Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Lê Tri Kỷ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 121 trang )

1

nguyễn thị thu hằng

Bộ GIáO DụC Và ĐàO TạO
TRƯờNG ĐạI HọC SƯ PHạM Hà NộI 2

nguyễn thị thu hằng

lí luận văn học

thế giới nhân vật
trong truyện ngắn của lê tri kỷ

luận văn thạc sĩ ngôn ngữ và văn hóa việt nam
Khoá 2011 - 2013
Hà Nội, 2013


2

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Nhắc đến những thành tựu trong chặng đường phát triển của văn
xuôi Việt Nam sau năm 1945 đến nay, không thể không nhắc đến Lê Tri Kỷ
và những đóng góp đáng kể của ông đối với nền văn học nước nhà.
Là một trong những cây bút xây nền đắp móng cho phong trào sáng tác
văn học trong ngành Công an, suốt cuộc đời cầm bút Lê Tri Kỷ không bao giờ
tỏ ra chững lại về sự sáng tạo nghệ thuật. Trong các trang viết của mình, cây
bút ấy luôn tỏ rõ sự già dặn, từng trải và sâu đằm hơn, hấp dẫn hơn. Cùng với
xu thế chung của văn xuôi hiện nay, sáng tác của Lê Tri Kỷ đã bám sát đời


sống hiện thực ở nhiều mặt, quan tâm đến con người cá nhân trong cuộc sống
thường nhật. Ngay từ những sáng tác đầu tay của mình, ông đã tâm huyết và
thủy chung trọn đời văn của mình với mảng đề tài Vì an ninh Tổ quốc và bình
yên cuộc sống. Và chính ở mảng đề tài này, Lê Tri Kỷ đã đạt được những
thành công rực rỡ.
1.2. Tài năng của Lê Tri Kỷ được khẳng định qua thời gian và được kết
tinh rõ rệt qua số lượng sáng tác mà ông để lại cho đời. Sáng tác của ông có
nhiều thể loại khác nhau như: Tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện ký, kịch bản
sân khấu, kịch bản điện ảnh... Ở thể loại nào, nhà văn cũng tỏ rõ tài năng, thế
mạnh của mình trong việc khám phá hiện thực cuộc sống, con người. Song
truyện ngắn được coi là thể loại mạnh nhất của ông. Vì vậy, truyện ngắn của
Lê Tri Kỷ gây được sự chú ý của giới văn học và đông đảo bạn đọc.
1.3. Tác phẩm của Lê Tri Kỷ được khẳng định ngay sau khi ông qua
đời (1993), hai tập truyện ngắn của ông đã được tặng giải thưởng của Hội Nhà
văn Việt Nam. Đó là "Cuộc tình thế kỷ" - Giải A - 1994 và "Không thiện
không ác" - Giải A - 1995.


3
Là một nhà văn có nhiều đóng góp như vậy cho nền văn học hiện đại
Việt Nam nói chung và văn học trong lực lượng công an nói riêng, nhưng
chúng tôi nhận thấy cho đến nay hầu như chưa có một công trình nghiên cứu
nào đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống về truyện ngắn của Lê Tri Kỷ.
Thực tế đó gợi ý cho chúng tôi đi sâu nghiên cứu đề tài: "Thế giới nhân vật
trong truyện ngắn của Lê Tri Kỷ".
2. Lịch sử vấn đề
Là cây bút bước vào đời văn khá muộn màng khi đã ở ngoài độ tuổi 35
nhưng Lê Tri Kỷ được đánh giá là: "Nhà văn tiêu biểu nhất của ngành công
an nhân dân" (Xuân Thiều). Quả đúng như vậy, trong hành trình sáng tác của
mình, Lê Tri Kỷ đã có những đóng góp đáng ghi nhận đối với nền văn học

hiện đại Việt Nam. Những sáng tác của Lê Tri Kỷ đã thu hút được sự quan
tâm của khá nhiều các nhà văn, các nhà nghiên cứu phê bình và bạn đọc phổ
cập. Đã có rất nhiều ý kiến bàn luận về những sáng tác của Lê Tri Kỷ. Có
những bài viết chỉ dừng lại ở những ý kiến phác thảo hết sức khái quát và sơ
lược song cũng có bài đi vào phân tích một cách khá cụ thể, chi tiết những
nhận xét khá tinh tế và xác đáng một số truyện ngắn của Lê Tri Kỷ. Dưới đây,
chúng tôi xin tập trung điểm lại các ý kiến bàn luận về truyện ngắn của Lê Tri Kỷ.
Tiêu biểu là bài viết khá tâm huyết và thấu đáo của nhà văn Xuân Thiều
với nhan đề: "Lê Tri Kỷ - Nhà văn tiêu biểu nhất của ngành Công an nhân
dân" in trong cuốn Sáng tác về đề tài an ninh - trật tự lợi thế và chướng ngại
(1997) đã giới thiệu khá chi tiết, đầy đủ về các chức danh, nơi công tác và
hoạt động của nhà văn Lê Tri Kỷ. Đặc biệt, tác giả đã đạt được với hai tập
truyện ngắn: “Cuộc tình thế kỷ” và “Không thiện không ác” đều đạt giải A.
Trong bài viết, nhìn từ góc độ tiếp cận tính đặc thù của loại truyện vụ án,
truyện hình sự, Xuân Thiều đã phát hiện, khẳng định tài năng và những đặc


4

sắc trong truyện ngắn Lê Tri Kỷ: "Với 18 truyện chúng ta sẽ không thấy
nhưng pha ly kỳ, những vụ án phức tạp gợi trí tò mò, những cuộc săn đuổi thủ
phạm đầy gay cấn, lối viết truyện hình sự bình thường na ná thông tấn báo
chí mà nhà văn Lê Tri Kỷ tỏ ra cao tay hơn, cũng trên nền như thế, ông nói về
tình đời tình người" [9; tr.69]. Đồng thời, Xuân Thiều cũng khẳng định thành
công trong nghệ thuật xây dựng hình tượng người chiến sĩ công an "Lê Tri Kỷ
đã có công đem đến cho người đọc một hình tượng người chiến sĩ công an
chân thực, Chiến sĩ công an, trước hết là con người,cũng đau đớn, cũng buồn
cũng vui, giận hờn, yêu ghét như mọi người khiến ta cảm động và gần gũi".
[9; tr.70]. Ngoài ra, Xuân Thiều cũng chỉ rõ thành công về chủ đề cũng như
nghệ thuật xây dựng cốt truyện trong truyện ngắn Lê Tri Kỷ, nhà văn đã đặt

ra những vấn đề nhân sinh đạo lý con người; về cốt truyện của một số truyện
ngắn vừa phức tạp, vừa giản dị. Ông cũng khẳng định cái tài của Lê Tri Kỷ
trong việc sử dụng ngôn ngữ: "Truyện chỉ là cái cớ để chuyển tải những ý
tưởng đậm đà chất nhân văn, để làm lan tỏa những ý thơ" [9; tr.75]. Bên cạnh
đó là bài viết của Giáo sư Hoàng Như Mai với nhan đề: “Những điều suy nghĩ
về tác phẩm của nhà văn Lê Tri Kỷ” in trong cuốn “Kỉ yếu hội thảo nhân dịp
kỉ niệm 20 năm thành lập Nhà xuất bản Công an nhân dân”(2001), Nxb Công
an nhân dân.
Bên cạnh đó còn một số bài viết được đăng tải trên báo mạng điện tử
của Nhà xuất bản Công an nhân dân như: Phan Quế với bài: “Nhà văn Lê Tri
Kỷ - Một đời tài hoa và sâu sắc”, Nguồn: Http//www.Nxbcand.vn. Bài viết đã
thống kê khá chi tiết đầy đủ các tác phẩm của Lê Tri Kỷ ở các thể loại khác
nhau. Phan Quế cũng có những phát hiện khá tinh tế, sâu sắc về nghệ thuật tự
sự trong truyện ngắn của Lê Tri Kỷ: “Đọc văn của nhà văn Lê Tri Kỷ không
gặp ở đấy những đao to búa lớn, những mảnh mung ly kỳ hàng chợ, những


5

minh họa khuôn sáo. Rất ít những mẹo mực kiểu trinh thám, giật gân, càng
không có những trang hình sự kiểu tự nhiên chủ nghĩa”[62]. Phan Quế cũng
đi tìm hiểu một vài truyện ngắn đặc sắc của Lê Tri Kỷ như truyện Đêm Văn
Miếu, truyện Mụ Quới. Bài viết cũng đánh giá cao những đặc sắc trong văn
phong của nhà văn Lê Tri Kỷ:“Văn ông cẩn trọng, chừng mực, đượm chất
nho gia, có nét tây học và đôi chút hóm hỉnh dân gian giàu chất quê kiểng xứ
Quảng” [62].
Bài viết của Hà Hải Hưng: “Chê vẫn chưa giận”, đã đưa ra cảm nhận
về hình ảnh nhà văn Lê Tri Kỷ với tác phong tỉ mỉ, nhiệt tình, cẩn trọng, có
phần nghiêm khắc trong những lúc sửa bản thảo của mình hay sửa chữa bản
thảo cho tác giả khác. Bài viết đưa ra một ví dụ khá hóm hỉnh và hài hước của

Lê Tri Kỷ khi sửa bản thảo cho nhà văn Tôn Ái Nhân lúc mới vào nghề. Ông
từng viết vào trang bản thảo của Tôn Ái Nhân: “Nếu tôi có chết sớm hoặc tôi
bị tâm thần thì đó là phải đọc “Trinh sát nội thành” của văn hào Tôn Ái
Nhân” [22]. Đó là lời nói đùa vui hóm hỉnh cũng là lời nhắc nhở chân tình đề
nhà văn Tôn Ái Nhân trau dồi hơn nữa ngòi bút sáng tác của mình. Chính
những ý kiến, sự nghiêm khắc cẩn trọng trong văn chương của Lê Tri Kỷ đã
góp phần làm cho tác phẩm “Trinh sát nội thành” của Tôn Ái Nhân được độc
giả đón nhận nồng nhiệt. Quả đúng như Nam Cao đã chiêm nghiệm về cách
viết văn chương: sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng có thể chấp nhận được
nhưng sự cẩu thả trong văn chương là tối kỵ.
Bài viết của Dương Duy Ngữ: “Ước mong của nhà văn Lê Tri Kỷ” thì
đưa ra nhận định về sự kết hợp hài hòa giữa con người đời thường và con
người chiến sĩ trong hình tượng người chiến sĩ công an của truyện ngắn Lê
Tri Kỷ: “Ở thời điểm ấy, văn học chưa ai mô tả tâm trạng của người chiến sĩ
công an trước việc họ phải hành xử hay hơn ông. Không ở trong nghề không


6
viết được” [47]. Bài viết còn tái hiện hình ảnh giản dị, gần gũi của Lê Tri Kỷ
từ vóc dáng tới giọng điệu để rồi tác giả phải thốt lên: “Bản thân tôi có cảm
giác ông giống cha tôi, một ông đồ Bắc Hà, một túc nho uyên bác” [47]…
Bài viết của tác giả Nguyệt Hà: “Lê Tri Kỷ đắc địa trong nghiện ngã”,
cũng đưa ra những đánh giá khá sắc sảo về Lê Tri Kỷ. Với nhan đề đầy ý
nghĩa “Nhà văn Lê Tri Kỷ không được thưởng là không công bằng” đã cho
thấy phần nào sự cảm nhận về cái tài của Lê Tri Kỷ. Bài viết của Ma Văn
Kháng và nhà phê bình Tôn Phương Lan là những minh chứng cụ thể ghi
nhận những thành công trong văn chương của Lê Tri Kỷ. Ở phương diện nghệ
thuật miêu tả tâm lý nhân vật và tính chân thực của hình tượng người chiến sĩ
công an, Ma Văn Kháng đã khẳng định: “Nhân vật chiến sĩ công an của ông
là những con người có lý trí sáng suốt có tấm lòng nhân hậu, cũng như mọi

người, biết buồn, vui, yêu, ghét, cũng sống đủ các cung bậc tình cảm, các kiểu
kích của con người”; “Lê Tri Kỷ quan tâm đến thế giới bên trong của con
người, ông tập trung bút lực để miêu tả cái phần ẩn chìm trong tâm lý nhân
vật” [16]… Bên cạnh đó còn một số ý kiến có tính chất “tạt ngang” như ý
kiến của Nhà nghiên cứu Đinh Xuân Dũng, Bùi Việt Thắng và một số tác giả
khác.
Ngoài ra, phải kể đến bản luận văn thạc sỹ: “Phong cách truyện ngắn
Lê Tri Kỷ” của Phạm Thị Thái- Trường ĐHSP Hà Nội 2. Bản luận văn đã có
những phát hiện khá tinh tế, sâu sắc về phong cách truyện ngắn của Lê Tri Kỷ.
Từ cấu trúc, cốt truyện, đề tài, giọng điệu, nhân vật đến những thành công về
nghệ thuật tạo nên phong cách của nhà văn Lê Tri Kỷ.
Các bài viết này đã giúp người đọc hình dung ra hình ảnh người chiến
sĩ công an - nhà văn Lê Tri Kỷ rất gần gũi chân phương, rất yêu nghề cũng
như rất tâm huyết với nghiệp văn chương. Những tác phẩm của Lê Tri Kỷ có


7
sức cuốn hút mạnh mẽ bởi những vấn đề đặt ra mang tầm thời đại, nêu lên
quy luật muôn đời của văn chương nghệ thuật, chứa đựng trong đó tình người,
khát vọng lớn lao về một xã hội tốt đẹp.
Điểm qua những bài viết, các ý kiến, phê bình về văn chương Lê Tri Kỷ,
chúng tôi nhận thấy hầu như chưa có tác giả nào đặt vấn đề nghiên cứu một
cách có hệ thống thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Tri Kỷ. Bởi vậy, đây
là một hướng nghiên cứu còn để ngỏ chưa được chú ý tìm hiểu thích đáng.
Thực tế đó gợi ý cho chúng tôi đi sâu vào đề tài này. Trên cơ sở kế thừa, tiếp
thu ý kiến của những nhà nghiên cứu - những người thầy đi trước qua truyện
ngắn của Lê Tri Kỷ, chúng tôi mong muốn trình bày cảm nhận của mình về
thế giới nhân vật vô cùng đa dạng phong phú của Lê Tri Kỷ. Lẽ dĩ nhiên
chúng tôi vẫn coi những ý kiến, những bài viết này là những gợi mở vô cùng
quý báu, là cơ sở góp phần soi sáng cho người viết khi đi vào giải quyết đề tài

này. Từ đó, người viết hy vọng đóng góp một phần nhỏ trong quá trình tìm
hiểu, khám phá như một cách tiếp cận để hiểu về một cây bút trí tuệ - "con
chim đầu đàn" trong văn học của ngành Công an.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khảo sát truyện ngắn của Lê Tri Kỷ, luận văn nhằm tìm hiểu,
khám phá, khẳng định thế giới nhân vật phong phú trong truyện ngắn của Lê
Tri Kỷ; chỉ ra những nét độc đáo, đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng nhân vật.
Đồng thời qua đó khẳng định những đóng góp của Lê Tri Kỷ đối với mảng đề
tài Vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống nói riêng và văn học hiện đại
Việt Nam nói chung.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:
Trình bày những vấn đề lý thuyết về thế giới nhân vật.


8
Chỉ ra những đặc điểm nổi bật về thế giới nhân vật đa dạng, phong phú
và nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Lê Tri Kỷ. Từ đó
bước đầu khẳng định vị trí tiêu biểu nhất của Lê Tri Kỷ trong bức tranh văn
học về đề tài Vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống cũng như những đóng
góp đáng ghi nhận của ông đối với nền văn học hiện đại Việt Nam.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung tìm hiểu thế giới nhân vật trong những truyện ngắn
của Lê Tri Kỷ.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
- Thực hiện đề tài này, luận văn tập trung khảo sát, thống kê, phân tích
toàn bộ truyện ngắn của Lê Tri Kỷ được in trong các tập truyện: “Cuộc tình
thế kỷ” (1994), Nxb Công an nhân dân; “Không thiện không ác” (1988), Nxb
Công an nhân dân; “Tuyển tập truyện ngắn Lê Tri Kỷ”(1995), Nxb Công an

nhân dân.
- Vì nhiệm vụ của luận văn là tìm hiểu thế giới nhân vật trong truyện
ngắn Lê Tri Kỷ nên những tài liệu lý luận về thể loại truyện ngắn liên quan
đến đề tài cũng được khai thác, vận dụng.
- Trong quá trình khảo sát, chúng tôi sẽ chú ý mở rộng thêm một số tác
phẩm của các nhà văn cùng thời và các nhà văn ở thế hệ sau Lê Tri Kỷ cùng
viết về đề tài Vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống, để làm nổi bật thế
giới nhân vật trong truyện ngắn của Lê Tri Kỷ.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu, chúng tôi sử dụng đồng thời
các phương pháp sau:
- Phương pháp thống kê - phân loại: Khảo sát, thống kê toàn bộ hệ
thống nhân vật trong truyện ngắn của Lê Tri Kỷ, từ đó tiến hành phân loại
nhân vật theo những tiêu chí riêng.


9
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: Tiến hành phân tích cụ thể các
khía cạnh thuộc về vấn đề nhân vật trong truyện ngắn Lê Tri Kỷ. Từ đó, tổng
hợp lại rút ra những kết luận cần thiết theo yêu cầu của luận văn.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu: Tiến hành so sánh, đối chiếu giữa
các nhân vật trong truyện ngắn của Lê Tri Kỷ với nhân vật trong một số
truyện ngắn cùng viết về đề tài Vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống của
chính tác giả và một số tác giả khác cùng thời cùng viết về đề tài này để thấy
được những sáng tạo của Lê Tri Kỷ.
- Phương pháp loại hình: Vận dụng những kiến thức lý luận về thể loại
truyện ngắn làm tiền đề cho việc đi vào nghiên cứu các vấn đề cụ thể về thế
giới nhân vật trong truyện ngắn của Lê Tri Kỷ.
7. Đóng góp của luận văn
- Tìm hiểu thế giới nhân vật truyện ngắn Lê Tri Kỷ, chúng tôi mong

muốn bước đầu tìm ra những đặc sắc về thế giới nhân vật và nghệ thuật xây
dựng nhân vật trong truyện ngắn của Lê Tri Kỷ để bước đầu có một cái nhìn
tương đối hệ thống, toàn diện về một nhà văn từng được tôn vinh là: “Nhà
văn tiêu biểu nhất trong ngành Công an”(Xuân Thiều).
- Đánh giá những đóng góp khá quan trọng của Lê Tri Kỷ ở mảng đề tài
đặc biệt vừa có những “lợi thế” vừa có những “chướng ngại” không dễ vượt
qua, đề tài“Vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống” nói riêng và văn học
hiện đại Việt Nam nói chung. Thông qua đó góp phần khẳng định tài năng và
vị trí của Lê Tri Kỷ trong nền văn học hiện đại Việt Nam.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, phần nội dung
của luận văn được triển khai thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về nhân vật văn học và hành trình sáng
tác truyện ngắn của Lê Tri Kỷ
Chương 2: Quan niệm nghệ thuật về con người và các kiểu loại nhân
vật trong sáng tác của Lê Tri Kỷ
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Lê Tri Kỷ


10

NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÂN VẬT VĂN HỌC
VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC TRUYỆN NGẮN CỦA LÊ TRI KỶ
1.1. Quan niệm chung về nhân vật văn học
1.1.1. Khái niệm nhân vật văn học
Trong tác phẩm văn học, nhân vật đóng vai trò hết sức quan trọng.
Nhân vật là đối tượng trung tâm, là linh hồn của tác phẩm văn học. Qua nhân
vật, nhà văn bày tỏ quan điểm, tư tưởng nhận thức…trước cuộc đời và con

người, gửi gắm những tình cảm, suy tư, trải nghiệm của chính lòng mình, đời
mình. Đồng thời, thể hiện tài năng, cá tính, phong cách của mình.
* Về phương diện thuật ngữ
Thuật ngữ “nhân vật” xuất hiện từ rất sớm. Trong tiếng Hy Lạp cổ
“nhân vật” (đọc là persona) vốn mang ý nghĩa là “cái mặt nạ” một dụng cụ
biểu diễn của diễn viên trên sân khấu. Nhưng sau đó nó trở thành thuật ngữ để
chỉ nhân vật văn học.
Đôi khi nhân vật văn học còn được người ta gọi bằng các thuật ngữ
khác như“vai” (actor),“tính cách” (character). Tuy nhiên, các thuật ngữ này
có một nội hàm hẹp hơn so với “nhân vật”. Thuật ngữ “vai” chủ yếu nhấn
mạnh đến tính chất hành động của cá nhân, thích hợp với loại nhân vật hành
động. Còn thuật ngữ“tính cách” lại thiên về chỉ những nhân vật có tính cách.
Trong thực tế sáng tác, không phải nhân vật nào cũng hành động, đặc biệt là
những nhân vật thiên về suy tư và cũng không phải nhân vật nào cũng có tính
cách rõ rệt. Từ đó, có thể thấy các thuật ngữ “vai”, “tính cách” không bao
quát được hết những biểu hiện khác nhau của các loại nhân vật trong sáng tác
văn học.


11
Như vậy, “nhân vật” là thuật ngữ có nội hàm phong phú, đủ khả năng
bao quát những hiện tượng phổ biến của tác phẩm văn học ở mọi bình diện và
cấp độ.
* Khái niệm nhân vật văn học
Thực tế cho thấy, trong giới nghiên cứu phê bình văn học đã có rất
nhiều quan điểm khác nhau về nhân vật văn học .
Các tác giả “Từ điển văn học”(tập 2) định nghĩa: “Nhân vật là yếu tố
cơ bản nhất trong tác phẩm văn học, tâm điểm để bộc lộ chủ đề, tư tưởng chủ
đề và đến lượt mình nó lại được các yếu tố có tính chất hình thức của tác
phẩm tập trung khắc họa. Nhân vật, do đó là nơi tập trung giá trị tư tưởng –

nghệ thuật của tác phẩm văn học” [26; tr.86]. Với định nghĩa này, các nhà
biên soạn từ điển đã nhìn nhận nhân vật từ khía cạnh vai trò, chức năng của
nó đối với tác phẩm văn học và từ mối quan hệ của nó với các yếu tố hình
thức tác phẩm. Có thể coi đây là một định nghĩa tương đối toàn diện về nhân
vật văn học .
Trong cuốn “150 thuật ngữ văn học”, tác giả Lại Nguyên Ân đề xuất
một quan điểm khác. Ông xem xét nhân vật trong mối tương quan với cá tính
sáng tạo, phong cách nhà văn, trường phái văn học:
“Nhân vật văn học là một trong những khái niệm trung tâm để xem xét sáng
tác của một nhà văn, một khuynh hướng, trường phái hoặc dòng phong cách.
Nhân vật văn học là hình tượng nghệ thuật về con người, một trong những
dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của con người trong nghệ thuật. Bên cạnh con
người, nhân vật văn học có khi còn là các con vật, các loài cây, các sinh thể
hoang đường được gán cho những đặc điểm giống con người” [7; tr.241].
Như vậy, với quan niệm này, nhân vật văn học sẽ là một trong những
yếu tố tạo nên phong cách nhà văn và màu sắc riêng của một trường phái văn


12
học. Nhà nghiên cứu này còn chỉ ra những đối tượng tiềm tàng khả năng trở
thành nhân vật văn học.
Khái niệm “nhân vật văn học” còn được định nghĩa trong cuốn “Từ
điển thuật ngữ văn học” của tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi:
“Nhân vật văn học là con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm
văn học. Nhân vật văn học có thể có tên riêng (Tấm, Cám, Chị Dậu, Anh
Pha…), cũng có thể không có tên riêng (Thằng bán tơ …). Khái niệm nhân
vật văn học có khi được sử dụng như một ẩn dụ, không chỉ là một con người
cụ thể mà chỉ một hiện tượng văn học nổi bật nào đó trong tác phẩm… Nhân
vật văn học là một đơn vị đầy tính ước lệ, không thể đồng nhất nó với con
người có thật trong đời sống” [16; tr.235].

Quan điểm trên của nhóm tác giả cuốn “Từ điển thuật ngữ văn học” về
nhân vật văn học có phần thu hẹp hơn .
Ngoài ra, một số nhà nghiên cứu khác lại định nghĩa nhân vật dựa trên
tiêu chí chức năng phản ánh hiện thực của tác phẩm văn học. Nhân vật là
phương tiện để nhà văn tái hiện đời sống, mở rộng thế giới nghệ thuật cho tác
phẩm:
“Nói đến nhân vật là nói đến con người được miêu tả, thể hiện trong
tác phẩm bằng phương tiện văn học” [23; tr.277].
Như vậy, nhìn một cách tổng quát, các nhà nghiên cứu, nhà lý luận văn
học khi đưa ra những quan điểm, định nghĩa cụ thể về nhân vật văn học có
khá nhiều cách định nghĩa về nhân vật. Song tựu chung lại, các ý kiến cơ bản
gặp nhau trong sự khẳng định: Thứ nhất, đó phải là đối tượng mà văn học
miêu tả, thể hiện bằng phương tiện văn học. Thứ hai, đó là những con người
hoặc những con vật, sự vật, đồ vật, hiện tượng mang linh hồn con người, là
hình ảnh gần gũi của con người. Thứ ba, đó phải là đối tượng mang tính ước


13
lệ và có cách điệu so với đời sống hiện thực bởi nó đã được khúc xạ qua lăng
kính chủ quan của nhà văn. Nghiên cứu về tác phẩm văn chương cần phải tiếp
cận nhân vật để chỉ ra cái mới trong ngòi bút nhà văn và đưa ra kết luận về
những đóng góp riêng của nhà văn đó .
Những quan niệm về nhân vật văn học trên đây là những chỉ dẫn cho
chúng tôi trong quá trình tìm hiểu về nhân vật nói chung và nhân vật trong
truyện ngắn của Lê Tri Kỷ nói riêng .
1.1.2. Chức năng của nhân vật văn học
Trong tác phẩm văn học, nhân vật đóng vai trò là tâm điểm của sự thể
hiện đời sống. Nhân vật không chỉ là “tiêu điểm để bộc lộ chủ đề” mà còn là
nơi “tập trung giá trị nghệ thuật tư tưởng của tác phẩm”. Một tác phẩm không
thể thiếu vắng nhân vật. Khi nhân vật xuất hiện, cái gọi là “hiện thực cuộc

sống” không còn tồn tại như một khái niệm khô khan trừu tượng nữa mà trở
nên có hình khối rõ ràng, để từ đó người đọc tưởng tượng, khám phá, suy
ngẫm những vấn đề có ý nghĩa về cuộc đời. Nói như nhà văn Anh Đức thì sức
sống của nhà văn chính là ở việc xây dựng những nhân vật đặc sắc. Tất nhiên,
đó không phải là điều đơn giản.
Chức năng của nhân vật là khái quát những quy luật của cuộc sống con
người, thể hiện những hiểu biết, những ước ao và kỳ vọng về con người.
Nhân vật văn học là hình ảnh về con người. Trong vai trò của một “người thư
ký trung thành của thời đại” (Banzac), văn học trở thành một phương thức
khái quát, phản ánh và thể hiện cuộc sống - bằng những hình tượng nhân vật
cụ thể - vô cùng hữu hiệu. Do vậy, vai trò, chức năng quan trọng đầu tiên phải
kể đến của nhân vật văn học là phương tiện để nhà văn khái quát hiện thực.
Nhân vật chính là người dẫn dắt người đọc vào thế giới riêng của đời sống
trong một thời kỳ lịch sử nhất định.


14
Thứ nhất, nhân vật có chức năng của một chiếc chìa khóa, giúp nhà
văn mở cánh cửa bước vào hiện thực rộng lớn, tiếp cận những đề tài mới mẻ.
Sự phát triển của cốt truyện cũng như tình tiết truyện chính là sự xoay quanh
các nhân vật trong tác phẩm, qua đó tác giả gửi gắm những giá trị nội dung và
tư tưởng. Có thể khẳng định, nhân vật sẽ quyết định việc nhà văn đi sâu vào
vấn đề cốt lõi nào của đời sống và thế giới nghệ thuật mà nó tạo nên, vì thế
mà cũng có nét riêng phù hợp.
Thứ hai, nhân vật trong tác phẩm văn học được coi là phương tiện để
khái quát các loại tính cách xã hội. Với chức năng này, nhân vật chứng tỏ
được ưu thế vô song của mình trong việc phản ánh bản chất xã hội trong một
hiện tượng mang tính chất kết tinh là tính cách. Khi mang trong mình sự khái
quát tính cách nhất định, nhân vật vừa có nét riêng lại vừa có khả năng đại
diện cho một lớp người nào đó. Trong đời sống ta được tiếp xúc với nhiều

loại tính cách khác nhau. Đây là hiện tượng thú vị của thực tế khách quan, đòi
hỏi được văn học nghiên cứu và tìm hiểu. Mỗi nhân vật có phẩm chất riêng
nổi bật. Với nhân vật Grăngđê (trong tiểu thuyết Eugenie Grandet), H.de
Banlzac đã tạo ra một loại tính cách keo kiệt, bủn xỉn đặc trưng của giai cấp
tư sản (thời tích lũy tư bản ),…
Nhà văn Nga - Xôviết K.AFedin từng hình dung nhân vật giống như
“một công cụ” hữu hiệu giúp người viết nhận ra bản chất của đời sống và giúp
độc giả thấu hiểu những quy luật sâu xa đang ngầm chi phối mọi diễn biến
lịch sử. Quả vậy, nếu không có một nhân vật mang tính cách đa diện của thời
Âu hóa và có số phận may mắn lạ lùng của Xuân Tóc Đỏ thì làm sao Vũ
Trọng Phụng có thể thâu tóm thần tình đến vậy bản chất của xã hội (xã hội
thực dân nửa phong kiến) mà ông gọi là xã hội “chó đểu”. Bởi vậy, lý luận


15
văn học đã chỉ ra tính cách là sự khái quát bản chất xã hội - lịch sử, tâm lý con
người bằng hình thức con người cụ thể, là sự thể hiện các phẩm chất xã hội
của con người với tư cách là con người xã hội. Tính cách là điểm trung tâm
của các mối quan hệ giữa nội dung và hình thức.
Thứ ba, nhân vật văn học có chức năng biểu hiện quan niệm nghệ thuật
của nhà văn về thế giới và con người. Khi xây dựng nhân vật, nhà văn có mục
đích gắn liền nó với những vấn đề mà nhà văn muốn đề cập nó trong tác phẩm.
Do đó, bên cạnh việc xác định những tính cách của nhân vật trong tác phẩm,
cần nhận ra hiện thực và quan niệm của nhà văn mà nhân vật thể hiện.
Một chức năng khác của nhân vật trong tác phẩm là chức năng tạo nên
mối liên kết giữa các sự kiện trong tác phẩm và cốt truyện. Nhờ nhân vật mà
kết cấu của nhiều tác phẩm đạt được sự thống nhất, hoàn chỉnh, chặt chẽ và
nhiều tiềm năng biểu đạt của các phương tiện ngôn từ được phát lộ, để rồi tự
chúng trở thành những phương tiện nghệ thuật độc lập có thể được nghiên
cứu riêng như một đối tượng thẩm mỹ chuyên biệt.

Với vai trò, vị trí quan trọng như vậy, một lần nữa có thể khẳng định:
nhân vật là yếu tố không thể thiếu đối với tác phẩm văn chương. Hiểu được
đúng đắn chức năng của nhân vật văn học, người viết có thêm cơ sở lý luận để
nghiên cứu đề tài này.
1.1.3. Các tiêu chí phân loại nhân vật văn học
Nhân vật văn học là hiện tượng hết sức đa dạng. Những nhân vật được
xây dựng thành công là những sáng tạo độc đáo không lặp lại. Tuy nhiên, xét
về mặt nội dung, cấu trúc, chức năng có thể thấy những hiện tượng lặp đi lặp
lại tạo thành các loại nhân vật khác nhau. Để chiếm lĩnh thế giới nhân vật đa
dạng, có thể tiến hành phân loại dưới nhiều góc độ, theo nhiều tiêu chí khác nhau.


16

1.1.3.1. Phân loại theo tầm quan trọng và vai trò của nhân vật trong
tác phẩm (xét từ góc độ kết cấu)
Xét về vị trí và vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học có thể chia
thành: nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật trung tâm.
* Nhân vật chính
Nhân vật chính là nhân vật xuất hiện nhiều trong tác phẩm, tham gia
hầu hết các sự kiện chính được miêu tả, giữ vai trò then chốt trong việc thúc
đẩy sự phát triển của cốt truyện và là cơ sở quan trọng để nhà văn triển khai
đề tài trung tâm hay tư tưởng nghệ thuật cơ bản của mình.
Nhân vật chính thường được tập trung miêu tả, khắc họa tỉ mỉ từ ngoại
hình, nội tâm, quá trình phát triển tính cách. Trong tác phẩm, nhân vật chính
có thể có nhiều hoặc ít tùy theo dung lượng hiện thực và những vấn đề đặt ra
trong tác phẩm. Trong “Truyện Kiều” (Nguyễn Du) nhân vật chính là Thúy
Kiều, Kim Trọng, Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Thúc Sinh, Hoạn Thư,
Từ Hải, Hồ Tôn Hiến. Trong “Tắt Đèn”(Ngô Tất Tố ), nhân vật chính là Nghị
Quế, Chị Dậu. Ở những tác phẩm có nhiều tuyến cốt truyện hoặc có quy mô

sử thi đồ sộ, số lượng nhân vật có thể lên đến hàng chục, thậm chí hàng trăm.
Đó là trường hợp của những tác phẩm như: “Thủy Hử” (Thi Lại Am), “Tam
Quốc Diễn Nghĩa” (La Quán Trung ),…
* Nhân vật trung tâm
Trong một tác phẩm có nhiều nhân vật chính, nhân vật chính có vai trò
quan trọng hơn cả xuyên suốt toàn bộ tác phẩm được gọi là nhân vật trung
tâm. Ở một số tác phẩm, số lượng nhân vật trung tâm không phải chỉ có một
bởi do các nhân vật đều có vai trò tương đương nhau trong việc thể hiện
những xung đột cơ bản của tác phẩm. Chẳng hạn tác phẩm “Tam Quốc Diễn
Nghĩa” (La Quán Trung), các nhân vật: Tào Tháo, Lưu Bị, Quan Công,
Trương Phi, Gia Cát Lượng, Tôn Quyền đều là những nhân vật trung tâm.


17

* Nhân vật phụ
Trong tác phẩm văn học, hệ thống nhân vật ngoài nhân vật chính (bao
hàm trong đó cả nhân vật trung tâm) còn lại là nhân vật phụ. Nhân vật phụ giữ
vai trò thứ yếu so với nhân vật chính trong quá trình phát triển diễn biến của
cốt truyện, trong việc thể hiện chủ đề tác phẩm. Nhân vật phụ góp phần hỗ trợ
bổ sung cho nhân vật chính, không được làm mờ nhạt nhân vật chính. Có
nhiều nhân vật phụ vẫn được nhà văn miêu tả đậm nét, có cuộc đời và tính
cách riêng, cùng với những nhân vật khác trong tác phẩm tạo nên một bức
tranh đời sống sinh động và hoàn chỉnh (Thầy Thơ Lại trong “Chữ người tử
từ” của Nguyễn Tuân, Thị Nở trong “Chí Phèo” của Nam Cao )…
1.1.3.2. Phân loại theo quan hệ thuận- nghịch giữa nhân vật và lí tưởng
(xét từ góc độ nội dung tư tưởng hay phẩm chất nhân vật )
Có thể chia ra nhân vật chính diện (nhân vật tích cực) và nhân vật phản
diện (nhân vật tiêu cực).
* Nhân vật chính diện: là loại nhân vật mang trong mình những phẩm

chất tốt đẹp, có thể đại diện cho những giá trị tư tưởng, đạo đức thẩm mỹ mà
nhà văn cùng thời đại nhân vật đó hướng tới. Đó là những nhân vật Chị Út,
Chiến, Việt trong tác phẩm của Nguyễn Thi …
* Nhân vật phản diện: là nhân vật có phẩm chất ngược lại với nhân vật
chính diện. Nhân vật phản diện bị miêu tả trong tác phẩm với thái độ phê
phán. Đó là những nhân vật như Bá Kiến trong tác phẩm “Chí Phèo” của
Nam Cao, Nghị Quế trong “Tắt Đèn” của Ngô Tất Tố, Giave trong “Những
người khốn khổ”của V.Huygô… Nhân vật chính diện và nhân vật phản diện
là những phạm trù lịch sử. Việc miêu tả và đối lập chúng với nhau chỉ diễn ra
khi xã hội có đối kháng giai cấp và khi nhà văn đã xác định rõ lập trường chỉ
đứng về một phía nhất định của mình.


18
Trong quá trình phát triển của văn học, ở mỗi giai đoạn lịch sử khác
nhau, việc xây dựng các nhân vật chính diện và phản diện cũng khác nhau.
Nếu như trong thần thoại chưa có sự phân biệt rạch ròi giữa nhân vật chính
diện và nhân vật phản diện thì trong truyện cổ tích, các truyện thơ Nôm, các
nhân vật thường được xây dựng thành hai tuyến rõ rệt có tính chất đối kháng
quyết liệt. Ở đây, hễ là nhân vật chính diện thường tập trung vào những tính
chất tốt đẹp còn nhân vật phản diện thì hoàn toàn ngược lại. Trong các tác
phẩm văn học hiện đại nhiều khi khó phân biệt được đâu là nhân vật chính
diện, đâu là nhân vật phản diện. Vì vậy, sự phân biệt nhân vật chính diện và
nhân vật phản diện ở đây chỉ có tính chất tương đối.
1.1.3.3. Phân loại theo hình thức cấu trúc nhân vật
Ở tiêu chí phân loại này, theo gợi ý của E. M. Forster trong cuốn “Diện
mạo tiểu thuyết” (1927), có thể nói tới nhân vật dẹt, nhân vật tròn. Ngoài ra
còn có thể nhắc tới nhân vật tư tưởng, nhân vật tâm lý.
* Nhân vật dẹt
Là loại nhân vật không được khắc họa đầy đủ các mặt.

Trong các loại nhân vật dẹt, có thể nói tới: nhân vật chức năng (hay mặt
lạ), nhân vật loại hình (các thuật ngữ này do L.Ghinzburg đề xuất).
Nhân vật chức năng: Đây là loại nhân vật “được giao cho nhiệm vụ”
thực hiện một chức năng nhất định trong tác phẩm và phản ánh đời sống.
Nhân vật chức năng chủ yếu xuất hiện trong văn học cổ đại và trung đại (nhất
là cổ tích). Chẳng hạn, nhân vật Bụt trong các câu chuyện cổ tích có chức
năng ban hạnh phúc, đem lại nhiều may mắn cho người lương thiện, giúp họ
vượt qua những trở ngại của cuộc sống; nhân vật phù thủy có chức năng gieo
rắc những rủi ro, những điều xấu, ngăn trở cuộc sống của người lương thiện…
Các nhân vật của “Thạch Sanh”, “Tấm Cám”… đều là những nhân vật chức
năng.


19
Nhân vật chức năng không có đời sống nội tâm. Các phẩm chất, đặc
điểm nhân vật cố định không thay đổi từ đầu đến cuối, hành động gần như
theo những công thức đã vạch sẵn. Nhờ đặc điểm này mà các nhân vật chức
năng dễ dàng trở thành biểu trưng trong đời sống tinh thần và hình thức hóa
trong sáng tác. Khi phân tích các nhân vật này cần tìm hiểu vai trò và chức
năng mang nội dung xã hội thẩm mỹ của chúng.
Nhân vật chức năng không hoàn toàn mất bóng trong văn học các thời
đại sau này, chỉ có điều nó không tồn tại ở dạng thuần túy như trước.
Nhân vật loại hình: là loại nhân vật thể hiện tập trung các phẩm chất xã
hội, đạo đức của một loại người nhất định của một thời. Đó là nhân vật khái
quát chung về “loại” của các tính cách và nhờ vậy được gọi là điển hình.
Chẳng hạn như nhân vật Acpagông (Lão hà tiện của Môlie) đã thể hiện tập
trung cho thói keo kiệt, Ông Guốcđanh (Trưởng giả học làm sang của Môlie)
là hiện thân cho thói phù phiếm, hiếu danh của các gã tư sản muốn làm quý tộc.
Hạt nhân của loại nhân vật này là nét khu biệt về mặt tính cách xã hội
của một loại người nào đó. Đúng như Puskin nhận xét: “Ở Môlie người keo

kiệt thì keo kiệt, và chỉ có thế”. Nhân vật điển hình loại này luôn đòi hỏi một
cá tính nhất định được thực hiện qua một số chi tiết chân thực, sống động nào
đó chứ không phải là một khái niệm trừu tượng, điều đáng nói là khi đắp da,
đắp thịt cho tính cách, nhà văn không quên chủ đích của mình là làm sao gọi
cho đúng cái “thần” của “loại”. Nhân vật chị Út Tịch trong “Người mẹ cầm
súng” của Nguyễn Thi mang nhiều đặc điểm của nhân vật loại hình. Chị
chính là “khái niệm” về người phụ nữ Việt Nam “anh hùng, bất khuất, trung
hậu, đảm đang”. Tuy vậy, vẫn có những nét hấp dẫn nhất định của một cá tính.
* Nhân vật tròn
Là nhân vật được khắc họa trên nhiều bình diện, đưa tới cho độc giả
cảm tưởng “thực” về nhân vật.


20

Nhân vật tròn thực chất là nhân vật tính cách. Khi xây dựng nhân vật
tính cách, điều nhà văn chú ý trước hết là cá tính làm nên một nhân cách độc
lập. Cá tính đó luôn có mối liên hệ sống động với môi trường xung quanh.
Qua việc nhìn vào những mối liên hệ đó người ta nhận ra những quy luật tồn
tại của con người. Sức hấp dẫn của loại tính cách này nằm ở cá tính cùng cấu
trúc phức tạp của nó. Nhân vật tính cách thường đa diện, chứa đầy mâu thuẫn
và chính những mâu thuẫn ấy làm cho tính cách không tĩnh tại mà vận động
phát triển, đôi khi làm bất ngờ cả người sáng tạo ra nó.
* Nhân vật tư tưởng
Trong tác phẩm văn học, có những nhân vật mà hạt nhân cấu trúc của
nó không phải là cá tính, cũng không phải là các phẩm chất loại hình, mà là
một tư tưởng, một ý thức. Xây dựng loại nhân vật này, các nhà văn nhằm tới
việc phát biểu hoặc tuyên truyền cho một tư tưởng nào đó về đời sống. Ví dụ
như nhân vật “tôi” trong truyện ngắn “Bức tranh” của Nguyễn Minh Châu…
đều mang những nét cơ bản của nhân vật tư tưởng.

* Nhân vật tâm lý
Ở loại nhân vật này, nhà văn tập trung vào việc tái hiện “hiện thực tâm
lý”, vào những hành động bên trong chứ không phải hành động bên ngoài của
nhân vật. Nhiều khi hiện thực tâm lý đó không làm nên nhân vật mà còn làm
nên chính câu chuyện, làm nên những tác phẩm được gọi là “truyện không có
cốt truyện”. Từ đây, vô số các thủ pháp miêu tả được thể hiện, dẫn đến sự ra
đời của thủ pháp “dòng ý thức’. Loại nhân vật này xuất hiện nhiều trong văn
học hiện đại.
1.1.3.4. Phân loại nhân vật theo thể loại
Có thể phân thành: nhân vật tự sự, nhân vật kịch, nhân vật trữ tình.


21

* Nhân vật tự sự: là loại nhân vật xuất hiện trong các tác phẩm truyện.
Đó là những con người bình thường, hàng ngày được thể hiện một cách tập
trung và sống động trong tác phẩm. Đây là loại nhân vật hành động, có đời
sống nội tâm phong phú.
* Nhân vật trữ tình: là nhân vật nghiêng về cảm xúc, không có hành
động, ít được chú ý miêu tả về ngoại hình. Mọi tác động của môi trường sống
chỉ dẫn đến cảm xúc của nhân vật chứ không dẫn đến hành động.
* Nhân vật kịch: là loại nhân vật hành động, xuất hiện vào thời điểm
sóng gió nhất, trong vòng xoáy cuộc đời. Mọi tác động của môi trường sống
đều dẫn đến hành động của nhân vật.
Trên đây là các loại nhân vật thường gặp. Trong văn học còn có thể gặp
một số loại nhân vật khác nữa. Sự phân loại trên đây chỉ có tính chất tương
đối vì trong loại này còn có thể bao hàm một số yếu tố của loại kia và ngược
lại. Không có gì khó hiểu khi ta thấy một nhân vật cụ thể nào đó có mặt trong
nhiều “danh sách” khác nhau. Thực tế ấy đòi hỏi việc nghiên cứu nhân vật
phải tránh sự cứng nhắc, tuyệt đối hóa.

1.1.4. Vài nét về nhân vật truyện ngắn và nhân vật trong truyện ngắn
Việt Nam thời kỳ đổi mới
1.1.4.1. Vài nét về nhân vật truyện ngắn
Truyện ngắn là một thể loại văn học mà giờ đây khá quen thuộc với đời
sống của người yêu văn chương nghệ thuật. Nhưng có lẽ ít ai biết đến nó với
tư cách là một thể loại, một phương thức tự sự. Quan niệm về truyện ngắn đã
có rất nhiều ý kiến đưa ra nhằm hiện thực hóa cũng như giúp người tiếp nhận
hiểu đúng về nó.
Theo các nhà nghiên cứu phương tây thì truyện ngắn ra đời sau tiểu
thuyết, vào khoảng thế kỷ XIX. Khi nói đến đặc trưng của tiểu thuyết thì bao


22
hàm trong đó cả đặc trưng của truyện ngắn. Ở Việt Nam thể loại truyện ngắn
phải đến thế kỷ XX mới thực sự hình thành và phát triển mạnh mẽ đạt đỉnh
cao vào những năm 30 của thế kỷ này. Nhưng thật khó để đưa ra một định
nghĩa chính xác rõ ràng về truyện ngắn “Truyện ngắn là một khái niệm rất
khó xác định cả về phương diện nội dung và hình thức” [10; tr.51]. Hay trong
“Truyện ngắn Nam Phong” (trích), (1991), Nxb KHXH, Viện Văn học,
tr.20”) cũng nhận định: “Thật ra thì cho đến tận bây giờ cũng chưa có ai tìm
ra được một định nghĩa thật chuẩn về tiểu thuyết hay truyện ngắn” [10; tr.51]
“bởi truyện ngắn cũng như tiểu thuyết là một thể loại luôn chuyển biến” [10;
tr.51]. Nhưng để có cái nhìn toàn diện, rõ nét hơn cả chúng tôi xin đưa ra một
vài ý kiến, nhận định về truyện ngắn của một số tác giả tiêu biểu.
Nhóm tác giả trong cuốn “Từ điển thuật ngữ văn học” cho rằng truyện
ngắn là “thể loại thuộc phương thức tự sự, phương thức tái hiện đời sống, bên
cạnh hai phương thức là phương thức trữ tình và kịch được dùng để phân loại
tác phẩm văn học” [54; tr.358]. Truyện ngắn là: “Tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội
dung của thể loại truyện ngắn bao trùm hầu hết tất các phương diện của đời
sống: đời tư, thế sự hay sử thi nhưng cái độc đáo của truyện ngắn là ngắn

gọn. Truyện ngắn được viết ra để tiếp thu một mạch, đọc một hơi không
ngừng nghỉ” [54; tr.310]. Nhóm tác giả trong cuốn “Lí luận văn học” (tập 2)
do Trần Đình Sử (chủ biên), ĐHSP Hà Nội (2009) lại đưa ra cách giải thích
truyện ngắn theo ý nghĩa nguồn gốc của từ ngữ. Họ cho rằng “truyện” theo
gốc Hán, ban đầu có nghĩa là giải thích kinh nghĩa, sau là để chỉ bài văn xuôi
ghi chép sự tích một đời người nào đó (sách sử học). Sau này được mở rộng
ra có nghĩa là để chỉ tác phẩm văn học và là một bản kể có miêu tả nhân vật,
diễn biến sự kiện thú vị như truyện cổ tích, truyện thần thoại “Truyện ngắn:
tác phẩm tự sự văn xuôi cỡ nhỏ, sáng tác bằng hư cấu. Truyện ngắn sở dĩ là


23
do thể hiện cuộc sống qua lát cắt, khoảng khắc nhờ bố cục đặc biệt” [53;
tr.202]. Những tác giả gắn bó với sự nghiệp văn chương cũng đã rút ra những
quan niệm về truyện ngắn từ kinh nghiệm sáng tác như Tô Hoài ưa thích
truyện ngắn bởi coi nó là “thể loại có tính chiến đấu mạnh”, “truyện ngắn là
cách cưa lấy một khúc đời sống” [44; tr.7-8]. Nguyễn Công Hoan lại nhận
thấy “Truyện ngắn không phải là truyện mà là một vấn đề được xây dựng
bằng chi tiết với sự bố trí chặt chẽ và bằng thái độ với cách đặt câu dùng
tiếng có cân nhắc” [44; tr.14].
Khác với tiểu thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự
đầy đặn và toàn vẹn của nó, truyện ngắn thường chỉ hướng tới việc khắc họa
một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời
sống tâm hồn con người. Nhân vật truyện ngắn cũng mang những đặc điểm
chung của nhân vật trong tác phẩm tự sự. Bởi vậy, cũng giống như các tác
phẩm tự sự khác, nhân vật trong truyện ngắn có một vị trí, vai trò và ý nghĩa
đặc biệt quan trọng. Đó là hạt nhân của sự sáng tạo, là trọng điểm để nhà văn
lý giải tất cả mọi vấn đề của xã hội. Nhân vật trong truyện ngắn được xây
dựng theo những cách riêng nhằm đáp ứng đến mức cao nhất yêu cầu nhận
thức hiện thực theo cả chiều rộng và chiều sâu của thể loại này.

Trong cuốn: “Sổ tay truyện ngắn” do Vương Trí Nhàn sưu tầm và biên
soạn, các tác giả đã dành nhiều công sức để tìm hiểu về đặc trưng của truyện
ngắn trên nhiều bình diện, trong đó có nhân vật. Những nhận định của Bùi
Hiển, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Tuân, Nguyên Ngọc, Đặng Thai Mai…
đến các tác giả nước ngoài như Sêkhôp, A.Forangxo, Pautôpxki… về đặc
trưng của nhân vật truyện ngắn rất xác đáng, có giá trị lý luận cao. Tựu chung
lại thì các ý kiến đó đều nhấn mạnh truyện ngắn là thể loại tự sự cỡ nhỏ và
nhân vật truyện ngắn phải được phân biệt với nhân vật kịch, nhân vật sử thi,


24
nhân vật tiểu thuyết. Song đặc trưng của truyện ngắn luôn gắn liền với đặc
trưng của tiểu thuyết tập trung ở những đặc trưng cơ bản sau:
Đặc trưng của truyện ngắn đặt trong sự bao hàm của tiểu thuyết được
thể hiện qua nhiều phương diện. Truyện ngắn so với tiểu thuyết có khuôn khổ
ngắn hơn, nội dung các mặt đều đơn giản “Truyện ngắn là hình thức tự sự cỡ
nhỏ” [53; tr.199]; “truyện ngắn thường khắc họa một hiện tượng, phát hiện
một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn của con
người” [54; tr.371]. Cốt truyện thường đơn giản, không nhiều tầng tuyến,
nhiều lớp “cái chính của truyện ngắn là gây ấn tượng sâu đậm về cuộc đời và
tình người” [53; tr.200].
Truyện ngắn thường có ít nhân vật và cuộc đời của nhân vật cũng
thường chỉ được miêu tả như một khoảnh khắc, một mảnh nhỏ nhưng lại có ý
nghĩa trong cả cuộc đời nhân vật… Truyện ngắn thường chỉ “có thể kể về một
cuộc đời hay một đoạn đời, một sự kiện hay một“chốc lát”trong cuộc sống
nhân vật nhưng cái chính của truyện ngắn không phải ở hệ thống sự kiện mà
ở cái nhìn tự sự đối với cuộc đời” [53; tr.199]. Đặc điểm của nhân vật truyện
ngắn có đôi chút khác biệt so với truyện dài và tiểu thuyết, có khi chỉ là một
lát cắt, một mảnh đời “một khúc đời sống” (Tô Hoài), hay không phải ở hệ
thống sự kiện mà ở cái nhìn đời tư. Về số lượng và cách khai thác nhân vật ở

truyện ngắn chỉ đề cập đến một vài nhân vật cũng như một khía cạnh nhỏ
trong cuộc đời nhân vật: “Nếu như nhân vật chính của tiểu thuyết thường là
một thế giới thì nhân vật truyện ngắn là một mảnh đời nhỏ của thế giới”[53;
tr.200]. Nhân vật của truyện ngắn thường là hiện thân cho một trạng thái quan
hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người. Nhà văn thường
hướng tới khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất nào đó trong
quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn nhân vật. Trong truyện ngắn nếu nhà


25
văn đặt quá nhiều vấn đề , câu chuyện sẽ bị loãng. Tập trung vào sự kiện, tập
trung về chủ đề, về ấn tượng là yêu cầu đầu tiên của truyện ngắn.
Nhân vật truyện ngắn bao giờ cũng được đặt vào những tình huống nào
đấy. Từ tình huống ấy bật lên nét bản chất trong tính cách nhân vật hoặc bộc
lộ một tâm trạng. Từ việc bộc lộ tính cách hoặc tâm trạng nhân vật truyện
ngắn, nhà văn làm sáng lên một tư tưởng nào - đó là cách thể hiện tư tưởng
của truyện ngắn.
Nhân vật truyện ngắn thể hiện những thăng trầm đổi thay của thời đại.
Nhân vật truyện ngắn chủ yếu được khám phá từ chiều sâu tâm lý. Qua nhân
vật ta thấy được một cách tương đối đầy đủ các khía cạnh đa dạng và phức tạp
của cuộc sống, tâm tư, tình cảm con người.
Như vậy, có thể nói, với những đặc trưng thể loại riêng, truyện ngắn là
một phương thức tự sự khá nhạy cảm, linh hoạt và năng động trong việc nắm
bắt và thể hiện vấn đề của con người trong cuộc sống. Các nhà viết truyện
ngắn lớn xưa nay đều bộc lộ tài năng và phong cách của mình rõ rệt trong lĩnh
vực sáng tạo nhân vật. Thông qua nhân vật được khắc họa trong các tác phẩm
truyện ngắn, người đọc không chỉ thấy rõ bộ mặt của xã hội đương thời,
những chuyển biến của thời đại mà sâu sa hơn “đọc” được những vấn đề
muôn thuở của thân phận con người.
1.1.4.2. Nhân vật trong truyện ngắn Việt Nam thời kỳ đổi mới

Văn học là tấm áo khoác của thời đại, “thời đại nào văn học ấy” bởi văn
chương là tấm gương phản ánh hiện thực cuộc sống ở mỗi thời kì khác nhau.
Mỗi thời đại khác nhau sẽ có những quan niệm nghệ thuật khác nhau về con
người, do đó sẽ có quan niệm khác nhau về nhân vật cũng như cách thức xây
dựng nhân vật trong tác phẩm.
Sự phản ánh của văn học ở thể loại truyện ngắn trong thời kỳ đổi mới
thì khuynh hướng sử thi đã nhường chỗ cho cảm hứng thế sự. Với cái nhìn thế


×