Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Lựa chọn bài tập nâng cao hiệu quả giai đoạn tàn cuộc với thế cờ còn hai tượng cho nam đội tuyển cờ vua trường trung học phổ thông bắc đông quan thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (736.05 KB, 52 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT

VŨ THỊ HƢỜNG

LỰA CHỌN BÀI TẬP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ GIAI ĐOẠN TÀN CUỘC
VỚI THẾ CỜ CÒN HAI TƢỢNG CHO
NAM ĐỘI TUYỂN CỜ VUA TRƢỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
BẮC ĐÔNG QUAN - THÁI BÌNH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

HÀ NỘI - 2016


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT

VŨ THỊ HƢỜNG

LỰA CHỌN BÀI TẬP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ GIAI ĐOẠN TÀN CUỘC
VỚI THẾ CỜ CÒN HAI TƢỢNG CHO
NAM ĐỘI TUYỂN CỜ VUA TRƢỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
BẮCĐÔNG QUAN - THÁI BÌNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên Ngành: Sƣ phạm GDTC


Hƣớng dẫn khoa học

TS. HÀ MINH DỊU
HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tên tôi là: Vũ thị Hƣờng
Sinh viên lớp: K38A GDTC - Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2.
Tôi xin cam đoan đề tài “Lựa chọn bài tập nâng cao hiệu quả giai
đoạn tàn cuộc với thế cờ còn 2 tượng cho Nam đội tuyển cờ vua trường
THPT Bắc Đông Quan - Thái Bình” là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Đề tài không trùng với kết quả nghiên cứu của tác giả khác. Các kết quả
nghiên cứu này mang tính thời sự cấp thiết đúng thực tế khách quan của
trƣờng THPT Bắc Đông Quan - Thái Bình.

Hà Nội, ngày …..tháng…..năm 2016
Sinh viên

VŨ THỊ HƯỜNG


DANH MỤC VIẾT TẮT

ĐHSP

Đại học Sƣ phạm

GDTC


Giáo dục thể chất

HLV

Huấn luyện viên

NTN

Nhóm thực nghiệm

NXB

Nhà xuất bản

STN

Sau thực nghiệm

TDTT

Thể dục thể thao

TTN

Trƣớc thực nghiệm

THPT

Trung học phổ thông


TĐTL

Trình độ tập luyện


MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1.TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .......................... 5
1.1. Những vấn đề về đánh giá trình độ tập luyện của vận động viên .............. 5
1.1.1. Khái niệm trình độ tập luyện và các quan điểm nghiên cứu về trình độ
tập luyện trong thể dục thể thao........................................................................ 5
1.1.2. Khái niệm trình độ tập luyện của vận động viêncờ vua và các quan
điểm nghiên cứu về trình độ tập luyện của vận động viêncờ vua ................... 11
1.1.2.1. Khái niệm trình độ tập luyện của vận động viêncờ vua .................... 11
1.1.2.2. Đánh giá trình độ tập luyện của vận động viên cờ vua ..................... 12
1.2. Đặc điểm tâm - sinh lý lứa tuổi THPT .................................................... 15
1.2.1.Đặc điểm tâm lí của học sinh THPT. ..................................................... 15
1.2.2. Đặc điểm sinh lí của học sinh THPT. ................................................... 16
1.3. Đặc điểm hoạt động tập luyện và thi đấu môn cờ vua ............................. 17
1.3.1. Các phương pháp, phương tiện giảng dạy - huấn luyện trong môn cờ
vua. .................................................................................................................. 19
1.3.2 Cơ sở lý luận về quá trình hình thành kỹ năng kỹ xảo trong môn cờ vua.
......................................................................................................................... 22
1.4. Cơ sở lý luận về các tình huống (thế cờ) còn hai Tƣợng trong tàn cuộc . 23
CHƢƠNG 2. NHIỆM VỤ- PHƢƠNG PHÁP - TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU . 25
2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 25
2.2 Phƣơng pháp nghiên cứu........................................................................... 25
2.2.1.Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu.......................................... 25
2.2.2.Phương pháp phỏng vấn, tọa đàm. ........................................................ 25

2.2.3. Phương pháp quan sát sư phạm............................................................ 26
2.2.4. Phương pháp kiểm tra sư phạm ............................................................ 26


2.2.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm ..................................................... 26
2.2.6. Phương pháp toán thống kê .................................................................. 27
2.3. Tổ chức nghiên cứu .................................................................................. 28
2.3.1. Thời gian nghiên cứu: ........................................................................... 28
2.3.2. Đốitượng nghiên cứu ............................................................................ 28
2.3.3. Địa điểm nghiên cứu ............................................................................. 28
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ....................................................... 29
3.1. Nghiên cứu lựa chọn một số bài tập nhằm nâng cao hiệu quả giai đoạn
tàn cuộc với thế cờ còn hai tƣợng cho Nam đội tuyển cờ vua trƣờng THPT
Bắc Đông Quan - Thái Bình............................................................................ 29
3.1.1. Nghiên cứu lựa chọn test đánh giá nâng cao giai đoạn tàn cuộc với thế
cờ còn hai Tượng cho Nam đội tuyển cờ vua trường THPT Bắc Đông Quan Thái Bình ......................................................................................................... 33
3.2. Ứng dụng và đánh giá hiệu quả các bài tập đã lựa chọn trên đối tƣợng
nghiên cứu. ...................................................................................................... 35
3.2.1.Tổ chức thực nghiệm sư phạm ............................................................... 35
3.2.2 Kết quả và phân tích kết quả nghiên cứu ............................................... 36
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG BIỂU
BẢNG
Bảng 3.1

Nội dung

Kết quả phỏng vấn nâng cao hiệu quả giai đoạn tàn

Trang
31

cuộc với thế cờ còn 2 Tƣợng (n=30)
Bảng 3.2

Tính thông báo của các test trên đối tƣợng nghiên cứu

33

(n=20)
Bảng 3.3

Kết quả kiểm tra trƣớc thực nghiệm của 2 nhóm đối

36

chứng và nhóm thực nghiệm (𝑛𝐴 =𝑛𝐵 =10)
Bảng 3.4

Kết quả kiểm tra giữa thực nghiệm của 2 nhóm đối

37

chứng và nhóm thực nghiệm (𝑛𝐴 =𝑛𝐵 =10)
Bảng 3.5

Kết quả kiểm tra sau thực nghiệm của 2 nhóm đối

chứng và thực nghiệm(𝑛𝐴 =𝑛𝐵 =10)

38


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay, con ngƣời vừa là mục tiêu giáo dục vừa là động lực cho sự
phát triển kinh tế xã hội. Giáo dục đóng vai trò trung tâm trong chiến lƣợc
phát triển nguồn nhân lực, chiến lƣợc ấy đƣợc thể hiện trong các nghị quyết
của Đảng và nhà nƣớc, trong đó tiêu biểu nhất là nghị quyết 08/N/TW năm
2011 về tăng cƣờng sự lãnh đạo của đảng, tạo bƣớc phát triển mạnh mẽ về thể
dục, thể thao đến năm 2020[7].
Nghị quyết còn nêu rõ: “Mục tiêu tiếp tục hoàn thiện bộ máy tổ chức,
đổi mới quản lý, nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ thể dục, thể thao; tăng
cƣờng cơ sở vật chất, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, công nghệ làm nền tảng
phát triển mạnh mẽ và vững chắc sự nghiệp thể dục thể thao; đến năm 2020,
phấn đấu 90% học sinh, sinh viên đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân thể; các
trƣờng học, xã, phƣờng, thị trấn, khu công nghiệp có đủ cơ sở vật chất thể
dục, thể thao phục vụ việc tập luyện của nhân dân; trình độ một số môn thể
thao trọng điểm đƣợc nâng cao ngang tầm Châu Á và thế giới; bảo đảm các
điều kiện để sẵn sàng đăng cai tổ chức thành công các sự kiện thể thao lớn
của Châu á và thế giới”.
Trong những năm qua dƣới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nƣớc, bƣớc
đầu trên con đƣờng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đất nƣớc ta đã đạt đƣợc
những thành tựu quan trọng về kinh tế - chính trị - an ninh - xã hội. Sự phát
triển của đất nƣớc tạo ra thời cơ mới cho TDTT phát triển.
Cờ vua là một trong những môn thể thao có tiềm năng và triển vọng to
lớn của thể thao Việt Nam. Tuy cờ vua là môn thể thao mới đƣợc phát triển ở

nƣớc ta (đƣợc phát triển mạnh từ năm 1980, cũng trong năm này bộ giáo dục
và đào tạo đƣa cờ vua vào giảng dạy trong các trƣờng đại học) nhƣng cho đến
nay cờ vua đã trở thành một nhu cầu sinh hoạt thể thao và văn hóa của mọi
tầng lớp nhân dân và đặc biệt đối với tầng lớp thanh thiếu niên học sinh. Sở dĩ
có đƣợc sự phổ biến rộng rãi nhƣ thế là vì môn cờ vua với đặc trƣng hoạt


2

động trí tuệ nên ít đòi hỏi về các tố chất thể lực nhƣng lại có yêu cầu cao về ý
chí, tính thông minh, óc sáng tạo ở ngƣời chơi. Những phẩm chất đó lại vốn là
truyền thống hơn bốn nghìn năm xây dựng đất nƣớc và giữ vững của dân tộc
ta. Hiện nay ở nƣớc ta cờ vua có tốc độ phát triển khá nhanh cho đến nay ở
hầu hết các tỉnh ngành đã có phong trào cờ vua phát triển khá rộng rãi đặc biệt
là ở Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh, Thừa Thiên Huế, Hải Phòng, Quảng
Ninh….Có nhiều VĐV cờ vua đã mang lại nhiều vinh quang cho Tổ Quốc.
Chính vì vậy ngành TDTT đã xác định cờ vua là một trong những môn thể
thao mũi nhọn của ngành Thể thao nƣớc ta và đang đƣợc đầu tƣ quan tâm
phát triển.
Nói đến làng cờ vua Việt Nam không thể không nhắc đến các đại kiện
tƣớng nhƣ: Đào Thiên Hải đạt danh hiệu đại kiện tƣớng năm 1995 và đạt kiện
tƣớng đầu tiên ở Việt Nam (3lần vô địch giải quốc tế khu vực, huy chƣơng
bạc ASIAN, huy chƣơng vàng Seagames, 12 lần vô địch quốc gia), Từ Hoàng
Thông (2 lần đạt giải Á quân trẻ Châu Á năm 1991 và 1992, huy chƣơng vàng
Đông Nam Á năm 2011, huy chƣơng vàng và bạc Seagames năm 2003 và
2005, 4 lần vô địch quốc gia), Nguyễn Anh Dũng (huy chƣơng vàng giải vô
địch cờ vua U20 châu Á năm 1993, đạt 3 huy chƣơng vàng tại Seagames 2005
(Philippinnes) với các nội dung cờ chớp cá nhân nam, cờ nhanh đồng đội
nam, cờ tiêu chuẩn đồng đội nam, vô địch quốc gia năm1993, 1995, 1997,
2005, 2006, huy chƣơng vàng đại hội thể dục thể thao toàn quốc năm 1995)

đại kiện tƣớng Nguyễn Ngọc Trƣờng Sơn (huy chƣơng vàng giải Châu Á, vô
địch HD bank năm 2014...) đại kiện tƣớng Lê Quang Liêm (vô địch thế giới
và Châu Á nội dung cờ chớp 2013,Vô địch Aeroflot mở rộng 2010 và 2011,
vô địch HD Bank 2013, huy chƣơng vàng Seagames 2011)...mới đây có cô bé
Nguyễn Lê Cẩm Hiền 8 tuổi đã trở thành nhà vô địch thế giới lứa tuổi nữ nhỏ
tuổi nhất trong làng cờ vua Việt Nam khi mới giành chức vô địch cờ vua trẻ
thế giới 2015 tại TP Halkidik - Hy Lạp.


3

Mặc dù cờ vua Việt Nam đã thu đƣợc những kết quả to lớn nhƣ vậy
nhƣng thực tiễn công tác đào tạo tại các trƣờng ở nƣớc ta còn nhiều vấn đề
bất cập nhƣ: Còn hạn chế về tài liệu tham khảo, tài liệu giảng dạy; cơ sở
vật chất, quá trình tập luyện....và nhất là cần phải có những biện pháp thích
hợp làm tăng hiệu quả của quá trình giảng dạy, tập luyện cho đội tuyển cờ
vua. Trong đó cần đặc biệt chú trọng đến việc nâng cao hiệu quả giai đoạn tàn
cuộc với thế cờ hai Tƣợng cho nam đội tuyển cờ vua. Trong cờ vua, hai
Tƣợng có sức mạnh ghê gớm đặc biệt là trong những thế cờ và có sự giao
tranh ở cảhai cánh. Nhƣợc điểm lớn nhất của tƣợng là không kiểm soát đƣợc
các ô khác màu nên khi còn hai Tƣợng thì nhƣợc điểm này đƣợc khắc phục
đáng kể. Đành rằng khi đánh giá thế trận các nhân tố khác cũng quan trọng
không kém nhƣ vị trí vua, thế đứng của các quân cấu trúc tốt…Song cơ hội
vẫn thƣờng nghiêng về bên còn hai Tƣợng.
Trƣờng THPT Bắc Đông Quan - Thái Bình là trƣờng có phong trào
TDTT rất phát triển, nhà trƣờng rất chú trọng vào việc phát triển thể chất cho
học sinh giúp nâng cao thể chất cho các em. Nhà trƣờng luôn đạt thành tích
tốt trong các giải thể thao cho lứa tuổi học sinh nhƣ các giải Hội khỏe Phù
Đổng và cao hơn là các cuộc thi huyện, thi tỉnh về các môn điền kinh, cờ
vua...

Qua quan sát về tình hình tập luyện và thi đấu của các em trong đội tuyển cờ
vua trƣờng THPT Bắc Đông Quan - Thái Bình, chúng tôi nhận thấy kỹ năng
chơi trong các thế cờ còn hai Tƣợng còn hạn chế. Điều này xuất phát từ nhiều
nguyên nhân, song cơ bản là do việc đầu tƣ thời gian tập luyện của các em
chƣa đủ, việc sử dụng các bài tập còn đơn điệu và kém hiệu quả. Để nâng cao
việc hình thành kỹ năng chơi cho đội tuyển trƣờng THPT Bắc Đông Quan Thái Bình có nhiều hƣớng. Xuất phát từ lý do trên chúng tôi tiến hành nghiên
cứu đề tài:


4

“Nâng cao hiệu quả giai đoạn tàn cuộc với thế cờ còn hai Tượng cho
Nam đội tuyển cờ vua trường THPT Bắc Đông Quan - Thái Bình”.
Mục đích nghiên cứu của đề tài: Lựa chọn một số bài tập có hiệu quả
nhằm nâng cao hiệu quả giai đoạn tàn cuộc với thế cờ còn hai Tƣợng cho
Nam đội tuyển cờ vua trƣờng THPT Bắc Đông Quan - Thái Bình.
Giả thiết khoa học: Nếu lựa chọn đƣợc bài tập nhằm nâng cao hiệu
quả giai đoạn tàn cuộc với thế cờ còn hai Tƣợng phù hợp với đối tƣợng
nghiên cứu sẽ cho phép đánh giá đƣợc năng lực ngƣời chơi nói chung và kỹ
năng chơi tàn cuộc tƣợng nói riêng góp phần nâng cao thành tích trong tập
luyện và thi đấu.


5

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Những vấn đề về đánh giá trình độ tập luyện của vận động viên
1.1.1. Khái niệm trình độ tập luyện và các quan điểm nghiên cứu về trình
độ tập luyện trong thể dục thể thao

Trình độ tập luyện là một phức hợp gồm nhiều thành tố sinh học, tâm lí,
kỹ - chiến thuật, thể lực hợp thành, đƣợc hoàn thiện nhờ ảnh hƣởng của quá
trình tập luyện, thi đấu và các liệu pháp hỗ trợ ngoại sinh khác. Đánh giá trình
độ tập luyện là nhiệm vụ quan trọng trong huấn luyện thể thao để hỗ trợ cho
công tác huấn luyện, tuyển chọn của ngƣời huấn luyện viên. Để đánh giá đúng
về trình độ tập luyện cần có một tập thể cán bộ khoa học, bác sĩ, kỹ thuật viên,
xét nghiệm viên hỗ trợ cho ban huấn luyện và huấn luyện viên trƣởng.
Đánh giá trình độ tập luyện của vận động viên nói chung, một mặt cần
lƣu ý đến các chỉ số chịu sự tác động của di truyền nhƣ: phản xạ vận động,
sức mạnh bột phát, sức nhanh, lực cơ tƣơng đối, nhịp tim tối đa, lƣợng oxy
hấp thụ tối đa với trọng lƣợng cơ thể, hô hấp tế bào, các chỉ số chuyển hóa
yếm khí, mặt khác cần quan tâm đến một số các chỉ tiêu chịu ảnh hƣởng của
môi trƣờng của giáo dục, huấn luyện nhiều nhƣ lực cơ tuyệt đối, tần số động
tác. Khi đánh giá trình độ tập luyệncủa vận động viên cấp cao trong huấn
luyện, cần phải định lƣợng đƣợc những thành tố bên trong cơ thể, đó là các
chỉ tiêu y - sinh gồm hình thái, sinh lý, sinh hóa, sinh cơ, đồng thời xác định
những thành tố biểu hiện bên ngoài gồm các chỉ số sƣ phạm về thể lực chung,
thể lực chuyên môn, kỹ chiến thuật và những phẩm chất tâm lý của từng VĐV
vào những thời điểm sung mãn nhất tức là trƣớc khi thi đấu[21].
Tập luyện tăng cƣờng sức khỏe là quá trình tập luyện liên tục thể dục
thể thao hàng ngày, còn đối với VĐV thể dục thể thao là hệ thống các bài tập
chuyên môn, tuy nhiên mục đích và nhiệm vụ có khác nhau thì trình độ cũng


6

rất khác nhau. Đối với ngƣời tập luyện tăng cƣờng sức khỏe dựa vào năng lực
tập luyện để đánh giá, còn đối với VĐV phải xác định trình độ huấn luyện, để
định ra các kế hoạch huấn luyện khoa học hoặc các bài tập đặc hiệu. Đánh giá
trình độ tập luyện của vận động viên cần phải thông qua các chỉ tiêu về chức

năng sinh lý và các chỉ tiêu chuyên môn để đánh giá. Khi tiến hành thực
nghiệm phải phân tích đối chiếu các chỉ tiêu biến đổi sinh lý ở hai trạng thái
yên tĩnh và chịu lƣợng vận động. Trình độ tập luyện là một trạng thái động
luôn luôn phát triển tuân theo các quy luật phát triển thành tích thể thao cũng
nhƣ đặc điểm giới tính, độ tuổi và môn thể thao chuyên sâu[11].
Chỉ số cơ bản của trình độ tập luyện đó là thành tích thể thao của vận
động viên đạt đƣợc sau nhiều năm tập luyện một cách khoa học, bền bỉ và
công phu. Hơn nữa thành tích thể thao chỉ đạt đƣợc trong một giai đoạn ngắn
(trạng thái sung sức thể thao) trong mỗi chu kỳ tập luyện. Thành tích thể thao
luôn là hiện tƣợng đa nhân tố và phụ thuộc vào nhiều nguyên nhân. Trong
những điều kiện nhƣ nhau, thành tích thể thao của mỗi cá thể phụ thuộc vào
năng khiếu và mức độ đào tạo vận động viên. Năng khiếu của vận động viên
là tiền định, còn trình độ đào tạo thì luôn thay đổi nhờ kết quả của tập luyện.
Khái niệm trình độ tập luyện và thành tích thể thao không đồng nhất. Khái
niệm hay định nghĩa về trình độ tập luyện trong các tài liệu hiện đại có những
cách thể hiện và cách nhìn còn khác nhau.
Nhƣ vậy, trong khái niệm này không đề cập đến một trong những yếu
tố cơ bản của trình độ tập luyện đó là thành tích thể thao. Theo quan điểm của
nhiều tác giả điểm quan trọng nhất của trình độ tập luyện là mức độ thích ứng
của cơ thể đối với một nhiệm vụ cụ thể đạt đƣợc bằng con đƣờng tập luyện.
Theo quan điểm của Dietrich Harre thì trình độ tập luyện của vận động viên
thể hiện ở sự nâng cao năng lực thể thao nhờ ảnh hƣởng của lƣợng vận động
tập luyện, lƣợng vận động thi đấu và các biện pháp bổ trợ khác. Các yếu tố
của năng lực thể thao bao gồm các năng lực thể chất, năng lực phối hợp vận


7

động, năng lực trí tuệ, kỹ xảo kỹ thuật, năng lực chiến thuật và các phẩm chất
tâm lý. Thông qua lƣợng vận động tập luyện, lƣợng vận động thi đấu, lƣợng

vận động tâm lý, trình độ từng yếu tố của năng lực vận động một mặt đƣợc
nâng cao, mặt khác giữa chúng cũng hình thành các mối quan hệ bền vững.
Bên cạnh đó, việc phát huy đầy đủ các tiềm năng thể chất của vận động viên
thông qua sự nỗ lực ý chí ở mức độ cao nhất cũng có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Năng lực thể thao cao nhất mà VĐV đạt đƣợc trong từng thời kỳ thi
đấu phù hợp với trình độ tập luyện của họ đƣợc gọi là trạng thái sung sức thể
thao. Cũng theo Dietrich Harre, các thông tin về trình độ tập luyện và dự báo
tiềm năng của vận động viên, đó là tiêu chuẩn về trình độ của thành tích; tiêu
chuẩn về nhịp độ phát triển của thành tích; tiêu chuẩn về sự ổn định thành tích
và khả năng tăng trƣởng; tiêu chuẩnvề khả năng chịu đựng lƣợng vận
động.Bốn tiêu chuẩn trên thể hiện 4 mặt khác nhau của việc đánh giá tổng
hợp năng lực thể thao.
Philin V.P[22]đã đề cập đến việc nghiên cứu trình độ tập luyện một
cách sâu rộng thông qua việc mô hình hoá các mặt khác nhau của thành tích
thể thao, các chỉ số của mô hình đƣợc soạn thảo đối với cả những VĐV trẻ
(cụ thể hoá tiêu chuẩn một số môn thể thao) đã cho phép xác định đúng đắn
hơn phƣơng pháp giảng dạy huấn luyện, nâng cao hiệu quả của công tác tuyển
chọn và đào tạo trong các trƣờng thể thao thiếu niên và nhi đồng.Trong tác
phẩm của mình ông còn trình bày 10 nguyên tắc có tính chất chỉ đạo trong
việc tiến hành kiểm tra tổng hợp sƣ phạm và y sinh đối với việc đánh giá trình
độ tập luyện cho VĐV trẻ.
Theo quan điểm của Aulic I.V trong tác phẩm “Đánh giá trình độ tập
luyện thể thao”thì đánh giá trình độ tập luyện không phải là mục đích tự thân,
là nhiệm vụ hàng thứ hai. Nó nhƣ là một phƣơng tiện kiểm tra cần phải có để
phục vụ cho các vấn đề chính đó là phƣơng pháp tập luyện, tạo điều kiện đạt
đƣợc những thành tích thể thao cao. Tuy nhiên khi phân tích khái niệm trình


8


độ tập luyện ông cho rằng có một yếu tố cơ bản của trình độ tập luyện không
đƣợc Novicov và Metveev nói tới, đó là thành tích thể thao, vì thế ông coi
„„trình độ tập luyện là năng lực tiềm tàng của vận động viên, để đạt đƣợc
thành tích nhất định trong môn thể thao lựa chọn và năng lực này đƣợc biểu
hiện cụ thể về mức độ chuẩn bị về kỹ thuật, chiến thuật, thể lực, đạo đức, ý trí
và trí tuệ. Trình độ tập luyện càng cao thì VĐV càng có thể làm trọn đƣợc
một nhiệm vụ nhất định với hiệu quả mỹ mãn hơn”.
Theo lý luận đƣợc phổ biến rộng rãi, ngƣời ta phân biệt trình độ tập
luyện chung và trình độ tập luyện chuyên môn[16]. Các chỉ số về trình độ tập
luyện chung của vận động viên có thể biểu thị một cách độc lập với hình thức
hoạt động của nó. Để thực hiện điều này, ngƣời ta chủ yếu phân tích kết quả
thử nghiệm, gọi là các thử nghiệm chức năng, chúng phản ánh trạng thái của
hệ thần kinh - cơ, tuần hoàn - hô hấp, nội tiết... các chỉ số này của vận động
viên các môn thể thao khác nhau thì khác nhau. Ví dụ nhƣ những chỉ số về
trình độ tập luyện chung của các VĐV cử tạ và VĐV thể dục có cùng đẳng
cấp thƣờng bị đánh giá thấp hơn so với những chỉ số ấy của các VĐV chạy cự
ly dài hay đua xe đạp. Song sự đánh giá nhƣ vậy không hoàn toàn khách
quan, đặc biệt là trong những trƣờng hợp họ là những ngƣời đạt kỷ lục mới
hay nhà vô địch.
Theo ý kiến của nhiều chuyên gia, có thể tránh đƣợc những mâu thuẫn
này nếu không dùng khái niệm trình độ tập luyện chung. Thật vậy khi so sánh
VĐV ở các môn thể thao khác nhau nhƣ chạy cự ly dài và cử tạ có thể tìm
đƣợc ở họ những điểm chung về thể hình và các tố chất thể lực, về mức độ
hoạt động chức năng của hệ thực vật. Do đó thay cho thuật ngữ “trình độ tập
luyện chung” đúng hơn là dùng thuật ngữ “trình độ thể lực” hay “năng lực
hoạt động thể lực”. “Trình độ thể lực biểu thị tình trạng chức năng của cơ thể
và đặc biệt nó biểu hiện ở các tố chất thể lực: sức nhanh, sức mạnh, sức bền,
khéo léo và mềm dẻo đồng thời còn thể hiện ở sự phối hợp thần kinh cơ” [11].



9

Hoạt động thể lực của vận động viên, cụ thể là việc thực hiện một bài tập nhất
định, làm cho cơ thể thích ứng một cách trực tiếp với đặc điểm của lƣợng vận
động đã cho. Một số môn thể thao ảnh hƣởng đặc biệt đến mức độ phát triển
thể lực của con ngƣời, một số môn khác lại mở rộng khả năng của hệ thống
tim - mạch và hô hấp, một số môn khác nữa lại phát triển các năng lực tâm lý
nhiều hơn. Do vậy khái niệm “trình độ tập luyện chuyên môn” cũng không
nên dùng vì trình độ tập luyện bao giờ cũng là trình độ tập luyện chuyên môn.
Vì vậy, theo I.V Aulic thì chỉ nên dùng “trình độ thể lực”mà không nói “trình
độ tập luyện chung”và dùng “trình độ tập luyện”mà không nói “trình độ tập
luyện chuyên môn”.
Giữa trình độ thể lực và trình độ tập luyện có mối liên hệ với nhau,trình
độ tập luyện cao luôn thể hiện năng lực hoạt động cao và ngƣợc lại. Điều đó
phụ thuộc vào hình thức hoạt động thể lực, tức là phụ thuộc vào môn thể thao.
Về trạng thái của hệ vận động, oxy đƣợc coi là chỉ số cơ bản của năng lực
hoạt động. Trạng thái đó đƣợc đặc trƣng bởi mức tiêu thụ oxy tối đa (V02
max).
Ở những môn thể thao có chu kỳ mà sức bền là tố chất trội nhất, thì
thành tích của vận động viên phụ thuộc trực tiếp vào khả năng tiêu thụ oxy
của cơ thể. Ở đây “trình độ tập luyện” phụ thuộc vào trình độ thể lực. Trong
trƣờng hợp này khái niệm “trình độ tập luyện” và “trình độ thể lực” hầu nhƣ
trùng nhau. Còn trong môn bóng chuyền hay môn thể dục dụng cụ mà ở đây
thành tích của vận động viên về cơ bản là do hoàn thiện kỹ thuật và do sự
phối hợp các động tác, thì ý nghĩa của hệ vận chuyển oxy không lớn và những
chỉ số thông thƣờng của trình độ thể lực không cho khái niệm đầy đủ về trình
độ tập luyện của vận động viên.
Môn cờ vua lại có đặc thù khác so với các môn thể thao khác, lƣợng
vận động trong cờ vua chủ yếu là lƣợng vận động có xu hƣớng tâm lý, đây là
môn thể thao ít đòi hỏi cao về thể lực vì vậy đánh giá trình độ tập luyện vận



10

động viên cờ vua cần quan tâm đến vấn đề tâm lý và khả năng chuyên môn,
vấn đề trình độ thể lực cần xem xét đến nhƣng không phải là chính yếu.
Theo Philin V.P (1996) [22]: “Trình độ tập luyện của vận động viên là
khả năng thích ứng của vận động viên trong hoạt động nhờ hoàn thiện sự điều
khiển và phối hợp hoạt động giữa các hệ thống chức năng trên cơ sở những
biến đổi sâu sắc về cấu tạo chức phận trong cơ thể” và trong lý luận cũng nhƣ
trong đào tạo vận động viên ngƣời ta còn thƣờng gặp các khái niệm nhƣ
“trình độ đào tạo” và “trình độ tập luyện”. Nói đến trình độ đào tạo là nhằm
chỉ tất cả các mặt đào tạo để làm cho VĐV có thể đạt đƣợc những thành tích
thể thao kế tiếp nhau. Trình độ đào tạo bao gồm trình độ đào tạo về thể lực,
kỹ thuật, chiến thuật thể thao, tâm lý và cả lý luận nhất định của vận động
viên. Trình độ đào tạo thể lực còn gọi là trình độ thể lực. Trình độ thể lực về
mức độ phát triển về sức mạnh, sức nhanh, sức bền, mềm dẻo và các tố chất
khác của vận động viên. Trình độ đào tạo kỹ thuật và chiến thuật thể thao là
trình độ điêu luyện về những mặt đó của vận động viên. Trình độ đào tạo tâm
lý là sự vững vàng, nhạy bén về tinh thần và ý thức đáp ứng yêu cầu đạt thành
tích thể thao[16].
Khái niệm trình độ thể lực, chủ yếu nói tới những biến đổi thích nghi
về mặt sinh học (hình thái và chức năng) diễn ra trong cơ thể VĐV dƣới tác
động của tập luyện và biểu hiện ở năng lực hoạt động cao hoặc thấp.
Theo quan điểm của GSTS Lê Văn Lẫm:“Trình độ tập luyện của vận động
viên đó là kết quả tổng hợp của việc giải quyết các nhiệm vụ trong thực tiễn
huấn luyện thể thao”. “Trình độ tập luyện thể hiện ở mức độ năng lực hoạt
động chung và chuyên môn của vận động viên ở mức hoàn thiện các kỹ năng
và kỹ xảo thể thao phù hợp”.
Theo Đặng Văn Dũng: “Trình độ tập luyện của vận động viên là khả

năng thích ứng ngày càng cao của vận động viên đạt đƣợc trong quá trình tập
luyện và thi đấu. Khả năng thích ứng này đƣợc biểu hiện bằng sự phát triển


11

tổng hợp những năng lực về kỹ thuật, chiến thuật, tố chất thể lực và tâm
lý”[3].
Theo các quan điểm nêu trên, có thể thấy rằng trình độ tập luyện của
vận động viên đã đƣợc các nhà khoa học nhìn nhận theo những quan điểm
chính sau: Trình độ tập luyện bao gồm nhiều mặt, nhiều thành phần và chịu
sự ảnh hƣởng của lƣợng vận động. Trình độ tập luyện chủ yếu là những biến
đổi thích nghi về hình thái và chức năng diễn ra trong cơ thể dƣới tác động
của tập luyện. Yếu tố cơ bản của trình độ tập luyện là thành tích thể thao đƣợc
nâng cao thông qua quá trình đào tạo, huấn luyện. Theo khái niệm về cấu trúc
nhiều thành phần thì thành tích thể thao đƣợc xác định bằng cả một loạt các
yếu tố và có thể ghép chúng vào một số nhóm. Chính vì vậy có thể nghiên
cứu trình độ tập luyện theo nhiều khía cạnh khác nhau: sƣ phạm, y học, tâm lý
học và xã hội học. Nhìn chung, các quan điểm nghiên cứu về vấn đề đánh giá
trình độ tập luyện trong thể dục thể thao rất phong phú, đa dạng và đƣợc nhìn
nhận dƣới nhiều góc độ khác nhau.
Các quan điểm nghiên cứu về vấn đề đánh giá trình độ tập luyện trong
thể dục thể thao rất phong phú, đa dạng và đƣợc nhìn nhận dƣới góc độ khác
nhau. Qua việc phân tích quan điểm của một số tác giả và qua kinh nghiệm
đúc rút từ thực tiễn nghiên cứu,theo quan điểm của chúng tôi: “Trình độ tập
luyện là mức độ thích nghi của cơ thể với một hoạt động cụ thể nào đó đạt
được bằng hoạt động tập luyện đặc biệt, trình độ tập luyện liên quan đến
những biến đổi về cấu tạo và chức năng trong cơ thể dưới tác động tích cực
của lượng vận động tập luyện”.
1.1.2. Khái niệm trình độ tập luyện của vận động viêncờ vua và các quan

điểm nghiên cứu về trình độ tập luyện của vận động viêncờ vua
1.1.2.1. Khái niệm trình độ tập luyện của vận động viêncờ vua
Cờ vua là một môn thể thao, nếu căn cứ theo sự phân loại chung thì nó
đƣợc xếp vào nhóm các môn thể thao trừu tƣợng, ở đây việc chiến thắng đối


12

thủ đƣợc thực hiện không đòi hỏi sự hoạt động cơ bắp mạnh mẽ, không thông
qua những hoạt động vận động tích cực của VĐV mà bằng con đƣờng logic trừu tƣợng. Có thể gọi cờ vua theo một cách hình tƣợng là môn thể thao “bất
động”. Bởi vì, trong suốt quá trình hoạt động sáng tạo, thi đấu, VĐV cờ vua
dùng phần lớn thời gian ngồi sau bàn cờ. Với đặc điểm cờ vua là môn thể thao
“trí lực”, lƣợng vận động trong cờ vua là lƣợng vận động tâm lý, tác động
trực tiếp vào quá trình tƣ duy của ngƣời tập, đặc trƣng này có ảnh hƣởng trực
tiếp đến công tác huấn luyện VĐV cờ vua, nó đƣợc phân biệt với các môn thể
thao khác ở chỗ, chuẩn bị chuyên môn luôn chiếm vị trí trọng tâm, còn việc
chuẩn bị thể lực chỉ giải quyết nhiệm vụ mang đặc tính chung là phát triển sức
bền chung và chuyên môn, đây là một đặc điểm quan trọng cần phải chú ý
trong môn thể thao này.
Khái niệm trình độ tập luyện của vận động viên cờ vua: Trình độ tập
luyện của vận động viên cờ vua là khả năng thích ứng ngày càng cao của vận
động viên đạt đƣợc trong quá trình tập luyện và thi đấu. Khả năng thích ứng
này đƣợc biểu hiện bằng sự phát triển tổng hợp những năng lực tƣ duy chuyên
biệt và thành tích thi đấu trong mỗi ván đấu, giải thi đấu cờ vua.
1.1.2.2. Đánh giá trình độ tập luyện của vận động viên cờ vua
Việc đánh giá trình độ tập luyện của vận động viên cờ vua là một trong
những công việc cần phải tiến hành trong quá trình đào tạo vận động viên cờ
vua, nghĩa là phải tìm ra những khả năng cá nhân liên quan đến trình độ thể
thao của vận động viên cờ vua. Trong công việc huấn luyện thƣờng xuyên của
những HLV cờ vua, việc tìm kiếm các đặc điểm cá nhân về cơ bản là dựa vào

việc phân tích kết quả thi đấu ở các giải cũng nhƣ kinh nghiệm dự báo ở các
lĩnh vực hoạt động của con ngƣời, trong đó có cả ở các môn thể thao khác.
Việc dự báo trình độ VĐV cờ vua đòi hỏi sự phân tích toàn bộ hoạt động
thuộc lĩnh vực chuyên môn - nghề nghiệp, đánh giá đúng những thử nghiệm kiểm tra mà ngƣời học phải thực hiện, ngƣời ta thƣờng gọi đó là đánh giá các


13

phƣơng pháp dự báo. Để đánh giá TĐTL vận động viên cờ vua, cần sử dụng
các phƣơng pháp kiểm tra sƣ phạm và y sinh.
Kiểm tra sƣ phạm là cơ sở để có thông tin về tình trạng và hiệu quả
hoạt động của vận động viên cờ vua. Nó đƣợc sử dụng để đánh giá hiệu quả
của các phƣơng tiện, phƣơng pháp huấn luyện, để xác định động thái của
trạng thái sung sức thể thao và dự báo các thành tích. Nhiệm vụ của kiểm tra
sƣ phạm là thống kê lƣợng vận động tập luyện và thi đấu, xác định các mặt
khác nhau của trình độ huấn luyện của các VĐV cờ vua, xác định các khả
năng để đạt đƣợc thành tích thể thao dự kiến, đánh giá hành vi của vận động
viên cờ vua trong các cuộc thi đấu. Các phƣơng pháp chủ yếu của kiểm tra sƣ
phạm là quan sát sƣ phạm và các thử nghiệm kiểm tra sƣ phạm (lập test) về
những mặt khác nhau của trình độ huấn luyện của các VĐV cờ vua, đặc biệt
là các VĐV cờ vua trẻ.
Các phƣơng pháp kiểm tra y - sinh nhằm đánh giá tình trạng sức khoẻ,
mức độ phát triển thể chất, tuổi sinh học, trình độ huấn luyện về mặt chức
năng của vận động viên.
Trình độ tập luyện có thể đƣợc xác định thông qua các phƣơng pháp sƣ
phạm, tâm lý và y - sinh học. Tuy nhiên, trình độ tập luyện là một khái niệm
tổng hợp, đặc trƣng cho khả năng của toàn bộ cơ thể, vì vậy nguyên lý cơ bản
để xem xét trình độ tập luyện phải là nguyên tắc tổng hợp. Nghĩa là phải xem
xét một cách toàn diện tất cả các mặt hoạt động của cơ thể: trạng thái sức
khoẻ, trạng thái tâm lý, trình độ kỹ - chiến thuật, trình độ thể lực. Trình độ tập

luyện thể hiện trong một hoạt động nhất định, vì vậy trình độ tập luyện mang
tính chuyên môn rất cao. Để xác định trình độ tập luyện của các VĐV cờ vua
cần phải lựa chọn tổ hợp các chỉ tiêu tâm - sinh lý chuyên biệt đặc trƣng trong
môn thể thao cờ vua[9],[10].
Trình độ tập luyện của vận động viên có thể cao, trung bình hoặc thấp
phụ thuộc vào quá trình tập luyện. Tập luyện cờ vua nhằm đạt đƣợc thành tích


14

thể thao cao nhất vào thời điểm nhất định. Trạng thái của vận động viên cờ
vua trong giai đoạn có trình độ tập luyện cao nhất đƣợc gọi là trạng thái sung
sức thể thao. Trạng thái sung sức thể thao trong cờ vua thể hiện ở sự phối hợp
hoạt động tối ƣu giữa các hệ cơ quan trong cơ thể, khả năng chức phận của cơ
thể đƣợc phát triển tối đa và khả năng huy động tốt nhất các hoạt động chức
năng trong cơ thể. Trạng thái sung sức thể thao đạt đƣợc nhờ các lƣợng vận
động tập luyện lớn vì vậy trạng thái này không duy trì đƣợc lâu dài, tuy nhiên
có thể đạt đƣợc trạng thái sung sức thể thao nhiều lần trong một năm.
Trình độ tập luyện cũng nhƣ biểu hiện cao nhất của nó là trạng thái
sung sức thể thao, có thể xác định thông qua các chỉ tiêu tâm - sinh lý nhất
định. Đó là đặc điểm cấu tạo và chức năng của các hệ cơ quan trong cơ thể.
Chúng đƣợc nghiên cứu trong trạng thái nghỉ, trong hoạt động định lƣợng và
thực hiện hoạt động tối đa. Trình độ tập luyện của vận động viên cờ vua thể
hiện ở sự nâng cao năng lực chuyên môn nhờ ảnh hƣởng của lƣợng vận động
tập luyện, lƣợng vận động thi đấu và các biện pháp bổ trợ khác.Trong các giai
đoạn huấn luyện khác nhau, nhiệm vụ của công tác đánh giá trình độ VĐV cờ
vua cũng khác nhau.
Trong giai đoạn tuyển chọn ban đầu, việc đánh giá - dự báo trình độ
VĐV cờ vuađó chính là quá trình phát hiện năng khiếu thể thao. Phát hiện
năng khiếu thể thao trƣớc hết dựa vào việc dự báo với một xác suất cao đáng

tin cậy về một VĐV có thể có khả năng hoàn thành giai đoạn huấn luyện cờ
vua với thành tích tốt đến mức sẽ đƣợc thu nhận vào giai đoạn huấn luyện cờ
vua sau này.
Trong giai đoạn tiếp theo của quá trình huấn luyện việc đánh giá - dự
báo trình độ VĐV cờ vua nhằm mục đích xác định thành tích cao nhất mà bản
thân VĐV có thể đạt đƣợcvà khoảng thời gian để đạt đƣợc thành tích đó. Để
tiến hành đánh giá trong giai đoạn này,cần thiết phải thu nhận các thông tin tiếp
theo ở VĐV thông qua việc phân tích các yếu tố xác định thành tích thể thao


15

nhƣ tiêu chuẩn trình độ của thành tích, tiêu chuẩn về nhịp độ phát triển thành
tích, tiêu chuẩn về sự ổn định thành tích và khả năng tăng trƣởng thành tích,
tiêu chuẩn về khả năng chịu đựng lƣợng vận động.
Cờ vua là môn thể thao trí lực có đặc trƣng là sự căng thẳng lớn về cảm
xúc mà ngƣời chơi phải khắc phục trong thi đấu. Chính bởi lẽ đó mà lƣợng
vận động trong tập luyện và thi đấu cờ vua là lƣợng vận động tâm lý, thể hiện
rõ nét đặc thù chuyên môn, khác với nhiều môn thể thao khác.
1.2. Đặc điểm tâm - sinh lý lứa tuổi THPT
Lứa tuổi này cơ thể các em đã phát triển tƣơng đối hoàn chỉnh. Tuy
nhiên, các bộ phận cơ thể vẫn tiếp tục phát triển nhƣng tốc độ chậm dần, chức
năng sinh lí tƣơng đối ổn định, khả năng hoạt động thể lực của hệ thống cơ
quan cũng đƣợc cao hơn. Sự phát triển cơ thể của cả nam và nữ có sự khác
biệt rất lớn do những đặc điểm sinh lí khác nhau. Do vậy, quá trình GDTC
cho học sinh lứa tuổi này chúng ta cần căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lí lứa
tuổi và giới tính của các em.
1.2.1.Đặc điểm tâm lí của học sinh THPT.
Ở lứa tuổi này các em thích tỏ ra mình là ngƣời lớn, muốn đƣợc mọi
ngƣời tôn trọng, tỏ ra là ngƣời hiểu biết, có khả năng phân tích tổng hợp, các

em có sự hiếu động, tinh nghịch. Các em có nhiều hoài bão nhƣng lại thiếu
kinh nghiệm trong cuộc sống.
Tuổi này chủ yếu hình thành thế giới quan, tự ý thức, hình thành ý
thức, hình thành tính cách và hƣớng về tƣơng lai. Đó cũng là tuổi lãng mạn
mơ ƣớc độc đáo và mong chờ cho cuộc sống tốt đẹp hơn.
Về hứng thú: Các em đã có thái độ tự giác tích cực trong học tập xuất
phát từ động cơ học đúng đắn và lựa chọn nghề nghiệp sau này. Song hứng
thú học tập do nhiều động cơ khác nhau, đua với bạn bè, tự ái, hiếu thắng….
cho nên khi giảng dạy giáo viên cần giúp các em xây dựng động cơ đúng đắn


16

để các em có đƣợc hứng thú học tập các môn học nói chung và môn GDTC
nói riêng.
Về tình cảm: Các em đã biểu lộ rõ hơn về tình cảm của bản thân với
ngôi trƣờng mình gắn bó, với các thầy cô giáo đã dạy các em. Vì vậy, việc
giáo viên gây đƣợc thiện cảm và sự tôn trọng của các em là một trong những
thành công giúp giáo viên có nhiều thuận lợi trong quá trình giảng dạy, thúc
đẩy các em tự giác, tích cực trong học tập.
Về trí nhớ: Các em ở tuổi này hầu nhƣ không tồn tại việc ghi nhớ máy
móc, do các em đã biết cách ghi nhớ có hệ thống, đảm bảo tính logic chặt chẽ
và lĩnh hội đƣợc bản chất, vấn đề cần học tập. Vậy nên, khi giảng dạy GDTC
giáo viên có thể sử dụng phƣơng pháp trực quan kết hợp với giảng giải, phân
tích chi tiết kĩ thuật động tác và vai trò, ý nghĩa cũng nhƣ cách sử dụng
phƣơng tiện, phƣơng pháp để các em có thể tự tập một cách độc lập trong thời
gian nhàn rỗi.
Các phẩm chất ý chí đã rõ ràng và mạnh mẽ hơn so với lứa tuổi trƣớc
đó. Các em có thể tiếp thu đƣợc những bài tập khó và đòi hỏi cách khắc phục
khó khăn lớn trong tập luyện.

1.2.2. Đặc điểm sinh lí của học sinh THPT.
Hệ thần kinh
Đặc điểm lứa tuổi này hệ thần kinh tiếp tục đƣợc phát triển và đi đến
hoàn thiện, kỹ năng tƣ duy, phân tích, tổng hợp và trừu tƣợng đƣợc phát triển
tạo điều kiện cho việc hình thành nhanh chóng phản xạ có điều kiện. Do hoạt
động mạnh của tuyến giáp, tuyến sinh dục, tuyến yên làm cho tính hƣng phấn
của hệ thần kinh chiếm ƣu thế, giữa hƣng phấn và ức chế chƣa cân bằng làm
ảnh hƣởng đến hoạt động thể lực. Do vậy trong quá trình huấn luyện, giáo
viên, huấn luyện viên (HLV) cần sử dụng bài tập thích hợp và thƣờng xuyên
quan sát phản ứng cơ thể ngƣời tập để có biện pháp giải quyết kịp thời.


17

Hệ vận động (Hệ cơ xƣơng)
Hệ xƣơng
Lứa tuổi này hệ xƣơng bắt đầu giảm tốc độ phát triển, mỗi năm nam
cao thêm 1- 3cm, nữ cao thêm 0,5 - 1cm, cột sống đã ổn định hình dáng. Vì
vậy, có thể sử dụng một cách rộng rãi các bài tập với khối lƣợng tăng dần để
giúp VĐV thích nghi một cách từ từ.
Hệ cơ
Lứa tuổi này các tổ chức cơ phát triển muộn hơn xƣơng nên cơ vẫn
tƣơng đối yếu, các cơ lớn phát triển tƣơng đối nhanh, các cơ nhỏ phát triển
chậm hơn. Các cơ co phát triển nhanh hơn các cơ duỗi.
Hệ tuần hoàn
Hệ tuần hoàn đã phát triển và hoàn thiện. Buồng tim phát triển tƣơng
đối hoàn chỉnh. Mạch đập của nữ 70-80 lần/phút; của nam 75 - 85 lần/phút.
Nhƣng vận động mạch, huyết áp hồi phục tƣơng đối nhanh chóng. Vì vậy, ở
lứa tuổi này có thể tập những bài tập sức bền, những bài tập có khối lƣợng và
cƣờng độ vận động tƣơng đối lớn nhƣng phải thận trọng và thƣờng xuyên

kiểm tra theo dõi tình trạng sức khỏe của các VĐV.
Hệ hô hấp
Hệ hô hấp đã phát triển và tƣơng đối hoàn thiện. Vòng ngực trung bình
của nam 67 - 72cm. Dung lƣợng phổi tăng lên nhanh chóng lúc 16-18 tuổi là
3- 4 lít, tần số hô hấp gần giống với ngƣời lớn. Tuy nhiên, các cơ hô hấp vẫn
còn yếu nên sức co dãn của lồng ngực ít chủ yếu là co dãn của cơ hoành. Vì
vậy, trong tập luyện cần thở sâu, tập trung chú ý thở bằng ngực và bụng.
1.3. Đặc điểm hoạt động tập luyện và thi đấu môn cờ vua
Cờ vua là môn thể thao trí tuệ, ít đòi hỏi cao về các tố chất, thể chất thể
lực, song lại có yêu cầu cao về sự bền bỉ, trí thông minh óc sáng tạo của ngƣời
chơi. Học chơi cờ vua giúp phát triển hài hòa các phẩm chất tâm lý mỗi cá
nhân, vừa phát triển đƣợc khả năng tƣ duy logic và linh giác. Đồng thời trí


18

nhớ linh hoạt và trí nhớ đƣợc tăng cƣờng, bền vững, có dung lƣợng nhớ lớn
và khả năng tập chung chú ý đƣợc hoàn thiện. Thông qua chơi cờ sẽ đẩy
mạnh việc học tập, tập chung suy nghĩ, Khả năng lựa chọn quyết định góp
phần tạo nên ý chí, tính quyết đoán và ổn định cảm xúc, giáo dục cho con
ngƣời thái độ tự phê với hành vi ứng xử của mình. Nói một cách rõ ràng, cờ
vua giúp phát triển trí tuệ cho ngƣời chơi và tác động tới óc thẩm mỹ mở ra
cái đẹp của tƣ duy con ngƣời.
Tập luyện và thi đấu cờ vua không đòi hỏi dụng cụ, sân bãi phức tạp
nhƣ các môn thể thao vận động khác nhƣ cầu lông, tennis. Tập luyện không
cần nhiều ngƣời mà hình thức tập luyện rất phong phú và đa dạng, có thể tự
mình nghiên cứu tài liệu sách báo, chơi hay tập luyện với máy tính với nhiều
cấp độ khó khác nhau
Trong suốt thời gian hoạt động sáng tạo và thi đấu VĐV cờ vua dùng
phần lớn thời gian ngồi sau bàn cờ tƣ duy, suy nghĩ tính toán các nƣớc đi.

Lƣợng vận động trong cờ vua là lƣợng vận động tâm lý, có sự căng thẳng về
cảm xúc thần kinh cao độ có thể dẫn đến một số trƣờng hợp ảnh hƣởng không
tốt đến tình trạng sức khỏe, hơn nữa việc không có khả năng duy trì và chịu
đựng căng thẳng cảm xúc ở mức độ cao lại là một trong những nguyên nhân
làm mất đi trạng thái sung sức thể thao của VĐV cờ vua. Vì vậy việc định
mức và áp dụng lƣợng vận động phù hợp với từng VĐV trong tập luyện và thi
đấu cờ vua là rất quan trọng ảnh hƣởng đến việc nâng cao thành tích thể thao
Nhƣng để trở thành một VĐV cờ vua quả thật không đơn giản. Qúa trình đào
tạo VĐV phải kết hợp với những phƣơng pháp, phƣơng tiện khoa học một
cách bài bản từ giai đoạn ban đầu cho đến giai đoạn cuối cùng khi VĐV còn
nhỏ tuổi đặc biệt là giai đoạn cuối cùng. Nhất là đối với học sinh tiểu học lên
trung học, trong đó có lứa tuổi 11- 12. Việc hoàn thiện cho ngƣời mới biết
chơi cờ vua ở lứa tuổi này phải tiến hành theo nguyên tắc tăng tiến từ dễ đến
khó, đơn giản đến phức tạp. Khi đã làm quen với luật cờ vua thì huấn luyện


×