Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tiểu luận kinh tế vĩ mô chính sách tiền tệ ở VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.96 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC _ _ _ _ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA KINH TẾ

TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ

ĐỀ TÀI

CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM

GVHD: _ _ _ _
NHÓM THỰC HIỆN:


TP.HCM, Tháng 05 năm 2015

MỤC LỤC
I/ Cơ sở lý thuyết chính sách tiền tệ
1.Tổng quan tiền tệ
1.1 Khái niệm tiền tệ
1.2 Lịch sử phát triền của tiền tệ
1.3 Chức năng của tiền tệ
2. Chính sách tiền tệ
2.1 Khái niệm chính sách tiền tệ
2.2 Vị trí vai trò của chính sách tiền tệ
2.3 Mục tiêu của chính sách tiền tệ
2.3.1 Ổn định giá
2.3.2 Ổn định lãi suất
2.3.3 Ổn định thị trường tài chính
2.3.4 Ổn định tỷ giá hối đoái
2.3.5 Giảm tỷ lệ thất nghiệp
2.3.6 Tăng trưởng kinh tế


2.4 Các công cụ của chính sách tiền tệ
2.4.1 Nghiệp vụ thị trường mở
2.4.2 Dự trữ bắt buộc
2.4.3 Chính sách tái chiết khấu
2.4.4 Quản lý hạn mức tín dụng
2.4.5 Quản lý lãi suất của ngân hàng thương mại


II/ Thực trạng chính sách tiền tệ của Việt Nam
1.Tổng quan về chính sách tiền tệ trong giai đoạn hiện nay của Việt Nam
2.Thực trạng về việc vận dụng các công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay
3.Nhận định đánh giá
III/ Đề xuất giải pháp

I/ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1.Tổng quan tiền tệ
1.1 Khái niệm tiền tệ
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tiền tệ là hàng hóa đặc biệt dùng
làm vật ngang giá chung cho tất cả hàng hóa, là sự thể hiện chung của giá trị và
lao động xã hội; đồng thời tiền tệ biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản
xuất hàng hóa.
Còn các nhà kinh tế hiện đại thì cho rằng: tiền tệ là bất cứ thứ gì được chấp
nhận chung trong việc thanh toán để lấy hàng hóa hay dịch vụ hoặc trong việc
hoàn trả các món nợ.
1.2 Lịch sử phát triển của tiền tệ
Trong lịch sử, nhiều thứ đã đóng vai trò của tiền trong đó có vỏ sò, thuốc lá,
các kim loại quý, cũng như tiền giấy và chuyển khoản qua ngân hàng. Galbraith và
Salinger trong cuốn “Everybody guide to economis “ chia lịch sử tiền tệ thành 3 giai
đoạn :
+ Giai đoạn đầu tiên: loài người sử dụng tiền cơ bản hay tiền nguyên thủy đó

là muối ,vỏ sò, kim loại quý hay các hàng hóa cơ bản. Khi tồn tại dưới hình thức
hàng hóa có giá trị cố hữu, tiền được gọi là hàng hóa .Thuật ngữ giá trị cố hữu
hàm ý hàng hóa đó có giá trị ngay cả ngay khi nó không sử dụng làm tiền . Một ví
dụ tiền hàng hóa là vàng. Vàng có giá trị cố hữu bởi vì nó được sử dụng trong công
nghiệp và chế tác đồ trang sức.
+ Giai đoạn thứ 2: các chính phủ và ngân hàng trở thành những nhân tố
chính trong việc cung ứng tiền tệ. Nhưng ở giai đoạn này một số hàng hóa vẫn
được dùng để định lượng sự trao đổi lấy tiền. Do đó , giai đoạn này được gọi là giai
đoạn bản vị mà chủ yếu là “bản vị vàng” hay “ bản vị bạc”. Trong chế độ bản vị vàng
,chính phủ của mỗi nước cố định giá vàng tính bằng đồng tiền trong nước của họ,
chính phủ luôn sẵn sàn mua và bán vàng đúng lượng mà dân cư muốn giao dịch tại
mức giá cố định này. Khi đó, khả năng của chính phủ trong việc cung ứng tiền bạc


hạn chế nghiêm ngặt bởi yêu cầu là chính phủ phải nắm giữ một lượng vàng tương
đương trong kho bạc.
+ Giai đoạn thứ 3 : giai đoạn cuối cùng, bản vị kim loại biến mất, tiền trở
thành một sáng tạo của các ngân hàng và chính phủ, tiền không có giá trị thựcnhư đồng Việt Nam-được gọi là tiền pháp định.
Khái niệm pháp định là loại tiền được dùng để tạo ra nhờ một pháp lệnh của
chính phủ. Tại sao bạn có thể sử dụng những tờ giấy bạc do ngân hàng nhà nước
Việt Nam phát hành để thanh toán cho hóa đơn của bạn? Câu trả lời là nhà nước ta
đã quy định bằng luật rằng những tờ giấy bạc đó là tiền hợp lệ.
Nói rộng hơn sự chấp nhận tiền pháp định phụ thuộc nhiều vào kì vọng và tập quán
xã hội cũng như luật pháp của nhà nước.

1.3. Chức năng của tiền tệ
Tiền tệ mang 3 chức năng cơ bản đó là: Phương tiện trao đổi, thước đo giá trị
và cất trữ giá trị.
- Thước đo giá trị (Standard of Value/ Measure of Value/):
Trong nền kinh tế sử dụng tiền tệ, mọi hàng hoá đều được đổi ra tiền tệ. Để có

thể đổi ra được như vậy tiền tệ phải có khả năng biểu hiện giá trị của các hàng hoá
khác. Biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá được gọi là giá cả hàng hoá.
Để thực hiện chức năng thước đo giá trị, thì bản thân tiền tệ phải có giá trị.
Giá trị của tiền tệ được đặc trưng bởi khái niệm sức mua tiền tệ, tức là khả năng
trao đổi của đồng tiền. Khi tiền tệ tồn tại dưới dạng hàng hoá thì sức mua của tiền
phụ thuộc vào giá trị của bản thân tiền. Khi xã hội chuyển sang sử dụng tiện dưới
dạng dấu hiệu giá trị (tiền giấy, tiền tín dụng) thì giá trị của tiền không còn được
đảm bảo bằng giá trị của nguyên liệu dùng để tạo ra nó (vì giá trị đó quá thấp so
với giá trị mà nó đại diện) mà phụ thuộc vào tình hình cung cầu tiền tệ trên thị
trường, mức độ lạm phát, vào tình trạng hưng thịnh hay suy thoái của nền kinh tế
và cả niềm tin của người sử dụng vào đồng tiền đó.
Để tiện cho việc đo lường giá trị của hàng hoá, cần có một đơn vị tiền tệ
chuẩn. Đơn vị tiền tệ lúc đầu do dân chúng lựa chọn một cách tự phát, sau đó do
chính quyền lựa chọn và qui định trong luật pháp từng nước.
Việc đưa tiền tệ vào để đo giá trị của hàng hoá làm cho việc tính toán giá hàng
hoá trong trao đổi trở nên đơn giản hơn nhiều so với khi chưa có tiền. Thêm nữa,
nhờ có chức năng này, mọi hình thức giá trị dù tồn tại dưới dạng nào đi nữa cũng
có thể dùng tiền tệ để định lượng một cách cụ thể.
- Phương tiện trao đổi (Medium of Exchange)
Giá cả hàng hóa được xác định trước khi diễn ra lưu thông hàng hóa. Chỉ sau
khi giá cả hàng hóa được biểu hiện thành tiền mặt của người mua trao cho người
bán thì hàng hóa mới từ tay người bán chuyển sang người mua, lúc đó tiền tệ mới


hoàn thành chức năng phương tiện lưu thông và mới thực hiện đầy đủ vai trò vật
ngang giá chung. Việc trao đổi hàng hóa chỉ xảy ra và được thực hiện sau khi tiền
tệ đã hoàn thành cùng một thời điểm hai chức năng thước đo giá trị và phương
tiện lưu thông.
Khi thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, tiền tệ chỉ đóng vai trò môi
giới giúp cho việc trao đổi thực hiện được dễ dàng do vậy tiền chỉ xuất hiện thoáng

qua trong trao đổi mà thôi. Tiền tệ được xem là phương tiện chứ không phải là mục
đích của trao đổi. Vì vậy tiền tệ thực hiện chức năng phương tiện trao đổi không
nhất thiết phải là tiền tệ có đầy đủ giá trị (ví dụ dưới dạng tiền vàng). Dưới dạng
dấu hiệu giá trị đã được xã hội thừa nhận (như tiền giấy), tiền tệ vẫn có thể phát
huy được chức năng phương tiện trao đổi.
Việc dùng tiền tệ làm phương tiện trao đổi đã giúp đẩy mạnh hiệu quả của
nền kinh tế qua việc khắc phục những hạn chế của trao đổi hàng hoá trực tiếp, đó
là những hạn chế về nhu cầu trao đổi (chỉ có thể trao đổi giữa những người có nhu
cầu phù hợp), hạn chế về thời gian (việc mua và bán phải diễn ra đồng thời), hạn
chế về không gian (việc mua và bán phải diễn ra tại cùng một địa điểm). Bằng việc
đưa tiền vào lưu thông, con người đã tránh được những chi phí về thời gian và
công sức dành cho việc trao đổi hàng hoá (chúng ta chỉ cần bán hàng hoá của mình
lấy tiền rồi sau đó có thể mua những hàng hoá mà mình muốn bất cứ lúc nào và ở
đâu mà mình muốn). Nhờ đó, việc lưu thông hàng hoá có thể diễn ra nhanh hơn,
sản xuất cũng được thuận lợi, tránh được ách tắc, tạo động lực cho kinh tế phát
triển. Với chức năng này, tiền tệ được ví như chất dầu nhờn bôi trơn giúp cho
guồng máy sản xuất và lưu thông hàng hoá hoạt động trơn tru, dễ dàng.
Tuy nhiên để thực hiện tốt chức năng này, đòi hỏi đồng tiền phải được thừa
nhận rộng rãi, số lượng tiền tệ phải được cung cấp đủ lượng để đáp ứng nhu cầu
trao đổi trong mọi hoạt động kinh tế, đồng thời hệ thống tiền tệ phải bao gồm
nhiều mệnh giá để đáp ứng mọi quy mô giao dịch.
Rõ ràng, đối với từng chủ thể trong nền kinh tế, tiền tệ có giá trị vì nó mang
giá trị trao đổi, nhưng xét trên phương diện toàn bộ nền kinh tế thì tiền tệ không có
giá trị gì cả. Sự giàu có của một quốc gia được đo lường bằng tổng số sản phẩm mà
nó sản xuất ra chứ không phải là số tiền tệ mà nó nắm giữ. Lý do là vì, xét trên
phương diện đó, tiền tệ chỉ xuất hiện trong nền kinh tế để thực hiện chức năng môi
giới, giúp cho trao đổi dễ dàng hơn chứ không tạo thêm một giá trị vật chất nào
cho xã hội. Nó đóng vai trò bôi trơn cho guồng máy kinh tế chứ không phải là yếu
tố đầu vào của guồng máy đó.
- Cất trữ giá trị (Store of Value)

Khi tạm thời chưa có nhu cầu sử dụng tiền tệ làm phương tiện trao đổi và
thanh toán, nó được cất trữ lại để dành cho những nhu cầu giao dịch trong tương


lai. Khi đó, tiền có tác dụng như một nơi chứa giá trị, nơi chứa sức mua hàng qua
thời gian.
Khi cất trữ, điều đặc biệt quan trọng là tiền tệ phải giữ nguyên giá trị hay sức
mua hàng qua thời gian. Vì vậy, đồng tiền đem cất trữ phải đảm bảo yêu cầu: Giá
trị của nó phải ổn định. Sẽ không ai dự trữ tiền khi biết rằng đồng tiền mà mình
cầm hôm nay sẽ bị giảm giá trị hoặc mất giá trị trong tương lai, khi cần đến cho
các nhu cầu trao đổi, thanh toán. Chính vì vậy mà trước đây để làm phương tiện dự
trữ giá trị, tiền phải là vàng hay tiền giấy tự do đổi ra vàng. Còn ngày nay, đó là các
đồng tiền có sức mua ổn định.
Tiền không phải là nơi cất trữ giá trị duy nhất. Một tài sản bất kỳ như cổ
phiếu, trái phiếu, đất đai, nhà cửa, kim loại quý cũng đều là phương tiện cất trữ giá
trị. Nhiều thứ trong số những tài sản đó lại xét thấy có lợi hơn so với tiền về mặt
chứa giá trị, chúng có thể đem lại cho người chủ sở hữu một khoản lãi suất hoặc
thu nhập (cổ phiếu, trái phiếu) hoặc một giá trị sử dụng khác (nhà cửa). Trong khi
đó, tiền mặt có thể sẽ trở thành nơi cất trữ giá trị tồi nếu giá cả hàng hoá tăng
nhanh. Song người ta vẫn cất trữ tiền vì tiền là tài sản "lỏng nhất". Tính lỏng
(liquidity) phản ánh khả năng chuyển một cách dễ dàng và nhanh chóng của một
loại tài sản thành tiền mặt (một phương tiện trao đổi). Khi có nhu cầu trao đổi, các
tài sản khác (không phải là tiền tệ) sẽ đòi hỏi chi phí để chuyển thành phương tiện
trao đổi. Ví dụ: khi bạn bán nhà, nhiều khi bạn phải trả một khoản phí cho người
môi giới, và nếu cần tiền ngay bạn còn phải bán rẻ. Chính vì vậy, với mục đích cất
trữ giá trị cho những nhu cầu trong tương lai gần, người ta có xu hướng cất trữ
giá trị dưới dạng tiền. Song vì tiền, nhất là tiền giấy ngày nay, không có một sự
đảm bảo chắc chắn về sự nguyên vẹn giá trị từ khi nhận cho đến khi đem ra sử
dụng nên tiền sẽ không phải là cách lựa chọn tốt nhất khi muốn dự trữ giá trị trong
thời gian dài.

2. Chính sách tiền tệ
2.1 Khái niệm chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ (monetary policy) là một trong những chính sách của kinh
tế vĩ mô, là quá trình quản lý cung tiền của cơ quan quản lý tiền tệ (ngân hàng
trung ương), nhằm hướng tới một lãi suất mong muốn để đạt được những mục
đích ổn định và tăng trưởng kinh tế như kiềm chế lạm phát, duy trì và ổn định tỷ
giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng trưởng kinh tế.
Chính sách tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất định một cách
trực tiếp hay gián tiếp thông qua nghiệp vụ thị trường mở, quy định mức dự trữ
bắt buộc, trao đổi trên thị trường ngoại hối, cùng nhiều vấn đề khác.
Thực chất của chính sách tiền tệ là sự cụ thể hóa những biện pháp nhằm tác
động vào mức cung tiền, từ đó ảnh hưởng đến lãi suất trên thị trường. Thông qua
vai trò của lãi suất, chính sách tiền tệ tác động vào tổng cầu và sản lượng của nền


kinh tế, thúc đẩy các hoạt động trong nền kinh tế nhằm giải quyết các mục tiêu kinh
tế vĩ mô đề ra gắn với từng thời kỳ, từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế.
Chính sách tiền tệ gồm hai loại:
Chính sách mở rộng tiền tệ( nền kinh tế suy thoái): tăng cung tiền, giảm lãi
suất, thúc đẩy sản xuất phát triển làm giảm tỉ lệ thất nghiệp, tăng tỉ lệ lạm phát.
Chính sách thắt chặt tiền tệ( nền kinh tế có lạm phát): giảm cung tiền, tăng lãi
suất, dẫn tới đầu tư sản xuất giảm, tỉ lệ lạm phát giảm, thất nghiệp tăng.
Tùy thuộc vào tình hình kinh tế cụ thể của mỗi quốc gia mà áp dụng chính sách
tiền tệ phù hợp.
2.2 Vị trí vai trò của chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô cực kỳ quan
trọng trong nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay vì nó tác động trực tiếp vào
lĩnh vực lưu thông tiền tệ, tác động vào tổng cầu và sản lượng của nền kinh tế, góp
phần thúc đẩy các hoạt động trong nền kinh tế. Ở Việt Nam, kể từ khi đổi mới đến
nay, chính sách tiền tệ đã từng bước được hình thành, hoàn thiện và phát huy tác

dụng đưa nước ta thoát khỏi thời kỳ khủng hoảng, phát triển nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi
mà kinh tế nước ta đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế, thì chính sách
tiền tệ ngày một đóng vai trò quan trọng.
2.3 Mục tiêu của chính sách tiền tệ
2.3.1 Ổn định giá- kiềm chế lạm phát
Trong điều kiện lưu thông tiền giấy không được tự do chuyển đổi ra vàng ,
lạm phát có khả năng xảy ra. Vì vậy ngân hàng trung ương luôn coi việc ổn định
giá cả kiềm chế lạm phát ở mức vừa phải là mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền
tệ. Ổn định giá cả nhằm giữ giá cả ở một mức nhất định tránh tình trạng dao động
mạnh. Giá cả tăng sẽ gây khó khăn trong cuộc sống của một bộ phận người lao
động, làm mất ổn định kinh tế xã hội. Do vậy kiểm soát lạm phát, ổn định giá cả
hàng hóa và dịch vụ tạo tiền đề cho việc phát triển kinh tế lâu bền, bảo đảm ổn định
đời sống cho người lao động.
Thông qua chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương có thể góp phần quan
trọng trong việc kiểm soát lạm phát bằng việc sử dụng các chính sách mở rộng và
thắt chặt tiền tệ.Kiểm soát lạm phát được biểu hiện ở việc ổn định giá trị đối nội và
đối ngoại của đồng tiền (ổn định sức mua, ổn định tỷ giá).
Theo nghiên cứu cho thấy, việc kiểm soát lạm phát ở mức vừa phải có tác
động tích cực cho việc tăng trưởng kinh tế, và ngược lại một nền kinh tế sẽ bị suy
thoái khi tỷ lệ lạm phát bằng 0.Thông thường, con số lạm phát lý tưởng nhất cho
những nước có nền kinh tế phát triển thường dao động từ 1,5% đến dưới 4%.
2.3.2 Ổn định lãi suất


Một chính sách khác trong việc ổn định môi trường kinh tế vĩ mô là ổn định lãi
suất.Lãi suất là giá mà người vay phải trả để được sử dụng tiền không thuộc sở
hữu của mình và là lợi tức người cho vay có được đối với việc trì hoãn chi tiêu.
Sự biến động của lãi suất sẽ dẫn tới những bất lợi cho nền kinh tế, ảnh hưởng
tới kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp trong tương lai, làm ảnh hưởng tới

lượng dự trữ, mức chi tiêu của người dân và đồng thời ảnh hưởng tới khả năng mở
rộng sản xuất của các doanh nghiệp. Do đó nó ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng
GDP. Sự thay đổi của lãi suất cũng ảnh hưởng tới quan hệ sản xuất, tiêu dùng đến
cung – cầu hàng hóa. Vì vậy ổn định lãi suất có vai trò quan trọng trong việc ổn
định nền kinh tế
2.3.3 Ổn định thị trường tài chính
Ổn định thị trường tài chính là một vấn đề rất quan trọng của nền kinh tế. Bởi
thị trường tài chính được xem là nơi tạo ra nguồn vốn cho phát triển kinh tế, nó là
nơi giao dịch của các nguồn lực tài chính hay khối tài sản của nền kinh tế thể hiện
dưới dạng tiền tệ và các hàng hóa tài chính.
Sự ổn định của thị trường tài chính thể hiện ở giá cả của mọi loại hàng hóa –
dịch vụ kể cả hàng hóa là chứng khoán, ngoại tệ, địa ốc không có sự tăng giá hoặc
giảm giá đột ngột, gây ra những hiện tượng sốc trên thị trường.
Việc ổn định thị trường tài chính sẽ mang những hiệu quả thiết thực như thu
hút, huy động các ngồn lực tài chính trong và ngoài nước, khuyến khích tiết kiệm
và đầu tư, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
2.3.4 Ổn định tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là giá cả một đơn vị tiền tệ của quốc gia này tính bằng tiền tệ
của một quốc gia khác. Đây chính là phương tiện thanh toán quốc tế.
Tỷ giá hối đoái có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc gia và trong mối
quan hệ kinh tế quốc tế. Nó tác động đến nhiều khía cạnh của nền kinh tế như tác
động đến lĩnh vực xuất nhập khẩu, sự cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ trong
nước so với nước ngoài, tác động đến đầu tư, công ăn việc làm, tình trạng lạm
phát… Việc ổn định tỷ giá hồi đoái dần trở thành mục tiêu mong muốn của chính
sách tiền tệ nó giúp cho các doanh nghiệp, cá nhân trao đổi hàng hóa với nước
ngoài dễ dàng hơn thông qua kế hoạch lập trước.
2.3.5 Giảm tỷ lệ thất nghiệp
Thất nghiệp là tình trạng không có việc làm của người trong độ tuổi lao động
có đăng kí tìm việc và sẵn sàng tìm việc.
Tình trạng thất nghiệp hiện nay ngày một tăng, nó đang trở thành vấn đề cấp

thiết cho xã hội. Vì vậy tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp dần trở thành
một trong những mục tiêu quan trọng của chính sách kinh tế vĩ mô nói chung và
chính sách tiền tệ nói riêng. Tạo công ăn việc làm đầy đủ có ý nghĩa quan trọng cho
sự phát triển kinh tế đất nước bởi: Chỉ số thất nghiệp là một trong những chỉ tiêu
phản ánh sự thịnh vượng xã hội vì nó phản ánh khả năng sử dụng có hiệu quả


nguồn lực xã hội. Thất nghiệp sẽ gây nên tình trạng căng thẳng cho mỗi cá nhân và
gia đình, dễ gây nên những tệ nạn xã hội. Ngoài ra các khoản trợ cấp thất nghiệp
tăng lên có thể làm thay đổi cơ cấu chi tiêu ngân sách và làm căng thẳng tình trạng
ngân sách.
Việc đảm bảo công ăn việc làm đầy đủ không có nghĩa là tỷ lệ thất nghiệp
bằng 0 mà ở mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên được cấu
thành từ tỷ lệ thất nghiệp tạm thời và tỷ lệ thất nghiệp cơ cấu. Mỗi quốc gia cần
xác định được tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên một cách chính xác để đạt được mục tiêu
này. Bên cạnh đó, cố gắng giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên cũng được coi là mục tiêu
của chính sách tiền tệ.
2.3.6 Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là việc gia tăng sản lượng quốc gia thực của nền kinh tế,
thước đo cho tăng trưởng kinh tế là tốc độ tăng trưởng kinh tế nó được biểu thị
bằng tỷ lệ phần trăm gia tăng hằng năm của sản lượng quốc gia thực, hay thu
nhập của bình quân đầu người.
Tăng trưởng kinh tế quyết định đến sự phồn thịnh của một quốc gia. Một nền
kinh tế có tốc độ tăng trưởng kinh tế càng cao và ổn định thì càng phát triển và
ngược lại.
Chính sách tiền tệ là đòn bẫy kích thích sự tăng trưởng kinh tế vì nó tác động
đến của cải và chi tiêu trong toàn xã hội. Việc tăng trưởng kinh tế phải được hiểu
cả về khối lượng và chất lượng. Chính sách tiền tệ phải đảm bảo sự tăng lên của
GDP thực tế, tức là tỷ lệ tăng trưởng có được sau khi trừ đi tỷ lệ tăng giá cùng thời
kỳ. Chất lượng tăng trưởng được biểu hiện ở một cơ cấu kinh tế cân đối và khả

năng cạnh tranh quốc tế của hàng hoá trong nước tăng lên.
2.4 Các công cụ của chính sách tiền tệ
2.4.1 Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là một trong những công cụ của chính sách tiền tệ
quan trọng mà các ngân hàng trung ương mua vào hoặc bán ra những giấy tờ có
giá của chính phủ thị trường. Thông qua hoạt động này, ngân hàng trung ương tác
động trực tiếp đến nguồn vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, từ đó điều tiết
lượng cung ứng tiền tệ và tác động gián tiếp đến lãi suất thị trường.
Ở Việt Nam, nghiệp vụ thị trường mở còn khá mới để ngân hàng nhà nước
điều hành chính sách tiền tệ. Việc triển khai nghiệp vụ thị trường mở cơ bản đã đáp
ứng được yêu cầu đổi mới của nền kinh tế, chuyển dần từ sử dụng các công cụ tiền
tệ trực tiếp sang sử dụng công cụ gián tiếp, giúp các tổ chức tín dụng đảm bảo khả
năng thanh toán nhanh chóng, kịp thời.
Nghiệp vụ thị trường mở chủ yếu có 2 loại: mua bán giấy tờ có dài hạn và
mua bán giấy tờ có ngắn hạn. Theo luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, nghiệp vụ
thị trường mở chỉ là việc mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn như tín phiếu kho bạc,


chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và các giấy tờ có giá ngắn hạn
khác.
Do vận dụng tính linh hoạt của thị trường nên đây được coi là một công cụ rất
năng động ,hiệu quả, chính xác của chính sách tiền tệ vì khối lượng chứng khoán
mua (bán) tỷ lệ với quy mô lượng tiền cung ứng cần điều chỉnh, ít tốn kém về chi
phí ,dễ đảo ngược tình thế. Tuy vậy, vì được thực hiện thông qua quan hệ trao đổi
nên nó còn phụ thuộc vào các chủ thể khác tham gia trên thị trường và mặt khác để
công cụ này hiệu quả thì cần phải có sự phát triển đồng bộ của thị trường tiền tệ
,thị trường vốn.
Tác động của chính sách nghiệp vụ thị trường mở:
Bằng cách mua hoặc bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán, ngân hàng
trung ương sẽ làm thay đổi dự trữ trong ngân hàng, từ đó sẽ làm thay đổi lượng

cung tiền tương ứng. Khi ngân hàng trung ương mua vào một số chứng khoán nhất
định thì tiền được đưa thêm vào lưu thông, đồng thời làm tăng số tài sản và số nợ
của ngân hàng trung ương, do đó làm tăng lượng tiền mạnh. Trong trường hợp
bán các trái phiếu, ngân hàng trung ương đồng thời làm giảm số tài sản và số nợ
của mình, do đó làm giảm lượng tiền mạnh.
Do vậy, tùy vào tình hình cụ thể của nền kinh tế ngân hàng trung ương sẽ
quyết định mua vào hay bán ra chứng khoán cho phù hợp.
2.4.2 Dự trữ bắt buộc
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ dự trữ tối thiểu trên tổng số tiền gửi mà ngân
hàng trung ương buộc các tổ chức có nhận tiền gửi phải giữ lại như là một khoản
dự trữ.
Sự thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ ảnh hưởng một cách bình đẳng đến tất cả
các ngân hàng. Đây cũng là một công cụ có ảnh hưởng mạnh đến tiền cung ứng, chỉ
cần một thay đổi nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng sẽ dẫn đến sự thay đổi đáng kể về
khối lượng tiền cung ứng.
Khi tỉ lệ dự trữ bắt buộc thay đổi, thì số nhân tiền thay đổi theo tỷ lệ nghịch,
chính vì thế bằng cách thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, ngân hàng trung ương có thể
thay đổi số tiền để điều tiết cung tiền với một tiền cơ sở bất kì.
Thông thường, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được các ngân hàng trung ương trên thế
giới quy định là tỷ lệ giữa dự trữ tiền mặt so với tiền gửi có kì hạn là một bộ phận
cấu thành tạm gọi là M1 mà không quy định tỷ lệ dự trữ tiền mặt với tiền gửi có kì
hạn một bộ phận cấu thành của M2. Dự trữ bắt buộc có thể được gửi ở một ngân
hàng trung ương hoặc dữ lại két dự trữ của một ngân hàng thương mại, thông
thường thì các ngân hàng thương mại sẽ gửi ở ngân hàng trung ương để được
hưởng lãi suất.
Trong nước Việt Nam, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được quy định cho hai loại tiền
gửi: tiền gửi không kì hạn công và tiền gửi có kì hạn dưới 1 năm và tiền gửi có kì
hạn từ 1 năm đến 2 năm. Trong đó tỷ lệ dự trữ bắt buộc so với tiền gửi có kì hạn 1



đến 2 năm thấp hơn. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc còn được quy định khác nhau đối với
những loại ngân hàng khác nhau có thể theo quy mô, tính chất hoạt động.
Ưu điểm: đây là công cụ mang nặng tính quản lý Nhà nước nên giúp ngân
hàng trung ương chủ động trong việc điều chỉnh lượng tiền cung ứng và tác động
của nó cũng rất mạnh (chỉ cần thay đổi một lượng nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là ảnh
hưởng tới một lượng rất lớn mức cung tiền).
Nhược điểm: tính linh hoạt của nó không cao vì việc tổ chức thực hiện nó rất
chậm, phức tạp, tốn kém và nó có thể ảnh hưởng không tốt tới hoạt động kinh
doanh của các ngân hàng thương mại.
2.4.3 Chính sách tái chiết khấu
Tái chiết khấu là việc ngân hàng trung ương hay thực hiện việc mua lại các
giấy tờ có giá còn thời hạn thanh toán và đáng tin cậy thuộc sở hữu của các ngân
hàng thương mại theo tỷ suất tái chiết khấu nhất định. Các giấy tờ có giá này được
các ngân hàng chiết khấu, tái chiết khấu trên thị trường thứ cấp.
Chính sách tái chiết khấu bao gồm các quy định về việc cho vay của ngân hàng
thương mại. Các ngân hàng trung ương thường cho các ngân hàng thương mại
vay dưới hình thức chiết khấu lại các giấy tờ có giá ngắn hạn do các ngân hàng
thương mại đưa đến, vậy chính sách cho vay của các ngân hàng trung ương với các
ngân hàng thương mại được gọi là chính sách chiết khấu. Các ngân hàng thương
mại vay từ ngân hàng trung ương chủ yếu nhằm giải quyết vấn đề thiếu hụt tiền
mặt tạm thời để đáp ứng nhu cầu thanh toán hoặc để bù đắp thiếu hụt trong quỹ
dự trữ bắt buộc. Những thay đổi trong chính sách tái chiết khấu của ngân hàng
trung ương sẽ tác động đến khối lượng vay chiết khấu của các ngân hàng thương
mại, từ đó ảnh hưởng tới lượng tiền cung ứng.
Ngân hàng trung ương thông qua việc thay đổi các quy định về hạn mức tái
chiết khấu, lãi suất chiết khấu và các điều kiện tái chiết khấu sẽ ảnh hưởng đến các
hoạt động đi vay chiết khấu từ ngân hàng trung ương của các ngân hàng thương
mại trên hai phương diện là khối lượng và giá.
Cơ chế tác động: Khi ngân hàng trung ương tăng (giảm ) lãi suất tái chiết
khấu sẽ hạn chế (khuyến khích) việc các ngân hàng thương mại vay tiền tại ngân

hàng trung ương làm cho khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại giảm
(tăng) từ đó làm cho mức cung tiền trong nền kinh tế giảm (tăng).Mặt khác khi
ngân hàng trung ương muốn hạn chế ngân hàng vay chiết khấu của mình thì thực
hiện việc khép cửa sổ chiết khấu lại.
Ưu điểm của công cụ này là các khoản cho vay của ngân hàng trung ương đều
được đảm bảo bằng các giấy tờ có giá. Do đó, các khoản cho vay sẽ chắc chắn được
thu hồi khi đến hạn. Tuy nhiên, tác dụng của chính sách chỉ có thể phát huy khi các
ngân hàng thương mại có nhu cầu vay từ ngân hàng trung ương. Với sự phát triển
của thị trường tài chính, các ngân hàng thương mại có thể tìm kiếm được các
nguồn vay khác ngoài ngân hàng trung ương làm cho sự phụ thuộc của chúng vào


ngân hàng trung ương giảm đi, do đó làm giảm mức độ phát huy hiệu quả của công
cụ này. Ngân hàng trung ương khó kiểm soát được hoàn toàn những tác động của
công cụ này bởi ngân hàng trung ương chỉ có thể thay đổi mức lãi suất tái chiết
khấu và các điều kiện chiết khấu mà không thể bắt các ngân hàng thương mại vay
từ mình. Cuối cùng, công cụ này cũng không dễ đảo ngược như nghiệp vụ thị
trường mở.
2.4.4 Quản lý hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng là một trong những công cụ can thiệp một cách trực tiếp
mang tính hành chính của ngân hàng trung ương để khống chế mức tăng khối
lượng tín dụng của hệ thống tổ chức tín dụng cung ứng cho nền kinh tế, đảm bảo
mức tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán theo mục tiêu đề ra trong điều hành
chính sách tiền tệ hàng năm.
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà ngân hàng trung ương buộc các
ngân hàng thương mại tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Về cơ chế tác động, hạn mức tín dụng được sử dụng để khống chế tổng dư nợ
tín dụng, qua đó khống chế tổng lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế. Do vậy, cơ
chế tác động của nó mang tính áp đặt ở dạng chỉ tiêu kế hoạch hàng năm không
được vượt quá đối với hệ thống ngân hàng thương mại.

Qua việc sử dụng công cụ hạn mức tín dụng, ngân hàng trung ương điều
chỉnh khả năng tạo tiền của các ngân hàng thương mại phù hợp với trình độ phát
triển của nền kinh tế, tránh tình trạng tổng khối lượng cung tiền tăng quá mức
trong lưu thông. Lúc này, ngân hàng trung ương phải theo dõi hoạt động cho vay
của các ngân hàng thương mại, nếu ngân hàng thương mại cho vay vượt quá hạn
mức tín dụng quy định sẽ bị xử phạt.
Ưu điểm: hạn mức tín dụng là một công cụ trực tiếp điều tiết lượng tiền trong
lưu thông, ngân hàng trung ương có thể kiểm soát khá chặt chẽ tổng lượng tiền
cung ứng. Công cụ này thực sự phát huy hiệu quả khi tổng phương tiện thanh toán
trong nền kinh tế tăng cao và các công cụ gián tiếp khác tỏ ra kém hiệu lực.
Nhược điểm: hạn mức tín dụng thể làm cho lãi suất tăng lên, bởi vì cung vốn
bị giới hạn, không thoả mãn nhu cầu vốn của nền kinh tế; có thể làm sai lệch cơ cấu
vốn đầu tư của các ngân hàng thương mại, ảnh hưởng đến cơ cấu nền kinh tế. Khi
thị trường tiền tệ hoạt động đúng theo quy luật, thì vô hình trung, hạn mức tín
dụng lại kìm hãm sự phát triển của các ngân hàng tốt, làm giảm tính cạnh tranh
giữa các ngân hàng thương mại. Do những ngân hàng thương mại có khả năng
huy động nhiều vốn, lại bị hạn chế cho vay, trong khi một số ngân hàng không có
khả năng huy động vốn lại không sử dụng hết được hạn mức của mình. Điều nguy
hiểm hơn nữa là chính việc kìm hãm này sẽ làm phát sinh các tổ chức tài chính mới,
nằm ngoài phạm vi kiểm soát của ngân hàng trung ương, thay thế ngân hàng thực
hiện nghiệp vụ cho vay. Kết quả cuối cùng là làm cho chính sách tiền tệ dựa trên


hạn mức tín dụng mất đi hiệu lực, do một số lượng vốn tín dụng được lưu thông
trong nền kinh tế không theo hạn mức đó và không kiểm soát được.
Hạn mức tín dụng cũng gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp nhỏ và
vừa, các hộ sản xuất kinh doanh cá thể, hộ nông dân. Do tín dụng bị áp mức trần,
nên các ngân hàng thương mại thường lựa chọn khách hàng lớn để cho vay, sau
đó mới đến những đối tượng trên, mà hiệu quả sử dụng vốn nhiều khi ở các món tín
dụng nhỏ lại tỏ ra hiệu quả hơn các món lớn.

2.4.5 Quản lý lãi suất của ngân hàng thương mại
Ngân hàng trung ương đưa ra một khung lãi suất hay ấn định một trần lãi
suất cho vay để hướng các ngân hàng thương mại điều chỉnh lãi suất theo giới hạn
đó, từ đó ảnh hưởng tới qui mô tín dụng của nền kinh tế và ngân hàng trung ương
có thể đạt được quản lý mức cung tiền của mình.
Cơ chế tác động: Việc điều chỉnh lãi suất theo xu hướng tăng hay giảm sẽ ảnh
hưởng trực tiếp tới qui mô huy động và cho vay của các ngân hàng thương mại
làm cho lượng tiền cung ứng thay đổi theo .
Đặc điểm: Giúp cho ngân hàng trung ương thực hiện quản lý lượng tiền cung
ứng theo mục tiêu của từng thời kỳ, điều này phù hợp với các quốc gia khi chưa có
điều kiện để phát huy tác dụng của các công cụ gián tiếp. Song, nó dễ làm mất đi
tính khách quan của lãi suất trong nền kinh tế vì thực chất lãi suất là “giá cả” của
vốn do vậy nó phải được hình thành từ chính quan hệ cung cầu về vốn trong nến
kinh tế. Mặt khác việc thay đổi quy định điều chỉnh lãi suất dễ làm cho các ngân
hàng thương mại bị động, tốn kém trong hoạt động kinh doanh của mình.

II/ THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM
1.Tổng quan về chính sách tiền tệ trong giai đoạn hiện nay của Việt Nam
Từ năm 2011 – 2014 , Ngân hàng nhà nước đã có nhiều đổi mới mang lại
nhiều hiệu quả rất tích cực trong điều hành chính sách tiền tệ một cách chủ động ,
linh hoạt và nhất quán . Những đổi mới đóng góp rất nhiều cho sự ổn định tình
hình kinh tế ở nước ta , tạo được niềm tin với công chúng :
+ Việt Nam đã kiểm soát lạm phát hiệu quả với tỉ lệ lạm phát giảm mạnh , chỉ tính
riêng năm 2014 là năm thứ hai liên tiếp đạt được mục tiêu kép , làm tăng trưởng
kinh tế cao hơn 5,98% và kèm theo đó là lạm phát ở mức thấp hơn 1,84%.
+ Dự trữ ngoại hối nhà nước tăng không ngừng trong năm 2014 , đã củng cố và
nâng cao sự tín nhiệm của tổ chức kinh tế , dân cư , các nhà đầu tư nước ngoài và
cải thiện cán cân thanh toán và giúp nâng mức xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam.
+ Việc kiểm soát cung tiền và điều hòa thanh khoản trên thị trường tiền tệ của
ngân hàng nhà nước là yếu tố quan trọng kéo tỷ lạm phát xuống thấp cùng với



những biện pháp kiểm soát giá của chính phủ , đồng thời giúp thị trường ngoại hối
và giá trị tiền ổn định .
+ Dòng vốn tín dụng được nâng cao , hiệu quả mặc dù tốc độ tăng trưởng tín dụng
không tăng mạnh. Cơ cấu tín dụng hợp lý , hiệu quả và an toàn , tập trung vào lĩnh
vực sản xuất- kinh doanh . Trong đó dư nợ lĩnh vực nông nghiệp , nông thôn có mức
tăng trưởng cao hơn mức tăng trưởng tín dụng chung .
+ Hệ thống tổ chức tín dụng theo chỉ đạo của chính phủ và thủ tướng chính phủ đã
triển khai kịp thời ,góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các địa
phương , tạo công ăn việc làm và xóa đói giảm nghèo.
+ Trong điều hành tỷ giá, quản lý thị trường ngoại tệ , dự trữ bắt buộc Quốc gia ,
nếu như trong giai đoạn trước đây thường xuyên biến động về tỷ giá , không tạo
được một hình ảnh cho các nhà đầu tư thì thị trường ngoại hối và tỷ giá đã cơ bản
ổn định và nằm trong biên độ định hướng cho giai đoạn từ 2011 đến nay của ngân
hàng nhà nước.
Sau giai đoạn 2011 – 2014 thì từ đầu năm 2015 đến nay , chính sách tiền tệ
đối mặt với những vấn đề vừa phải là đáp ứng đủ vốn tín dụng để đảm bảo tốc độ
tăng GDP cao hơn năm 2014 , ổn định tỷ giá và quan trọng nhất là kiểm soát lạm
phát .
+ Chủ động và linh hoạt thông qua nghiệp vụ thị trường mở với khối lượng và lãi
suất hợp lý , phù hợp với tình hình vốn của các tổ chức tín dụng.
+ Kiểm soát chặt chẽ hoạt động cho vay ngoại tệ để đúng với chủ trương đô la hóa
nhằm ổn định tỷ giá và thị trường ngoại hối.
+ Ngân hàng nhà nước đã có những chính sách đối phó với tình trạng tăng tỷ giá
đối với ngoại tệ trong các trường hợp xảy ra do nhu cầu hay tâm lý của thị trường
để ổn định nhanh chóng và cân bằng thị trường.

2. Thực trạng về việc vận dụng các công cụ chính sách tiền tệ của Việt Nam
hiện nay

Năm 2011 , một sự kiện nổi bật chính là việc lãi suất cho vay bị đẩy lên từ 20 –
25 %/năm , lãi suất huy động từ 17 – 21%/năm , lúc này thị trường lâm vào tình
trạng hỗn loạn trong sự cạnh tranh vốn của các tổ chức tín dụng. Định hướng dẫn
dắt lãi suất thị trường bởi sự chủ động của ngân hàng nhà nước với chính sách lãi
suất là giảm lãi suất cho vay xuống 17 – 19%/năm .
Giảm mặt bằng lại suất huy động đến cuối năm 9 – 10%/năm vào đầu năm
2012 và tiếp tục giảm để phủ hợp với diễn biến thực tế lạm phát trong năm 2013 ,
2014.


Giảm 1,5 – 2%/năm vào năm 2014 so với cuối năm 2013 , bên cạnh đó là giảm
1,5- 2%/năm lãi suất huy động , giảm 2%/năm đối với lãi suất cho vay.
Với những thay đổi về lãi suất như vậy , ngân hàng nhà nước đã kết hợp cùng
với những giải pháp để doanh Nghiệp bớt khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn
tín dụng phục vụ vào phát triển sản xuất kinh doanh. Gắn kết tín dụng ngân hàng
với chính sách ngành kinh tế , dịch chuyển cơ cấu theo chủ chương của nhà nước.
Năm 2014 được xem là một năm đạt được nhiều thành công , những nét chính
trong thành công cùng những kết quả đạt được là ( bao gồm cả chính sách giảm lãi
suất ) :
+ Tăng trưởng mức tín dụng với mức tăng 14,16% đạt chỉ tiêu đề ra , góp phần
không nhỏ vào kết quả tăng trưởng GDP 5,98% cao hơn mức 5,4% so với năm 2013
+ Tỷ giá và thị trường ngoại hối tương đối ổn định nhờ vào sự chủ động của ngân
hàng nhà nước.
+ Tỷ giá giao dịch trên thị trường có biến động tăng vào một số thời điểm , tuy
nhiên đã nhanh chóng ổn định trở lại sau các giải pháp điều hành của ngân hàng
nhà nước.
+Thanh khoản thị trường được bảo đảm , nhiều thời điểm dư cung ngoại tệ.
+Chính sách tiền tệ có sự phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa ,giúp hỗ trợ cân
đối ngân sách nhà nước trong quá trình điều hành.
+ Ứng dụng công nghệ cao tăng 14,8%/năm và cho nông nghiệp nông thôn tăng

12,8%/năm.
+ Tín dụng cho DNNVV tăng 13,5%.
+ CPI chỉ tăng 4,09% thấp hơn so với mục tiêu
+ Tỷ giá VND/USD tăng 0,56% so với năm 2013 , đạt mục tiêu với kế hoạch điều tiết
của ngân hàng .
+ Nước ta xuất siêu 2,1 tỷ USD
+ Quỹ dự trữ ngoại tệ quốc gia trên 35 tỷ USD


Biểu đồ : Diễn biến CPI và GDP giữa các quý trong năm 2014
(Trích : Tổng cục thống kê)
Tính từ đầu năm 2015 đến nay thì nổi bật nhất trên thị trường lúc này chính
là việc có sự biến động về tỷ giá , cụ thể ở đây là đồng đô la (USD) . Bắt đầu từ
4/5/2015 Giá USD tăng mạnh đạt gần mức kịch trần ( 21.673 đồng/USD ) , nguyên
nhân được điều tra cho thấy là do cung cầu ngoại tế có chênh lệch một chút theo
hướng cung lớn hơn cầu và do yếu tố tâm lý.
5/5/2015 giá USD tại các ngân hàng thương mại tiếp tục tăng so với ngày
4/5/2015 . Lúc này giá USD đã tăng đúng mức trần là 21.673 đồng/USD , tại ngân
hàng Vietcombank giá mua USD tiền mặt – mua USD chuyển khoản và giá bán USD
là 21.610 – 21.630 – 21.670 đồng/USD…Đây là lần đầu tiên kể từ tháng 1 sau khi
ngân hàng nhà nước điều chỉnh tỷ giá , giá USD tại các ngân hàng.
Sang ngày 7/5/2015 thì ngân hàng nhà nước đã có sự điều chỉnh thứ 2 về tỷ
giá bình quân liên ngành 1% từ mức 21.458 – 21.673 VND/USD . Nhờ sự điều chỉnh
này mà thị trường có thay đổi “ hạ nhiệt ” .
Một diễn biến khác không kém nổi bật là lần đầu tiên trong năm 2015 , Chính
phủ đã đề xuất cơ chế cho ngân sách vay từ nguồn dự trữ ngoại hối nhà nước để bổ
sung vốn đầu tư phát triển. Có nhiều sự phản ánh và bình luận từ các chuyên gia
kinh tế cho rằng rủi ro cao , không nên cho vay và ảnh hưởng đến an ninh kinh tế.
Do chỉ mới là đề xuất của chính phủ cho nên thời gian này chưa có kết luận nào cho
đề xuất này.


3. Nhận định đánh giá
Mặc dù trong giai đoạn vừa qua (2011-2014) nền kinh tế Việt Nam có nhiều
biến động thăng trầm, phải đối phó với lạm phát ở mức cao, phải chống chọi lại
cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu (năm 2008), sang năm 2009 nền kinh tế lại có


dấu hiệu giảm phát tuy nhiên với việc thực thì chính sách tiền tệ linh hoạt, hiệu quả
của ngân hàng trung ương đã từng bước đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng
và dần dần đang trên đà khôi phục. Cụ thể:
Năm 2007, với việc thực thi chính sách tiền tệ như trên về cơ bản đạt được mục
tiêu đề ra là ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và
hỗ trợ vốn tạo môi trường thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế. Điều này thề hiện ở
những kết quả sau:
- Qui mô thị trường tiền tệ mở rộng và ổn định, không để xảy ra những cú sốc
về lãi suất và tỷ giá trước những biến động khó lường của tình hình thị
trường tài chính quốc tế
- Lãi suất thị trường liên ngân hang mặc dù có biến động mạnh nhưng mặt
bằng lãi suất trong năm ổn định
- Tỷ giá danh nghĩa giao động nhẹ và có xu hướng giảm, trong bối cảnh lạm
phát gia tăng đã góp phần tích cực trong việc ổn định lãi suất VND và ổn
định thị trường tiền tệ. Mặt khác, tỷ giá thực thấp hơn tỷ giá hối đoái danh
nghĩa trên thị trường, cho nên tác động khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát
nhập khẩu, hỗ trợ ổn định lãi suất VND.

III. Đề Xuất Giải pháp
-

-


Tiếp tục điều hành các chính sách tiền tệ cùng với việc phối hợp với chính sách
tài khóa một cách chặt chẽ , tạo thế chủ động nhằm :
+ Hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý mà không quên
+ Kiểm soát lạm phát.
+ Ổn định kinh tế vĩ mô.
+ Đảm bảo thanh khoản cho các Tổ chức tín dụng.
Có những chính sách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh.
Hỗ trợ doanh nghiệp trong nước bằng các gói tín dụng với lãi suất thấp nhằm
nâng cao sức cạnh tranh và phát triển với các doanh nghiệp nước ngoài.
Về Ngân Hàng Trung Ương :
+ Áp dụng các biện pháp thị trường mở cùng với việc kiểm soát lượng cung
tiền.
+ Chủ động với những tình hình thực tế lạm phát , kinh tế vĩ mô và tiền tệ để
điều hành các mức lãi suất để kiểm soát và điều tiết lãi suất thị trường một cách
phù hợp , góp phần ổn định thị trường tiền tệ cùng với mức lạm phát vừa phải.



×