Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

PHÁP LUẬT CHỐNG ĐỊNH GIÁ LẠM DỤNG CỦA EU, HOA KỲ, VIỆT NAM -SO SÁNH VÀ KINH NGHIỆM ÁP DỤNG CHO VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.16 MB, 33 trang )

ĐẠI HỌC LUND

TRƯỜNG ĐH LUẬT

KHOA LUẬT

TP. HỒ CHÍ MINH

TRẦN HOÀNG NGA

PHÁP LUẬT CHỐNG ĐỊNH GIÁ LẠM DỤNG
CỦA EU, HOA KỲ, VIỆT NAM
-SO SÁNH VÀ KINH NGHIỆM ÁP DỤNG CHO
VIỆT NAM
– So sánh
: 62.38.60.01

TP.HCM - 2011


Công trình được hoàn thành tại:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUND, THỤY ĐIỂN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
Người hướng dẫn khoa học:
GS.TS. HANS HENRIK LIDGARD
PGS.TS. LÊ THỊ BÍCH THỌ
Phản biện 1: .........................................................
Phản biện 2: …………………………………….
Phản biện 3: .........................................................
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp
Nhà nước, tại Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh


Vào hồi ..... giờ ..... ngày...... tháng...... năm 2011
Có thể tìm hiểu luận án tại:
-

Thư viện Quốc gia Việt Nam

-

Thư viện Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí
Minh

-

Thư viện Khoa Luật Đại học Lund Thụy Điển
2


Chương 1
GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
1.1. Bối cảnh chọn đề tài
Cạnh tranh và độc quyền là những vấn đề nội tại của nền
kinh tế thị trường. Trong khi nhiều quốc gia khác đã trải qua thời
gian dài tích lũy kinh nghiệm giải quyết những vấn đề này, Việt Nam
mới tiến hành quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường từ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung hơn hai thập kỷ. Vì vậy, Việt Nam
đang đối mặt với nhiều khó khăn cả về lý thuyết lẫn thực tế trong
việc bảo vệ cạnh tranh hiệu quả. Xuất phát từ đặc thù hoàn cảnh
riêng, lạm dụng vị trí thống lĩnh là một trong những vấn đề nghiêm
trọng nhất ở thị trường Việt Nam. Do đó nghiên cứu vấn đề này có
tầm quan trọng đáng kể cho cải cách nền kinh tế Việt Nam.

Ở nền kinh tế thị trường, giá cả là một trong những dấu hiệu
quan trọng nhất thể hiện thực trạng cạnh tranh. Giá cả được xác lập
và vận hành theo các qui luật kinh tế, và là kết quả của cạnh tranh.
Hầu hết các khái niệm kinh tế cơ bản đều liên quan đến giá cả. Câu
hỏi người bán là người đi theo giá cả hay là người tạo ra giá cả dùng
để nhận dạng thị trường là cạnh tranh, độc quyền hay độc quyền
nhóm.
Giá cả cũng là công cụ quan trọng mà các đối thủ cạnh tranh
sử dụng để chiến đấu nhằm tồn tại và giành được một vị trí trong thị
trường liên quan. Định giá là công việc hết sức quan trọng đối với
mỗi doanh nghiệp ở nền kinh tế thị trường. Nó là cơ sở để hiện thực
hóa mục tiêu kinh doanh. Trong hoạt động cạnh tranh, định giá được
sử dụng đầu tiên. Những chiến lược áp dụng đối với các yếu tố khác
của sản phẩm như chất lượng, tính năng sử dụng hay bảo hành, hậu
mãi, v.v., suy cho cùng, đều liên quan gián tiếp đến giá của sản

3


phẩm. Định giá có thể sử dụng với mục đích cạnh tranh hoặc phản
cạnh tranh. Trong thị trường độc quyền, quyền lực chi phối, quyết
định giá nằm trong tay của nhà độc quyền. Họ thường có khuynh
hướng khai thác quyền lực đó để tận thu lợi ích và duy trì vị trí độc
quyền của mình.
. Tuy nhiên, t

vậy

.
Thời điểm ra đời của pháp luật kiểm soát độc quyền trên thế

giới được thừa nhận rộng rãi là năm 1890 khi Luật Sherman của Hợp
Chủng Quốc Hoa Kỳ được thông qua. Sau đó Hoa Kỳ lần lượt ban
hành nhiều đạo luật khác. Trong các đạo luật này, Điều 2 Luật
Sherman, Điều 2 và 3 Luật Clayton, và Luật Robinson – Patman tạo
thành khuôn khổ của chế định chống lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường. Ở Liên Minh Châu Âu, pháp luật về kiểm soát độc quyền ra
đời cùng với và là một phần của sự hình thành Cộng Đồng Chung.
Các qui định về nguyên tắc cạnh tranh đã xuất hiện ở Điều 3(g), 85
và 86 của Công Ước thành lập Cộng Đồng Kinh Tế Châu Âu ký tại
Rome ngày 25 tháng 3 năm 1957. Về cơ bản nội dung cả hai điều 85
và 86 Công ước Rome thuộc pháp luật kiểm soát độc quyền vì điều
85 cấm các thoả thuận hạn chế cạnh tranh và điều 86 cấm các hành
vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường. Sau đó, cùng với sự phát

4


triển của Cộng Đồng Châu Âu, Hai điều 85 và 86 của Công Ước
Rome được ghi nhận lại tại điều 81 và điều 82 của Công Ước về
Cộng đồng Châu Âu, và hiện nay được sửa đổi trở thành Điều 101 và
102 của Công ước về Chức năng của Liên Minh Châu Âu (TFEU).
Luật chống độc quyền của Hoa Kỳ và Luật cạnh tranh EU trở thành
hai mô hình cơ bản của pháp luật cạnh tranh trên thế giới.
Dựa vào lý thuyết và đặc điểm hoàn cảnh cụ thể của Việt
Nam, chống lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường có ý nghĩa vừa hết
sức thời sự vừa mang tầm chiến lược của pháp luật kiểm soát độc
quyền. Nhiệm vụ của chế định này là buộc tất cả những quyền lực
khống chế thị trường phải tôn trọng quyền lợi chính đáng của người
tiêu dùng và chấm dứt mọi hành vi hạn chế cạnh tranh.
Tuy nhiên, sau sáu năm


,
. Đến nay chỉ có ba vụ

việc liên quan hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc
quyền đã hoặc đang được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét
giải quyết theo qui định của Luật Cạnh Tranh: (1) Vụ việc công ty
Tân Hiệp Phát khiếu nại công ty liên doanh nhà máy bia Việt Nam
(Hội đồng Cạnh tranh đã quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc vì
doanh nghiệp bị khiếu nại không nắm giữ vị trí thống lĩnh ở thị
trường liên quan); (2) Vụ Vinapco (Hội đồng Xử lý Vụ việc Cạnh
tranh đã ra quyết định xử phạt Vinapco về hành vi lạm dụng vị trí
độc quyền); và (3) Vụ Megastar (Cục Quản lý Cạnh tranh đã quyết
định điều tra chính thức). Đồng thời hiện nay có nhiều hành vi khác
đã hoặc đang thu hút tranh luận của các doanh nghiệp, cơ quan nhà
nước, nhà nghiên cứu và luật gia về việc liệu đó có phải là những
hành vi lạm dụng hay không, ví dụ hành vi tăng giá dược phẩm, tăng
giá sữa, giá thép, “cuộc chiến về giá” giữa các nhà cung ứng dịch vụ

5


viễn thông di động, tranh chấp về giá thuê cột điện giữa Tập đoàn
Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) và Tập đoàn Điện lực Việt
Nam (EVN), khiếu nại về việc tăng giá liên quan đến độc quyền phát
sóng các trận đấu ngày Chủ nhật của Giải bóng đá Ngoại hạng Anh
(EPL) của đài dịch vụ truyền hình số vệ tinh K+ ở Việt Nam. Những
trường hợp thực tiễn này cho thấy hai vấn đề. Một

.

Nguồn tài liệu liên quan về chế định này trong pháp luật EU
và Hoa Kỳ rất dồi dào. S

, những
khoảng trống
thực tế cho thấy

:“

.”

6


Kết quả từ công trình nghiên cứu này sẽ cung cấp kiến thức
chuyên sâu

phù hợp cho việc hoàn thiện pháp luật
cạnh tranh. Hơn nữa, tác giả tin rằng kết quả nghiên cứu sẽ hữu ích
cho công tác giảng dạy của chính mình và trở thành tài liệu tham
khảo cho những người quan tâm đến chủ đề này.
1.2. Mục đích nghiên cứu
này có

nhằm
. Luận án
đồng thời
,

.


. Tác giả hướng
,
.

7


1.3. Định nghĩa và phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi luận án này, tác giả sử dụng thuật ngữ “định
giá lạm dụng” với định nghĩa sau: Định giá lạm dụng là hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường hay vị trí độc quyền (theo pháp luật
cạnh tranh EU và Việt Nam) hoặc cố ý độc quyền hay nỗ lực độc
quyền (theo pháp luật chống độc quyền Hoa Kỳ), có liên quan trực
tiếp với việc xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ của chủ thể vi phạm.
Luận án chỉ tập trung vào pháp luật chống định giá lạm
dụng. Luận án không bàn luận về sự thông đồng, tức là hành vi liên
kết với nhau để hạn chế cạnh tranh như thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh và hành động phối hợp, ngay cả khi những hành vi đó liên quan
đến định giá. Mặt khác, luận án cũng không bàn luận về các hành vi
lạm dụng không trực tiếp liên quan với việc định giá.
Như tên đề tài đã xác định, tác giả lựa chọn nghiên cứu pháp
luật của ba hệ thống: EU, Hoa Kỳ và Việt Nam. Hai hệ thống pháp
luật EU và Hoa Kỳ có nhiều kinh nghiệm trong nhận diện và xử lý
hành vi định giá lạm dụng, cũng như những hình thức lạm dụng
khác. Nghiên cứu hai hệ thống này là phương thức tốt để có thể áp
dụng kinh nghiệm của họ trả lời những vấn đề liên quan ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, tất cả các qui tắc cơ bản, các qui định về hình thức vi
phạm và phương thức xử lý của pháp luật Việt Nam về định giá lạm
dụng cũng sẽ được phân tích. Luận án sẽ tập trung làm sáng tỏ những

điểm hạn chế trong các qui định hiện hành của pháp luật Việt Nam
để đề xuất giải pháp khắc phục.

8


tham luận
, và cuối cùng là
.
Án lệ của EU và Hoa Kỳ sẽ được lựa chọn sử dụng trong
một chừng mực mà tác giả cho là phù hợp nhất để minh họa cho các
nội dung bàn luận. Với lịch sử phát triển lâu dài, phạm vi nguồn luật
của EU và Hoa Kỳ rất lớn, cung cấp một lượng khổng lồ các quan
điểm đa dạng và kinh nghiệm thực tế cho những vấn đề nghiên cứu
của luận án. Tuy nhiên, mặt khác, điều đó gây khó khăn cho việc so
sánh ở tầm vĩ mô nhằm tìm ra những điểm giống và khác nhau điển
hình giữa hai hệ thống. Vì vậy, trong một số trường hợp khi trình bày
quá trình phát triển lịch sử của án lệ hoặc các lý luận ở EU và Hoa
Kỳ, luận án dựa trước tiên vào các báo cáo và văn bản hướng dẫn
của cơ quan có thẩm quyền về cạnh tranh ở hai hệ thống này, bao
gồm cả việc viện dẫn các nguồn tham khảo được đề cập trong đó, dù
tác giả không tự mình nghiên cứu tất cả nội dung chi tiết của các
nguồn này.
Đối với pháp luật cạnh tranh Việt Nam thì các nhà nghiên
cứu đều gặp một vài khó khăn cản trở việc tìm và cập nhật thông tin.
Một là việc không công bố rộng rãi thông tin về các vụ việc cạnh
tranh ở Việt Nam. Các trang thông tin điện tử và ấn phẩm của Cục
Quản lý Cạnh tranh, Hội đồng Cạnh tranh không cung cấp thông tin
chi tiết về các vụ việc đang giải quyết và cả các vụ việc đã xử lý
xong. Nội dung đầy đủ các quyết định của Cục Quản lý Cạnh tranh

và Hội đồng Cạnh tranh không được công bố. Hệ quả là không thể
nghiên cứu đánh giá các dữ kiện, lập luận của các bên tham gia, phân
tích và kết luận của cơ quan có thẩm quyền. Để vượt qua những trở
ngại này, tác giả thu thập thông tin từ nhiều nguồn gián tiếp và
không chính thức. Các thông tin từ nhiều nguồn khác nhau được so

9


sánh với nhau để phát hiện loại bỏ những thông tin không đúng.
Những nguồn thông tin này được lựa chọn theo thứ tự như sau. Báo
cáo chính thức và ấn phẩm của cơ quan có thẩm quyền ở thứ tự ưu
tiên đầu tiên. Bài viết tạp chí chuyên ngành và tham luận tại các hội
thảo khoa học ở thứ tự ưu tiên thứ hai. Khi không có thông tin ở cả
hai nguồn trên, thông tin chung tìm thấy trên các phương tiện truyền
thông đại chúng sẽ được sử dụng. Hai là, khó khăn trong so sánh các
thuật ngữ kinh tế dùng trong bản tiếng Anh của các văn bản pháp
luật Việt Nam với các thuật ngữ kinh tế sử dụng phổ biến ở EU và
Hoa Kỳ. Để giải quyết vấn đề này luận án sử dụng các thuật ngữ
kinh tế phổ biến phù hợp ngữ cảnh thay cho từ ngữ trong bản dịch
văn bản pháp luật nếu những từ ngữ đó tối nghĩa khó hiểu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
nghiên cứu

nghiên cứu

uật so sánh. Tác giả cũng sử dụng

trong chừng mực nhất định phương pháp nghiên cứu
-


uật -

. Trong quá trình

áp dụng các phương pháp nêu trên, luận án sử dụng nhiều công cụ
như mô tả, biện chứng, tổng hợp, so sánh, phân tích.
Phương pháp nghiên cứu pháp luật truyền thống

10


pháp

.
Phương pháp nghiên cứu pháp luật so sánh:

Chương 2, 3, và 4.

, một vấn đề chứa đựng rất nhiều thành tố mang
tính kinh tế, nên cần phải xem xét luật áp dụng từ góc độ kinh tế,
bằng cá

11


. Tuy nhiên, đây là một luận án chuyên ngành luật
học, nên chỉ áp dụng các phân tích và lý thuyết kinh tế trong chừng
mực đủ để hỗ trợ giải quyết vấn đề pháp lý, nghĩa là luận án chỉ nêu
ra các ý tưởng chung về lý thuyết và phân tích kinh tế đang được

thừa nhận một cách phổ biến. Luận án không trình bày các công
thức, đồ thị hay phương trình tính toán của kinh tế học.
1.5. Giá trị của công trình nghiên cứu
Giá trị học thuật:

những

án

trong những

.
Giá trị thực tiễn:

án
, đặc

biệt là hành vi định giá lạm dụng, từ đó có thể tránh thực hiện hành
vi vi phạm và/hoặc b

12


. Ngoài ra, tác giả h
h/độc quyền sẽ có
ý nghĩa và hữu ích.
1.6. Kết cấu của luận án
Ngoài Chương 1 giới thiệu về đề án nghiên cứu, luận án có
ba phần chính.
.


. Trong từng vấn đề cụ thể, luận án đưa nội dung của pháp
luật EU và Hoa Kỳ vào trong mối liên hệ so sánh để phân tích bình
luận.

nhau,
, EU,

. Ngoài ra, những thiếu sót và điểm

bất hợp lý nội tại trong từng nội dung có liên quan của pháp luật
cạnh tranh Việt Nam cũng được phân tích làm sáng tỏ ở phần này.
phân tích, trình bày
cụ thể đối với
được xây dựng trên cơ sở vận dụng
trình nghiên
của nền kinh tế

. Hầu hết kiến nghị
quá
và cân nhắc các đặc điểm nội tại
4 cùng với kết

luận của luận án.

13


Chương 2
PHÁP LUẬT CHỐNG ĐỊNH GIÁ LẠM DỤNG CỦA EU

VÀ HOA KỲ
2.1. Các qui tắc và khái niệm liên quan đến định giá lạm dụng
2.1.1. Qui tắc cơ bản
Pháp luật EU và Hoa Kỳ liên quan định giá lạm dụng có hai
qui tắc cơ bản giống nhau. Một là Luật Cạnh tranh EU và Luật
Chống Độc quyền Hoa Kỳ chống tất cả hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh, bao gồm nhưng không giới hạn trong các hành vi định giá lạm
dụng. Hai là pháp luật chống định giá lạm dụng của EU và Hoa Kỳ
bảo vệ cạnh tranh, không bảo vệ đối thủ cạnh tranh.
2.1.2. Khái niệm vị trí thống lĩnh, quyền lực thị trường và
quyền lực độc quyền
Ở EU và Hoa Kỳ, thuật ngữ “quyền lực thị trường” được sử
dụng phổ biến, còn “vị trí thống lĩnh” theo pháp luật EU thì có bản
chất tương tự “quyền lực độc quyền” trong pháp luật Hoa Kỳ. Theo
đó, vị trí thống lĩnh hay quyền lực độc quyền của một doanh nghiệp
là việc có “quyền lực thị trường lớn” trong một “khoảng thời gian lâu
bền”. Về tổng quát, cả hai hệ thống đều nhận dạng vị trí thống
lĩnh/quyền lực độc quyền dựa vào hai yếu tố cơ bản: thị phần và rào
cản gia nhập thị trường. Ngoài ra, EU còn đưa thêm yếu tố quyền lực
đối lại của khách hàng vào hệ thống cơ sở đánh giá vị trí thống lĩnh.
2.1.3. Khái niệm thị trường liên quan

đều coi bước thiết yếu đầu tiên trong việc này là xác định thị trường
liên quan. Thị trường liên quan bao gồm thị trường sản phẩm liên

14


quan và thị trường địa lý liên quan. Quan điểm và cách thức xác định
thị trường liên quan ở EU và Hoa Kỳ về cơ bản giống nhau.

2.2. Các hình thức định giá lạm dụng
2.2.1. Định giá quá đáng (định giá độc quyền)
P
quyền lực

,
.

EU



, Tòa án Tư pháp EU

tranh. Về lý thuyết, định giá quá đáng có thể được thực hiện ở cả hai
phía bán và mua. Tuy nhiên, trong thực tế ở EU cho đến nay hầu như
không có án lệ về vi phạm Điều 102TFEU với hành vi định giá mua
quá đáng (quá thấp) của doanh nghiệp thống lĩnh phía bên mua.
2.2.2. Định giá hủy diệt
Mặc dù không có định nghĩa chung, định giá hủy diệt thường
được hiểu là hành vi của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh định giá
bán sản phẩm ở mức rất thấp – chịu lỗ để loại bỏ đối thủ cạnh tranh.
Sau khi đối thủ đã bị loại bỏ, doanh nghiệp tăng giá đến mức quá
đáng để thu bù lại khoản lỗ. Ở Hoa Kỳ, tòa án kết hợp hai phép kiểm
tra để xác định hành vi định giá hủy diệt: (1) Doanh nghiệp có chủ
động chịu lỗ trong ngắn hạn hay không (Kiểm tra Giá – Chi phí), và
(2) Doanh nghiệp có khả năng thu bù lại khoản lỗ hay không (Kiểm

15



tra khả năng thu bù lỗ). Trong đó phép Kiểm tra khả năng thu bù lỗ
là tiền đề cho việc xác định định giá hủy diệt. Trong khi đó EU coi
phép Kiểm tra Giá – Chi phí là tiền đề. Khi phép Kiểm tra Giá – Chi
phí cho thấy doanh nghiệp thống lĩnh định giá dưới một mức chi phí
nhất định, tòa án EU có thể xem xét thêm bằng chứng về chủ ý hủy
diệt đối thủ của doanh nghiệp để đi đến kết luận về hành vi vi phạm.
Lý luận và án lệ ở cả hai hệ thống pháp luật EU và Hoa Kỳ
đều xem chi phí khả biến bình quân (AVC) là điểm chuẩn trong phép
kiểm tra Giá – Chi phí để xác định hành vi định giá hủy diệt. Gần
đây, lý luận kinh tế và lập luận của cơ quan có thẩm quyền về cạnh
tranh ở hai hệ thống đều đề xuất một điểm chuẩn khác cho phép
kiểm tra này, đó là chi phí tránh được bình quân (AAC).
2.2.3. Chèn ép giá
Trong một số ngành, một doanh nghiệp có thể vừa là nhà
cung ứng ở thị trường đầu vào, vừa là đối thủ cạnh tranh với khách
hàng của mình ở thị trường sản phẩm đầu ra. Nếu doanh nghiệp
thống lĩnh, nắm giữ một phương tiện thiết yếu hoặc là nhà cung ứng
sỉ một sản phẩm trung gian hay sản phẩm hỗ trợ thiết yếu, định giá
bán cao cho khách hàng ở thị trường đầu vào này và định giá bán ở
thị trường sản phẩm đầu ra thấp, khách hàng sẽ chịu áp lực từ hai đầu
của quá trình sản xuất dẫn đến giảm sút lợi nhuận hoặc thua lỗ. Nói
một cách tổng quát, hành vi “chèn ép giá” hay “chèn ép lợi nhuận”
diễn ra khi doanh nghiệp thống lĩnh áp dụng chính sách định giá bán
thật cao đối với phương tiện, nguyên nhiên liệu thiết yếu đầu vào
và/hoặc hạ giá bán sản phẩm đầu ra thật thấp nhằm mục đích gây tổn
thương đối thủ cạnh tranh ở thị trường sản phẩm đầu ra.
Pháp luật Hoa Kỳ không điều chỉnh hành vi định giá quá
đáng nên không có cơ chế để chống chèn ép giá trên cơ sở định giá


16


quá cao ở thị trường đầu vào. Trong trường hợp bị “chèn ép giá”, các
đối thủ cạnh tranh ở thị trường đầu ra chỉ có thể khiếu kiện doanh
nghiệp vi phạm trên cơ sở pháp luật về định giá hủy diệt.
Ở EU, những phán quyết gần đây của tòa án EU trong các vụ
án về chèn ép giá cho thấy một hệ thống các điều kiện cần thiết để
truy cứu trách nhiệm doanh nghiệp thống lĩnh gồm (1) Doanh nghiệp
giữ vị trí thống lĩnh trong thị trường nguyên nhiên liệu hoặc thị
trường bán sỉ, và cũng cạnh tranh ở thị trường sản phẩm đầu ra hoặc
thị trường bán lẻ; (2) Nguyên nhiên liệu đầu vào mà doanh nghiệp
thống lĩnh cung cấp là thiết yếu cho sản phẩm đầu ra; (3) Hành vi
của doanh nghiệp thống lĩnh gây tác động, hoặc ít nhất có tiềm năng
gây tác động phản cạnh tranh vào thị trường sản phẩm đầu ra; và (4)
Không có lý do kinh tế chính đáng nào bào chữa cho hành vi.
2.2.4. Định giá phân biệt đối xử
Pháp luật EU và Hoa Kỳ đều được xây dựng tập trung chống
hành vi phân biệt đối xử về giá gây tổn hại thứ cấp. Pháp luật Hoa
Kỳ về định giá phân biệt đối xử còn một số thiếu sót. Pháp luật EU
điều chỉnh hành vi định giá phân biệt đối xử ở cả hai phương diện:
định giá khác nhau cho giao dịch giống nhau và định giá giống nhau
cho giao dịch khác nhau. Trong khi đó pháp luật Hoa Kỳ không điều
chỉnh hành vi định giá giống nhau cho giao dịch khác nhau.
2.2.5. Thủ đoạn chiết khấu hoặc giảm giá nhằm hạn chế
cạnh tranh
Cả hai hệ thống pháp luật EU và Hoa Kỳ đều có nhiều kinh
nghiệm giải quyết, xử lý hành vi định giá lạm dụng dưới hình thức
chiết khấu hoặc giảm giá. Đối với thủ đoạn giảm giá/chiết khấu cho
mua hàng trọn gói (hai loại sản phẩm trở lên), pháp luật EU và Hoa

Kỳ có nhiều điểm giống nhau cả về lý luận lẫn các phép phân tích

17


kiểm tra để xác định hành vi vi phạm (Phép kiểm tra định giá hủy
diệt hoặc phép kiểm tra thủ đoạn bán kèm). Đối với thủ đoạn giảm
giá/chiết khấu vì sự trung thành đối với một sản phẩm riêng lẻ, hai hệ
thống có những phép phân tích kiểm tra khác nhau, nhưng cùng dựa
trên cơ sở lý luận là chống lại định giá phân biệt giữa những khách
hàng mua hay không mua chỉ sản phẩm của doanh nghiệp (ràng buộc
khách hàng trung thành với sản phẩm của doanh nghiệp một cách bất
hợp pháp) và chống tác động hạn chế cạnh tranh, loại bỏ đối thủ của
hành vi này.
2.3. Biện pháp xử lý hành vi định giá lạm dụng ở EU và Hoa Kỳ
Định giá lạm dụng là những hình thức cụ thể của hành vi lạm
dụng nói chung, vì thế biện pháp xử lý chúng cũng nằm trong hệ
thống chung các biện pháp xử lý hành vi lạm dụng. Hệ thống biện
pháp xử lý của EU và Hoa Kỳ có ba mục đích giống nhau, đó là
chấm dứt hành vi vi phạm, ngăn chặn khả năng tái phạm, và tái lập
cơ hội cho cạnh tranh trong thị trường bị ảnh hưởng. Do đó, các lập
luận lý thuyết và hệ thống các biện pháp hành vi, biện pháp cấu trúc
thực tế ở EU và Hoa Kỳ được xây dựng và phát triển khá giống
nhau. Tuy nhiên, đối với các biện pháp xử lý về tiền, giữa hai hệ
thống có những điểm khác biệt rõ rệt.
2.3.1. Biện pháp hành vi và biện pháp cấu trúc
Nhóm biện pháp này bao gồm yêu cầu chấm dứt hành vi vi
phạm, buộc phải thực hiện một hoặc một số hành vi nhất định, cấm
không được thực hiện một hoặc một số hành vi nhất định, buộc
doanh nghiệp giải thể, chia tách, hoặc tịch thu một phần doanh

nghiệp.
2.3.2. Biện pháp phạt và khắc phục bằng tiền
Nhóm biện pháp này bao gồm:

18


- Phạt tiền: Hoa Kỳ qui định mức phạt tiền trong phạm vi
một số tuyệt đối (đến 100 triệu đô la Mỹ đối với doanh nghiệp, đến 1
triệu đô la Mỹ đối với cá nhân), EU qui định mức phạt tiền trong
phạm vi tỷ lệ phần trăm doanh thu của năm tài chính liền trước năm
thực hiện hành vi vi phạm (đến 10%). Sự khác nhau này dẫn đến khả
năng khoản tiền phạt ở EU cao hơn ở Hoa Kỳ. Vì thế có vẻ như tác
động phòng ngừa của phạt tiền ở EU cũng cao hơn ở Hoa Kỳ.
- Bồi thường thiệt hại: Hoa Kỳ có qui chế về bồi thường gấp
ba lần thiệt hại (trible damages), EU không có qui chế bồi thường
thiệt hại gấp ba.
- Qui định về trách nhiệm chịu án phí và chi phí pháp lý tố
tụng khác như chi phí luật sư. Ở Hoa Kỳ

.
Như vậy, ở phương diện khác, hệ thống biện pháp xử lý của
Hoa Kỳ lại chứa đựng những biện pháp giúp tăng cường tác động
phòng ngừa và đồng thời khuyến khích việc thi hành luật chống độc
quyền từ thành phần tư nhân: đòi bồi thường thiệt hại gấp ba và
nguyên đơn thắng kiện được bị đơn trả chi phí luật sư.
2.3.3. Hình sự hóa và phạt tù
Ở EU, định giá lạm dụng, cũng như mọi hành vi vi phạm
luật cạnh tranh EU, không bị hình sự hóa.


19


Ở Hoa Kỳ, Luật Sherman qui định hành vi lạm dụng là tội
phạm hình sự, do đó ngoài việc doanh nghiệp vi phạm phải chịu hình
phạt tiền, cá nhân (những người quản lý điều hành doanh nghiệp vi
phạm) cũng có thể bị phạt tù với thời hạn lên đến 10 năm.

Chương 3
PHÁP LUẬT CHỐNG ĐỊNH GIÁ LẠM DỤNG CỦA
VIỆT NAM, SO SÁNH VỚI EU VÀ HOA KỲ
3.1. Bối cảnh, các qui tắc cơ bản và khái niệm có liên quan
3.1.1. Lịch sử phát triển của pháp luật và cơ quan thi hành
Phần này của Luận án trình bày khái quát hai nội dung:
(i)

Quá trình phát triển của hệ thống pháp luật về cạnh
tranh Việt Nam trước và sau thời điểm Luật Cạnh
Tranh năm 2004 được ban hành.

(ii)

Cơ quan có thẩm quyền về cạnh tranh ở Việt Nam

3.1.2. Những trường hợp thực tế gần đây liên quan đến lý
luận và qui định pháp luật về hành vi định giá lạm dụng
Cụ thể là các vụ việc Vinapco, Megastar, K+, “cuộc chiến
cột điện” giữa EVN và VNPT, sự kiện tăng giá dược phẩm, tăng giá
sữa.
3.1.3. Qui tắc cơ bản của pháp luật cạnh tranh Việt Nam.

Về cơ bản cũng tương tự như pháp luật EU và Hoa Kỳ,
nghĩa là (1) Chống hành vi lạm dụng, bao gồm cả hành vi định giá
lạm dụng; (2) Bảo vệ cạnh tranh, tuy nhiên trong một chừng mực
nhất định có xu hướng bảo vệ đối thủ cạnh tranh.
3.1.4. Các khái niệm
Bao gồm:

20


3.1.4.1. Vị trí thống lĩnh và vị trí độc quyền
Pháp luật cạnh tranh Việt Nam có sự phân biệt rạch ròi hai
khái niệm “vị trí thống lĩnh” và “vị trí độc quyền”, và trên cơ sở đó
qui định hành vi lạm dụng vị trí độc quyền đa dạng hơn hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh. Đây là điểm khác biệt với pháp luật EU và
Hoa Kỳ.
Luật Cạnh Tranh 2004 không có định nghĩa cụ thể thế nào là
vị trí thống lĩnh, chỉ qui định hai trường hợp mà doanh nghiệp được
xem là có vị trí này. Cụ thể là (1) doanh nghiệp có thị phần từ 30%
trở lên trên thị trường liên quan, hoặc (2) có khả năng gây hạn chế
cạnh tranh một cách đáng kể. Như vậy một doanh nghiệp có thị phần
30% trở lên là có vị trí thống lĩnh, không cần xem xét đến bất kỳ điều
kiện nào khác. Hoặc doanh nghiệp có thị phần dưới 30% trên thị
trường liên quan, nhưng có “khả năng gây hạn chế cạnh tranh một
cách đáng kể”, cũng được xem là có vị trí thống lĩnh. So sánh với
cách xác định vị trí thống lĩnh/ quyền lực độc quyền của EU và Hoa
Kỳ, tác giả cho rằng qui định của Việt Nam vừa thiếu, vừa không rõ
ràng.
Có một số điểm khác nhau Luật Cạnh Tranh Việt Nam và
pháp luật Hoa Kỳ, EU trong nhận diện vị trí thống lĩnh. Pháp luật EU

và Hoa Kỳ chú ý vào hai yếu tố: “quyền lực thị trường đáng kể” và
tính chất “bền vững” của quyền lực như biểu hiện của sự thống lĩnh.
Luật Cạnh Tranh Việt Nam chỉ tập trung vào quyền lực thị trường,
không có từ hay mệnh đề nào đề cập đến yếu tố thời gian trong qui
định về vị trí thống lĩnh/ độc quyền. Vì vậy, chỉ riêng lẻ yếu tố thị
phần, lại ở mức ba mươi phần trăm để xác định vị trí thống lĩnh theo
Luật Cạnh Tranh Việt Nam, tuy đơn giản và thuận tiện cho cơ quan
nhà nước áp dụng, nhưng có thể dẫn đến việc những doanh nghiệp

21


không có vị trí thống lĩnh thực sự cũng bị cáo buộc về hành vi lạm
dụng.
Tương tự như pháp luật EU và Hoa Kỳ, Luật Cạnh Tranh
Việt Nam cũng qui định về vị trí thống lĩnh tập thể của nhóm doanh
nghiệp cùng hành động. Dấu hiệu xác định vị trí thống lĩnh tập thể
của pháp luật Việt Nam đơn giản, cụ thể, chỉ dựa vào tổng thị phần
của các doanh nghiệp trong nhóm.
3.1.4.2. Thị trường liên quan
Qui định của pháp luật Việt Nam về thị trường liên quan về
cơ bản giống pháp luật EU và Hoa Kỳ, gồm thị trường sản phẩm liên
quan và thị trường địa lý liên quan. Tuy nhiên trong chi tiết của các
phương pháp kiểm tra thử nghiệm xác định thị trường có một số
điểm khác biệt, mà theo quan điểm của tác giả là không phù hợp,
hoặc thiếu rõ ràng. Ví dụ qui định về mức tăng giá và khoảng thời
gian tăng giá trong phép thử nghiệm SSNIP để xác định khả năng
thay thế về cầu của thị trường sản phẩm liên quan.
3.2. Các hình thức định giá lạm dụng theo pháp luật Việt Nam
3.2.1. Định giá quá đáng

3.2.1.1. Định giá quá đáng từ phía người bán
Đây là hành vi “áp đặt giá bán bất hợp lý gây thiệt hại cho
khách hàng” theo qui định của Luật Cạnh Tranh. Tuy nhiên, Nghị
định 116/2005 chỉ đưa ra cơ sở xác định hành vi này dựa vào

biểu hiện của việc “tăng giá bán bất hợp lý” chứ không đưa ra
chuẩn mực để xác định “mức giá bán cao bất hợp lý”. Qua
phân tích chi tiết nội dung hướng dẫn của Nghị định 116/2005,
tác giả rút ra một vài điểm thiếu sót có khả năng gây vô hiệu
hóa qui định của Luật.

22


Cụ thể,

-

(6

-

-

.
Một vấn đề khác nữa là pháp luật cạnh tranh Việt Nam
không quan tâm thích đáng đến chênh lệch giữa giá và chi phí. Phép
kiểm tra của pháp luật Việt Nam không trực tiếp so sánh giá bán và
giá thành để tìm ra biên lợi nhuận. Pháp luật chỉ so sánh nhu cầu với
công suất thiết kế, và so sánh chi phí với chi phí.

3.2.1.2. Định giá quá đáng từ phía người mua
Tương tự như vậy, khi phân tích qui định hướng dẫn của
Nghị định 116/2005 về các dấu hiệu xác định hành vi “áp đặt giá
mua bất hợp lý gây thiệt hại cho khách hàng” của Luật Cạnh Tranh,
tác giả rút ra một vài điểm thiếu sót, chưa rõ ràng.
Cụ thể, Nghị định 116/2005/NĐ-CP không dùng giá thành
toàn bộ, mà dùng giá thành sản xuất làm mức chuẩn cho phép kiểm
tra hành vi lạm dụng này. Giá thành sản xuất chỉ là một phần trong
giá thành to

23


. Giá thành toàn bộ
trong phép kiểm tra xác định định giá bán quá đáng dựa vào chi phí
của doanh nghiệp thống lĩnh, nên doanh nghiệp tính toán biết rõ
được. Trong khi đó, giá thành sản xuất trong phép kiểm tra áp đặt giá
mua quá đáng dựa vào chi phí của người bán về nguyên vật liệu và
các chi phí trực tiếp chuyển hóa nguyên vậ

nên
.
3.2.1.3. Ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho
khách hàng

chứ không phải
hành vi thông đồng
“khống chế không cho phép” các nhà phân phối, các nhà bán lẻ bán
lại hàng hóa thấp hơn mức giá đã qui định trước. Có thể nói đây là


24


một qui định mang tính sáng tạo phù hợp với điều kiện thị trường
Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn có một thiếu sót của Nghị định 116/2005
khi qui định hướng dẫn Luật Cạnh Tranh, đó là đã thu hẹp phạm vi
pháp luật điều chỉnh, khi chỉ ghi nhận hành vi này đối với ấn định giá
bán lại sản phẩm là hàng hóa, không qui định đối với sản phẩm dịch
vụ. K

đã bộc lộ
công ty điện ảnh
, nhưng sau đó
. Một trong

những nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi này là vì
.
3.2.2. Định giá hủy diệt
Theo Khoản 1 Điều 13 Luật Cạnh Tranh 2004, hành vi này
biểu hiện dưới hình thức “bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá
thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh”. Mức chuẩn về giá để
phân tích xác định định giá hủy diệt của pháp luật Việt Nam (giá
thành toàn bộ - ATC) cao hơn mức chuẩn của pháp luật EU và Hoa
Kỳ, dẫn đến khả năng làm cho qui định khắc nghiệt hơn đối với
doanh nghiệp thống lĩnh và không khuyến khích cạnh tranh hiệu quả
về giá như pháp luật EU và Hoa Kỳ. Đây chính là một trong những
biểu hiện của xu hướng bảo vệ đối thủ cạnh tranh hơn là bảo vệ cạnh
tranh hiệu quả của Luật Cạnh Tranh Việt Nam. Ngoài ra, thay vì qui
định về bằng chứng chủ ý loại bỏ đối thủ hoặc khả năng thu bù lỗ
của doanh nghiệp vi phạm, pháp luật Việt Nam qui định về các

trường hợp doanh nghiệp bán hàng hóa dưới ATC nhưng không bị
xem là định giá hủy diệt. Trong các trường hợp này, trường hợp “hạ
giá bán hàng hóa theo mùa vụ” và “hạ giá bán hàng hóa trong

25


×