Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Sự điều chỉnh chính sách kinh tế của mỹ đối với khu vực châu á thái bình dương những năm đầu thế kỷ 21 và tác động của nó đến việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (407.75 KB, 29 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
----------------------

Trần Đăng Quỳnh

SỰ ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA MỸ ĐỐI VỚI
KHU VỰC CHÂU Á – THÁI BÌNH DƢƠNG NHỮNG NĂM
ĐẦU THẾ KỶ 21 VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế thế giới và Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Mã số: 60 31 07

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN XUÂN THẮNG

Hà Nội - 2009
1


MỤC LỤC
DANH SÁCH CÁC TỪ VIẾT TẮT ................................................................ 4
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 5
CHƢƠNG 1: CÁC NHÂN TỐ CƠ BẢN QUY ĐỊNH SỰ ĐIỀU CHỈNH CHÍNH
SÁCH KINH TẾ CỦA MỸ ĐỐI VỚI KHU VỰC CA – TBD TRONG NHỮNG
NĂM ĐẦU THẾ KỶ 21 ................................................................................. 10
1.1. Sự thay đổi của bối cảnh quốc tế ......................................................... 10
1.1.1. Sự tăng tốc của toàn cầu hóa và khu vực hóa .............................. 10
1.1.2. Môi trường hòa bình, ổn định và phát triển tiếp tục được đẩy mạnh
................................................................................................................. 14


1.2. Sự thay đổi và phát triển năng động của khu vực CA – TBD ............. 16
1.2.1. Sự trỗi dậy của Trung Quốc.......................................................... 19
1.2.2. ASEAN và các động thái phối hợp của ASEAN trong các tiến trình
Đông Á .................................................................................................... 20
1.3. Yêu cầu nội tại trong sự phát triển của MỹError! Bookmark not defined.
1.3.1. Nguồn lực ...................................... Error! Bookmark not defined.
1.3.2. Cơ cấu kinh tế ............................... Error! Bookmark not defined.
1.3.3. Ảnh hưởng đối với thế giới ........... Error! Bookmark not defined.
1.3.4. Quyền lực của Mỹ và các lợi ích mới ở CA – TBDError! Bookmark
not defined.
CHƢƠNG 2: SỰ ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA MỸ ĐỐI VỚI
KHU VỰC CA – TBD TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ 21 ..... Error!
Bookmark not defined.
2.1. Thực trạng và sự điều chỉnh chính sách kinh tế chủ yếu của Mỹ đối với khu
vực CA – TBD trong những năm đầu thế kỷ 21Error! Bookmark not defined.
2.1.1. Chính sách thương mại ................. Error! Bookmark not defined.
2.1.2. Chính sách đầu tư ......................... Error! Bookmark not defined.
2.1.3. Chính sách hợp tác kinh tế............ Error! Bookmark not defined.
2.2. Sự điều chỉnh chính sách kinh tế của Mỹ với các đối tác chủ yếuError!
Bookmark not defined.
2.2.1. Các nước lớn trong khu vực.......... Error! Bookmark not defined.
2.2.2. ASEAN ........................................... Error! Bookmark not defined.
2.3. Đánh giá chung và một số dự báo ........ Error! Bookmark not defined.
2.3.1. Đánh giá ........................................ Error! Bookmark not defined.
2.3.2. Một số nhân tố tiếp tục điều chỉnh Error! Bookmark not defined.
CHƢƠNG 3: TÁC ĐỘNG CỦA SỰ ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH KINH TẾ
CỦA MỸ ĐỐI VỚI VIỆT NAM VÀ ĐỐI SÁCH CỦA TAError! Bookmark not
defined.

2



3.1. Vị thế của Việt Nam trong CA – TBD và vai trò của Việt Nam trong lợi ích
chiến lƣợc của Mỹ ....................................... Error! Bookmark not defined.
3.1.1. Vị thế của Việt Nam trong CA - TBDError! Bookmark not defined.
3.1.2. Vai trò của Việt Nam trong lợi ích chiến lược của Mỹ .......... Error!
Bookmark not defined.
3.2. Những tác động của điều chỉnh chính sách kinh tế của Mỹ đối với Việt Nam
và quan hệ hợp tác Việt – Mỹ ..................... Error! Bookmark not defined.
3.2.1. Tác động tích cực .......................... Error! Bookmark not defined.
3.2.2. Tác động tiêu cực .......................... Error! Bookmark not defined.
3.3. Phản ứng của các nƣớc trong khu vực trƣớc sự điều chỉnh chính sách kinh tế
của Mỹ......................................................... Error! Bookmark not defined.
3.3.1. Phản ứng của Trung Quốc............ Error! Bookmark not defined.
3.3. 2. Phản ứng của Nhật Bản ............... Error! Bookmark not defined.
3.3.3. Phản ứng của Hàn Quốc............... Error! Bookmark not defined.
3.3.4. Phản ứng của các nước ASEAN ... Error! Bookmark not defined.
3.4. Khuyến nghị đối sách của ta ................ Error! Bookmark not defined.
3.4.1. Một số định hướng trong quan hệ Việt – MỹError! Bookmark not
defined.
3.4.2. Khuyến nghị chính sách của Việt NamError! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN ..................................................... Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 25

3


DANH SÁCH CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt


Tiếng việt

AFTA

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN

ANZUS

Hiệp ƣớc an ninh Úc - New Zealand - Mỹ

APEC

Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dƣơng

ARF

Diễn đàn An ninh khu vực

ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

AU

Liên minh châu Phi

BTA

Hiệp định thƣơng mại song phƣơng


CA - TBD

Châu Á - Thái Bình Dƣơng

EFTA

Khu vực tự do thƣơng mại châu Âu

EU

Liên minh châu Âu

FDI

Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài

FTA

Khu vực mậu dịch tự do

GATT

Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch

GDP

Tổng giá trị sản phẩm quốc nội

IMF


Quỹ Tiền tệ Quốc tế

NAFTA

Khu vực Thƣơng mại tự do Bắc Mỹ

NATO

Tổ chức Hiệp ƣớc Bắc Đại Tây Dƣơng

PNTR

Quan hệ thƣơng mại bình thƣờng vĩnh viễn

TIFA

Hiệp định khung về thƣơng mại và đầu tƣ

R&D

Nghiên cứu và phát triển

SCO

Tổ chức hợp tác Thƣợng Hải

WB

Ngân hàng Thế giới


WTO

Tổ chức Thƣơng mại Thế giới

4


MỞ ĐẦU
1 - Tính cấp thiết của đề tài:
Những năm đầu thế kỷ 21, đời sống kinh tế - chính trị nƣớc Mỹ có những
thay đổi sâu sắc với sự suy sụp của hàng loạt công ty công nghệ thông tin, đảng
Cộng hòa lên nắm quyền, đặc biệt là cuộc tấn công khủng bố tàn khốc ngày
11/9/2001 nhằm vào Trung tâm Thƣơng mại Thế giới (World Trade Center) tại
New York - biểu tƣợng của sức mạnh kinh tế, chính trị và quân sự Mỹ.
Sự kiện 11/9 đƣợc coi là cột mốc đánh dấu sự thay đổi hết sức quan trọng
trong đời sống kinh tế - chính trị nƣớc Mỹ và quốc tế, tác động và ảnh hƣởng sâu
sắc tới khu vực châu Á – Thái Bình Dƣơng (CA - TBD). Sau sự kiện này, Chính
quyền Mỹ tăng cƣờng triển khai các chính sách nhằm củng cố, duy trì vị trí siêu
cƣờng duy nhất của mình, trong đó hƣớng trọng tâm đặt vào CA - TBD.
CA - TBD là khu vực phát triển năng động nhất và là động lực kinh tế toàn
cầu, song cũng là nơi tập trung nhiều nhất các tranh chấp về lợi ích và xung đột tiềm
tàng. Tại khu vực này, Trung Quốc, nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới trong
hơn một thập kỷ nay, đang trỗi dậy và là nƣớc có khả năng thách thức vai trò, giá trị
Mỹ trong tƣơng lai.
Việt Nam là quốc gia nằm trong khu vực CA - TBD, đang ngày càng nâng
cao vị thế địa - chính trị bởi sự phát triển của đất nƣớc, nền kinh tế phát triển với
tốc độ cao và ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực, thế giới. Tuy
nhiên, trong quá trình đó, nền kinh tế Việt Nam cũng đứng trƣớc nhiều thách thức
trong đó có thách thức xuất phát từ bối cảnh khu vực và sự điều chỉnh chiến lƣợc,
chính sách của Mỹ và các nƣớc lớn.

Trong bối cảnh Việt Nam tăng cƣờng quan hệ với Mỹ và tăng cƣờng vị thế
của mình trên trƣờng quốc tế, việc hiểu rõ đƣợc chính sách kinh tế hiện tại của Mỹ
đối với CA – TBD, nhận diện đƣợc chiều hƣớng phát triển của nó và những tác
5


động, ảnh hƣởng tới nền kinh tế Việt Nam… là yêu cầu hết sức cần thiết nhằm
đảm bảo lợi ích của Việt Nam trong quan hệ kinh tế Việt - Mỹ nói riêng và trong
quan hệ kinh tế quốc tế nói chung. Bởi vậy, đề tài “Sự điều chỉnh chính sách kinh
tế của Mỹ đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dƣơng những năm đầu thế kỷ 21 và
tác động của nó đến Việt Nam” đƣợc tác giả chọn làm chủ đề nghiên cứu của luận
văn Thạc sĩ.
2 - Tình hình nghiên cứu:
Chính sách kinh tế của Mỹ đối với khu vực CA - TBD là chủ đề đƣợc nhiều
cơ quan nghiên cứu quốc tế, khu vực và trong nƣớc thƣờng xuyên khảo sát qua
từng thời kỳ. Ở trong nƣớc, nhiều nghiên cứu của một số tác giả đã đề cập tới
những vấn đề liên quan tới đề tài, trong đó có “Sự điều chỉnh chiến lƣợc hợp tác
khu vực Châu Á - Thái Bình Dƣơng trong bối cảnh quốc tế mới” do Tiến sĩ
Nguyễn Xuân Thắng chủ biên, nghiên cứu những đặc điểm cơ bản của khu vực
Châu Á - Thái Bình Dƣơng. Những xu hƣớng triển vọng hợp tác kinh tế cơ bản ở
khu vực trên các khía cạnh từ song phƣơng đến đa phƣơng trên khu vực và toàn
khu vực. Sự thay đổi vị trí địa - chính trị - kinh tế của Mỹ, Nhật Bản, Nga, Trung
Quốc, ASEAN trong khu vực và những điều chỉnh chiến lƣợc hợp tác của các nƣớc
này...; “Chính sách kinh tế của Mỹ đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dƣơng kể
từ sau chiến tranh lạnh” do Tiến sĩ Đinh Quý Độ chủ biên, phân tích những yếu tố
chủ yếu qui định sự thay đổi và những định hƣớng mới trong chính sách kinh tế
của Mỹ đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dƣơng từ sau chiến tranh lạnh. Khảo
cứu sự áp dụng chính sách của Mỹ trong các lĩnh vực thƣơng mại, đầu tƣ, tài chính
- tiền tệ, dịch vụ đối với khu vực. Chính sách kinh tế của Mỹ đối với Trung Quốc,
Nhật Bản, ASEAN và Việt Nam; “Chính sách kinh tế của Mỹ dƣới thời Bill

Clinton” do Tiến sĩ Vũ Đăng Hinh chủ biên, khái quát bức tranh toàn cảnh về kinh
tế Mỹ vào đầu những năm 1990, nêu những thành tựu kinh tế mà tổng thống Bill
Clinton đã đạt đƣợc trong những năm cầm quyền, phân tích những chính sách đã
6


đƣợc triển khai thành công trên các lĩnh vực cụ thể nhƣ: điều chỉnh cơ cấu kinh tế,
khoa học công nghệ, tiền tệ..; “Mỹ điều chỉnh chính sách kinh tế” do Tiến sĩ
Nguyễn Thiết Sơn chủ biên, trình bày những chính sách kinh tế và sự điều chỉnh
chính sách kinh tế của nƣớc Mỹ trong các chính sách tài chính, kinh tế đối ngoại,
giáo dục, khoa học công nghệ, chính sách công nghiệp, nông nghiệp..; “Hoa Kỳ:
kinh tế và quan hệ quốc tế” do Tiến sĩ Nguyễn Thiết Sơn chủ biên, phân tích và
nghiên cứu nền kinh tế Mỹ cùng những mối quan hệ kinh tế của đất nƣớc này:
Chính sách knh tế Mỹ đối với Liên Bang Nga và Trung Quốc trong những năm 90.
Chiến lƣợc toàn cầu của Mỹ. Chiến tranh Iraq và giới hạn sức mạnh của Mỹ...;
“Hoa Kỳ - Xu hƣớng chiến lƣợc kinh tế kể từ kết thúc chiến tranh lạnh” do Tiến sĩ
Đỗ Lộc Diệp chủ biên, phân tích những nhân tố quy định và xu hƣớng thay đổi
chiến lƣợc của Mỹ sau chiến tranh lạnh, những điều chỉnh về kinh tế trong kết cấu
hạ tầng, cơ cấu kinh tế, đầu tƣ nƣớc ngoài, quan hệ thƣơng mại... …Tuy nhiên,
bƣớc vào những năm đầu thế kỷ 21, tình hình thế giới và khu vực diễn biến nhanh
chóng, phức tạp; sự hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của Việt Nam ngày càng sâu
hơn làm phát sinh nhiều vấn đề liên quan tới lợi ích quốc gia của Việt Nam. Chính
sách kinh tế của Mỹ đối với khu vực CA - TBD và với Việt Nam từ đó đến nay cũng
biến chuyển khá mạnh mẽ với những yếu tố mới mang tính chiến lƣợc, lâu dài. Việc
nghiên cứu đề tài này vì thế là phù hợp, không trùng lặp và rất cần thiết. Đề tài kế
thừa các nghiên cứu đã có nhằm đạt kết quả tốt nhất.
3 – Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu:
Đề tài đƣợc thực hiện với mục đích làm rõ những sự điều chỉnh chính sách
kinh tế cơ bản của Mỹ đối với khu vực CA - TBD và tác động, ảnh hƣởng tới lợi

ích quốc gia của Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu:

7


- Phân tích, đánh giá sự điều chỉnh chính sách kinh tế của Mỹ đối với khu
vực CA – TBD trong những năm đầu thế kỷ 21.
- Nhận diện chiều hƣớng mới trong chính sách kinh tế của Mỹ đối với khu
vực CA – TBD và tác động của nó tới Việt Nam.
- Đƣa ra các khuyến nghị về đối sách của Việt Nam trong quan hệ hợp tác
kinh tế Việt – Mỹ.
4 – Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tƣợng nghiên cứu là sự điều chỉnh chính sách kinh tế của Mỹ đối với khu
vực CA – TBD.
- Phạm vi nghiên cứu: đây là một chủ đề rất rộng, vì vậy, đề tài tập trung nghiên
cứu về chính sách thƣơng mại và đầu tƣ của Mỹ đối với khu vực CA – TBD. Về phạm
vi địa lý, đề tài chủ yếu đề cập tới khu vực Đông Á và Đông Nam Á thuộc CA - TBD.
Về phạm vi thời gian, đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu trong khoảng thời gian
từ sau sự kiện 11/9/2001 tới năm 2010 và tầm nhìn đến 2015.
5 - Phƣơng pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng các phƣơng pháp cụ thể sau: (1) Phân tích và chứng minh; (2)
Khảo sát, hệ thống và tổng hợp; (3) Nghiên cứu lý thuyết và tổng kết thực tiễn; (4)
Tham khảo chuyên gia. Đề tài bám sát các quan điểm, chủ trƣơng, đƣờng lối của
Đảng và Nhà nƣớc ta đối với Mỹ nói riêng và quan hệ với các nƣớc lớn nói chung
tại khu vực CA - TBD.
6 - Dự kiến những đóng góp mới của luận văn:
- Luận văn dự kiến sẽ góp phần làm rõ sự điều chỉnh chính sách kinh tế của Mỹ
đối với khu vực CA - TBD và những tác động ảnh hƣởng của các chính sách này đến
Việt Nam; Trên cơ sở này, đƣa ra những khuyến nghị về đối sách kinh tế và phát

triển quan hệ Việt – Mỹ trong bối cảnh mới.
7 - Bố cục của luận văn:
Luận văn gồm 3 chƣơng chính:
8


Chƣơng 1 - Các nhân tố cơ bản quy định sự điều chỉnh chính sách kinh tế
của Mỹ đối với khu vực CA – TBD trong những năm đầu thế kỷ 21
Chƣơng 2 – Sự điều chỉnh chính sách kinh tế của Mỹ đối với khu vực CA –
TBD những năm đầu thế kỷ 21
Chƣơng 3 – Tác động của sự điều chỉnh chính sách kinh tế của Mỹ đối với
Việt Nam và một số khuyến nghị về đối sách kinh tế của ta

9


CHƢƠNG 1:
CÁC NHÂN TỐ CƠ BẢN QUY ĐỊNH SỰ ĐIỀU CHỈNH CHÍNH
SÁCH KINH TẾ CỦA MỸ ĐỐI VỚI KHU VỰC CA – TBD
TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ 21
1.1. Sự thay đổi của bối cảnh quốc tế
1.1.1. Sự tăng tốc của toàn cầu hóa và khu vực hóa
Dƣới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nền
kinh tế thế giới phát triển cả về trình độ lẫn quy mô chƣa từng thấy. Kinh tế trở
thành yếu tố có ý nghĩa chi phối trong các mối quan hệ quốc tế. Tiến trình toàn cầu
hóa, khu vực hóa cũng đƣợc thúc đẩy mạnh mẽ với sự hình thành các thiết chế, tổ
chức tài chính – tiền tệ, thƣơng mại thế giới; các tổ chức hợp tác, liên kết kinh tế,
thƣơng mại ở khắp các châu lục. Toàn cầu hóa và khu vực hóa do đó ngày càng
hiện diện nhƣ hai cấp độ khác nhau của xu thế nhất thể hóa kinh tế thế giới. Xu thế
nhất thể hóa kinh tế thế giới và của khoa học – công nghệ hiện đại đã tác động

mạnh đến quá trình hoạch định chính sách của các nƣớc. Sự thừa nhận và chú
trọng ƣu tiên phát triển kinh tế - mục tiêu hàng đầu của mỗi quốc gia là hệ quả của
sự tác động đó.
Toàn cầu hoá đƣợc nói đến ở đây trƣớc hết và chủ yếu là toàn cầu hoá kinh
tế. "Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nƣớc
tham gia, xu thế này đang bị một số nƣớc phát triển và các tập đoàn kinh tế tƣ bản
xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có
mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh", vừa tạo ra những cơ hội cho sự
phát triển nhƣng cũng vừa có những thách thức đối với các quốc gia, nhất là các
quốc gia đang ở trình độ kém phát triển.

10


Toàn cầu hóa kinh tế đƣợc hình thành và phát triển cùng với sự phát triển
của khoa học công nghệ, đặc biệt là sự phát triển nhanh chóng của công nghệ
thông tin và các công ty xuyên quốc gia.
Những yếu tố phản ánh sự gia tăng của quá trình toàn cầu hóa là: các tập
đoàn kinh doanh toàn cầu, các công ty xuyên quốc gia là những chủ thể chính tỏng
mạng lƣới sản xuất toàn cầu; có sự gia tăng của thƣơng mại, đầu tƣ, tài chính quốc
tề và tăng cƣờng liên kết kinh tế quốc tế; có sự đẩy mạnh vai trò của các tổ chức
kinh tế quốc tế trong quá trình điều tiết các quan hệ kinh tế giữa các nƣớc. Quan
sát quá trình toàn cầu hóa có thể nhận thấy sự gia tăng mạnh mẽ các mối quan hệ
gắn kết, tác động phụ thuộc lẫn nhau, sự mở rộng quy mô và cƣờng độ các hoạt
động giữa các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên phạm vi toàn cầu.
Mặt tích cực của toàn cầu hóa là không thể phủ nhận. Chính quá trình khách
quan này tạo ra các khả năng tiếp cận với các nguồn vốn, công nghệ kỹ thuật tiên
tiến và phƣơng thức quản lý hiện đại để thúc đẩy sự phát triển. Có thể coi toàn cầu
hóa nhƣ một cuộc cách mạng, các doanh nghiệp, các chủ thể tham fia vào toàn cầu
hóa có thể sử dụng vốn, ký thuận, thông tin, quản lý và cả sức lao động ở mọi nơi

trên thế giới, tổ chức sản xuất ở nơi mà họ muốn và đƣa đi tiêu thụ ở đâu có nhu
cầu. Nhờ quá trình cơ động và linh hoạt nhƣ vậy nên mọi ngƣời đều có cơ hội để
tận hƣởng các sản phẩm cung nhƣ dịch vụ mới và rẻ của toàn thế giới. Quá trình
toàn cầu hóa cũng tạo ra các cơ hội cho các nƣớc đang phát triển đƣợc tham gia
vào sự phận công lao động quốc tế, từ đó hình thành một cơ cấu kinh tế - xã hội
mới thích ứng và góp phần rút ngắn quá trình hiện đại hóa của các nƣớc này. Các
cơ hội về công ăn việc làm, về tăng thu nhập, về nâng cao mức sống cũng đƣợc mở
ra cho công nhân và nhân dân ở các nƣớc đang phát triển. Hiện nay, loài ngƣời
phải đối mặt với rất nhiều vấn đề mạng tính toàn cầu, điển hình là vấn đề môi
trƣờng, dân số hay dịch bệnh... và quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra khả năng cho

11


các quốc gia, các dân tộc có thể phối hợp và chia sẻ với nhau các nguồn lực để giải
quyết các vấn đề nan giải đó.
Bên cạnh những cái đƣợc do toàn cầu hóa mang lại thì các chủ thể tham gia
quá trình này cũng phải chịu những thách thức không nhỏ do toàn cầu hóa sinh ra.
Những thách thức đó có nhiều, trong đó không thể không kể đến tình trạng bị tổn
thƣơng, thậm chí nghèo đi của nền kinh tế ở những quốc gia không xác định đƣợc
chiến lƣợc phát triển phù hợp, không đủ sức chốn đỡ trƣớc sự cạnh tranh quyết liệt
mang tính toàn cầu; bất công xã hội có thể bị tăng lên; vấn đề bản sắc văn hóa –
dân tộc bị mai một... Các nƣớc kém phát triển cũng nhƣ các nƣớc đang phát triển
rất dễ bị thua thiệt do toàn cầu hóa bởi khả năng cạnh tranh yếu, trình độ công
nghệ - kỹ thuật thấp, khả năng quản lý kém, vốn lại bị thiếu trầm trọng. Một trong
những vấn đề đặc biệt nghiêm trọng đang nổi lên hiện nay là nạn nghèo đói và
cuộc chiến chống lại các nó tại các quốc gia, nhất là những quốc gia đang và chậm
phát triển. Sự phân hóa giàu nghèo và gia tăng bất công không phải chỉ gắn với
toàn cầu hóa mà có nguồn gốc từ bản chất của chế độ phân phối thu nhập. Tuy
nhiên, toàn cầu hóa đã góp phần làm sâu sắc hơn tình trạng phân hóa giàu nghèo.

Toàn cầu hóa kinh tế sẽ là xu hƣớng phát triển mạnh và lâu dài vì nó phản
ánh quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lƣợng sản xuất đã phát triển lên trình độ
toàn cầu. Quá trình này, một mặt, mở rộng địa bàn hợp tác và cạnh tranh giữa các
nƣớc ra toàn thế giới. Về mặt kinh tế, biên giới địa lý giữa các quốc gia ngày càng
giảm ý nghĩa. Khả năng ngày cảng giảm sự hạn chế về không gian kinh tế là điều
kiện tiên quyết giảm thiểu khả năng chiến tranh vũ lực giữa các cƣờng quốc, đồng
thời tăng mạnh vai trò của công nghệ mũi nhọn chiến lƣợc hay công nghệ chủ
quyền trong việc giành giật phạm vi ảnh hƣởng thế giới giữa các cƣờng quốc này.
Mặt khác, quá trình trên làm tăng nhanh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế
trên thế giới, góp phần làm tăng tính thống nhất trong quan hệ giữa các nƣớc với
nhau. Điều này có nghĩa là Mỹ ngày càng chịu ảnh hƣởng của các sự kiện xảy ra
12


bên ngoài lãnh thổ nƣớc Mỹ. Các công nhân và doanh nghiệp của Mỹ sẽ bị thiệt
hại nếu các thị trƣờng nƣớc ngoài bị sụp đổ hay nếu Mỹ bị đẩy ra khỏi đó bởi các
cuộc xung đột sắc tộc và chính trị.
Diễn ra song hành với toàn cầu hóa là quá trình khu vực hóa. Nội dung chủ
yếu của khu vực hóa là thành lập các khu vực kinh tế mới, mở rộng các khu vực
đang tồn tại, tăng cƣờng hơn nữa quyền tự chủ, quyền tự trị cho các khu vực... Cho
đến nay đã hình thành rất nhiều các tổ chức ở khắp các châu lục. Đó là EU (Liên
minh châu Âu), EFTA (Khu vực tự do thƣơng mại châu Âu) ở châu Âu; NAFTA
(Khu vực thƣơng mại tự do Bắc Mỹ) ở châu Mỹ, ASEAN (Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á), APEC (Diễn đàn hợp tác kinh tế CA - TBD), Tổ chức hợp tác khu
vực Nam Á, SCO (Tổ chức hợp tác Thƣợng hải) ở châu Á, AU (Liên minh châu
Phi) ở châu Phi.
Động lực gia tăng xu thế khu vực hóa trong giai đoạn hiện nay xuất phát từ
mục đích phát huy những lợi thế so sánh, những nét tƣơng đồng của các quốc gia
trong mỗi nhốm khi vực. Các quốc gia có những điểm tƣơng đồng đã tìm đến nhau
tạo lập các tổ chức kinh tế, tạo cho nhau các điều kiện thuận lợi hơn các quy định

quốc tế hiện hành. Chặng hạn nhƣ châu Phi là nơi làn sóng toàn cầu hóa đến muộn
hơn các nơi khác, songcungx phải đến năm 2002 mới chính thức thành lập ra AU.
Mục tiêu của AU là đƣa châu Phi vƣợt qua đói nghèo, xung đột và bệnh tật tiến tới
ổn định và phát triển. Rõ ràng là các vấn đề phổ biến của hầu hết các nƣớc châu
Phi hiện nay nhƣ đói nghèo, xung đột – chiến tranh và dịch bệnh đã làm cho họ
xích lại gần nhau trong một khối thống nhất, cùng nhau hành động, cùng nhau chia
sẻ, hỗ trợ lẫn nhau để đạt đƣợc mục tiêu chung của mình. Bƣớc tiếp theo của AU là
thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, tăng trƣởng kinh tế và phát triển bền
vững ở châu Phi.
Về dài hạn, khu vực hóa chính là bƣớc chuẩn bị để thực hiện toàn cầu hóa.
Sự ra đời hàng loạt các tổ chức khu vực và sự phát triển quy mô địa lý của các tổ
13


chức khu vực trên cơ sở bổ sung các thành viên (chẳng hạn nhƣ EU), hay hợp nhất
các tổ chức khu vực là bƣớc tiến ngày càng gần hơn đến tự do hóa trên phạm vi
toàn cầu. Khu vực hóa là bƣớc đi tất yếu đến toàn cầu hóa; khu vực hóa càng mạnh
sẽ là điều kiện và động lực cho toàn cầu hóa. Đồng thời sự tăng tốc của toàn cầu
hóa cũng sẽ thúc đẩy xu hƣớng khu vực hóa trên thế giới.
Toàn cầu hóa và khu vực hóa là một xu thế quan trọng và sẽ tiếp tục có tác
động trực tiếp đến việc hoạch định chiến lƣợc đối ngoại của tất cả các nƣớc. Hệ
quả trực tiếp của toàn cầu hóa và khu vực hóa là sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các
nền kinh tế phát triển ngày càng cao. Dù mạnh đến thế nào, sự phát triển và phồn
vinh của nƣớc Mỹ vẫn phải phụ thuộc vào sự phát triển của các nền kinh tế khác.
Toàn cầu hóa kinh tế và nhất thể hóa khu vực đã làm thay đổi căn bản bối
cảnh quốc tế, đã có tác dụng thúc đẩy các hoạt động giao lƣu, hợp tác quốc tế và
đầu tƣ kinh doanh, đem lại cơ hội, tạo ra những điều kiện mới cho sự phát triển,
hợp tác kinh tế xã hội trên phạm vi toàn cầu.
Toàn cầu hoá nói chung, một mặt, là sự tiếp nối, sự khẳng định và hoàn
thiện các khuynh hƣớng đã hình thành từ lâu trong lịch sử thế giới, mặt khác, nó

cũng là một hiện tƣợng mới, bắt đầu bằng toàn cầu hoá về kinh tế, rồi dần đần lôi
cuốn theo toàn cầu hoá về một số lĩnh vực văn hoá và tác động mạnh mẽ đến chính
trị. Từ khi Liên Xô và các nƣớc xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, chiến tranh lạnh
kết thúc, thế giới hai cực thực sự đã trở thành thế giới một cực, với một siêu cƣờng
duy nhất là Mỹ. Cùng với xu thế toàn cầu hóa, Mỹ đang từng bƣớc thực hiện tham
vọng chiếm địa vị độc tôn và làm bá chủ thế giới, biến toàn cầu hóa thành “Mỹ
hóa” cả về kinh tế, văn hóa và chính trị.
1.1.2. Môi trường hòa bình, ổn định và phát triển tiếp tục được đẩy mạnh
Bƣớc vào thế kỷ 21, hòa bình, hợp tác và phát triển là xu thế lớn của thế
giới, nó phản ánh những đòi hỏi bức xúc của các quốc gia dân tộc và là tất yếu
khách quan, song tình hình quốc tế vẫn bị xen kẽ bởi những biến đổi phức tạp,
14


căng thẳng, nguy hiểm bởi các cuộc khủng hoảng, tranh chấp hay xung đột có tính
chất khu vực và đặc biệt chịu tác động mạnh mẽ của chủ nghĩa khủng bố và cuộc
chiến chống khủng bố do Mỹ phát động.
Cục diện thế giới vừa mâu thuẫn, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh. Có nhiều
nhân tố chủ quan và khách quan thúc đẩy sự hợp tác, liên kết giữa các nƣớc lớn
những năm đầu thế kỷ 21, nhƣng trong sâu xa quan hệ giữa các nƣớc này vẫn chứa
đầy mâu thuẫn, xung đột, cạnh tranh có ảnh hƣởng to lớn đến đời sống chính trị,
kinh tế, ổn định của thế giới.
Các nƣớc, đặc biệt là các nƣớc lớn ngày càng nhận thức đƣợc rằng hòa bình,
ổn định và phát triển là con đƣờng tốt nhất để giải quyết các xung đột và các bất
đồng giữa các quốc gia.
Xu hƣớng trên đã và đang đƣợc Mỹ tính đến trong xác định chiến lƣợc toàn
cầu trong thế kỷ 21 để chủ động thích nghi và giành thế chi phối.
Tuy nhiên, tình hình quốc tế từ những năm đầu thế kỷ 21 đã có những biến
đổi sâu sắc, đặc biệt là từ sau vụ nƣớc Mỹ bị khủng bố ngày 11-9-2001, nƣớc Mỹ
đã phát động cuộc chiến chống khủng bố trên quy mô toàn cầu và phân hóa thế

giới thành hai phe nhƣ tuyên bố của Tổng thống Bush: “Hoặc đứng về phía chúng
tôi, hoặc đứng về phía bọn khủng bố”. Trƣớc đó đã từng có cảm giác rằng trật tự
thế giới “nhất siêu đa cƣờng” với vị trí bá chủ thế giới của Mỹ tƣởng nhƣ không có
một sức mạnh nào có thể ngăn cản nổi. Tuy nhiên, sau sự kiện 11/9, lần đầu tiên
trong lịch sử thế giới, vấn đề khủng bố và chống khủng bố đã trở thành vấn đề toàn
cầu và một sắc thái mới lại xuất hiện trong bức tranh chung về bối cảnh quốc tế
mới thời kỳ hậu chiến tranh lạnh. Sự kiện 11/9 đƣợc bình luận là sự kiện châm
ngòi cho những chuyển biến lớn trong quan hệ quốc tế và cục diện thế giới những
năm đầu thế kỷ 21.
Cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ đã tác động mạnh đến mọi lĩnh vực trên
quy mô toàn thế giới. Tác động đầu tiên là làm cho môi trƣờng hòa bình, ổn định
15


và hợp tác trở nên rất phức tạp. Thế giới đứng trƣớc tình hình vô cùng nguy hiểm,
có nhiều bất trắc, khó lƣờng. Mỹ có thể đơn phƣơng tiến hành chiến tranh chống
lại bất kỳ nƣớc nào mà Mỹ cho là theo hoặc ủng hộ chủ nghĩa khủng bố. Với cuộc
chiến chống khủng bố nhƣ vậy, Mỹ đã nâng cao vị trí và vai trò của mình trên
trƣờng quốc tế, khẳng định vị trí nhất siêu, đơn cực đầy sức mạnh chi phối của
mình trong các quan hệ quốc tế. Tác động thứ hai là làm cho nhiều nƣớc, trong đó
bao gồm cả các nƣớc lớn phải điều chỉnh chiến lƣợc và quan hệ của mình. Tác
động thứ ba là làm thắt chặt thêm các quan hệ đồng minh chiến lƣợc của Mỹ với
các nƣớc vốn là đồng minh của Mỹ trên khắp các châu lục, tạo điều kiện cho một
số nƣớc trong số đó thay đổi lập trƣờng đối ngoại và chính sách an ninh của mình.
1.2. Sự thay đổi và phát triển năng động của khu vực CA – TBD
CA - TBD là khu vực phát triển năng động nhất, duy trì mức tăng trƣởng
kinh tế cao nhất, đặc biệt khi bƣớc vào thế kỷ 21, nhiều hình thức hợp tác kinh tế
phát triển nhanh, là động lực của nền kinh tế toàn cầu, đảm bảo sự tăng trƣởng của
nền kinh tế thế giới. Đáng chú ý, trong sự phát triển của khu vực CA - TBD nói
chung, khu vực Đông Á - TBD đã trở thành thị trƣờng buôn bán lớn nhất thế giới.

Nếu không kể Nhật Bản thì Trung Quốc, Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc và
Malaysia đang đứng trong danh sách 20 nƣớc xuất khẩu lớn nhất thế giới.
Cơ cấu kinh tế các nƣớc trong khu vực cũng đang chuyển đổi năng động,
hƣớng vào phát triển kinh tế tri thức. Các nƣớc Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc,
Singapore, Ấn Độ... đang đẩy mạnh đầu tƣ, tăng chi tiêu cho nghiên cứu và phát
triển (R&D), đào tạo lao động tay nghề cao, thu hút chất xám, đẩy mạnh công nghệ
thông tin.
Xu hƣớng hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình tự do
hoá và liên kết tại khu vực CA - TBD và diễn ra đồng loạt trên tất cả các lĩnh vực
thƣơng mại, đầu tƣ, tài chính... Nhiều nƣớc chủ động xây dựng nền kinh tế mở, đa
phƣơng hóa, đa dạng hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại, hƣớng mạnh về xuất khẩu,
16


tích cực tranh thủ vốn và công nghệ của nƣớc ngoài đẩy nhanh quá trình hiện đại
hóa trong nƣớc. Xu thế hợp tác an ninh đối thoại ngày càng đƣợc tăng cƣờng, góp
phần tạo điều kiện ổn định để khu vực CA - TBD tập trung phát triển kinh tế.
Sau khi thời kỳ "Chiến tranh lạnh" kết thúc, Mỹ bắt đầu có sự điều chỉnh
chiến lƣợc toàn cầu từ mô hình an ninh truyền thống lấy quân sự làm chính, sang
mô hình tổng hợp bao gồm việc tăng cƣờng sức mạnh, mở rộng "dân chủ" ở hải
ngoại và mở rộng lợi ích kinh tế. Đối với khu vực CA - TBD, Mỹ đã vạch ra kế
hoạch điều chỉnh chiến lƣợc toàn cầu trong thế kỷ 21, chuyển trọng tâm từ châu Âu
sang CA - TBD.
Vậy tại sao CA - TBD lại trở thành trọng điểm thực thi chiến lƣợc toàn cầu
của Mỹ trong thế kỷ 21?
Xét trên góc độ địa - chính trị và địa - kinh tế thì khu vực CA - TBD tiếp
giáp với nhiều đại dƣơng, trong đó Thái Bình Dƣơng là "cửa ngõ", "yết hầu" nối
liền nƣớc Mỹ với thế giới. Hiện nay, dân số ở khu vực CA - TBD chiếm khoảng
1/2 dân số thế giới; là khu vực có trữ lƣợng dầu mỏ, khí đốt rất lớn và tập trung sự
trỗi dậy kinh tế của nhiều nƣớc, qua đó Mỹ có thể dựa vào trào lƣu kinh tế toàn cầu

hóa để mở rộng quan hệ mậu dịch ở khu vực đang rất hấp dẫn đối với Mỹ.
Trong "Chiến lƣợc quốc gia cho thế kỷ 21", Mỹ xác định khu vực CA - TBD
là một nhân tố quan trọng đối với an ninh quốc gia của nƣớc Mỹ. Thực tế ở khu
vực này đang tập trung sự chú ý của nhiều nƣớc lớn và nhiều tổ chức quốc tế quan
trọng. Vì vậy, đây là nơi đang tập trung nhiều mâu thuẫn về lợi ích có tính chiến
lƣợc của một số nƣớc lớn đối trọng với lợi ích quốc gia Mỹ, đặc biệt những nƣớc
đang cạnh tranh với Mỹ để giành quyền khống chế khu vực này về chính trị và
kinh tế.
Khu vực CA - TBD có vị trí, vai trò rất quan trọng đối với lợi ích của Mỹ,
song các nhà hoạch định chính sách của nƣớc Mỹ cho rằng chính quyền đƣơng
nhiệm của họ đang thiếu một cơ chế an ninh tập thể đối với khu vực này giống nhƣ
17


ở khu vực châu Âu. Vì vậy, Mỹ đang kiếm tìm một cơ chế an ninh thích hợp để lôi
kéo, ràng buộc chặt chẽ các nƣớc ở khu vực này phục vụ cho ý đồ củng cố địa vị
lãnh đạo trên toàn thế giới của Mỹ trong thế kỷ 21.
Mỹ tích cực thực thi chính sách "can dự toàn diện", tăng cƣờng quan hệ với
các nƣớc; thúc đẩy kinh tế thị trƣờng tự do ở khu vực CA - TBD.
Chiến lƣợc kinh tế của Mỹ ở khu vực CA - TBD cả trƣớc mắt và lâu dài
nhằm biến khu vực này trở thành thị trƣờng tự do hóa kiểu phƣơng Tây nói chung
và tạo ra thị trƣờng cho hàng hóa công nghệ cao của Mỹ nói riêng. Vì vậy, Mỹ tiếp
tục mở rộng quan hệ kinh tế song phƣơng với các nƣớc trong khu vực, đặc biệt với
Nhật Bản; đồng thời, tìm cách thông qua việc nâng cao vai trò của Diễn đàn hợp
tác kinh tế CA - TBD để thúc đẩy tự do buôn bán, đầu tƣ và hợp tác phát triển ở
khu vực. Trên thực tế, mấy năm gần đây, xuất khẩu của Mỹ sang khu vực này cao
hơn gấp đôi so với xuất khẩu sang Liên minh châu Âu.
Hiện nay, do Nhật Bản có những khó khăn về kinh tế, tỷ giá hối đoái của
đồng nhân dân tệ Trung Quốc là nhân tố quan trọng ảnh hƣởng tới sự ổn định nền
kinh tế của châu Á, nên Mỹ rất coi trọng nhân tố kinh tế của Trung Quốc để bảo vệ

lợi ích đầu tƣ của Mỹ ở khu vực này trong thế kỷ 21.
Nhƣ vậy, bƣớc sang thế kỷ 21, Mỹ có những động hƣớng chuyển trọng tâm
chiến lƣợc toàn cầu từ châu Âu sang CA - TBD. Tuy nhiên, hiện nay Mỹ chƣa có
một chiến lƣợc toàn diện đối với CA - TBD kể từ sau thời kỳ “Chiến tranh lạnh"
kết thúc. Mỹ đang tìm cách cải thiện quan hệ kinh tế với Nhật Bản, Trung Quốc vì
cho rằng mối quan hệ Mỹ - Nhật Bản, Mỹ - Trung Quốc quyết định tƣơng lai của
CA - TBD. Song nhiều nƣớc ở khu vực này đang lo ngại sự có mặt của Mỹ, thậm
chí tỏ thái độ phản đối Mỹ gay gắt, cả ở cấp chính phủ, do Mỹ xâm thực quá sâu
vào nền kinh tế các nƣớc, nhằm biến thị trƣờng nơi đây theo hƣớng tự do hóa kiểu
phƣơng Tây.

18


1.2.1. Sự trỗi dậy của Trung Quốc
Về đối thủ chiến lƣợc, các chiến lƣợc gia của Mỹ tính toán rằng nƣớc Nga
dƣới thời Tổng thống V. Putin tuy có sự hồi phục và phát triển kinh tế, quân sự khá
mạnh mẽ, song trong những năm tới chƣa đủ sức cạnh tranh vai trò bá chủ thế giới
với Mỹ. Vì thế, Mỹ đặt trọng tâm phòng ngừa đối thủ chiến lƣợc trƣớc hết chính là
Trung Quốc, bởi đây là một nƣớc lớn đang chứa đựng những tiềm năng phát triển
mạnh về nhiều mặt ở khu vực CA - TBD nói riêng và trên thế giới nói chung trong
thế kỷ 21.
Trung Quốc là một đất nƣớc rộng lớn với dân số đông, bề dày lịch sử phong
phú và lâu đời, có ảnh hƣởng văn hóa khắp châu Á, sức mạnh quân sự ngày một
tăng lên và đặc biệt do sự năng động mới về kinh tế làm cho Trung Quốc có vai trò
quan trọng ngày càng tăng trong sự cân bằng an ninh ở châu Á. Các nhà lãnh đạo
Mỹ đã nhìn nhận Trung Quốc “mặc dù Trung Quốc vẫn có mức GNP thấp so với
các cƣờng quốc kinh tế hàng đầu khác, nhƣng Trung Quốc là một trong những nền
kinh tế phát triển nhanh nhất và lớn nhất trên thế giới”. Nhất là hiện nay, sự phát
triển của Trung Quốc trong quá trình cải cách đã tạo ra thị trƣờng rộng lớn cho

hàng hóa và đầu tƣ của Mỹ cũng nhƣ các nƣớc trong khu vực CA - TBD. Sự trỗi
dậy của nền kinh tế Trung Quốc trở thành động lực thúc đẩy kinh tế khu vực phát
triển. Từ khi thực hiện cải cách đến nay, mức tăng trƣởng kinh tế bình quân hàng
năm của Trung Quốc đạt 9,6%, gấp 4 lần so với các nƣớc phát triển trong cùng thời
kỳ. Theo số liệu của Cục thống kê Trung Quốc, năm 2003 và 2004, mức tăng
trƣởng kinh tế Trung Quốc lần lƣợt đạt 10% và 10,1%; năm 2005 là 10,4%, GDP
đạt 18.232 tỷ Nhân dân tệ (2.260 tỷ đô la). Năm 2006, GDP tăng 10,7%, đạt
20.940 tỷ Nhân dân tệ (2.627,4 tỷ đô la). Năm 2007, GDP tăng 11,4%, đạt 24.662
tỷ Nhân dân tệ (3.430 tỷ đô la); dự trữ ngoại tệ trên 1.000 tỷ đô la.
Thành công của Trung Quốc xuất phát từ nhiều yếu tố, song nổi lên hai yếu
tố chính: (1) Điều kiện quốc tế đang chuyển đổi (bối cảnh quốc tế hoà bình, xu
19


hƣớng toàn cầu hoá tiếp tục phát triển, sự phát triển của khoa học công nghệ…) tạo
ra những cơ hội lớn cho sự phát triển kinh tế của Trung Quốc; (2) Vai trò và ảnh
hƣởng của mạng lƣới kinh tế ngƣời Hoa ở hải ngoại.
Nhờ những thành tựu kinh tế đạt đƣợc, ngày nay Trung Quốc đang nổi lên
với tƣ cách nhƣ một cƣờng quốc khu vực có vai trò rất quan trọng ảnh hƣởng tới sự
ổn định và phát triển của khu vực CA - TBD. Đồng thời, sự trỗi dậy của Trung
Quốc cũng ngày càng đe dọa, thách thức địa vị bá chủ của Mỹ tại khu vực và toàn
cầu. Chính quyền Bush, ngay sau khi cầm quyền, tháng 01/2001, đã thực thi chính
sách coi Trung Quốc là “đối thủ cạnh tranh chiến lƣợc” mà Bush theo đuổi từ khi
vận động tranh cử. Đây cũng là nét điều chỉnh cơ bản so với Chính quyền Clinton,
coi Trung Quốc là "đối tác chiến lƣợc". Chính quyền Bush nhanh chóng tăng
cƣờng liên minh Mỹ - Nhật, lôi kéo Nga và Ấn Độ nhằm ngăn chặn khả năng tập
hợp lực lƣợng chống Mỹ và thúc đẩy ý tƣởng thành lập "cộng đồng an ninh" Đông
Á, lôi kéo các nƣớc trong khu vực để kiềm chế Trung Quốc.
1.2.2. ASEAN và các động thái phối hợp của ASEAN trong các tiến trình
Đông Á

ASEAN là thực thể kinh tế quan trọng trong chiến lƣợc cạnh tranh hợp tác
giữa các cƣờng quốc. Mỹ là đối tác có tầm quan trọng chiến lƣợc đối với các nƣớc
ASEAN, là thị trƣờng xuất khẩu lớn nhất của ASEAN. Ngƣợc lại, Mỹ cũng coi
trọng ASEAN cả về chiến lƣợc lẫn kinh tế; ASEAN là đối tác kinh tế lớn thứ tƣ
của Mỹ sau NAFTA, EU và Nhật Bản. ASEAN đƣợc Mỹ đặc biệt quan tâm hơn
sau sự kiện 11/9. Ngoài mục tiêu hợp tác chống khủng bố, Mỹ còn có những ý đồ
to lớn hơn về cạnh tranh chiến lƣợc giữa các nƣớc lớn, khống chế các đƣờng giao
thông quan trọng ở khu vực biển Đông và lợi ích dầu lửa. Chỉ riêng eo biển
Malacca dài 805 km - nối liền Ấn Độ Dƣơng với Thái Bình Dƣơng, đã là một
tuyến đƣờng hàng hải hết sức quan trọng của thế giới. Mỗi năm có khoảng 50
nghìn lƣợt tàu biển qua lại eo này, chuyên chở hơn 1/4 khối lƣợng hàng hoá buôn
20


bán trên thế giới. Hầu nhƣ toàn bộ số xăng dầu nhập khẩu của Nhật Bản và Trung
Quốc đều đi qua eo biển này.
Với vị trí quan trọng về địa chính trị, kinh tế, ASEAN cũng là khu vực các
cƣờng quốc muốn tranh giành ảnh hƣởng. Sau khi vào WTO, Trung Quốc tăng
cƣờng đầu tƣ ra nƣớc ngoài, trƣớc hết là ASEAN, nhằm tìm các nguồn cung tài
nguyên thiên nhiên mới, đảm bảo cho nhu cầu phát triển của đất nƣớc. Nhật Bản
hiện đang thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ kinh tế với ASEAN (vốn là chỗ dựa công
nghệ cho các nƣớc ASEAN trong hợp tác ASEAN + 3) để tăng cƣờng ảnh hƣởng
trong khu vực và tạo đối trọng với Trung Quốc. Trong chiến lƣợc phát triển kinh tế
quốc gia, Hàn Quốc coi ASEAN là khu vực hấp dẫn nhất của nƣớc này, thể hiện
qua thái độ ủng hộ tích cực và mạnh mẽ của Hàn Quốc đối với khung quan hệ
ASEAN + 3.
Tiến trình nhất thể hóa Đông Á đƣợc đẩy nhanh bắt nguồn trực tiếp từ cuộc
khủng hoảng tài chính-tiền tệ Đông Á năm 1997. Trƣớc cuộc khủng hoảng đột
ngột này, các nƣớc Đông Nam Á bó tay, Mỹ và châu Âu hoặc hờ hững đứng nhìn,
hoặc “khoa chân múa tay” vô trách nhiệm, hoặc dứt khoát giậu đổ bìm leo, thừa cơ

mua tài sản của những nƣớc gặp hại, ngƣợc lại các nƣớc Đông Á nhƣ Nhật Bản và
nhất là Trung Quốc biết khó khăn vẫn dũng cảm gánh vác trách nhiệm, có những
đóng góp đáng kể giúp các nƣớc Đông Á thoát khỏi khủng hoảng, từ đó làm cho
các nƣớc Đông Á đều nhận rõ cần và có thể giúp đỡ lẫn nhau trong khu vực, ý thức
đồng cảm khu vực của các nƣớc Đông Á do vậy tăng nhanh. Sau đó, nhất thể hóa
Đông Á lấy ASEAN làm chỗ dựa, từ “ASEAN+1” tới “ASEAN+3”, “ASEAN+6”,
rồi “Hội nghị cấp cao Đông Á”, cuối cùng mạnh bƣớc, có đƣợc những tiến triển
thực chất. Dễ nhận thấy mô hình nhất thể hóa Đông Á này dù không phủ định nhất
thể hóa liên Thái Bình Dƣơng hoặc nhất thể hóa liên CA - TBD do Mỹ chủ trƣơng,
song thực chất và hậu quả của nó cũng là muốn tách riêng, song song tồn tại với
hai tiến trình trên.
21


Trƣớc tiến trình nhất thể hóa Đông Á đƣợc đẩy nhanh, Mỹ tỏ ra “khó chịu”
rõ rệt và không thể làm gì, đã không tích cực ủng hộ, lại khó có thể trực tiếp ngăn
cản, càng khó quyết tâm tham gia.
Thứ nhất, Mỹ lo ngại phạm vi không gian nhất thể hóa Đông Á lớn đến đâu?
Liệu có gạt Mỹ ra ngoài, hình thành một tập đoàn khu vực lớn mang tính bài xích,
đặc biệt là bài xích Mỹ ngoài Liên minh châu Âu? Mỹ là nƣớc CA - TBD nhƣng
không phải là nƣớc Đông Á, cách xác định theo địa lý này khiến Mỹ không khỏi lo
ngại nhất thể hóa Đông Á khởi đầu đã là một tập đoàn khu vực, hoặc sẽ phát triển
thành một tập đoàn khu vực gạt Mỹ ra ngoài. Khi thành viên Hội nghị cấp cao
Đông Á hạn chế ở “10+3” thì mối lo ngại của Mỹ đặc biệt gia tăng. Mỹ quả thực
có lợi ích kinh tế, chính trị và an ninh lớn, cũng đầu tƣ tình cảm lớn ở Đông Á, nên
không thể dễ dàng chấp nhận một tập đoàn khu vực Đông Á gạt Mỹ ra ngoài lề.
Thứ hai, Mỹ lo ngại nếu việc xuất hiện một tổ chức nhất thể hóa Đông Á là
không tránh khỏi, không ngăn cản nổi thì vấn đề then chốt là nên do ai lãnh đạo
hoặc chủ đạo mới có lợi cho việc đảm bảo Mỹ không bị gạt ra bên ngoài, ít nhất có
lợi cho việc đảm bảo lợi ích của Mỹ ở Đông Á. Mỹ đƣơng nhiên mong muốn Nhật

Bản chủ đạo tiến trình nhất thể hóa Đông Á, nhƣng hình tƣợng chính trị của Nhật
Bản ở Đông Á không hay. Trong bối cảnh Trung Quốc vƣơn lên nhanh chóng,
thực lực tƣơng đối của Nhật Bản sụt giảm nhanh, khó có thể gánh vác trách nhiệm
nặng nề này. Mỹ cũng không muốn Trung Quốc chủ đạo tiến trình trên. Mỹ điều
chỉnh chính sách xoay quanh vấn đề nhất thể hóa Đông Á, trên mức độ rất lớn
đƣợc triển khai xoay quanh làm thế nào đối phó Trung Quốc vƣơn lên và kiềm chế
ảnh hƣởng không ngừng gia tăng của Trung Quốc ở Đông Á: năm 2002 đƣa vấn đề
chống khủng bố vào Hội nghị thƣợng đỉnh APEC, năm 2006 đề xuất muốn ký hiệp
ƣớc FTA với ASEAN. Nhật Bản đã khó có thể đảm đƣơng trách nhiệm lớn, Trung
Quốc lại không phải là nƣớc lãnh đạo nhất thể hóa Đông Á mà Mỹ mong muốn, do
vậy Mỹ đã để ASEAN gánh vách trách nhiệm này. Mỹ phần nào không hài lòng
22


khi để ASEAN với thực lực khá yếu chủ đạo tiến trình nhất thể hóa Đông Á, nhƣng
nhƣ vậy còn hơn để Trung Quốc đảm bảo lợi ích cho Mỹ, và điều đó càng có lợi
cho Mỹ từ bên ngoài ảnh hƣởng tới tiến trình này.
Thứ ba, tiến trình nhất thể hóa Đông Á sẽ ảnh hƣởng thế nào tới quan hệ của
Mỹ với hệ thống đồng minh ở Đông Á và các tổ chức khu vực hiện có ở CA TBD? Mỹ lo ngại những tiến triển thực chất của nhất thể hóa Đông Á cuối cùng sẽ
phá vỡ mạng lƣới quan hệ đồng minh này, từ đó ảnh hƣởng tới địa vị chiến lƣợc
mà Mỹ đã dày công tạo dựng hơn nửa thế kỷ ở Đông Á.
Là siêu cƣờng duy nhất trên thế giới, Mỹ vốn không thích các nƣớc nhỏ yếu
khác kết thành tập đoàn khu vực, hình thành cục diện “hợp tung chống Tần”, nhất
là không muốn Đông Á xuất hiện cục diện “hợp tung chống Mỹ”. Nếu cho rằng
Mỹ khởi xƣớng nhất thể hóa kinh tế CA - TBD là một hành vi của học thuyết đa
phƣơng, đó cũng là một “học thuyết đa phƣơng có lựa chọn” nhƣ Richard Haass
từng miêu tả, thậm chí là muốn các nƣớc Đông Á “liên hoành mƣu sự với Mỹ”.
Tháng 8/2004, trong khi bàn tới Cộng đồng Đông Á, Ngoại trƣởng Mỹ Colin
Powell nói Mỹ cho rằng không cần thiết xây dựng Cộng đồng Đông Á, và cảnh cáo
Cộng đồng Đông Á đang trong dự định “không nên làm hại quan hệ hữu nghị lâu

dài giữa Mỹ và các bạn châu Á”. Tháng 1/2006, quan chức cấp cao Mỹ tại APEC,
Michael Michalak bình luận: Mỹ không cho rằng Hội nghị cấp cao Đông Á sẽ làm
hại lợi ích của Mỹ, cũng không cần tham gia tất cả các cuộc hội nghị và đối thoại
giữa các nƣớc châu Á. Ông còn nhấn mạnh tầm quan trọng của quan hệ đối tác liên
Thái Bình Dƣơng. Nói thẳng ra Michael Michalak muốn cảnh cáo tiến trình nhất
thể hóa Đông Á không đƣợc làm hại lợi ích của Mỹ ở Đông Á, Mỹ tạm thời không
tham gia Hội nghị cấp cao Đông Á và tiến trình nhất thể hóa Đông Á, và muốn xây
dựng một tổ chức nhất thể hóa liên Thái Bình Dƣơng chứ không phải tổ chức nhất
thể hóa Đông Á. Từ các góc độ khác nhau, một số học giả Mỹ cũng viết bài bày tỏ
lập trƣờng phản đối nhất thể hóa Đông Á.
23


Không những thế, “sự khó chịu” của Mỹ đối với nhất thể hóa Đông Á còn
thể hiện trong việc thực thi chính sách cụ thể. Một mặt, Mỹ tìm cách thông qua
chấn hƣng APEC, nhấn mạnh hợp tác trong phạm vi lớn liên châu Á và liên Thái
Bình Dƣơng bao gồm Đông Á, lấy một diễn đàn khổng lồ, hƣ nhiều thực ít, không
phải Đông Á hoặc châu Á, cũng không phải Thái Bình Dƣơng, từ bên ngoài xói
mòn làm tan rã tính hợp pháp về địa lý và đồng cảm địa lý của nhất thể hóa Đông
Á. Đêm trƣớc Hội nghị APEC 2006, Tổng thống Bush nói: APEC là diễn đàn kinh
tế hàng đầu của CA - TBD, có tiềm lực lớn mở rộng thƣơng mại tự do ở khu vực
Thái Bình Dƣơng, Mỹ sẽ cố gắng biến diễn đàn này thành tổ chức có sức nặng hơn
để thúc đẩy kinh tế Thái Bình Dƣơng tăng trƣởng.
Mặt khác, Mỹ cũng tìm mọi cách thông qua tăng cƣờng hơn nữa hệ thống
liên minh quân sự song phƣơng vốn có ở Đông Á và mở rộng quan hệ FTA song
phƣơng với các nƣớc Đông Á, làm tiêu tan sức hút của nhất thể hóa Đông Á đối
với các nƣớc khu vực này, tìm đƣợc lực lƣợng kiềm chế tiến trình nhất thể hóa
Đông Á từ trong nội bộ khu vực, biến nhất thể hóa Đông Á thành trống rỗng. Vì
vậy, Mỹ đã áp dụng một loạt biện pháp tăng cƣờng hơn nữa quan hệ hợp tác với
các đồng minh quân sự Nhật Bản, Hàn Quốc, Philipines, Singapore, đồng thời còn

mƣu toan lôi kéo Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, Ấn Độ cùng Mỹ thiết lập một “NATO
phiên bản châu Á” và “đồng minh quan niệm giá trị”. Ngoài ra, Mỹ còn khẩn
trƣơng xây dựng quan hệ FTA song phƣơng với một số nƣớc Đông Á. Tháng
10/2007, Mỹ và Hàn Quốc gạt bỏ trở ngại, đạt đƣợc hiệp định FTA ngoài sức
tƣởng tƣợng. Mỹ cũng đã ký hiệp định FTA với Singapore và Úc. Quá trình đàm
phán FTA giữa Mỹ với các nƣớc Đông Á nhƣ Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Nhật
Bản cũng đã đƣợc nâng lên thành lịch trình và đang đƣợc khẩn trƣơng tiến hành.
Mỹ sẽ ra sức thúc đẩy ký hiệp định FTA với Nhật Bản, lấy đó làm con át chủ bài
kiềm chế tiến trình nhất thể hóa Đông Á và ảnh hƣởng không ngừng mở rộng của
Trung Quốc trong khu vực.
24


Về phía Mỹ, cần nhận thức đƣợc nhất thể hóa Đông Á là sản phẩm tất nhiên
trong sự phát triển của tình hình chính trị, kinh tế nội bộ Đông Á, cũng là sản
phẩm của toàn cầu hóa và khu vực hóa đƣợc thúc đẩy không ngừng ở Đông
Á, là xu thế lớn. Mỹ khó mà ngăn cản tiến trình nhất thể hóa Đông Á, bất luận
tiến trình đó có hoàn toàn phù hợp lợi ích của Mỹ hay không. Mặc dù TÀI

LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ (2007), Đánh giá tác động của 5 năm triển khai
Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ đối với Thương
mại, Đầu tư và Cơ cấu kinh tế của Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
2.

Phạm Cao Cƣờng (2005), “Đằng sau cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ ở
Đông Nam Á”, Châu Mỹ Ngày nay, (2), Tr. 25.


3.

Đỗ Lộc Diệp, Nguyễn Thiết Sơn, Vũ Đăng Hinh, Ngô Xuân Bình (1998),
Hoa Kỳ - Xu hướng chiến lược kinh tế từ kết thúc chiến tranh lạnh, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.

4.

Đinh Quý Độ, Lê Bộ Lĩnh, Nguyễn Việt Cƣờng...(2000), Chính sách kinh
tế của Mỹ đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dương kể từ sau chiến tranh
lạnh, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

5.

Vũ Văn Hà (2007), Quan hệ Trung Quốc-ASEAN-Nhật Bản trong bối
cảnh mới và tác động của nó tới Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

6.

Vũ Đăng Hinh, Lƣu Ngọc Trịnh, Vũ Chí Lộc...(2002), Chính sách kinh tế
Mỹ dưới thời Bill Clinton, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

7.

Jentleson, Bruce W. (2004), Chính sách đối ngoại Hoa Kỳ động cơ của sự
lựa chọn trong thế kỷ XXI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

8.

Nguyễn Văn Lan (2007), Nhân tố địa-chính trị trong chiến lược toàn cầu

mới của Mỹ đối với khu vực Đông Nam Á, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.

25


×