Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu xét xử địa bàn thành phố Đà Nẵng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGÔ THỊ HẠNH

TéI LõA ĐảO CHIếM ĐOạT TàI SảN
TRONG LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở số liệu xét xử địa bàn thành phố Đà Nẵng)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGÔ THỊ HẠNH

TéI LõA ĐảO CHIếM ĐOạT TàI SảN
TRONG LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở số liệu xét xử địa bàn thành phố Đà Nẵng)
Chuyờn ngnh: Lut Hỡnh s v t tng hỡnh sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ

HÀ NỘI - 2016



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

NGƠ THỊ HẠNH


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI LỪA ĐẢO
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN .................................................................. 7
1.1.

Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
hình sự Việt Nam ............................................................................... 7


1.2.

Sự cần thiết của việc quy định Tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản trong đấu tranh xử lý, phòng chống tội phạm ....................... 12

1.3.

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam ...... 18

1.3.1.

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam thời
kỳ phong kiến..................................................................................... 18

1.3.2.

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam thời
kỳ từ 1945 đến trước 1985 ................................................................. 20

1.3.3.

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam thời
kỳ từ 1985 đến trước 1999 ................................................................. 26

Chương 2: ĐẶC ĐIỂM PHÁP LÝ CỦA TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM
ĐOẠT TÀI SẢN THEO BỘ LUẬT TỐ HÌNH SỰ 1999 ............. 29
2.1.

Khách thể và đối tượng tác động của Tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản ........................................................................................ 29

2.1.1.

Khách thể ........................................................................................... 29

2.1.2.

Đối tượng tác động của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản .................... 32


2.2.

Mặt khách quan của tội phạm ........................................................ 34

2.2.1.

Dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội ............................................ 36

2.2.2.

Hậu quả của tội phạm ........................................................................ 42

2.2.3.

Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm .......... 47

2.3.

Chủ thể của tội phạm....................................................................... 47


2.4.

Mặt chủ quan của tội phạm ............................................................ 50

2.4.1.

Dấu hiệu lỗi ........................................................................................ 50

2.4.2.

Dấu hiệu động cơ, mục đích phạm tội ............................................... 51

2.5.

Hình phạt và các biện pháp tư pháp .............................................. 52

2.5.1.

Hình phạt............................................................................................ 52

2.5.2.

Các biện pháp tư pháp ....................................................................... 58

2.6.

Phân biệt Tội lừa đảo với một số tội phạm khác .......................... 59

2.6.1.


Phân biệt Tội lừa đảo đoạt tài sản với Tội trộm cắp tài sản .............. 59

2.6.2.

Phân biệt Tội lừa đảo đoạt tài sản với cướp tài sản ........................... 60

2.6.3.

Phân biệt Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với Tội tham ô tài sản...... 63

2.6.4.

Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với Tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản ................................................................... 63

Chương 3: THỰC TRẠNG THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI LỪA ĐẢO
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ
NẴNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT.......... 66
3.1.

Thực trạng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng...................................................................................... 66

3.1.1.

Một số Đặc điểm về vị trí địa lý và kinh tế xã hội của Đà Nẵng
ảnh hưởng tới tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ..................... 66

3.1.2.


Tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ 2011 đến 2015 .............. 68

3.2.

Hồn thiện pháp luật hình sự ......................................................... 76

KẾT LUẬN .................................................................................................... 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 83


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ Luật hình sự

HĐTP:

Hội đồng thẩm phán

TANDTC:

Tòa án nhân dân tối cao

TNHH:

Trách nhiệm hữu hạn

TP:


Thành phố

UBND:

Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Bảng 2.1:

Tình hình xét xử tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại
thành phố Đà Nẵng từ năm 2011-2015

Trang

69

Bảng 2.2: Hình phạt được áp dụng đối với bị cáo phạm tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản từ năm 2011 - 2015 trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng
Bảng 2.3: Cơ cấu độ tuổi người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

70
75



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tài sản và quyền sở hữu về tài sản là một trong những quyền quan
trọng, thân thiết nhất của con người và luôn chiếm được sự quan tâm đặc biệt
của các nhà lập pháp của bất kỳ quốc gia nào. Hiến pháp và pháp luật Việt
Nam luôn khẳng định sở hữu là một quyền thiêng liêng được nhà nước bảo hộ
chống lại mọi hành vi xâm hại. Điều 32 Hiến pháp năm 2013 quy định:
1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải
để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp
trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác.
2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật
bảo hộ.
3. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh
hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai,
Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ
chức, cá nhân theo giá thị trường [23, Điều 32].
Luật hình sự với vai trò bảo vệ, đã qui định hệ thống các tội xâm phạm
sở hữu, trong đó có Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản làm cơ sở pháp lý cho việc
đấu tranh, xử lý và phòng ngừa loại tội phạm này. Điều 139 Bộ luật hình sự
năm 1999 qui định cấu thành của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với đặc điểm
sử dụng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác, đồng thời
cũng qui định các loại, mức hình phạt áp dụng đối với người phạm tội. Trên
cơ sở qui định này tòa án và các cơ quan tiến hành tố tụng khác áp dụng trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong q trình tố tụng quyết vụ án một
cách chính xác, khách quan cơng bằng và có hiệu quả.
Thực tiễn đấu tranh, xử lý tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội lừa

1



đảo nói riêng cho thấy tính phức tạp, gia tăng, gây thiệt hại lớn cho tài sản của
nhà nước và tài sản của công dân, ảnh hưởng đến trật tự chung của xã hội.
Trong giai đoạn nền kinh tế đất nước đang phát triển theo cơ chế thị trường
với định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế quản lý và chính sách pháp luật
khơng phải lúc nào cũng ngay lập tức phù hợp với thực trạng nền kinh tế, do
đó tình hình tội phạm có nhiều chuyển biến, đặc biệt tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản đã được thực hiện với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, chiếm đoạt tài
sản có giá trị lớn, có nhiều vụ án chiếm đoạt hàng ngàn tỷ đồng của nhà nước,
có nhiều trường hợp lợi dụng những việc giao kết hợp đồng đầu tư, hợp đồng
vay vốn hoặc sử dụng công nghệ khoa học tiên tiến về tin học để làm thẻ tín
dụng giả, tìm kiếm mật mã số tài khoản của người khác để rút tiền qua ngân
hàng hoặc qua ngân hàng điện tử (ATM)… nhằm lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Bộ Luật hình sự do nhà nước ban hành quy định các hành vi nguy hiểm cho
xã hội bị coi là tội phạm và quy định chế tài tương ứng nhằm trừng trị và giáo
dục đối với những người phạm tội và cũng như răn đe phịng ngừa chung đối
với tồn xã hội nhằm đấu tranh phòng chống tội phạm bảo vệ lợi ích của nhà
nước, lợi ích của mọi tổ chức và lợi ích của cơng dân, góp phần duy trì trật tự
an tồn xã hội. Tuy nhiên, trong từng điều luật cụ thể các nhà làm luật chỉ có
thể quy định các dấu hiệu đặc trưng cơ bản nhất của một cấu thành tội phạm,
trong thực tế tội phạm xảy ra với mn hình mn vẻ, vơ cùng đa dạng và
phức tạp, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng vậy, chỉ được quy định trong Bộ
Luật hình sự bởi những dấu hiệu đặc trưng nhất.
Do đó, việc nghiên cứu làm rõ nội dung pháp lý của tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản và thực trạng và các biện pháp đấu tranh phịng ngừa thích hợp là
điều quan trọng nhất, nhằm góp phần áp dụng pháp luật một cách đúng đắn
khi xử lý người phạm tội, từng bước ngăn chặn, đẩy lùi và tiến tới loại bỏ tội
phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng trong xã hội và
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

2



Với lý do nêu trên, để khắc phục tình trạng này, học viên quyết định lựa
chọn đề tài: “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Viê ̣t Na m
(trên cơ sở số liệu xét xử địa bàn thành phố Đà Nẵng)” để làm Luận văn tốt
nghiệp Thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Để thực hiện được đề tài này, tác giả luận văn đã tham khảo các giáo
trình, bài viết chuyên sâu cũng như các sách chuyên khảo, bình luận khoa học
về luật hình sự, các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ của nhiều tác giả như: ng Chu
Lưu (chủ biên, 2004), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam 1999
(Phần các tội phạm), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Mai Văn Bộ (2010),
“Chương XIV: Các tội xâm phạm sở hữu” trong sách: Bình luận khoa học Bộ
luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009, (phần các tội phạm), Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Võ Khánh Vinh (2005), Giáo trình Luật hình sự
Việt Nam (phần các tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Nguyễn Đức
Mai (chủ biên, 2010), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi,
bổ sung năm 2009 (Phần các tội phạm), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự (Phần các tội
phạm, Tập II), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Tiến Dũng (2014),
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam trên cơ sở số liệu
nghiên cứu thực tiễn tại tỉnh Nam Định, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật
- Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội...
Trong các cơng trình nghiên cứu của mình, các tác giả đã nghiên cứu
rất sâu sắc về các dấu hiệu pháp lý của loại tội phạm này, tuy nhiên chưa có
cơng trình khoa học nào đề cập đến tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong mối
liên hệ với một địa bàn cụ thể là thành phố Đà Nẵng, nhất là trong bối cảnh
Đà Nẵng là đô thị đang phát triển nhanh về mọi mặt, đặc biệt sự di chuyển tội
phạm của các tỉnh thành khác nhập cư vào thành phố Đà Nẵng và các cả tội


3


phạm quốc tế đã và đang làm tăng tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm
lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Luận văn nghiên cứu về thực trạng và diễn biến của loại tội phạm này ở
thành phố Đà Nẵng. Trên cơ sở đó, tìm ra những ngun nhân và điều kiện
phạm tội, đưa ra các biện pháp đấu tranh phịng, chống tội phạm một cách
hữu hiệu, hồn thiện hệ thống pháp luật nhằm giảm bớt những thiệt hại xảy
ra, đem lại sự tin tưởng vào pháp luật cho mọi người dân trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục đích của đề tài: trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật
hình sự và thực trạng tình hình, nguyên nhân và điều kiện của tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng để đưa ra các giải pháp
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng ngừa loại tội
phạm này.
- Để đạt được mục tiêu trên, trong quá trình thực hiện đề tài tác giả đặt
ra cho mình các nhiệm vụ sau đây:
a) Làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội "Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản" theo Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999.
b) Phân tích thực tiễn xét xử loại tội phạm này tại địa bàn thành phố Đà
Nẵng trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015 để thấy được các yếu tố tác
động làm ảnh hưởng đến tình hình tội phạm này.
c) Phân tích làm sáng tỏ tình hình, ngun nhân và điều kiện của tội
phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại địa bàn thành phố Đà Nẵng trong giai
đoạn từ năm 2011 đến năm 2015 trên cơ sở gắn với các đặc điểm cụ thể của
thành phố Đà Nẵng.
d) Đưa ra những kiến nghị đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của
Bộ luật hình sự liên quan đến tội danh này.


4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là: Các dấu hiệu pháp lý của tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản, phân tích tình hình và diễn biến của tội phạm để
rút ra những điểm thành công cũng như thiếu sót trong việc đấu tranh phịng
chống tội phạm này trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, phân tích, nguyên nhân
và điều kiện cũng như các giải pháp đấu tranh, phòng chống tội phạm này.
- Phạm vi nghiên cứu: đề tài nghiên cứu trong phạm vi những vấn đề
liên quan đến tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới góc độ luật hình sự trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng.
5. Cơ sở phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngồi ra, tác giả cịn dựa trên các
quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về các lĩnh vực trong đó có lĩnh
vực đấu tranh phịng chống tội phạm nói chung và tội phạm lừa đảo chiếm
đoạt tài sản nói riêng.
Khi viết đề tài tác giả có sử dụng các phương pháp nghiên cứu của
khoa học luật hình sự và tội phạm học như: phương pháp thống kê hình sự,
phương pháp phân tích và so sánh, phương pháp tổng hợp. Ngồi ra, cịn một
số phương pháp khác cũng được áp dụng như: phương pháp phân tích hệ
thống, phương pháp chuyên gia...
6. Kết quả nghiên cứu và những đóng góp mới của đề tài
Trong phạm vi của đề tài là một cơng trình nghiên cứu vừa có ý nghĩa
về mặt lý luận, vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn đối với cuộc đấu tranh phòng,
chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
- Về mặt lý luận: đề tài góp phần hoàn thiện nội dung quy định của
Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999, đồng thời có thể sử dụng làm tài liệu

tham khảo trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự.

5


- Về mặt thực tiễn: những đề xuất giải pháp nêu trong luận văn sẽ góp
phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phịng, chống tội phạm nói chung
và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng. Ngồi ra, đề tài có thể được sử
dụng làm tài liệu tham khảo cho các lực lượng tham gia phòng, chống loại tội
phạm này không những ở thành phố Đà Nẵng mà cịn có thể áp dụng trên địa
bàn tỉnh, thành phố khác có điều kiện tương tự.
- Đây là cơng trình đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống
và toàn diện về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và các giải pháp đấu tranh
phòng, chống hiệu quả đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Chương 2: Đặc điểm pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo
Bộ luật hình sự 1999.
Chương 3: Thực trạng xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình
sự Việt Nam
Khái niệm tội phạm được hình thành trong quá trình phát triển, hồn
thiện luật hình sự Việt Nam, khái niệm này được ra đời lần đầu tiên trong Bộ
luật hình sự 1985 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (được thơng
qua kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VII, ngày 27/06/1985). Khái niệm này đã
phản ánh một cách khá đầy đủ các quy định về tội phạm và xác định cụ thể
hành vi nào là tội phạm. Đến ngày 21/12/1999 tại kỳ họp thứ 6 khóa X Quốc
hội đã thơng qua Bộ luật hình sự mới sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật
hình sự năm 1985. Bộ luật này đã sửa đổi khái niệm về “Tội phạm” để phù
hợp với hồn cảnh thực tế, Bộ luật hình sự 1999 được thông qua, trên cơ sở
kế thừa và phát huy những nguyên tắc, chế định hình sự pháp luật của nước
ta. Điều 8 BLHS 1999 quy định định nghĩa tội phạm như sau: “Tội phạm là
hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người
có năng lực trách nhiệm hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền
văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự an tồn xã hội, quyền lợi ích hợp pháp
của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài
sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh
vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”
Trên cơ sở khái niệm tội phạm, Bộ luật hình sự 1999 qui định các
nhóm tội phạm ở phần “Các tội phạm” trong đó có các tội xâm phạm sở hữu.

7


Khoa học hình sự đã đưa ra khái niệm chung đối với các tội xâm phạm sở hữu
như sau: “Các tội xâm phạm sở hữu là hành vi của người có năng lực trách
nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến quyền sở hữu

tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân” 5, tr. 181.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong các tội xâm phạm sở hữu, vì
vậy khái niệm Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải thỏa mãn khái niệm chung
của các tội xâm phạm sở hữu, đồng thời phải thỏa mãn các các dấu hiệu đặc
thù nói riêng. Căn cứ vào quy định tại Khoản 1 Điều 139 của Bộ luật hình sự
1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có những
đặc điểm sau:
Thứ nhất, lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi xâm hại đến quyền sở
hữu của người khác, thể hiện tính nguy hiểm cao cho xã hội cần được hình sự
hóa là tội phạm trong luật hình sự. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi là
dấu hiệu cơ bản nói lên bản chất chính trị, xã hội của tội phạm, dấu hiệu này
được coi là dấu hiệu nội dung quyết định những dấu hiệu khác của tội phạm.
Một hành vi sở dĩ bị quy định trong luật hình sự là tội phạm và phải chịu trách
nhiệm hình sự vì nó có tính nguy hiểm cho xã hội do đã gây ra hoặc đe dọa
gây ra thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Tầm
quan trọng của quan hệ xã hội do tính chất của quan hệ đó trong các thang giá
trị xã hội do giai cấp thống trị thiết lập. Do đó, tính chất của quan hệ xã hội có
thể bị thay đội ở những xã hội khác nhau hoặc ngay trong một chế độ xã hội
nhưng ở những thời kỳ khác nhau thì tính chất của quan hệ xã hội cũng có thể
thay đổi. Điều đó địi hỏi nhà làm luật khi xem xét tính chất quan trọng của
quan hệ xã hội để đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phải dựa
trên hoàn cảnh lịch sử cụ thể, xuất phát từ lợi ích giai cấp, trên lập trường giai
cấp. Tuy nhiên, tính chất quan trọng của quan hệ xã hội bị xâm hại không thể
là yếu tố duy nhất phản ánh mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của hành

8


vi mà chỉ khi được kết hợp với những yếu tố khác nó mới phản ánh hành vi là
nguy hiểm đã đến mức coi là tội phạm và cần phải xử lý bằng chế tài hình sự

hay khơng. Tính nguy hiểm cho xã hội được phản ánh ở hai đại lượng: tính
chất và mức độ nguy hiểm của hành vi. Tính chất của hành vi là đặc tính về
"chất" của thiệt hại, được xác định căn cứ vào tính chất của quan hệ xã hội bị
thiệt hại, quan hệ xã hội càng quan trọng thì tính chất của thiệt hại càng
nghiêm trọng. Mức độ của thiệt hại là đặc tính về "lượng" của thiệt hại, tùy
theo từng loại thiệt hại mà mức độ đó được biểu hiện khác nhau. Vì vậy, tính
chất và mức độ của thiệt hại là một căn cứ để đánh giá tính nguy hiểm cho xã
hội của hành vi, khi kết hợp với các căn cứ khác nó phản ánh một hành vi là
nguy hiểm "đáng kể" hay "không đáng kể" cho xã hội, tạo cơ sở để nhà làm
luật tội phạm hóa và phi tội phạm hóa. Trên cơ sở tiếp cận này, Bộ luật hình
sự 1999 qui định Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản do nó đã xâm hại đến sở hữu
của nhà nước, tập thể, cá nhân là quan hệ xã hội được Hiến pháp và pháp luật
bảo vệ. Khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác, không
những xâm hại đến sở hữu mà còn xâm hại đến sự phát triển của các hoạt
động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế, cũng như xâm hại đến trật tự an
tồn xã hội… Vì vậy, việc qui định Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người
khác trong luật hình sự là cần thiết, góp phần bảo vệ sở hữu nhà nước, sở hữu
của tập thể là cá nhân thơng qua đó thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế và
trật tự an toàn xã hội.
Thứ hai, Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nằm trong nhóm tội xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt, do đó nó cũng có hành vi chiếm đoạt như những
tội chiếm đoạt khác. Điểm khác biệt là ở chỗ, hành vi chiếm đoạt trong tội lừa
đảo được thực hiện bằng thủ đoạn gian dối là cho chủ sở hữu nhầm tưởng tự
nguyện trao tài sản cho người phạm tội. Chiếm đoạt còn được hiểu là "chiếm của
người khác bằng cách dựa vào quyền hành, sức mạnh vũ lực" 36, tr. 1483.

9


Dưới góc độ pháp luật hình sự "chiếm đoạt tài sản" là hành vi cố ý chuyển

dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lý của chủ tài sản thành tài sản
của mình 31, tr. 366, hoặc "hành vi cố ý chuyển biến một cách trái pháp luật
tài sản của người khác thành tài sản của mình hoặc của một nhóm người hoặc
cho người khác mà mình quan tâm" 31, tr. 366. Hành vi chiếm đoạt tài sản
có đặc điểm sau đây:
a. Xét về mặt khách quan, hành vi chiếm đoạt là hành vi làm cho chủ
tài sản (người là chủ sở hữu tài sản hoặc người có quyền quản lý tài sản) mất
hẳn khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình
và tạo cho người chiếm đoạt có thể thực hiện được việc chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt trái pháp luật tài sản đó. Như vậy, chiếm đoạt xét về mặt thực tế là
quá trình vừa làm cho chủ tài sản mất tài sản vừa tạo cho người chiếm đoạt có
tài sản đó, q trình này xét về mặt pháp lý không làm cho chủ sở hữu mất
quyền sở hữu của mình mà chỉ làm mất khả năng thực tế thực hiện các quyền
cụ thể của quyền sở hữu. Hành vi chiếm đoạt được thể hiện dưới những dạng
hành vi cụ thể khác nhau tùy thuộc vào mối quan hệ cụ thể giữa người chiếm
đoạt với tài sản chiếm đoạt cũng như vào hình thức chiếm đoạt cụ thể.
b.Tài sản là đối tượng tác động của hành vi chiếm đoạt đòi hỏi phải có
đặc điểm là cịn nằm trong sự chiếm hữu, sự quản lý, kiểm soát của chủ tài
sản. Nếu tài sản đã thoát ly khỏi sự chiếm hữu, sự quản lý, kiểm soát của chủ
tài sản (bị thất lạc) thì khơng cịn là đối tượng của hành vi chiếm đoạt. Chỉ khi
tài sản còn đang do chủ tài sản chiếm hữu thì mới có thể nói đến hành vi
chiếm đoạt, mới nói đến hành vi làm mất khả năng chiếm hữu của chủ tài sản.
c. Xét về mặt chủ quan, chiếm đoạt là hành vi được người phạm tội
thực hiện có chủ đích nên lỗi của người có hành vi chiếm đoạt là lỗi cố ý trực
tiếp. Người thực hiện hành vi chiếm đoạt biết tài sản chiếm đoạt là tài sản
đang có người quản lý nhưng vẫn mong muốn biến tài sản đó thành tài sản

10



của mình. Những trường hợp lầm tưởng là tài sản của mình hoặc tài sản
khơng có người quản lý đều khơng phải là trường hợp có hành vi chiếm đoạt.
Như vậy, hành vi chiếm đoạt tài sản được coi là bắt đầu khi người phạm tội
bắt đầu thực hiện việc làm mất khả năng chiếm hữu của chủ tài sản, để tạo
khả năng đó cho mình. Khi người phạm tội đã làm chủ được tài sản chiếm
đoạt thì lúc đó hành vi chiếm đoạt được coi là đã hoàn thành, người phạm tội
coi là đã chiếm đoạt được tài sản. Dấu hiệu chiếm đoạt có thể là mục đích
chiếm đoạt, là hành vi chiếm đoạt hoặc là chiếm đoạt được.
Việc chiếm đoạt tài sản của người khác ở tội lừa đảo được thực hiện
bằng thủ đoạn gian dối, là dấu hiệu để phân biệt với các tội xâm phạm sở hữu
có tính chất chiếm đoạt khác. Thủ đoạn gian dối, theo định nghĩa của giáo
trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm) của Khoa Luật Đại học
Quốc gia Hà Nội thì: “Gian dối chiếm đoạt tài sản là việc người phạm tội
đưa ra những thông tin không đúng sự thật là cho chủ sở hữu hoặc người
quan lý nhầm tưởng, tự nguyện trao tài sản cho người phạm tội” 8, tr. 271.
Thứ ba, Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện bởi lỗi cố ý. Tội
phạm là một thể thống nhất của hai mặt khách quan và mặt chủ quan, nếu mặt
khách quan là những biểu hiện ra bên ngồi thì mặt chủ quan là hoạt động tâm
lý bên trong của người phạm tội, hai bộ phận này của yếu tố tội phạm có quan
hệ mật thiết với nhau, ln gắn bó với nhau. Hoạt động tâm lý bên trong của
người phạm tội luôn được thể hiện thơng qua những biểu hiện bên ngồi của tội
phạm, do vậy, muốn nhận thức biết được mặt chủ quan của tội phạm phải
thơng qua một q trình nhận thức theo một phương pháp biện chứng. Mặt chủ
quan của tội phạm là mặt bên trong của sự xâm hại nguy hiểm đáng kể cho xã
hội đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự - lỗi, tức là thái độ tâm
lý của chủ thể được thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vơ ý đối với hành vi
nguy hiểm cho xã hội bị do mình thực hiện và đối với hậu quả của hành vi đó.

11



Theo Điều 9 Bộ luật hình sự, lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của người khi thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ hành vi của mình là nguy
hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả
xảy ra. Lỗi cố ý gián tiếp là lỗi của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu
quả của hành vi đó, tuy khơng mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu
quả xảy ra. Theo qui định này thì Tội lừa đào chiếm đoạt tài sản được thực
hiện bởi lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức được hành vi chiếm đoạt
tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi phạm tội và có thái độ
mong muốn chiếm đoạt được tài sản của người khác.
Từ những phân tích này, trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những điểm
hợp lý trong khái niệm về tội phạm của Bộ luật hình sự 1999 và những vấn đề
đã được thực tiễn áp dụng pháp luật kiểm nghiệm, có thể đưa ra định nghĩa
khoa học về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau: Tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản là một tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có
năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định thực hiện với lỗi cố ý
trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác bằng thủ đoạn
gian dối, cung cấp thông tin sai sự thật làm cho chủ sở hữu hoặc người quản
lý tài sản nhầm tưởng tự nguyện trao tài sản cho người phạm tội.
1.2. Sự cần thiết của việc quy định Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
trong đấu tranh xử lý, phòng chống tội phạm
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội phạm mang tính “truyền thống”,
nó hiện diện trong luật hình sự của các quốc gia, trong mọi thời kỳ lịch sử. Ở
nước ta, trước khi ra đời Bộ luật hình sự 1985 (Bộ luật hình sự đầu tiên của
nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đã có tội phạm này trong các
văn bản luật đơn hành như: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản;
Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng công dân năm 1970…

12



Điều đó cho thấy, việc qui định Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là cần thiết và
tất yếu trong đấu tranh, xử lý, phòng ngừa tội phạm bảo vệ quyền sở hữu về
tài sản của nhà nước, tổ chức và cá nhân. Sự cần thiết đó thể hiện trên các
khía cạnh sau:
a. Việc quy định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản làm cơ sở để xác định
mức giới hạn phải chịu trách nhiệm hình sự với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản nói chung, để phịng chống các tội phạm thì cũng phải dựa vào khái
niệm cơ bản tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, trên cơ sở quy định dấu hiệu pháp
lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản khác với tội phạm khác hoặc các dấu hiệu
pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Từ đó, cơng tác đấu tranh phịng
chống tội phạm mới định hướng về ban hành thể chế, chính sách, tuyên truyền
giáo dục trong xã hội ngày càng rõ nét đối với tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài
sản. Qua đó giúp cho xã hội có những biện pháp nhằm kiểm sốt, quản lý
quyền sở hữu tài sản tốt hơn. Đồng thời việc quy định tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản, ngoài dấu hiệu gian dối, giá trị tài sản chiếm đoạt phải đạt mức thấp
nhất là hai triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc từ dưới hai triệu đồng
nhưng gây hiệu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi
chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích
mà cịn vi phạm, thì cũng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội danh này.
Trách nhiệm hình sự là một nội dung thể hiện mối quan hệ giữa Nhà
nước và cá nhân người phạm tội, mà ở đó Nhà nước thể hiện sự phản ứng có
tính chất phủ định của mình đối với hành vi phạm tội và người phạm tội.
Trong hoạt động quản lý, Nhà nước không những tạo lập sự cân bằng, điều
tiết xã hội, ngăn ngừa và xử lý những đột biến xấu, tạo môi trường pháp lý
thuận lợi cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và các vấn đề xã hội đồng
thời thông qua các qui định của luật hình sự nhà nước thực hiện chức năng
bảo vệ các quan hệ xã hội thống trị, trong đó có quan hệ sở hữu.


13


Chính sách hình sự đối với các hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế được hiểu là những đánh giá có tính định hướng của Nhà nước về việc có
cần thiết phải xử lý người thực hiện hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
cụ thể bằng pháp luật hình sự hay khơng và nếu cần thiết thì hình thức và
mức độ của các hậu quả pháp lý được áp dụng sẽ như thế nào. Nếu Nhà
nước đánh giá một hành vi nào đó có mức độ nguy hiểm đáng kể, cần thiết
phải xử lý bằng các biện pháp hình sự nghiêm khắc mới đạt được mục đích
răn đe và phịng ngừa chung thì hành vi đó sẽ bị coi là tội phạm và đi kèm
với nó các hậu quả pháp lý bất lợi (trách nhiệm hình sự) sẽ được quy định,
áp dụng đối với người thực hiện hành vi đó. Trong trường hợp Nhà nước
thấy chỉ cần áp dụng các biện pháp xử lý hình sự trong một chừng mực nhất
định hoặc chỉ cần xử lý bằng biện pháp phi hình sự khác thì sẽ có những quy
định giới hạn về việc coi là tội phạm cũng như loại và mức trách nhiệm pháp
lý có thể áp dụng.
Như vậy, có thể thấy, dưới góc độ thực tế thì cơ sở của việc xác lập
trách nhiệm hình sự đối với Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thể hiện ở hai nội
dung: (1) Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của nhóm tội phạm hay tội
phạm cụ thể; và (2) Chính sách hình sự của Nhà nước đối với nhóm tội phạm
hay tội phạm cụ thể đó.
Ở góc độ pháp lý hình sự thì trách nhiệm hình sự được đặt ra khi có đủ
các yếu tố sau: (1) Chủ thể là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ
tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự theo luật định; (2) Chủ thể đã thực hiện
một (hoặc nhiều) hành vi được Luật hình sự quy định là tội phạm; (3) Còn
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và chủ thể đó khơng được miễn trách
nhiệm hình sự theo luật định.
Cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự là căn cứ có tính chất bắt buộc

chung do luật hình sự quy định và phải dựa vào đó, các cơ quan Nhà nước có

14


thẩm quyền mới có thể đặt vấn đề trách nhiệm hình sự của người đã thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được luật hình sự quy định là tội phạm. Ở
nước ta, cơ sở của trách nhiệm hình sự được ghi nhận tại Điều 2 Bộ luật hình
sự: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải
chịu trách nhiệm hình sự”. Có thể nhận thấy quy định vừa nêu bao hàm hai
nội dung: Thứ nhất, chỉ người nào phạm tội mới phải chịu trách nhiệm hình
sự; Thứ hai, tội phạm phải được quy định trong Bộ luật hình sự.
Từ những phân tích nêu trên có thể khẳng định sự kiện pháp lý duy
nhất làm phát sinh trách nhiệm hình sự chỉ có thể là tội phạm. Tội phạm, hiểu
theo ý nghĩa pháp lý hình sự, là hành vi có đủ yếu tố cấu thành tội phạm do
luật định. Căn cứ pháp lý của trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế hay bất kỳ tội phạm nào khác chính là cấu thành tội
phạm. Cấu thành tội phạm của Tội lừa đảo được qui định trong Bộ luật hình
sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung).
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý hình sự từ trước đến nay mặc dù vẫn
cịn có những quan điểm khác nhau về vị trí của các yếu tố cấu thành tội
phạm, nhưng có một nội dung mà tất cả đều thống nhất đó là cụ thể hóa cơ sở
của trách nhiệm hình sự là việc hành vi đã thực hiện thỏa mãn các dấu hiệu do
luật định về tội phạm, được phản ánh trong cấu thành tội phạm các tội phạm
cụ thể. Điều này có nghĩa là phân tích cơ sở của trách nhiệm hình sự đối với
các tội lừa đảo thực chất là phân tích các dấu hiệu pháp lý đặc trưng có ý
nghĩa định tội.
b. Trách nhiệm hình sự được biểu hiện ra bên ngồi bằng các hình thức
cụ thể phản ánh mức độ phải chịu trách nhiệm hình sự của người phạm tội.
Hình thức trách nhiệm hình sự (hay hình thức biểu hiện cụ thể của trách

nhiệm hình sự, dạng của trách nhiệm hình sự) chính là dạng hậu quả pháp lý
bất lợi mà người phạm tội phải gánh chịu do việc đã thực hiện tội phạm.

15


Trong các hình thức của trách nhiệm hình sự thì phổ biến nhất và nghiêm
khắc nhất là hình phạt và kèm theo nó là án tích. Trong khoa học pháp lý hình
sự thì tội phạm ln gắn liền với hình phạt, hay nói cách khác hình phạt chính
là hậu quả pháp lý bất lợi thường thấy của tội phạm. Do vậy, một người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm thì việc họ bị đe dọa áp
dụng hình phạt với tính chất là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của
Nhà nước là điều khó tránh khỏi. Đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế thì hình phạt được quy định ngay trong chế tài của các tội phạm
(chương XVI – Bộ luật hình sự năm 1999, đã được sửa đổi, bổ sung).
Trên các diễn đàn khoa học pháp lý và trong một số sách báo pháp lý
cũng có ý kiến đồng nhất trách nhiệm hình sự với hình phạt - hậu quả bất lợi
nhất mà người phạm tội phải gánh chịu do hành vi phạm tội của họ. Tuy
nhiên, theo chúng tơi thì trách nhiệm hình sự và hình phạt tuy có mối quan hệ
mật thiết, khăng khít với nhau nhưng lại là hai khái niệm riêng biệt. Trong
phần lớn các trường hợp phạm tội, trách nhiệm hình sự được thực hiện thông
qua việc áp dụng biện pháp cưỡng chế Nhà nước mang tính nghiêm khắc nhất
- đó là hình phạt, bởi hình phạt là hình thức trách nhiệm hình sự mang tính
phổ biến nhất mà Nhà nước áp dụng đối với người phạm tội. Hình phạt thực
chất là một hình thức biểu hiện cụ thể của hậu quả pháp lý bất lợi đối với
người phạm tội. Tuy nhiên, do trách nhiệm hình sự và hình phạt đều gắn liền
với tội phạm và chịu hình phạt là hình thức biểu hiện trách nhiệm phổ biến
nên khơng có sự phân định rạch ròi hai khái niệm này trên thực tế. Ý nghĩa
của việc phân biệt chúng, theo chúng tôi, cũng chỉ mang tính lý luận.
Chúng tơi cũng đồng ý với quan điểm cho rằng trách nhiệm hình sự đối

với Tội lừa đảo khơng chỉ bó hẹp ở nghĩa vụ phải chịu hình phạt được quy
định đối với tội phạm này, mà còn bao gồm cả nghĩa vụ chịu sự tác động của
các hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội, bị áp dụng các

16


biện pháp cưỡng chế trách nhiệm hình sự (hình phạt và các biện pháp tư
pháp) và bị mang án tích. Thậm chí, đối với cả các trường hợp được miễn
trách nhiệm hình sự thì trước khi xem xét tha miễn trách nhiệm hình sự, tính
chất tội phạm của hành vi mà người đó đã thực hiện và nghĩa vụ pháp lý phải
gánh chịu các biện pháp tác động mang tính hình sự (trách nhiệm hình sự)
cũng vẫn được khẳng định. Miễn trách nhiệm hình sự chỉ có thể được áp dụng
đối với người thực hiện hành vi phạm tội, bởi trách nhiệm hình sự phát sinh
ngay tại thời điểm người nào đó thực hiện hành vi phạm tội. Quyết định miễn
trách nhiệm hình sự của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền vừa là căn cứ
pháp lý ghi nhận hành vi của người được miễn trách nhiệm hình sự là tội
phạm và trách nhiệm hình sự của họ, vừa là căn cứ chấm dứt trách nhiệm hình
sự đối với họ, do đã thoả mãn điều kiện được miễn trách nhiệm hình sự 35.
Người được miễn trách nhiệm hình sự không phải gánh chịu trên thực tế
những hậu quả bất lợi mà luật quy định cho người đã thực hiện tội phạm đó,
do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thấy rằng việc truy cứu trách nhiệm hình
sự và áp dụng hình phạt hay các dạng trách nhiệm hình sự khác trong trường
hợp này là khơng cần thiết và vì thế họ được miễn trách nhiệm hình sự.
Khi người phạm tội bị tác động bởi hình thức trách nhiệm hình sự phổ
biến là hình phạt, hay ngay cả trong trường hợp được miễn hình phạt thì đều
có hậu quả là họ bị mang án tích trong một thời hạn nhất định và bị ghi vào lý
lịch tư pháp. Trong thời gian chưa được xóa án tích mà lại phạm tội mới thì
tùy từng trường hợp họ sẽ bị coi là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
Đối với các Tội lừa đảo, hình thức trách nhiệm hình sự được quy định

trong luật và quyết định trên thực tế cũng có những nét khác biệt so với các
hình thức trách nhiệm hình sự được quy định và quyết định đối với người
phạm tội thuộc nhóm tội khác. Sự khác biệt này xuất phát từ tính chất nguy
hiểm cho xã hội của nhóm tội xâm phạm sở hữu và chính sách hình sự của
Nhà nước đối với nhóm tội phạm này.

17


Trong xu thế mới, tiến bộ, các biện pháp tác động về kinh tế, tài sản đối
với người phạm tội lừa đảo (như phạt tiền, tịch thu tài sàn, tịch thu tiền, vật
trực tiếp liên quan đến tội phạm và buộc phải bồi thường thiệt hại) ngày càng
được chú trọng, ưu tiên quy định và áp dụng.
Về các hậu quả pháp lý hình sự cụ thể, ngồi hình phạt tử hình, Bộ luật
hình sự cịn quy định hệ thống hình phạt khác (bao gồm các hình phạt chính
và các hình phạt bổ sung) và các biện pháp tư pháp với tư cách là các biện
pháp tác động trách nhiệm hình sự (hậu quả pháp lý hình sự) được áp dụng
đối với người phạm tội. Tuy nhiên, không phải tất cả các dạng trách nhiệm
này đều được quy định và áp dụng đối với người phạm Tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản.
Từ những phân tích trên có thể khẳng định: a. Việc quy định trách
nhiệm hình sự đối với lừa đảo chiếm đoạt tài sản là đòi hỏi tất yếu của việc
bảo đảm quyền sơ hữu; b. Trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản thể hiện sự phản kháng của nhà nước của xã hội đối với những hành vi
lệch chuẩn, với các tiêu chí và thang giá trị xã hội, do đó nó có tác dụng răn
đe cũng như hướng dẫn xử sự của các chủ thể; c. Việc quy định các hình thức
trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản khơng những có ý
nghĩa phân hóa tội phạm, cá thể hóa hình phạt đối với người phạm tội mà cịn
là sự bảo đảm cho sự bình đẳng trước pháp luật giữa những người phạm tội
trên cơ sở nguyên tắc chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự phù hợp, tương xứng

với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội do họ gây ra.
1.3. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam
1.3.1. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam
thời kỳ phong kiến
Nhận thức được vai trò của pháp luật hình sự trong việc bảo vệ chế độ
sở hữu nhằm củng cố, duy trì trật tự xã hội, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp

18


×