Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Chính sách đối với khu vực Châu Á-Thái Binh Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.32 KB, 18 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Châu Á-Thái Bình Dương đã trở thành khu vực năng động nhất thế giới
bởi có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định trong nhiều thập niên qua. Khu vực này
cũng là nơi tập trung nhiều nền kinh tế lớn của thế giới như Nhật Bản, Trung
Quốc, các nước công nghiệp mới NICs,…mà đặc biệt là Hoa Kỳ- nền kinh tế
lớn nhất khu vực và thế giới. Bài viết này xin đưa ra một vài nét chính trong
chính sách kinh tế đối ngoại và luật pháp Hoa Kỳ trong bối cảnh thế giới đang
chuyển sang một cục diện đa cực như hiện nay. Bài viết bao gồm những phần
sau:
Phần 1: Chính sách đối với khu vực Châu Á-Thái Binh Dương.
Phần này trình bày về một số chính sách chung đối với khu vực Châu Á-Thái
Binh Dương và chính sách riêng đối với một số nước trong khu vực trong đó có
Việt Nam.
Phần 2: Hệ thống pháp luật Hoa Kỳ
Phần này tập trung vào hai vấn đề là hệ thống pháp luật và hiệu lực pháp lý, một
số chính sách thương mại đối ngoại của Hoa Kỳ.
Phần 3: Một số chính sách kinh tế đối ngoại của Hoa Kỳ.
Phần này trình bày một số chính sách kinh tế đối ngoại của Hoa Kỳ nhằm mục
tiêu giữ vững vị trí nền kinh tế số một thế giới.
PHẦN 1: CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI KHU VỰC CHÂU Á-
THÁI BÌNH DƯƠNG
Khu vực Châu Á-Thái Binh Dương được coi là quan trọng nhất trong chiến
lược của Hoa Kỳ nhằm hình thành một cộng đồng Thái Binh Dương trong thế kỉ
XXI. Đây là khu vực đông dân, tài nguyên phong phú và tập trung nhiều cường
1
quốc kinh tế như Trung Quốc, Nhật Bản, một phần nước Nga và một loạt các
con rồng Châu Á, đồng thời cũng là một trong ba khu vực năng động nhất của
nền kinh tế thế giới. Trong chiến lược này, Hoa Kỳ lấy việc củng cố quan hệ với
Nhật là trọng tâm, tăng cường viện trợ quân sự cho Nhật để triển khai kế hoạch
NMD, lôi kéo Đài Loan tham gia NMD, cải thiện quan hệ với Triều Tiên, tiếp
tục hợp tác kinh tế với ASEAN, trong đó chú trọng Việt Nam và Inđônêxia. Hoa


Kỳ tăng cường đầu tư, viện trợ tài chính và triển khai các chương trình tài trợ tín
dụng cho các nhà xuất khẩu Hoa Kỳ đang hoạt động tại khu vực này. Thông qua
ưu đãi về giá rẻ và dịch vụ tốt khi đầu tư ra nước ngoài, Hoa Kỳ đã duy trì được
mối quan hệ hợp tác thương mại và sự phụ thuộc vào Hoa Kỳ. Khi đầu tư, Hoa
Kỳ luôn luôn giành quyền kiểm soát về năng lượng, nguyên liệu, chi phối những
ngành quan trọng mà Hoa Kỳ có ưu thế về vốn và công nghệ.
Từ năm 1990 đến nay, Hoa Kỳ luôn là nước dẫn đầu về đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài và cũng là nước đứng đầu về tiếp nhận đầu tư. Tuy nhiên chính sách
đầu tư của Hoa Kỳ cũng khác nhau ở mỗi nước tuỳ theo mối quan hệ chính trị
với nước đó. Ngoài đầu tư trực tiếp, Hoa Kỳ cũng đặc biệt chú trọng hình thức
viện trợ kinh tế cho khu vực này nhằm nâng cao ảnh hưởng chính trị và kinh tế.
Quan hệ với Nga
Nga là nước lớn về quân sự và có tiềm năng phát triển kinh tế nhất là từ
khi tổng thống V.Putin lên cầm quyền. Đây là thách thức lớn đối với Hoa Kỳ và
tổng thống Mỹ Geoge.W.Bush đã tỏ ra khá cứng rắn trong quan hệ đối ngoại với
Nga. Sau nhiều vòng đàm phán đàm phán không thành công về hiệp ước ABM
không thành công, ngày 13-12-2001, Hoa Kỳ đã đơn phương huỷ bỏ hiệp ước
này để triển khai kế hoạch NMD. Nga hiện nay không còn được coi là đồng
minh chiến lược mà là đối thủ cạnh tranh chiến lược cả trên lĩnh vực quân sự và
kinh tế.
Đối với Trung Quốc
2
Hoa Kỳ không coi Trung Quốc là kẻ thù. Chính sách của Hoa Kỳ là tăng
cường quan hệ nhằm tác động vào quá trình phát triển chính trị và kinh tế của
Trung Quốc nhưng đồng thời lại tìm cách kiềm chế nhằm ngăn chặn ảnh hưởng
của quốc gia nàytại Châu Á và ngăn chặn nguy cơ Trung Quốc trở thành thách
thức với Hoa Kỳ trong tương lai. Trung Quốc giờ đây trở thành “ đối thủ cạnh
tranh chiến lược” trong chiến lược của tổng thống Bush. Hoa Kỳ vẫn công nhận
“một nước Trung Hoa” thống nhất nhưng trên thực tế, vẫn tăng cường giúp đỡ
cho Đài Loan về vũ khí, thậm chí mời Đài Loan tham gia kế hoạch NMD của

Hoa Kỳ.
Đối với Việt Nam
Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Hoa
Kỳ có thể chia thành bốn giai đoạn chính:
- Giai đoạn trước năm 1954: Việt Nam là nước quá nhỏ bé so với Hoa Kỳ
nên hầu như chưa có quan hệ kinh tế, thương mại.
- Giai đoạn 1954-1975: Hoa Kỳ là chỗ dựa của chính quyền miền Nam về
quân sự và kinh tế và coi Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà là kẻ thù. Hoa Kỳ
luôn coi Việt Nam là vị trí chiến lược về quân sự trong việc ngăn chặn
ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản đối với khu vực Đông Nam Á.
- Giai đoạn 1975-1990: Sau khi chiến tranh kết thúc, Hoa Kỳ đã thi hành
lệnh cấm vận kinh tế chống lại Việt Nam.
- Giai đoạn từ 1990 đến nay: Quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và
Hoa Kỳ hình thành và phát triển. Sự phát triển này xuất phát từ hai
nguyên nhân chính:
+ Sự phát triển của Nhật Bản cùng với sự phát triển của các nước công
nghiệp mới của Châu Á và Trung Quốc đã làm cho Hoa Kỳ lo ngại và tìm
cách củng cố vai trò của mình tại khu vực.
3
+ Chính sách mở cửa và đổi mới của Việt Nam làm cho ích của cả hai
phía xích lại gần nhau hơn.
Việc bình thường hoá quan hệ giữa hai nước là nhu cầu từ cả hai phía và
được hình thành ngay từ đầu những năm 90 với những bước đi chậm chạp và
thận trọng từ cả hai phía. Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ (7-12-2001)
đã đánh dấu một mốc quan trọng trong quan hệ hai nước.
4
PHẦN 2: HỆ THỐNG PHÁP LUẬT HOA KỲ
2.1. Hệ thống pháp luật và hiệu lực pháp lý
Hệ thống pháp luật Hoa Kỳ thuộc loại đồ sộ và phức tạp nhất thế giới. Ngoài
các pháp luật chung của liên bang, mỗi bang còn có hệ thống pháp luật riêng và

nhiều khi lại rất khác nhau. Mặc dù theo truyền thống thì các án lệ là cơ sở pháp
lí cho việc giải quyết các vụ án tại toà, nhưng trong suốt thế kỉ qua các văn bản
pháp luật do các cơ quan lập pháp ban hành vẫn không ngừng tăng lên – không
chỉ ở hệ thống luật liên bang mà cả các bang và các cấp địa phương, các văn bản
pháp luật đã tăng lên với một khối lượng khổng lồ. Vì vậy, một trong những
điểm quan trọng cần phân biệt là trật tự pháp lí, thứ bậc và hiệu lực pháp lí trong
hệ thống pháp luật Hoa Kỳ, bởi lẽ toà án có thể từ chối áp dụng một đạo luật vì
lí do đạo luật này mâu thuẫn với văn bản pháp luật của các cơ quan lập pháp
khác. Hiệu lực pháp lí của các văn bản pháp luật Hoa Kỳ được sắp xếp theo trật
tự sau:
(1)Hiến pháp: Hiến pháp liên bang là văn bản pháp lí có hiệu lực cao nhất
theo đó tất cả các văn bản khác đều không được trái với quy luật của hiến pháp.
Cơ quan có thẩm quyền giải quyết các việc liên quan đến hiến pháp là Toà án tối
cao liên bang. Hiến pháp được sửa đổi khi có hai phần ba số phiếu thuận ở quốc
hội hai viện và phải được hội đồng lập pháp của ít nhất ba phần tư số bang hoặc
ba phần tư đại diện của các bang ở hội nghị toàn quốc phê chuẩn. Đến nay, hiến
pháp Hoa Kỳ đã qua 27 lần sửa đổi.
(2) Các hiệp ước quốc tế: Đây là hiệp ước được kí giữa nhà nước Hoa Kỳ với
các quốc gia khác. Các quy định trong hiệp ước chỉ phải tuân thủ Hiến pháp, và
do vậy các hiệp ước quốc tế có giá trị hiệu lực pháp lí cao hơn tất cả các văn bản
pháp lí khác. Hiệp ước quốc tế sẽ có hiệu lực khi được tổng thống phê chuẩn và
được hai phần ba số thượng nghị sĩ biểu quyết tán thành. Có hai loại hiệp ước,
một loại sẽ có hiệu lực ngay sau khi phê chuẩn mà không cần Quốc hội hai viện
5
thông qua và một loại có hiệu lực sau khi ban hành một đạo luật liên bang
hướng dẫn.
(3) Các đạo luật liên bang: ngoài quyền lập pháp đã được qui định cụ thể,
Hiến pháp còn qui định Quốc hội còn có quyền ban hành tất cả các văn bản pháp
luật khi thấy cần thiết để tạo điều kiện cho việc hành pháp. Cũng giống như các
hiệp ước, các đạo luật khi đã ban hành thì chỉ phải tuân thủ hiến pháp, tức là các

đạo luật này không được vi hiến. Một đạo luật khi ban hành ra có thể hợp hiến,
cũng cóthể vi hiến, và nhiệm vụ của tào án tối cao là phải xác định đạo luật nào
hợp hiến để thông qua.
(4)Các mệnh lệnh, qui tắc sử dụng và quy phạm hành chính: Các mệnh lệnh
mà tổng thống đưa ra phải phù hợp với pháp luật. Các cơ quan hành chính liên
quan cũng có quyền ban hành các quy tắc xử sự cũng như các quy phạm hành
chính nhưng phải phù hợp với những văn bản pháp luật, và nếu các quy tắc, các
quy phạm này đóng vai trò như những quy định của luật liên bang thì đương
nhiên chúng có giá trị cao hơn luật của tiểu bang.
(5) Hiến pháp bang: Hiến pháp bang không được trái với Hiến pháp và các
đạo luật liên bang và thường sửa đổi, bổ sung nhiều hơn.
(6) Luật của các bang: Luật liên bang không thể bao quát hết tất cả các lĩnh
vực mà nhiều lĩnh vực cụ thể vẫn phải do từng bang quy định. Tu chính án thứ
10 của Hiến pháp quy định: “Những quyền lực không được hiến pháp trao cho
liên bang và không bị ngăn cấm với các bang thì thuộc về các bang cụ thể hoặc
nhân dân”. Theo Hiến pháp, quyền lực của Quốc hội là không tuyệt đối, quyền
lực của chính quyền bang cũng vậy.
(7) Các quy tắc xử sự và quy phạm hành chính của bang: Về hình thức và mục
đích, các quy tắc xử sự và quy phạm hành chính của cơ quan hành chính tiểu
bang tương tự như ở liên bang.
6
(8) Các sắc lệnh, quy tắc xử sự và các quy phạm cấp thành phố: Bộ máy hành
pháp của các bang được chia thành các hạt, mỗi hạt cũng có thẩm quyền làm
luật và được chia thành các quận, đứng đầu quận là một thị trưởng hoặc một
hội đồng. Các văn bản pháp lí do quận ban hành được gọi là sắc lệnh và thường
việc ban hành chỉ vì lợi ích của địa phương.
Toàn bộ văn bản pháp lý của liên bang được tập hợp và hệ thống hoá trong
Bộ luật của Hoa Kỳ gọi là United States Code (USC).
Mặc dù luật pháp Hoa Kỳ rất phức tạp nhưng do ảnh hưởng của Hoa Kỳ đến
nền kinh tế thế giới rất lớn nên hầu hết các văn bản pháp lý quốc tế liên quan

đến kinh tế và thương mại đều chịu ảnh hưởng của luật pháp Hoa Kỳ.
2.2. Một số quy định pháp luật về thương mại
2.2.1 Luật thuế quan và hải quan
Hệ thống thuế quan của Hoa Kỳ được xây dựng trên cơ sở hệ thống thuế quan
của tổ chức hợp tác hải quan quốc tế và được hầu hết các nước có quan hệ
thương mại với Hoa Kỳ áp dụng. Mọi hàng hoá khi nhập vào thị trường Hoa Kỳ
đều phải chịu thuế hải quan. Mức thuế được quy định từng loại hàng hoá: đánh
vào tổng giá trị hàng nhập khẩu, theo số lượng hay theo hạn ngạch. Theo quy
định của luật pháp Hoa Kỳ, mức thuế hải quan còn tuỳ thuộc vào quy chế
thương mại đối với từng loại đối tác. Hai quy chế cơ bản là quy chế tối huệ quốc
(MFN) và chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP):
• Quy chế tối huệ quốc (MFN)
Hiện nay quy chế này đã giành cho tất cả các thành viên WTO và hầu hết
các quốc gia khác. Các quốc gia muốn được hưởng MFN phải thoả mãn hai yêu
cầu: Tuân thủ các điều khoản Jackson- Vanick và đã kí hiệp định thương mại
song phương với Hoa Kỳ. Kể từ ngày10-12-2001, khi hiệp định thương mại
song phương Việt Nam-Hoa Kỳ có hiệu lực thì hàng Việt Nam cũng được
hưởng mức thuế MFN.
7

×