Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Bài tập học kỳ hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.18 KB, 9 trang )

I.GIỚI THIỆU TÌNH HUỐNG
Xã hội ngày một phát triển, cùng với sự phát triển đó thì đời sống của
con người cũng ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên ta cũng không thể phủ
nhận một thực tế là xã hội càng phát triển thì số lượng tội phạm ngày càng
gia tăng, trong đó phải kể đến các tội phạm về sở hữu như tội cướp tài sản,
tội cướp giật tài sản, tội trộm cắp tài sản... không chỉ gia tăng về số lượng,
thủ đoạn phạm tội cũng ngày một đa dạng và xảo quyệt hơn, tinh vi hơn. Để
hiểu rõ hơn về thực trạng này chúng ta hãy cùng xem xét một tình huống cụ
thể sau:
A và B có ý định chiếm đoạt tài sản của người khác. Để việc chiếm
đoạt thuận lợi chúng cùng nhau tìm mua súng. Sau một thời gian tìm mua
súng không được, chúng ra một cửa hàng đồ chơi trẻ em mua một khẩu
súng nhựa.
Một hôm A và B đem khẩu súng này ra bờ sông (nơi thanh niên hay
ngồi hóng mát). Bọn chúng gặp C, D đang ngồi bên cạnh một chiếc xe máy.
A rút súng ra dọa: “ngồi im không tao bắn chết”. Tưởng đây là súng thật và
lo lắng cho tính mạng nên khi B lấy chiếc xe máy đi. C và D không có phản
ứng gì. A đem xe máy bán cho người quen là E được 8.000.000 đồng và ăn
tiêu hết.
Hỏi: 1. Hành vi của A và B cấu thành tội gì? Tại sao?
2. Trường hợp C và D biết là súng giả, chống cự lại, A và B không lấy
được tài sản thì trách nhiệm hình sự của A, B được giải quyết như thế nào?
Tại sao?
3. E có phạm tội không? Tại sao?

1


II.GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG.
1. Hành vi của A và B cấu thành tội gì? Tại sao?
Hành vi của A, B cấu thành tội cướp tài sản theo điều 133 Bộ luật


hình sự (BLHS). Bởi vì hành vi của A, B thỏa mãn các dấu hiệu pháp lý sau
cảu tội cướp tài sản:
Khách thể của tội phạm: Tội cướp tài sản mặc dù là tội thuộc vào
chương các tội phạm xâm hại sở hữu. Tuy nhiên, hành vi cướp tài sản lại
xâm hại đồng thời hai quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Đó là
quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu. người phạm tội bằng hành vi của mình
xâm hại trước tiên đến thân thể, đến quyền tự do của con người để qua đó
xâm hại được sở hữu.
Trong tình huống trên mặc dù C và D chưa bị thương tích gì, song
hành vi của A, B mang tính đe dọa, cưỡng ép, đã xâm phạm đến quyền tự do
định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình đối với C và D, qua đó đã chiếm
đoạt chiếc xe máy của C và D. Hành vi của A, B đã một lúc xâm hại đến
khách thể trực tiếp của tội cướp tài sản là quan hệ nhân thân và quan hệ sở
hữu.
Mặt khách quan của tội phạm: Theo quy định của pháp luật thì tội
cướp tài sản hoàn thành khi người phạm tội thực hiện một trong ba hành vi
sau:
- Hành vi dùng vũ lực: Được hiểu là hành vi dùng sức mạnh vật chất (có
hoặc không có công cụ, phương tiện phạm tội) tác động vào người khác
nhằm đè bẹp hoặ làm tê liệt sự chống cự của người này chống lại việc chiếm
đoạt. Hành vi dùng vũ lực ở đây trước hết là phải nhằm vào con người và
người bị tấn công ở đây có thể là chủ tài sản, người quản lý hay bảo vệ tài
sản hoặc cũng có thể là bất kì ai mà người phạm tội cho rằng có thể cản trở
việc chiếm đoạt của mình
2


- Hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc: Đây là trường hợp người phạm
tội bằng cử chỉ hoặc lời nói (hoặc cả hai) dọa sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc
nếu chống cự lại việc chiếm đoạt. Vũ lực đe dọa có thể là nhằm vào chính

người bị đe dạo cũng có thể là nhằm vào người khác có quan hệ với người bị
đe dọa. Dấu hiệu “ngay tức khắc” ở đây có ý nghĩa quan trọng để phân biệt
hành vi đe dọa dùng vũ lực ở tội cướp tài sản với hành vi dọa (sẽ) dùng vũ
lực ở tội cưỡng đoạt tài sản. Hành vi đe dọa dùng vũ lực ở tội cướp tài sản
có tính chất mãnh liệt làm cho người bị đe dọa thấy rằng vũ lực sẽ sảy ra
ngay làm cho họ không thể hoặc khó tránh khỏi. sự đe dọa này làm cho ý chí
của người khác bị tê liệt ý chí kháng cự của nạn nhân hoặc có khả năng làm
cho nạn nhân không thể kháng cự được.
Dấu hiệu ngay tức khắc chỉ đòi hỏi người phạm tội đã có hành vi, cử
chỉ, thái độ thể hiện ra bên ngoài là sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc mà không
đòi hỏi họ phải thực sự có ý định dùng vũ lực ngay tức khắc cũng như phải
có điều kiện để dùng vũ lực ngay tức khắc.
- Hành vi khác làm cho nạn nhân không lâm vào tình trạng không thể kháng
cự được: Hành vi này tuy không phải là dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ
lực nhưng những hành vi này lại có khả năng làm cho người bị tấn công mất
đi khả năng chống cự môt phần hoặc hoàn toàn vì vậy họ không thể ngăn
cản được việc chiếm đoạt. Các hành vi này có thể là dùng thuốc mê, đầu
độc…
Trong tình uống trên A và B đã có hành vi dùng súng (mặc dù là súng
giả) đe dọa C, D là “ngồi im không tao bắn chết” hành vi này thỏa mãn dạng
hành vi thứ hai của một trong ba dạng hành vi cấu thành tội cướp tài sản đó
là Hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc. Trong tình huống trên A, B đã
có hành vi đe dọa đối với C, D mặc dù A và B dùng súng giả và trong thực
tế thì A và B không có đủ điều kiện để thục hiện hành vi mà mình đã đe dọa
3


đó là “bắn”. Tuy nhiên hành vi đe dọa của A, B lại làm cho C và D là tưởng
đây là súng thật, C và D cũng nghĩ rằng việc A và B dùng súng bắn họ là
điều có thể xảy ra ngay tức khắc và họ không thể tránh khỏi. Hành vi này

làm tê liệt hoàn toàn sức phản kháng của C và D, từ đó A, B đã dễ dàng lấy
được chiếc xe máy của C và D.
Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội cướp tài sản là chủ thể thường,
chỉ đòi hỏi chủ thể có năng lực trách nhiệm hình sự (TNHS) và đạt độ tuổi
luật định. Trong tình huống trên A và B là người có năng lực TNHS và đã
đủ độ tuổi luật định.
Mặt chủ quan của tội phạm: khi xét đến mặt chủ quan của tội cướp tài
sản cần chú ý đến hai yếu tố sau:
Thứ nhất về mặt lỗi: lỗi của người phạm tội trong tội cướp tài sản là
lỗi cố ý trực tiếp. Khi thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội biết mình
có hành vi dùng vũ lực hoặc có hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc
hoặc biết mình sẽ làm cho người bị tấn công mất đi khả năng kháng cự và
lâm vào tình trạng không thể kháng cự được. Người phạm tội mong muốn đè
bẹp ý chí kháng cự của người bị hại nhằm chiếm đoạt tài sản.
Trong tình huống trên, A và B đã có hành vi dùng súng (súng giả) đe
dọa C và D. Khi thực hiện hành vi trên, A, B biết rõ là hành vi của mình có
khả năng đè bẹp ý chí kháng cự của C và D, đây cũng là điều mà A, B mong
muốn. Chính vì vậy A, B đã lùng sục khắp nơi để mua súng và khi không
mua được súng thì chúng lại phải dùng hạ sách là dùng súng giả nhằm thực
hiện tới cùng mục đích của mình là cướp tài sản. Qua phân tích trên ta thấy
rõ ràng A, B biết trước hậu quả của hành vi mà mình gây ra mà vẫn cố gắng
thực hiện bằng mọi cách. Vì vậy. lỗi mà A, B phạm phải là lỗi cố ý trực tiếp,
thỏa mãn mặt chủ quan của tội cướp tài sản.

4


Thứ hai về mục đích chiếm đoạt: Trong các yếu tố cấu thành tội cướp
tài sản thì yếu tố mục đích chiếm đoạt là dấu hiệu huộc mặt chủ quan của tội
cướp tài sản. việc thực hiện hành vi khách quan kể trên chỉ cấu thành tội

cướp tài sản khi các hành vi khách quan kể trên được thực hiên nbhawmf
mục đích chiếm đoạt tài sản.
Trong tình huống trên, việc A, B lung sục khắp nơi mua súng và thực
hiện hành vi đe dọa C, D là nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản mà C và D là
nạn nhân trực tiếp cảu A và B. A, B đã có hành vi đe dọa C, D nhằm chiếm
đoạt tài sản và trên thực tế thì A, B đã làm được điều đó, chúng đã chiếm
đoạt được tài sản của C và D đó là chiếc xe máy.
 Từ các phân tích trên ta thấy, mặc dù hành vi của A, B chỉ là dùng
súng giả đe dọa người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, nhưng hành vi của A,
B đã thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu pháp lý của tội cướp tài sản. Chính vì
vây, hành vi của A, B cấu thành tội cướp tài sản theo điều 133 BLHS và A,
B sẽ phải chịu TNHS về tội phạm mà mình đã thực hiện.
2. Trường hợp C và D biết là súng giả, chống cự lại, A và B không lấy được
tài sản thì trách nhiệm hình sự của A, B được giải quyết như thế nào? Tại
sao?
Khoản 1 điều 133 BLHS quy định: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công
lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản thì bị
phạt tù từ ba năm đến mười hai năm”.
Theo như quy định của pháp luật hình sự Việt Nam thì tội cướp tài
sản là tội có CTTP hình thức. CTTP hình thức là loại tội phạm mà chỉ riêng
hành vi hành vi nguy hiểm cho xã hội dã thể hiện được đầy đủ tính nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm, hậu quả nguy hiểm cho xã hội không bắt buộc
phải sảy ra.
5


Chính vì vậy, trong trường hợp trên cho dù C và D biết đó là súng giả,
chống cự lại, A và B không lấy được tài sản thì TNHS của A, B vẫn không
thay đổi, A, B vẫn phải chịu TNHS về tội cướp tài sản theo điều 133 BLHS.

Bởi vì: tội cướp tài sản là tội có CTTP hình thức, tội phạm hoàn thành
ngay từ khi người phạm tội tực hiện một trong các hành vi sau: Hành vi
dùng vũ lực,hành vi đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc hành vi khác
làm cho nạn nhân lâm vào tình trạng không thể chống cự được. Trong
trường hợp trên, nếu giả sử C và D biết là sung gải, chống cự là và dù không
lấy được tài sản của C và D nhưng A, B đã thực hiện hành vi đe dọa dùng vũ
lực ngay tức khắc dối với C và D nhằm chiếm đoạt tài sản, ngay từ thời điểm
A, B có hành vi đe dọa C và D là “ngồi im không tao bắn chết” thì tội cướp
tài sản mà A, B thực hiện đã hoàn thành mà không cần thiết là A, B phải
chiếm được tài sản của C và D.
3. E có phạm tội không? Tại sao?
Trong tình huống trên E phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có theo điều 250 BLHS. Vì hành vi của E thỏa mãn
các dấu hiệu pháp lý sau của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người
khac phạm tội mà có:
Thứ nhất: hành vi khách quan của tội phạm là hành vi chứa chấp hoăc
hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Trong đó tài sản
phạm tội được hiểu là tài sản đang được chiếm giữ một cách bất hợp pháp và
tài sản đó là tài sản do người khác thực hiện hành vi phạm tội trước đó mà
có. Hành vi chứa chấp tài sản được hiểu là hành vi giữ tài sản (có thể là trực
tiếp giữ hoặc nhờ người khác giữ) hoặc tạo điều kiện về địa điểm cho việc
cất giữ tài sản. Hành vi tiêu thụ tài sản được hiểu là hành vi có tính chất làm
“dịch chuyển” tài sản từ người khác phạm tội sang người khác. Những hành

6


vi này có thể là hành vi mua tài sản hoặc hành vi tạo điều kiện cho việc mua
bán trao đổi tài sản đó.
Trong tình huống trên thì E đã thực hiện một hành vi đó là mua lại

chiếc xe máy do A, B phạm tội mà có. Hành vi của E được hiểu là hành vi
tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Hành vi trên của E đã thỏa
mãn dấu hiệu về mặt hành vi khách quan của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài
sản do người khác phạm tội mà có.
Thứ hai:lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội biết rõ
tính chất của tài sản là mình chứa chấp là do phạm tội mà có.
Trong tình huống trên tài sản là chiếc xe máy của C, D nhưng A, B lại
đem bán cho E. như ta đã biết chiếc xe máy là thuộc sở hữu của C, D vì vậy
chiếc xe máy khi A, B đem đi bán sẽ có giấy tờ đăng kí sở hữu mang tên C
hoặc D chính vì vậy khi A, B mang đến bán cho E thì E sẽ biết chắc chắn
rằng đây không thể là tào sản của A, B vì giấy tờ sở hữu không mang tên A,
B. Mặt khác nếu cho rằng A, B mua lại chiếc xe của C, D chẳng hạn thì A, B
cũng phải có giấy tở thỏa thuận mua bán giữa họ với C, D.
=> Khi A, B mang xe đến bán, E biết rõ đây không phải là tài sản thuộc sở
hữu của A và B nhưng vẫn mua, vì vậy lỗi mà A phạm phải trong trường
hợp này là lỗi cố ý trực tiếp
Thứ ba: tính chất của hành vi khách quan, khoản 1 điều 250 BLHS
quy định: “người nào không hứa hện trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản
biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng
đến năm mươi triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc
phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”. Theo như quy định của luật hình sự thì
hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có phải thỏa
mãn điều kiện là không hứa hẹn trước thì mới cấu thành tội chứa chấp hoặc
tiêu thụ tài sản do nười khác phạm tội mà có, nếu người nào hứa hẹn trước
7


thì sẽ không phải là chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà
có nữa mà sẽ cấu thành một tội khác được quy định trong BLHS.
Trong tình huống trên việc E mua chiếc xe máy do A, B bán là hành

vi khách quan độc lập với hành vi cướp tài sản của A, B. Việc E tiêu thụ tài
sản mà A, B phạm tội mà có là không hề có hứa hẹn trước. Vì vậy đủ điều
kiện để kết luận hành vi của E không cấu thành một tội khác mà chỉ cấu
thành tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo
điều 250 BLHS
III KẾT LUẬN
Hành vi của A, B trong trường hợp trên đã cấu thành tội cướp tài sản
theo điều 133 BLHS, trường hợp nếu C, D biết là A, B dùng súng giả, chống
cự lại, A, B không lấy được tài sản thì tội danh của A, B vẫn không thay đổi.
Trong tình huống trên không chỉ hành vi của A, B cấu thành tội phạm mà
hành vi của E cũng cấu thành tội phạm – tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
do người khác phạm tội mà có theo điều 250 BLHS.
Trên đây là cách giải quyết của em cho tình huống trên, do kiến thức
còn hạn chế nên bài viết còn nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến
đánh giá của thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!

8


MỤC LỤC
Trang
I.GIỚI THIỆU TÌNH HUỐNG

1

…………………………………………
II.GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG ……………………………………….
1. Hành vi của A và B cấu thành tội gì? Tại sao? ………………………
2. Trường hợp C và D biết là súng giả, chống cự lại, A và B không lấy


2
2

được tài sản thì trách nhiệm hình sự của A, B được giải quyết như thế
nào? Tại sao? ……………………………………………………………
3. E có phạm tội không? Tại sao? ………………………………………
III KẾT LUẬN ………………………………………………………….

5
6
8

9



×