới,
nhiều hãng tư vấn xây dựng bắt đầu hoạt động trong lĩnh vực xây dựng rồi tiếp tục mở rộng ra một số
loại hình khác như tư vấn quản lý, tư vấn đầu tư, tư vấn bất động sản... để trở thành các hãng tư vấn
tổng hợp có tầm cỡ quốc tế.
Thông thường, đối với các dự án kết cấu hạ tầng, chỉ có một công ty tư vấn đầu tư và xây dựng
đảm nhiệm công việc tư vấn từ đầu đến cuối.
Một cách tổng quát, tư vấn là một dịch vụ trí tuệ, một hoạt động "chất xám” cung ứng cho khách
hàng những lời khuyên đúng đắn về chiến lược, sách lược, biện pháp hành động và giúp đỡ, hướng
dẫn khách hàng thực hiện những lời khuyên đó; kể cả tiến hành những nghiên cứu soạn thảo dự án và
giám sát.
2.2. Giám sát thi công xây dựng công trình
Giám sát xây dựng là chỉ các công tác kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo và đánh gía công việc những
người tham gia công trình. Nó lấy hoạt động của hạng mục công trình xây dựng làm đối tượng; lấy
pháp luật, quy định, chính sách và tiêu chuẩn kỹ thuật có liên quan, văn bản hợp đồng công trình làm

chỗ dựa, lấy quy phạm thực hiện công việc, lấy nâng cao hiệu quả xây dựng làm mục đích.

Hình 1. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, lãnh đạo thành phố Hà Nội và nhiều bộ ngành đã tới dự
lễ thông cầu Vĩnh Tuy (ảnh: Lan Hương)

309


Giám sát xây dựng là sản phẩm của sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Khi có vốn tiến hành
đầu tư một hạng mục mới, cần phải mời những chuyên gia có kinh nghiệm tiến hành nghiên cứu tính
khả thi, xác định sách lược đầu tư. Sau khi xác định hạng mục, lại phải có những nhà chuyên môn tổ
chức đấu thầu, làm công tác quản lý công trình và quản lý hợp đồng. Cùng với sự phát triển không
ngừng của nền kinh tế thị trường, công việc giám sát xây dựng được bổ sung và hoàn thiện thêm một
bước, dần dần trở thành một bộ phận cấu thành của trình tự xây dựng và thông lệ quốc tế thực thi xây
dựng.
Hiện nay trong các dự án ngành GTVT nhiều cán bộ làm công tác Tư vấn giám sát nhưng mới chỉ
thực hiện được vai trò giám sát thuần túy, mà chưa thực hiện được vai trò quan trọng là tư vấn, đây
thực sự là vấn đề cần bàn về chất lượng Tư vấn giám sát hiện nay. Để có thể xây dựng lực lượng Tư
vấn giám sát có trình độ và chất lượng chuyên môn cao cần xây dựng kế hoạch, chương trình đào tạo,
bồi dưỡng dựa trên nền tảng khoa học kỹ thuật và đặc thù của các dự án theo từng lĩnh vực.

3. Công tác bồi dưỡng nghiệp vụ Tư vấn giám sát thi công xây dựng công trình hiện nay,
sự cần thiết nâng cao chất lượng.
3.1. Công tác bồi dưỡng nghiệp vụ Giám sát thi công xây dựng công trình, những tồn tại.
Chất lượng sản phẩm đào tạo đối với thị trường nhân lực khoa học công nghệ đã được đặt ra đối
với công tác đào tạo, bồi dưỡng từ nhiều năm qua. Việc nghiên cứu xây dựng các chương trình cũng
như nội dung đào tạo phù hợp nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động xây dựng hiện nay có một ý nghĩa rất
quan trọng.

Hình 2. Khóa bồi dưỡng Giám sát thi công xây dựng công trình giao thông do Trung tâm Đào tạo và

Bồi dưỡng Kỹ thuật nghiệp vụ GTVT tổ chức tại Viện Khoa học và Công nghệ GTVT.
Trong hoạt động xây dựng, để nâng cao chất lượng công trình nói chung thì bài toán đầu tiên
được đặt ra là phải bắt đầu từ việc chuyên nghiệp hóa đội ngũ tham gia công tác tư vấn giám sát. Vấn
đề này chỉ có thể thực hiện được thông qua việc đào tạo bồi dưỡng kiến thức về kỹ thuật và nâng cao
trình độ hiểu biết của kỹ sư tư vấn giám sát đối với các loại hình văn bản quy phạm pháp luật và văn
bản quy phạm kỹ thuật đáp ứng các yêu cầu đặt ra.
Hoạt động bồi dưỡng và cấp chứng chỉ hành nghề Giám sát thi công xây dựng công trình mang
tính pháp quy bắt đầu được thực hiện từ năm 2005 theo các Quyết định số 12/2005/QĐ-BXD
ngày 18/4/2005 của Bộ Xây dựng (về việc ban hành Quy chế cấp chứng chỉ hành nghề giám sát thi
công xây dựng công trình), Quyết định số 1857/QĐ-BXD ngày 29/9/2005 của Bộ Xây dựng (về việc
ban hành Chương trình khung bồi dưỡng nghiệp vụ giám sát thi công xây dựng công trình).
310


Và mới đây, Bộ Xây dựng đã có những điều chỉnh lớn về công tác bồi dưỡng và cấp chứng chỉ
hành nghề theo các Thông tư số 25/2009/TT-BXD, ngày 29 tháng 7 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Xây
dựng (Hướng dẫn bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý dự án và giám sát thi công xây dựng công trình) và
Thông tư số 12/2009/TT-BXD ngày 24 tháng 6 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng (Hướng dẫn
chi tiết về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng).
Tình hình hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ Giám sát thi công xây dựng công trình được
phân tích qua các khía cạnh sau:
3.1.1. Về khía cạnh các cơ sở đào tạo và bồi dưỡng.
Trong gần 5 năm qua, số lượng các cơ sở đào tạo được công nhận từ 7 cơ sở vào năm 2005 đến
nay đã tăng lên 30 cơ sở trên phạm vi cả nước (Danh sách theo bảng 1). Các cơ sở này bao gồm cả các
tổ chức hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp công lập, ngoài công lập và các hiệp hội. Việc tổ chức
đào tạo và bồi dưỡng của các cơ sở này đã có nhiều cố gắng những cũng còn rất nhiều vấn đề đáng
bàn về quy mô, chất lượng và mặt bằng chung.
Bảng 1.
Danh sách các cơ sở đào tạo bồi dưỡng giám sát thi công XDCT
STT


Tên danh sách

1

Viện Khoa học công nghệ xây dựng - Bộ Xây dựng

3

Viện Khoa học công nghệ giao thông vận tải - Bộ
Giao thông vận tải
Trường Đại học Thuỷ lợi - Bộ Nông nghiệp và phát
triển nông thôn

4

Trường Đại học Xây dựng - Bộ Giáo dục và đào tạo

5

Trường Đào tạo bồi dưỡng cán bộ ngành xây dựng Bộ Xây dựng

6
7

Trường Đại học bách khoa TPHCM - Bộ Giáo dục
và đào tạo
Trường Đại học mở bán công TPHCM - Bộ Giáo
dục và đào tạo


9

Viện nghiên cứu hợp tác khoa học kỹ thuật Châu Á
- Thái Bình Dương

10

Trung tâm Khoa học đào tạo và chuyển giao công
nghệ xây dựng - Tổng Hội xây dựng

11

Viện Khoa học công nghệ xây dựng

12

Trường Đào tạo bồi dưỡng cán bộ ngành XD

13
14
15

Trường Đại học bách khoa TPHCM
Trường Đại học mở TPHCM

Đợt 3
Quyết định số 798/QĐBXD ngày 25/5/2007

Hiệp hội Tư vấn xây dựng Việt Nam


Đợt 2
Quyết định số 875/QĐBXDngày 05/6/2006

8

Đợt I
Quyết định số 1335/QĐ-BXD ngày
24/6/2005

2

Quyết định

Lĩnh vực
Công trình giao
thông, thuỷ lợi
Công trình giao
thông
Công trình giao
thông, thuỷ lợi
Công trình giao
thông, thuỷ lợi, dân
dụng
Công trình giao
thông, thuỷ lợi, dân
dụng
Công trình giao
thông, thuỷ lợi
Công trình giao
thông, thuỷ lợi

Công trình dân
dụng, công nghiệp,
hạ tầng kỹ thuật
Công trình dân
dụng, công nghiệp,
hạ tầng kỹ thuật
Công trình dân
dụng, công nghiệp,
hạ tầng kỹ thuật
Công trình giao
thông, thuỷ lợi
Công trình giao
thông, thuỷ lợi
Công trình thuỷ lợi
Công trình thuỷ lợi
Công trình thuỷ lợi

Hiệp hội Tư vấn xây dựng Việt Nam
311


×