Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

BƯỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU SỰ PHÂN BỐ, TẬP TÍNH TƯ THẾ VẬN ĐỘNG CỦA HỌ KHỈ VOỌC (Cercopithecidae) TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN SƠN TRÀ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.22 MB, 29 trang )

MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, tình hình sử dụng kim loại nhôm có xu hướng ngày càng gia
tăng, đặc biệt là ở những nước phát triển, kim loại nhôm có rất nhiều ứng dụng như: dùng để
chế tạo các chi tiết máy bay, ô tô, các trang thiết bị nấu ăn, dây điện…. Trong khi đó, kim loại
nhôm được tạo thành từ quặng bauxit. Chính vì vậy, trong những năm gần đây, hoạt động khai
thác quặng bauxit cũng ngày càng tăng theo.
Quặng bauxit là một loại quặng nhôm có màu hồng, nâu được hình thành từ quá trình
phong hóa các đá giàu nhôm hoặc tích tụ từ các quặng có trước bởi quá trình xói mòn. Đến
năm 2008, trữ lượng bauxit có thể khai thác trên thế giới còn khoảng 27 tỉ tấn. Trong đó,
Guinea, Australia, Việt Nam, Jamaica là bốn nước có trữ lượng bauxit nhiều nhất trên thế giới,
chiếm 86% [19]. Bauxit được khai thác đầu tiên ở Guyana trong thời gian 1897 – 1910 [14].
Năm 2008, Australia đứng đầu danh sách các nước khai thác bauxit và chiếm một phần ba sản
lượng khai thác của cả thế giới, theo sau là Trung quốc, Brazil, Guinea, và Jamaica.
Song song với các hoạt động khai thác quặng bauxit là tình trạng suy giảm tài nguyên và ô
nhiễm môi trường. Hoạt động khai thác bauxit sẽ làm thay đổi cấu trúc địa chất, ảnh hưởng
đến vấn đề tuần hoàn nước, đời sống người dân bản địa, ô nhiễm không khí do bụi, ô nhiễm
tiếng ồn, mất cảnh quan…. Đặc biệt là vấn đề xử lí bùn đỏ bauxit hiện đang ảnh hưởng xấu
đến môi trường sinh thái, sức khỏe người dân bản địa, nguồn nước ngầm, nước mặt và nhiều
vấn đề nan giải khác. Mỗi năm, trên thế giới người ta đào bới 20km2 để khai thác 160 triệu tấn
bauxit, nghĩa là 12,5ha mỗi triệu tấn bauxit. Ở Việt Nam, để khai thác mỗi tấn bauxit phải đào
bới một diện tích gấp đôi trung bình thế giới [13].
Việt Nam có trữ lượng bauxit đứng thứ 3 trên thế giới, ước tính khoảng 5,4 tỉ tấn quặng
và có thể khai thác được 2,1 tỉ tấn. Trong đó, 91,4% trữ lượng bauxit đang nằm dưới lớp đất
đỏ bazan của Tây Nguyên [9]. Đến năm 2025, chúng ta sẽ đào bới từ 325 đến 450 ha để khai
thác 13 đến 18 triệu tấn bauxit mỗi năm và sẽ tạo ra 6,5 đến 9 triệu tấn bùn đỏ. Sau khi khai
thác hết 2,1 tỷ tấn bauxit thì sẽ có 625 km2 bị đào bới và thải ra 1,05 tỷ tấn bùn đỏ [13].
Thị xã Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng là một trong những nơi có trữ lượng bauxit lớn ở Tây
Nguyên, chiếm 20% tổng trữ lượng cả nước. Do đó, việc khai thác bauxit ở Bảo Lộc, Lâm
Đồng sẽ làm nảy sinh nhiều vấn đề về môi trường. Trước thực trạng như vậy, tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Đánh giá các tác động của quá trình khai thác bauxit đến môi trường đất
ở mỏ bauxit Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng và đề xuất một số giải pháp phục hồi môi trường” nhằm


góp phần vào việc giảm thiểu vấn đề suy thoái tài nguyên và ô nhiễm môi trường do quá trình
khai thác bauxit gây ra.

1


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan về bauxit và bùn thải bauxit
1.1.1. Khái quát
Bauxit là một loại quặng nhôm có màu hồng, nâu được hình thành từ quá trình phong hóa
các đá giàu nhôm hoặc tích tụ từ các quặng có trước bởi quá trình xói mòn. Quặng bauxit phân
bố chủ yếu trong vành đai xung quanh xích đạo đặc biệt trong môi trường nhiệt đới. Tên gọi
của loại quặng nhôm này được đặt theo tên gọi của làng Les Baux-de-Provence ở miền nam
nước Pháp, tại đây nó được nhà địa chất học là Pierre Berthier phát hiện ra lần đầu tiên năm
1821. Từ bauxit có thể tách ra alumina (Al2O3), nguyên liệu chính để luyện nhôm trong các lò
điện phân, Khoảng 95% lượng bauxit được khai thác trên thế giới đều được dùng để luyện
thành nhôm [9].
Bùn thải bauxit (bùn đỏ) là loại quặng đuôi được sinh ra quá trình sơ chế quặng và tinh chế
alumina trong tiến trình Bayer, chứa 30% chất thải quặng và 70% là nước. Loại bùn này được
ví như bom bẩn, có nguy cơ đe dọa đến cuộc sống con người [17].
1.1.2. Nguồn gốc hình thành
1.1.2.1. Quá trình hình thành bauxit
Bauxit được hình thành trên các loại đá có hàm lượng sắt thấp hoặc sắt bị rửa trôi trong
quá trình phong hóa [9]. Quá trình hình thành trải qua các giai đoạn:
- Phong hóa và nước thấm lọc vào trong đá gốc tạo ra ôxít nhôm và sắt.
- Làm giàu trầm tích hay đá đã bị phong hóa bởi sự rửa trôi của nước ngầm.
- Xói mòn và tái tích tụ bauxit.
Quá trình này chịu ảnh hưởng của một vài yếu tố chính như: đá Mẹ chứa các khoáng vật
dễ hòa tan và các khoáng vật này bị rửa trôi chỉ để lại nhôm và sắt; độ lổ hổng của đá cho phép
nước thấm qua; có lượng mưa cao xen kẽ các đợt khô hạn ngắn; hệ thống thoát nước tốt; khí

hậu nhiệt đới ẩm; có mặt lớp phủ thực vật với vi khuẩn.
1.1.2.2. Quá trình hình thành bùn đỏ bauxit
BĐ bauxit được hình thành trong quá trình tuyển quặng và sản xuất alumina.
Trong quá trình tuyển quặng, quặng bauxit sau khi khai thác được đưa đến nhà máy sơ chế
để loại bỏ các thành phần như: sét, silicat và các chất khác được hình thành trong quá trình tạo
quặng. Đầu tiên, quặng được nghiền nhỏ để đưa đến sàng rửa. Tại đây, các hạt quặng được rửa
sạch đất, thu hồi các hạt quặng có kích thước lớn hơn đường kính lưới sàng, các hạt quặng nhỏ
lọt qua lưới sàng và chất cặn được đưa đến máy ly tâm để thu hồi các hạt bauxit cỡ lớn hơn
1mm. Cuối cùng, sét và các chất hòa tan khác hay còn gọi là BĐ được dẫn đến hồ lắng để xử
lý.
Quặng sau khi sơ chế được đưa đến các nhà máy tinh chế quặng. Tại đây, quặng thô được
xử lý theo quy trình Bayer để tạo thành alumina. Quy trình Bayer gồm có 4 bước: hòa trộn,
tách bùn, kết tủa, sấy khô [8].

2


- Hòa trộn: Trong bước đầu tiên, quặng bauxit thô được hòa trộn với soda (NaOH), và
bơm vào bồn áp lực lớn. Tại đây, quặng này là phải chịu tác động của nhiệt hơi nước (150 –
2000C) và áp lực. Các NaOH phản ứng với các khoáng chất nhôm của bauxit tạo thành hợp
chất bão hòa natri aluminate và tạp chất không hòa tan (BĐ). Phản ứng sau đây mô tả bước
này:
Al2O3 + 2OH − + 3 H2O → 2[Al(OH)4]−
- Tách bùn: Sau khi hòa trộn, hỗn hợp được truyền qua một loạt các thùng giảm áp suất.
Tại đây, áp suất không khí được tràn vào, cát được tách ra khỏi hỗn hợp qua các bẫy cát. Tiếp
theo, cặn mịn và các chất rắn còn lại được bổ sung các hợp chất tổng hợp và đưa qua bộ lọc
vải. Những tồn dư sau đó rửa sạch, và loại bỏ đi.
- Kết tủa: Hợp chất bão hòa natri aluminate tiếp tục được làm mát bằng hệ thống trao
đổi nhiệt. Vì bị làm lạnh đột ngột, các hydroxit nhôm bị kết tủa lại tạo thành các hạt tinh thể.
Các tinh thể này kết hợp với các tinh thể khác tạo thành các hạt lớn hơn lắng xuống đáy. Sau

đó, các hạt hydroxit nhôm được lọc và rửa sạch để loại bỏ soda. Phản ứng diễn ra như sau:
Na+ + Al(OH)4-

Al(OH)3 + NaOH

- Sấy khô: Các hạt hydroxit nhôm được nung trong lò ở nhiệt độ vượt quá 960 °C (1.750
°F) tạo thành alumina. Phản ứng sau đây mô tả bước này:
Al(OH)3

Al2O3 + 3 H2O

Như vậy, trong quy trình Bayer, BĐ được sinh ra trong quá trình tách bùn. Do bị nhiễm
soda nên BĐ này có độ pH rất cao, khoảng 13.
1.1.3. Phân loại bauxit
Từ nguồn gốc hình thành dẫn đến việc tạo thành hai loại mỏ bauxit:
- Mỏ bauxit được hình thành do quá trình phong hóa diễn ra trong điều kiện nhiệt đới
trên nền đá mẹ là các loại đá silicat: granit, gneiss, bazan, syenite và đá sét. Dạng tồn tại chủ
yếu của hydroxit nhôm trong mỏ bauxit này chủ yếu là gibbsit. Tại Việt Nam, bauxit Tây
Nguyên được hình thành theo phương thức này trên nền đá bazan.
- Mỏ bauxit được hình thành bằng con đường phong hóa trên nền đá cacbonat như: đá
vôi và dolomit xen kẽ với các lớp sét tích tụ do phong hóa sót hay do lắng đọng phần khoáng
vật sét không tan khi đá vôi bị phong hóa hóa học. Loại trầm tích này có chất lượng tốt và có
giá trị công nghiệp.
Từ 2 loại mỏ ở trên, có thể chia thân quặng bauxit thành 4 dạng: lớp phủ, túi, xen kẹp và
mảnh vụn [15].
1.1.4. Thành phần và đặc tính
1.1.4.1. Thành phần và đặc tính của bauxit
Thành phần hóa học chủ yếu của bauxit (quy ra ôxít) là Al2O3, SiO2, Fe2O3, CaO, TiO2,
MgO... trong đó, hyđrôxit nhôm là thành phần chính của quặng [10].


3


Bảng 1.1. Thành phần hóa học của quặng bauxit
Thành phần hóa học

Al2O3

Fe2O3

CaO

SiO2

TiO2

MgO

Mất khi đốt

% theo khối lượng (%)

55,6

4,5

4,4

2,4


2,8

0,3

30

Bauxit tồn tại ở 3 dạng chính tùy thuộc vào số lượng phân tử nước chứa trong nó và cấu
trúc tinh thể gồm: gibbsit Al(OH)3, boehmit γ-AlO(OH), và diaspore α-AlO(OH), cùng với
các khoáng vật oxit sắt goethit và hematit, các khoáng vật sét kaolinit và đôi khi có mặt cả
anata TiO2. Gibbsit là hydroxit nhôm thực sự còn boehmit và diaspore tồn tại ở dạng hidroxit
nhôm ôxít. Sự khác biệt cơ bản giữa boehmit và diaspore là diaspore có cấu trúc tinh thể khác
với boehmit, và cần nhiệt độ cao hơn để thực hiện quá trình tách nước nhanh [15].
Bảng 1.2. Đặc tính của quặng bauxit
Gibbsit
Thành phần

Boehmit

Diaspore

Al(OH)3 AlO(OH) AlO(OH)

Hàm lượng alumina tối đa (%)

65,4

85,0

Đơn tà


Hệ tinh thể

85,0

Trực thoi Trực thoi

Mật độ (g.cm-3)

2,42

3,01

3,44

Nhiệt độ tách nước (°C)

150

350

0

1.1.4.2. Thành phần và đặc tính của bùn đỏ bauxit
Có 2 loại BĐ, thành phần 2 loại BĐ này là khá giống nhau. Tuy nhiên, BĐ được thải ra
trong quá trình Bayer để sản xuất alumina có độ pH trong khoảng 13 và cường độ ion cao, còn
BĐ thải ra trong quá trình sơ tuyển quặng có độ pH trung tính và cường độ ion thấp. BĐ
thường có thành phần hóa học như sau:
Bảng 1.3. Thành phần hóa học của bùn đỏ
Thành phần hóa học


Al2O3

Fe2O3

CaO

SiO2

TiO2

Na2O

% theo khối lượng (%)

10 - 20

30 - 60

2-8

3 - 50

0 - 25

2 - 10

Tại Việt Nam, BĐ có thành phần hóa học như sau [13]:
Bảng 1.4. Thành phần hóa học của bùn đỏ ở Việt Nam
Thành phần hóa học Al2O3 Fe2O3 SiO2 TiO2 Na2O Mất khi đốt
% theo khối lượng (%) 19,76 47,76 4,3 7,25 2,38


14,83

BĐ có kích hạt rất nhỏ, có đến 90% khối lượng có kích thước dưới 75µm. BĐ có bề mặt
riêng khoảng 10 m2/g [18], [8].

4


1.1.5. Tác động của việc khai thác bauxit
1.1.5.1. Tác động tích cực
Nói một cách tổng quát, trên phương diện phát triển kinh tế và xã hội, việc khai thác
bauxit mang lại rất nhiều lợi ích cho người dân, chính quyền địa phương và công ty khai thác.
Người dân địa phương có thêm công ăn việc làm và hưởng lợi những tiện ích công cộng do
các công ty hỗ trợ hoặc do việc khai thác mang lại như: được huấn luyện nghề và trả lương
cao, có thêm nguồn tài trợ cho các dự án hoặc chương trình xã hội, cơ sở hạ tầng (đường sá,
cầu cống, bệnh viện, trường học,...), người dân được bồi thường và tái định cư. Chính quyền
địa phương có thêm tiền thuế thu từ các công ty khai thác bauxit. Còn các công ty khai thác
thu được thêm lợi nhuận do các hoạt động buôn bán hoạt sử dụng quặng mang lại.
Một mỏ bauxit cần 200 công nhân để sản xuất 1 triệu tấn bauxit/năm hay 11 công nhân/ha
và có thể mang lại lợi tức trung bình khoảng 1,4 triệu USD/ha vào năm 1998 [16]. Nếu so
sánh giá bán trung bình của bauxit là 22,69 USD/tấn (1998) và 31,20 USD/tấn (2007), lợi tức
trung bình hiện nay của việc khai thác bauxit vào khoảng 1,9 triệu USD/ha [17].
1.1.5.2. Tác động tiêu cực
Việc khai thác quặng có thể có ảnh hưởng xấu đến môi trường đất, nước, không khí và cả
sinh vật, đặc biệt là môi trường đất. Việc khai quang cây cối sẽ phá hủy nơi cư trú của động
vật, phát tán mầm bệnh thực vật, thay đổi điều kiện thời tiết, gia tăng bụi bặm; đất vùng mỏ sẽ
bị xói mòn rất nhanh nếu không được che phủ hoặc trồng rừng. Nguồn nước mặt có thể bị ô
nhiễm, tăng độ acid, và tăng độ đục. Những vùng bị khai quang có thể mất cảnh quan và ảnh
hưởng tiêu cực đến thị giác; bụi bặm, tiếng động cơ giới và chất nổ có thể làm gián đoạn môi

trường xung quanh, ảnh hưởng đến sức khỏe của dân cư lân cận.
Hoạt động khai thác mỏ còn ảnh hưởng đến kinh tế xã hội, tùy thuộc vào khoảng cách từ
mỏ đến khu dân cư mà tầm ảnh hưởng của hoạt động khai thác sẽ khác nhau. Việc khai thác
quặng mỏ có thể phá vỡ truyền thống văn hóa, lối sống, và sự ràng buộc bộ tộc; thay đổi hoàn
toàn các loại hoa màu và kỹ thuật canh tác cũng như cách thức buôn bán; sự tập trung dân cư
từ nơi khác đến sẽ làm nảy sinh nhiều vấn đề về an ninh xã hội.
1.2. Tình hình phân bố và khai thác bauxit
1.2.1. Tình hình phân bố và khai thác bauxit trên thế giới
Các quặng bauxit phân bố chủ yếu ở khu vực nhiệt đới, Caribe, Địa Trung Hải và vành đai
xung quanh xích đạo, người ta tìm thấy quặng bauxit ở các vùng lãnh thổ như Australia, Nam
và Trung Mỹ (Jamaica, Brazil, Surinam, Venezuela, Guyana), châu Phi (Guinea), châu Á (Ấn
Độ, Trung Quốc, Việt Nam), Nga, Kazakhstan và châu Âu (Hy Lạp) [15]. Trong đó, Guinea là
nước có trữ lượng bauxit lớn nhất trên thế giới, sau đó là Australia, Việt Nam, Jamaica.

5


Bảng 1.5. Tình hình phân bố và khai thác bauxit trên thế giới [19].
(x1000 tấn, Ước tính cho 2008 )
Khối lượng khai thác
Trữ lượng Trữ lượng ban đầu

Quốc gia
2007

2008

Guinea

18,000


18,000

7,400,000 8,600,000

Australia

62,400

63,000

5,800,000 7,900,000

Việt Nam

30

30

2,100,000 5,400,000

Jamaica

14,600

15,000

2,000,000 2,500,000

Brasil


24,800

25,000

1,900,000 2,500,000

Guyana

1,600

1,600

700,000

900,000

Ấn Độ

19,200

20,000

770,000

1,400,000

Trung Quốc

30,000


32,000

700,000

2,300,000

Hy Lạp

2,220

2,200

600,000

650,000

Suriname

4,900

4,500

580,000

600,000

Kazakhstan

4,800


4,800

360,000

0,000

Venezuela

5,900

5,900

320,000

350,000

Nga

6,400

6,400

200,000

250,000

Hoa Kỳ

NA


NA

20,000

40,000

7,150

6,800

3,200,000 3,800,000

205,000

27,000,000 38,000,000

Các nước khác

Tổng cả thế giới (làm tròn) 202,000

Bauxit được khai thác đầu tiên ở Guyana trong thời gian 1897-1910 [14]. Năm 2007,
Australia đứng đầu danh sách các nước khai thác bauxit và chiếm một phần ba lượng khai thác
của cả thế giới, theo sau là Trung quốc , Brazil, Guinea, và Jamaica.
1.2.2. Tình hình phân bố và khai thác bauxit tại Việt Nam
Trữ lượng bauxit ở Việt Nam được ước tính vào khoảng 5,4 tỉ tấn, trong số đó có khoảng
2,1 tỉ tấn có thể khai thác được, đứng hàng thứ ba trên thế giới sau Guinea (8,6/7,4 tỉ tấn) và
Australia (7,9/5,8 tỉ tấn) [18].

6



Xét về nguồn gốc, quặng bauxit ở Việt Nam thuộc 2 loại chính: là bauxit nguồn gốc trầm
tích (diaspore) tập trung ở các tỉnh miền Bắc như Hà Giang (0,5%), Cao Bằng (1,8%), Lạng
Sơn (1,4%) và bauxit nguồn gốc phong hoá laterite từ đá bazan (gibbsite) tập trung ở các tỉnh
miền Trung như Kon Tum - Gia Lai (11%), Ðắk Nông (61%), Bảo Lộc - Di Linh (20%), Bình
Phước (4,6%), và Quảng Ngải - Phú Yên (0,2%) [5], [6].

Hình 1.1. Các vùng mỏ bauxit ở Việt Nam (nguồn: Nguyễn Thanh Liêm)
Qua số liệu ở trên và hình 1.1 cho thấy, quặng bauxit tập trung chủ yếu ở cao nguyên miền
Trung. Quặng bauxit ở cao nguyên miền Trung thuộc loại thảm nằm trên sườn hay đỉnh đồi,
với chiều dày thay đổi từ 4 đến 6m. Bên trên là lớp đất đỏ bazan có chiều dày đổi từ 0,5 đến
3m, bên dưới là lớp đất sét kaolinite khá dày [6].

7


Đới thổ nhưỡng
Đới bauxit laterit

Đới sét litoma

Đới bazan phong hoá
Đới bazan gốc

Hình 1.2. Thảm bauxit ở cao nguyên miền Trung (nguồn: Nguyễn Thanh Liêm)
Theo Quyết định số 167/2007/QĐ-TTG ngày 1 tháng 11 năm 2007, từ năm 2007 đến
2025, Việt Nam sẽ xây dựng 6 nhà máy chế biến alumina ở Đăk Nông, Lâm Đồng, và Bình
Phước, 1 nhà máy luyện nhôm tại Bình Thuận, 1 tuyến đường sắt khổ 1,435m nối liền Đăk
Nông với Bình Thuận. Kế hoạch này có thể cần đến 15 tỉ USD nhằm mục đích khai thác mỗi

năm 70,9 đến 94,5 triệu tấn bauxit, chế biến mỗi năm 11,8 đến 16,5 triệu tấn alumina, luyện
mỗi năm 200.000 đến 400.000 tấn nhôm, và vận chuyển mỗi năm 25 đến 30 triệu tấn hàng hoá
vào năm 2025 [6], [12].
1.3. Tổng quan về địa điểm nghiên cứu
Hiện nay, thị xã Bảo Lộc là một trong hai trung tâm lớn của tỉnh Lâm Đồng nằm trên cao
nguyên Di Linh - Bảo Lộc, ở độ cao 800 - 1.000m; phía Bắc, Đông, Nam giáp huyện Bảo
Lâm; phía Tây và Tây Nam giáp huyện Đạ Huoai.
Với diện tích tự nhiên 232,4 km2, Bảo Lộc có 11 đơn vị hành chính gồm 6 phường
(phường B’Lao, phường 1, phường 2, Lộc Phát, Lộc Tiến, Lộc Sơn), 5 xã (Lộc Nga, Lộc
Châu, Đam Bri, Lộc Thanh, Đại Lào) và 120 thôn, buôn, khu phố. Trong đó, phường 1 - nơi
nghiên cứu có diện tích tự nhiên 431,44 ha.
Địa hình thị xã Bảo Lộc có ba dạng địa hình chính: núi cao, đồi dốc và thung lũng.
Thị xã Bảo Lộc nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nhưng do ở nhiệt độ cao trên
800m và tác động của địa hình nên khí hậu ở đây có nhiều nét độc đáo với những đặc trưng
chính như: Nhiệt độ trung bình cả năm 21 - 22°C, nhiệt độ cao nhất trong năm 27,4°C, nhiệt
độ thấp nhất trong năm 16,6°C; Số giờ nắng trung bình 1.680 giờ/năm, bình quân 4,6 giờ/ngày
(tháng mùa mưa: 2 - 3 giờ/ngày, các tháng mùa khô: 6 - 7 giờ/ngày), mùa khô nắng nhiều
nhưng nhiệt độ trung bình thấp tạo nên nét đặc trưng độc đáo của khí hậu Bảo Lộc; Mùa mưa
từ tháng 4 đến tháng 11, lượng mưa trung bình hàng năm 2.513mm, số ngày mưa trung bình
cả năm 190 ngày, mưa nhiều từ tháng 7 đến tháng 9; Độ ẩm trung bình hàng năm khá cao từ
80 - 90%; Có gió Đông Bắc từ tháng 1 đến tháng 4, gió Tây Nam từ tháng 6 đến tháng 9;

8


Nắng ít, độ ẩm không khí cao, nhiều ngày có sương mù, cường độ mưa lớn tạo nên những nét
đặc trưng riêng cho vùng đất Bảo Lộc.
Hệ thống thủy văn bao gồm có ba hệ thống: Hệ thống sông DaR’Nga, Hệ thống suối Đại
Bình, Hệ thống suối ĐamB’ri.
Bảo Lộc có tiềm năng lớn về phát triển ngành khai thác và chế biến khoáng sản. Tại đây

có trữ lượng lớn bauxit và cao lanh, trong đó bauxit có khoảng 378 triệu tấn với trữ lượng loại
C1 (có hàm lượng Al2O3 = 44,69%; SiO2 = 6,7%) là 209 triệu tấn.

9


CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là môi trường đất tại khu vực khai thác bauxit Bảo Lộc, Lâm
Đồng.
- Địa điểm nghiên cứu tại: Mỏ bauxit Bảo Lộc (hình 2.1), 62 Lý Thường Kiệt, phường 1,
thị xã Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng. Tại địa điểm nghiên cứu, chọn hai khu vực thu mẫu khác
nhau:

Hình 2.1. Địa điểm nghiên cứu ở Lâm Đồng

Khu vực thu mẫu 1

Khu vực thu mẫu 2

Hình 2.2. Các khu vực thu mẫu
- Thời gian nghiên cứu từ tháng 7/2009 đến tháng 4/2010.
2.2. Phương pháp nghiên cứu

10


2.2.1. Phương pháp nghiên cứu ngoài thực địa
- Khảo sát và lấy mẫu bùn thải tại vùng khai thác mỏ bauxit Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng: khu
vực 1: mỏ Thắng Lợi, khu vực 2: mỏ Đội Đội Chín.

- Mẫu được thu làm 2 đợt:
+ Đợt 1: Từ tháng 8/2010, thu 3 mẫu bùn thải sau 1 năm khai thác (điểm 1, 2, 3) tại khu
vực 1.
+ Đợt 2: Từ tháng 11/2010, thu 3 mẫu bùn thải mới khai thác (điểm 1, 2, 3) tại khu vực
2.
- Mẫu bùn thải thu được chứa trong bao có lót nilon và đưa về phòng thí nghiệm và phân
tích môi trường thuộc Khoa Sinh – Môi trường, truờng Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng.
- Khảo sát tính chất bề mặt đất, thành phần thảm thực vật tại 2 khu vực trên.
- Thu thông tin hoạt động khai thác hiện nay tại khu khai thác mỏ bauxit Bảo Lộc, Lâm
Đồng.
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
- Xác định pH mẫu bùn thải bằng cách đo trực tiếp trên máy máy pH Meter hiệu Inolab do
Pháp sản xuất.
- Phân tích hàm lượng nitơ tổng số có trong mẫu bùn thải bằng phương pháp Kjeldahl,
công phá mẫu bằng H2SO4.
- Phân tích hàm lượng photpho tổng số có trong mẫu bùn thải, công phá đất bằng hỗn hợp
H2SO4 đặc và HClO4, đo ở bước sóng 725nm.
- Phân tích hàm lượng kali dễ tiêu có trong mẫu bùn thải bằng phương pháp Matlova, đo
bằng quang kế ngọn lửa.
- Phân tích hàm lượng kim loại nặng Cd, Pb bằng phương pháp hấp thụ nguyên tử ASS.
2.2.3 Phương pháp xử lý số liệu
- Các số liệu được xử lý theo phương pháp thống kê, xác định sự sai khác các giá trị trung
bình bằng phương pháp phân tích Anova một yếu tố và kiểm tra giới hạn sai khác nhỏ nhất
LSD [4].
- Xử lý số liệu thống kê và vẽ biểu đồ bằng phần mềm MS Excell [3].

11


CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BIỆN LUẬN

3.1. Hiện trạng khai thác, xả thải, xử lý bùn đỏ bauxit ở mỏ bauxit Bảo Lộc, Lâm Đồng
Qua quá trình nghiên cứu thực địa và thu thập các thông tin liên quan, mỏ bauxit Bảo Lộc
có tọa độ địa lý là 11033’38,79’’N và 107048’50,15’’E. Hiện tại, quặng đang được khai thác
tại khu vực mỏ Đội Đội Chín, có tọa độ địa lý 11034’22,28’’N và 107049’17,83’’E.
Mỏ bauxit Bảo Lộc có trữ lượng bauxit khoảng 4 triệu tấn trải dài trên 123 ha. Hằng năm,
công ty khai thác khoảng 150.000 tấn quặng bauxit tinh, với số lượng công nhân trực tiếp sản
xuất là 43.
Mỏ quặng ở đây khai thác theo kiểu lộ thiên, thường cách mặt đất 2 – 4m, độ dày của lớp
quặng khoảng 4 – 6m. Để lấy quặng, công ty phải lấy lớp đất đó bằng cách sử dụng các
phương tiện cơ giới như: máy ủi, mìn…. Sau đó, quặng bauxit được xe chuyên dụng chuyển
về nơi tuyển quặng để loại bỏ tạp chất (hình 3.1).

Hình 3.1. Nơi tuyển quặng bauxit ở mỏ Đội Đội Chín
Tại nơi tuyển quặng, quặng bauxit được cho qua máy nghiền để làm nhỏ quặng. Sau đó,
quặng tiếp tục đưa qua sàng rung được rửa sạch bằng nước, sàng rung này có cấu tạo theo kiểu
mạng lưới với đường kính lỗ 1mm. Tùy theo yêu cầu của người mua mà sẽ thu các hạt quặng
với kích thước khác nhau, thông thường thu các hạt quặng có kích thước 3×4cm và 1×2cm,
quặng sau khi rửa theo băng tải ra nơi chứa quặng tinh, các hạt quặng còn lại được đưa đến bộ
phận định lượng, tip 1 để thu hồi các hạt bauxit cỡ lớn hơn 1mm. Bùn sét hòa tan trong nước
và quặng có kích thước nhỏ hơn đường kính lỗ màng được thải ra hồ chứa nhân tạo. Quá trình
loại bỏ tạp chất ở đây còn gọi là quá trình tuyển rửa quặng, quá trình này rất cần thiết vì nó
giảm chi phí vật tư (đặc biệt là xút NaOH), chi phí vận hành trong công đoạn hòa tách và đồng
thời giảm lượng BĐ thải ra ở công đoạn hòa tách.

12


Mỏ quặng bauxit
Thiết bị cơ giới
Quặng nguyên khai


Máy nghiền

Nước

Sàng rung

Bùn đỏ

Băng tải

Bể chứa vôi chứa vôi

Hồ chứa nhân tạo

Nơi chứa quặng tinh

Hình 3.2. Sơ đồ tuyển quặng ở mỏ bauxit Bảo Lộc
Qua hình 3.2 cho thấy, các hoạt động sử dụng các thiết bị cơ giới để khai thác quặng và
hoạt động xả thải BĐ sẽ tác động đến môi trường đất ở đây.
Bauxit ở Tây Nguyên có hàm lượng sét tương đối cao vì vậy cần được tuyển rửa trước khi
đưa vào quá trình tinh luyện để tách alumin. Phương pháp này đòi hỏi phải có trang thiết bị
hiện đại và tiêu thụ một lượng nước rất lớn, khoảng 735.103 m3/năm, trung bình 4,9 m3/tấn
bauxit.
Theo số liệu quý 1 năm 2010 (bảng 3.1), độ thu hồi quặng của quá trình tuyển rửa ở đây
khoảng 32%, cứ 1 tấn quặng thô sẽ thu được 320 kg quặng bauxit, hàm lượng Al2O3 của quặng
nguyên khai là 39,19%, sau quá trình tuyển rửa hàm lượng Al2O3 tăng lên 52,07%.
Bảng 3.1. Thành phần quặng bauxit ở mỏ Bảo Lộc, Lâm Đồng
Quặng bauxit


Thành phần quặng (%)
Al2O3

Fe2O3

SiO2

Nguyên khai

39,19

26,28

-

Sau khi tuyển

52,07

16,38

3,59

Theo kết quả nghiên cứu quá trình tuyển rửa bauxit ở mỏ Gia Nghĩa, với lưới sàng có
đường kính lỗ 1mm, độ thu hồi của quá trình tuyển rửa là 51,13%, hàm lượng Al2O3 tăng từ

13


40,3% lên 50,51% [20]. Điều đó cho thấy, quặng nguyên khai ở mỏ bauxit Bảo Lộc chứa

nhiều tạp chất hơn quặng ở mỏ Gia Nghĩa.
Bùn thải trước khi thải ra hồ chứa nhân tạo sẽ được đưa vào các bể hòa trộn có chứa vôi để
trợ lắng và trung hòa tính axit của BĐ, lượng vôi sử dụng khoảng 5 bao/30kg/ngày. Sau đó,
thải ra hồ chứa nhân tạo (hình 3.3), ở đây, BĐ theo thời gian sẽ lắng xuống đáy hồ, còn nước
sẽ được thu hồi đề tái chế sử dụng lại. Ước tính, cứ tuyển được 1 tấn quặng bauxit tinh sẽ tạo
ra 1 tấn bùn thải. Như vậy, với công suất sản xuất 150.000 tấn/năm sẽ thải ra môi trường
150.000 tấn BĐ.

Hình 3.3. Hồ chứa bùn đỏ
Quặng sau khi tuyển được chuyển về nhà máy hóa chất Tân Bình ở thành phố Hồ Chí
Minh để sản xuất alumina.
3.2. Đặc tính và tính chất của bùn đỏ bauxit ở mỏ bauxit Bảo Lộc, Lâm Đồng
Để đánh giá đặc tính và tính chất của BĐ ở mỏ bauxit Bảo Lộc, tôi đã tiến hành xác định
một số chỉ tiêu lý hóa cơ bản của BĐ sau 1 năm khai thác ở mỏ Đồi Thắng Lợi và BĐ mới
khai thác ở mỏ Đội Đội Chín. Kết quả phân tích mẫu được trình bày ở bảng 3.2 và bảng 3.3.
Bảng 3.2. Hàm lượng các chỉ tiêu lý hóa của bùn đỏ sau 1 năm khai thác ở mỏ Đồi Thắng Lợi
Điểm lấy mẫu
STT

Trung bình

Chỉ tiêu
1

2

3

Đơn vị tính


1

pH

6,82

6,69

6,60

6,70 ± 0,11

2

Cd

3,40

3,44

3,12

3,32 ± 0,16

ppm

3

Pb


28,52

17,36

19,16

21,68 ± 6,00

ppm

4

Nts

0,068

0,070

0,064

0,067 ± 0,298.10 -2

%

14


5

Pts


0,0023

0,0027

0,0021

0,0024 ± 0,03.10 -2

%

6

K+

8,18

8,22

7,91

8,10 ± 0,17

mg/100g

Bảng 3.3. Hàm lượng các chỉ tiêu lý hóa của bùn đỏ mới khai thác ở mỏ Đội Đội Chín
STT

Điểm lấy mẫu


Chỉ tiêu

Đơn vị tính

Trung bình

1

2

3

1

pH

6,44

6,23

6,47

6,38 ± 0,13

2

Cd

3,60


3,36

3,28

3,41 ± 0,36

ppm

3

Pb

19

17,08

18

18,03 ± 0,96

ppm

4

Nts

0,070

0,042


0,062

0,058 ± 1,2.10 -2

5

Pts

0,0022

0,0018

0,0019

6

K+

10,66

6,57

7,33

0,002 ± 0,02.10

-2

8,18 ± 2,18


%
%
mg/100g

Qua bảng 3.2, 3.3 cho thấy:
- BĐ ở mỏ Đồi Thắng Lợi và mỏ Đội Chín có hàm lượng các chỉ tiêu lý hóa khá giống
nhau. Vì BĐ sinh ra trong quá trình tuyển quặng chỉ được xử lý bằng cách chứa trong các hồ
nhân tạo, rồi để khô tự nhiên nên theo thời gian, hàm lượng các chỉ tiêu của BĐ ít có sự biến
đổi (hình 3.4).
mg/L
9
8
7
6
5

Bùn cũ

4

Bùn mới

3
2
1
0
Cd

Pb


Nts

Pts

K

Hình 3.4. Nồng độ các thành phần của bùn cũ và bùn mới
- pH của 2 loại BĐ này nằm trong khoảng 6,38 – 6,70. Ở Bảo Lộc, Lâm Đồng, hoạt động
khai thác bauxit chỉ là khai thác, sơ tuyển quặng chứ không có hoạt động tinh chế quặng. Mặc

15


khác, BĐ trước khi thải ra môi trường (pH = 5,06 – 5,35) được đưa qua bồn chứa Ca(OH)2 để
trợ lắng và trung hòa tính axit của chúng. Vì vậy, BĐ thải ra từ hoạt động khai thác mỏ ở Bảo
Lộc, Lâm Đồng là trung tính. So sánh với pH của BĐ thải ra trong quá trình sản xuất alumin
(pH = 13), pH ở đây thấp hơn rất nhiều. Qua phân tích Anova và kiểm tra LSD với α = 0,05
cho thấy, pH trong BĐ ở mỏ Đội Đội Chín thấp hơn và khác nhau có ý nghĩa so với BĐ cũ
(hình 3.5).
pH
6.9
6.8
6.7
6.6
6.5
Bùn cũ

6.4

Bùn mới


6.3
6.2
6.1
6
5.9
Điểm 1

Điểm 2

Điểm 3

Hình 3.5. pH của bùn cũ và bùn mới
- Hàm lượng Cd trung bình trong BĐ ở mỏ Đồi Thắng Lợi là 3,32 ± 0,16 ppm, ở mỏ Đội
Đội Chín là 3,41 ± 0,36 ppm. So với QCVN 03:2008/BTNMT - Giới hạn cho phép của kim
loại nặng trong đất nông nghiệp, lâm nghiệp (≤ 2 ppm) thì hàm lượng Cd trong BĐ vượt tiêu
chuẩn 1,66 – 1,71 lần. Với Pb, hàm lượng trung bình trong BĐ ở mỏ Đồi Thắng Lợi là 21,68 ±
6,00 ppm, ở mỏ Đội Đội Chín là 18,03 ± 0,96 ppm, kết quả này nằm trong giới hạn cho phép
của QCVN 03:2008/BTNMT (≤ 50 ppm). Qua phân tích Anova cho thấy, hàm lượng Cd, Pb
trong BĐ ở 2 khu vực trên không có sự khác nhau có ý nghĩa (hình 3.6).

16


ppm
25
20
15

Bùn cũ

Bùn mới

10
5
0
Cd

Pb

Hình 3.6. Hàm lượng Cd, Pb trong bùn mới và bùn cũ
- Hàm lượng chất dinh dưỡng trung bình trong BĐ ở mỏ Đồi Thắng Lợi là: Nts = 0,068 ±
0,298.10-2%, Pts = 0,0024 ± 0,03.10-2%, K+ = 8,10 ± 0,17 mg/100g; ở mỏ Đội Đội Chín là: Nts
= 0,058 ± 1,2.10-2%, Pts = 0,0020 ± 0,02.10-2%, K+ = 8,18 ± 2,18 mg/100g. So sánh chỉ tiêu
Nts theo phương pháp Keildahl, đất BĐ ở đây thuộc dạng đất nghèo Nts (≤ 0,08%); so sánh chỉ
tiêu Pts theo phương pháp so màu, đất BĐ ở đây thuộc dạng đất rất nghèo Pts (≤ 0,06%); so
sánh chỉ tiêu K+ theo phương pháp Matnova, đất BĐ ở đây thuộc dạng đất nghèo K+ (≤
5mg/100g). Qua phân tích Anova cho thấy, hàm lượng Nts, Pts, K+ của bùn cũ và bùn mới
không có sự khác nhau có ý nghĩa (hình 3.7).

0.09
0.08
0.07
0.06
0.05

Bùn cũ

0.04

Bùn mới


0.03
0.02
0.01
0
Nts

Pts

K

Hình 3.7. Hàm lượng N, P, K trong bùn đỏ mới và cũ
- Ngoài ra, BĐ có kích hạt rất nhỏ, có đến 90% khối lượng có kích thước dưới 75µm, có
bề mặt riêng khoảng 10 m2/g [8]. Do đó, vào mùa khô, các hoạt động khai thác, vận chuyển

17


quặng dễ phát sinh bụi gây ô nhiễm môi trường không khí xung quanh. Mặc khác, vì có kích
thước hạt nhỏ nên khi có độ ẩm thích hợp, các hạt sẽ kết dính vào nhau rất chặt, đây cũng là
một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng trên
BĐ.
Như vậy, qua quá trình phân tích một số chỉ tiêu lý hóa, BĐ ở mỏ bauxit Bảo Lộc, Lâm
Đồng thuộc dạng đất nghèo chất dinh dưỡng, có dấu hiệu bị ô nhiễm kim loại nặng. Tuy
nhiên, BĐ ở đây không chứa nhiều hóa chất độc hại nên nước bùn chứa quặng đuôi có thể
khôi phục, cải thiện để sử dụng vào các mục đích khác.
3.3. Tác động của quá trình khai thác bauxit đến môi trường đất ở mỏ bauxit Bảo Lộc,
Lâm Đồng
Các hoạt động khai thác bauxit sẽ làm nảy sinh nhiều vấn đề về môi trường như sẽ tác
động xấu đến chất lượng môi trường nước, chất lượng môi trường không khí, kinh tế - xã

hội…, đặc biệt là chất lượng môi trường đất.
Mỏ bauxit ở Bảo Lộc, Lâm Đồng được khai thác theo kiểu lộ thiên, quặng bauxit thuộc
loại thảm nằm trên đỉnh đồi, với chiều dày thay đổi từ 4 – 6m. Bên trên là lớp đất đỏ bazan có
chiều dày từ 0,5 – 3m, bên dưới là lớp đất sét Kaolinite khá dày [9]. Để lấy quặng, công ty
phải sử dụng các phương tiện cơ giới để lấy đi lớp đất bazan phía trên. Do đó, hoạt động khai
thác bauxit đã phá vỡ cấu trúc địa chất ở đây, làm cho bề mặt đất bị hạ thấp 4,5 – 9m (hình
3.8), lớp đất bazan bị thay thế bởi lớp đất sét Kaolinite. Mặt khác, do hoạt động khai thác phải
lấy đi thảm thực vật ở trên nên vào mùa mưa, tại khu vực mỏ Đội Đội Chín và mỏ Đồi Thắng
Lợi có nhiều chỗ bị ngập úng cục bộ, xói lở với cường độ mạnh (hình 3.9), đe dọa đến tính
mạng người dân xung quanh. Còn vào mùa khô, các hoạt động khai thác và vận chuyển quặng
tại khu vực mỏ Đội Đội Chín làm phát sinh tiếng ồn và bụi gây ảnh hưởng đến sức khỏe người
dân xung quanh.

Hình 3.8. Mặt đất sau khi khai thác quặng bauxit

18


Hình 3.9. Tình trạng ngập úng và xói lở do khai thác quặng bauxit
Để khai thác quặng, công ty phải sử dụng đến các thiết bị cơ học như: xe ủi, xe múc, xe
tải…. Do đó, đất đá không có quặng sẽ bị nhiễm dầu nhớt do rò rỉ từ những động cơ, tuy nhiên
không đáng kể. Mặc khác, để khai thác bauxit, người dân xung quanh phải di dời đến nơi khác
để sinh sống, làm cho việc sử dụng đất đai trong lâm nghiệp, nông nghiệp trở nên khó khăn.
Ngoài ra, trong quá trình tuyển quặng còn thải ra môi trường lượng lớn BĐ. Trung bình cứ
2 tấn quặng nguyên khai thì thu hồi được 1 tấn quặng tinh và thải ra 1 tấn quặng đuôi, với
công suất khai thác trung bình 150.000 tấn quặng tinh/năm sẽ thu được 150.000 tấn BĐ/năm.
Do đó, phải tiêu tốn một diện tích đất mỏ để xây hồ chứa BĐ, giả sử hồ chứa này có độ sâu
trung bình 4m thì diện tích xây hồ chứa sẽ chiếm 50% tổng diện tích mỏ.
3.4. Các giải pháp phục hồi môi trường đất
3.4.1. Các giải pháp phục hồi môi trường đất tại khu vực mỏ bauxit Bảo Lộc, Lâm Đồng

Ở đây, BĐ được xử lý bằng cách để khô tự nhiên trong các hồ chứa nhân tạo, rồi chuyển
đến những vùng đã khai thác quặng xong để tiến hành trồng cây, phục hồi lại môi trường đất.
Hiện tại, mỏ bauxit Bảo Lộc đã tiến hành trồng thử nghiệm cây keo lai trên 15 ha đất có
BĐ ở mỏ Đồi Thắng Lợi. Đầu tiên, phủ 1 lớp đất thịt khoảng 0,3 – 0,5m lên trên lớp BĐ dày
khoảng 2 – 3m. Sau đó, trồng cây keo lai lên (hình 3.10). Kết quả sau hơn 1 năm, cây keo lai
phát triển khá tốt, độ cao cao trung bình khoảng 1,3 –1,7m.

19


Hình 3.10. Trồng thử nghiệm cây keo lai để phục hồi môi trường đất
Với giải pháp này, các vùng khai thác khác có thể được phủ xanh lại, giảm tình trạng ngập
úng và xói lở đất. Tuy nhiên, giải pháp này không phục hồi lại được cấu trúc địa chất của khu
vực khai thác, BĐ ở phía dưới có thể ít được cải thiện về chất lượng vì các hạt BĐ rất nhỏ nên
có kết cấu chặt, rễ cây keo lai khó có thể phát triển sâu vào. Mặc khác, cây keo lai mới chỉ
phát triển có 1 năm nên chưa thể đánh giá được kết quả chính xác.
3.4.2. Đề xuất giải pháp phục hồi môi trường đất tại mỏ bauxit Bảo Lộc, Lâm Đồng
Qua quá trình nghiên cứu, các giải pháp phục hồi môi trường đất ở Bảo Lộc vẫn còn tồn
tại một số hạn chế như: không phục hồi được cấu trúc địa chất, ít cải thiện được chất lượng
BĐ, vẫn còn đó tình trạng ngập úng và xói lở,…. Do đó tôi xin đề xuất một số giải pháp phục
hồi môi trường đất như sau:
3.4.2.1. Giải pháp khai thác bauxit và phục hồi môi trường theo kiểu cuốn chiếu
Phương pháp này gồm các bước như sau (hình 3.11):
Bước 1: Khi khai thác quặng, cạo lớp đất mùn cây để sang một bên, cạo lớp đất đá
không có quặng để sang một bên khác.
Bước 2: Sau khi lấy quặng, lấp lại những hố sau khi khai thác quặng bằng đất đá đã để
dành.
Bước 3: Phủ lớp đất đá đó bằng đất mùn cây đã để dành.
Bước 4: Trồng cây đã ươm trước hay giao đất cho nông dân muốn canh tác.
Bước 5: Nếu trồng lại rừng thì thả sinh vật muốn nuôi trong rừng mới này.

Bước 6: Giám sát địa thế trong vài năm và điều chỉnh nếu cần.

20


Hình 3.11. Mô hình hoàn thổ đất theo kiểu cuốn chiếu (nguồn: Đặng Đình Cung)
Mỏ bauxit của xí nghiệp Mineracao Rio del Norte đã áp dụng hiệu quả phương pháp cuốn
chiếu này tại khu mỏ lớn nhất thế giới ở vùng Rio del Norte, Brazil. Từ khi khởi đầu khai thác
mỏ năm 1997 đến năm 2002, xí nghiệp này đã trồng lại 17 km2 rừng. Để có thể đốn cây, mỗi
năm 700.000 cây đã được ươm trước thuộc 100 loại khác nhau trên diện tích này [13].
Với giải pháp này, sau khi khai thác quặng bauxit, cấu trúc địa chất của khu vực sẽ ít bị
biến đổi. Đất đá do bị đào bới nên xốp hơn, sẽ giữ nước được nhiều nước mưa hơn, điều tiết
sông ngòi tốt hơn nên làm giảm tình trạng ngập úng, rủi ro lũ lụt ở miền xuôi. Khi hoàn thổ
xong, vùng đất này có thể được sử dụng lại để trồng cây.Tuy nhiên, giải pháp này vẫn chưa xử
lý được BĐ.
3.4.2.2. Giải pháp trộn bùn đỏ với rác sinh học và trồng cỏ Vectiver để cải tạo

21


Mục đích chính của giải pháp này là xử lý, cải thiện chất lượng BĐ, đồng thời giảm tải cho
hồ chứa nhân tạo.
Giải pháp này gồm các bước như sau:
Bước 1: BĐ để khô hòa trộn với R.
Bước 2: Chuẩn bị cây giống để trồng.
Bước 3: Tiến hành trồng cỏ Vectiver trên đất BĐ đã hòa trộn.
Bước 4: Giám sát địa thế, sự sinh trưởng của cây trong vài năm và điều chỉnh nếu cần.
Với giải pháp này, tôi đã tiến hành trồng thử nghiệm cỏ Vetiver trên 2 loại mẫu đất thí
nghiệm: mẫu BĐ và mẫu BĐ pha trộn với R. Qua phân tích, hàm lượng các chỉ tiêu lý hóa
trong 2 mẫu đất trước thí nghiệm có kết quả như trong bảng 3.4.

Bảng 3.4. Hàm lượng các chỉ tiêu lí hóa của các mẫu đất thí nghiệm
Chỉ
tiêu

Công thức đất thí nghiệm

Đơn vị



BĐ + R

pHH20

6,70 ± 0,11

6,48 ± 0,72

Cd

3,32 ± 0,160

3,44 ± 0,225

ppm

Pb

21,68 ± 6,00


29,16 ± 2,74

ppm

Nts

0,067 ± 0,298.10-2

0,219 ± 0,114.10-2

%

Pts

0,0024 ± 0,03.10-2

0,125 ± 0,58. 10-2

%

K+

8,10 ± 0,17

32,4 ± 2,12

mg/100g

Qua bảng 3.4 cho thấy, pH của 2 mẫu đất thí nghiệm sau khi pha trộn đều trung tính. So
với QCVN 03:2008/BTNMT - Giới hạn cho phép của kim loại nặng trong đất nông nghiệp,

lâm nghiệp (≤ 2 ppm), 2 mẫu đất thí nghiệm trước khi trồng cỏ Vectiver đều có hàm lượng Cd
trung bình vượt tiêu chuẩn khoảng 1,66 – 1,72 lần. Với Pb, hàm lượng trung bình trong các
mẫu đất đều nằm trong giới hạn cho phép của QCVN 03:2008/BTNMT (≤ 50 ppm). Như vậy,
2 mẫu đất đã bị ô nhiễm kim loại Cd. So sánh với mẫu BĐ, hàm lượng các chất dinh dưỡng
Nts, Pts, K+ trong mẫu BĐ trộn với R đều cao hơn rất nhiều và thuộc dạng đất giàu chất dinh
dưỡng.
Sau 4 tháng trồng cây, cỏ Vetiver trên 2 mẫu đất thí nghiệm đều sinh trưởng và phát triển
tốt (hình 3.12). Sự biến thiên về chiều cao, khả năng phân nhánh của cỏ Vectiver trong 2 mẫu
đất thí nghiệm được thể hiện ở hình 3.13 và hình 3.14.

22


Cỏ Vetiver sau 90 ngày

Cỏ Vetiver sau 120 ngày

Hình 3.12. Sự sinh trưởng của cỏ Vectiver
90
80

Chiều cao (cm)

70
60
50



40


BĐ + R

30
20
10
0
0

30

60

90

120

Thời gian nghiên cứu (ngày)
Hình 3.13. Biến thiên chiều cao của cỏ Vectiver trên 2 mẫu đất thí nghiệm

23


25

Số lượng nhánh

20

15


BĐ + R
10

5

0
30

60

90

120

Thời gian nghiên cứu (ngày)

Hình 3.14. Biến thiên số nhánh của cỏ Vectiver trên 2 mẫu đất thí nghiệm
Qua hình 3.13, 3.14 cho thấy, chiều cao và khả năng phân nhánh của cỏ Vectiver trên 2
môi trường thí nghiệm đều tăng theo thời gian xử lý, nhưng cỏ Vectiver trong môi trường BĐ
trộn với R sinh trưởng và phát triển mạnh hơn mẫu BĐ.
Để biết được hiệu quả phục hồi môi trường BĐ, tôi đã tiến hành phân tích hàm lượng các
chỉ tiêu lý hóa của 2 môi trường đất sau thí nghiệm, kết quả được trình bày như trong bảng
3.5.
Bảng 3.5. Hàm lượng các chỉ tiêu lí hóa của các mẫu đất sau thí nghiệm
Công thức đất thí nghiệm
Đơn vị

Chỉ tiêu



BĐ + R

pHH20

6,36 ± 0,26

6,23 ± 0,52

Cd

1,464 ± 0,0035

1,956 ± 0,0098

ppm

Pb

16,84 ± 0,005

19,32 ± 0,0037

ppm

Nts

0,074 ± 0,015

0,157 ± 0,032


%

Pts

0,0027 ± 0,0004

0,087 ± 0,0079

%

K+

10,6 ± 1,84

23,05 ± 2, 57

mg/100g

24


Qua bảng 3.4, 3.5 cho thấy, pH của 2 mẫu đất ít biến đổi sau thời gian trồng cỏ Vectiver.
Hàm lượng KLN đã giảm đi rõ rệt (Cd giảm 2 lần, Pb giảm 1,7 lần) và so với QCVN
03:2008/BTNMT - Giới hạn cho phép của kim loại nặng trong đất nông nghiệp, lâm nghiệp, 2
mẫu đất sau thí nghiệm đều nằm trong giới hạn cho phép. Các chất dinh dưỡng trong mẫu BĐ
hòa trộn với R có giảm đi do cây sử dụng để sinh trưởng và phát triển. Còn mẫu đất BĐ có
hàm lượng các chất dinh dưỡng tăng nhưng không đáng kể.
Như vậy, với giải pháp này, ta vừa tận dụng được nguồn rác thải ở địa phương, vừa cải
thiện được chất lượng BĐ. Tuy nhiên phương pháp này không tránh khỏi những hạn chế như:

do hòa trộn BĐ với R nên có thể phát sinh nước rỉ rác gây ô nhiễm môi trường nước ngầm,
phải tiêu tốn thêm thời gian, chi phí. Do đó, việc pha trộn BĐ với R cần lưu ý tỉ lệ hòa trộn sao
cho thích hợp.

25


×