Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Cay lương thực nam ja

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 37 trang )

CÂY LƯƠNG THỰC
I. Giới thiệu chung:
1. Khái niệm:
Cây lương thực là các loại cây trồng mà sản phẩm dùng làm lương thực cho
người, nguồn cung cấp chính về năng lượng và chất bột cacbohydrat trong khẩu
phần thức ăn cho toàn doanh số trên thế giới.
2. Đặc điểm chung:
Đa số cây lương thực đều là cây 1 năm.
Hiện nay, trên thế giới có năm loại cây lương thực được trồng chủ yếu, bao
gồm: ngô (Zea Mays L.), lúa nước (Oryza sativa L.), lúa mì (Triticum sp. tên
khác: tiểu mạch), sắn (Manihot esculenta Crantz tên khác khoai mì) và khoai tây
(Solanum tuberosum L.).
Trong đó, ngô, lúa gạo và lúa mì chiếm khoảng 87% sản lượng lương thực toàn
cầu và khoảng 43% calori từ tất cả mọi lương thực, thực phẩm. Bốn loại cây
lương thực chính của Việt Nam là lúa, ngô, sắn và khoai lang.
Các loại hạt cốc khác, diện tích trồng và sản lượng ít hơn, có Đại
mạch (Hordeum vulgare L.), cao lương (Sorghum, tên khác lúa miến, mộc
mạch), kê (Setaria L.Beauv kê hạt vàng, kê đuôi chồn; Panicum miliaceum L.
kê Nga; Pennisetum glaucum lúa miêu, kê trân châu, kê ngọc, kê Xu
đăng; Eleusine coracana L. Gaertn), Hắc mạch (Secale cereale, tên khác lúa
mạch đen, Tiểu hắc mạch(Triticale, Triticum x Secale, cây lai giữa tiểu mạch và
hắc mạch), Yến mạch (Avena sativa), Kiều mạch (Fagopyrum
esculentumMoench = Polygonum fagopyrum L., tên khác mạch hoa, mạch ba
góc), Fonio, Quinoa.
Các loại cây có củ khác có khoai môn (Colocasia esculenta L. Schott, khoai
sọ (Colocasia antiquorum Schott = C.esculentaL.Schott), củ mỡ (Dioscorea
alata L., tên khác củ cái, khoai vạc, khoai ngọt), củ từ (Dioscorea
esculenta (Lour) Burk tên khác khoai từ), dong riềng (Canna edulis Ker., tên
khác khoai riềng, khoai đao), củ dong (Maranta arundinacea, tên khác dong đao,
dong tây, củ bình tinh, củ trút), khoai mài (Dioscorea persimilis Prain et Burk,
tên khác củ mài, hoài sơn), sắn dây (Pueraria thomsoni Benth),khoai


nưa (Amorphophallus rivieri Dur.).
Ở châu Phi, chuối bột cũng được dùng làm lương thực tương tự như việc sử
dụng qủa sakê (Artocarpus indisa) ở nước Nhật. Tại Ấn Độ, một số nước châu
Phi và một số đảo ở Thái Bình Dương, những loại đậu đỗ ăn hạt như đậu


trắng, đậu đen, đậu xanh,đậu đỏ,đậu trứng cuốc, hay thân giàu tinh bột từ một
số cây như cây báng… cũng được sử dụng làm lương thực tương tự như thực
phẩm ở Việt Nam.
Hạt hoặc củ của cây lương thực là thành phần chính trong khẩu phần ăn của
những người dân nghèo tại nhiều nước đang phát triển.
Dưới đây là một số thông tin và hình ảnh về những cây lương thực được trồng
phổ biến ở Việt Nam và trên thế giới:
Lúa nước:
Lúa nước là một trong năm loại cây lương thực chính của thế giới, chúng có
nguồn gốc ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới khu vực đông nam châu Á và châu
Phi. Hai loài này cung cấp hơn 1/5 toàn bộ lượng calo tiêu thụ bởi con người.
Theo dự báo của FAO, sản lượng lúa ước tính cho năm nay sẽ đạt 668 triệu tấn
thóc, tương đương 446 triệu tấn gạo, nhưng đó sẽ là sản lượng cao thứ hai kể từ
năm 2000, chỉ kém sản lượng kỷ lục của năm 2008.

Ngô:
Ngô là một loại ngũ cốc quan trọng trên thế giới, đứng thứ ba sau lúa mì và lúa
gạo. Sản lượng sản xuất ngô ở thế giới trung bình hàng năm từ 696,2 đến 723,3
triệu tấn (năm 2005-2007). Trong đó nước Mỹ sản xuất 40,62% tổng sản lượng
ngô và 59,38% do các nước khác sản xuất. Sản lượng ngô xuất khẩu trên thế
giới trung bình hàng năm từ 82,6 đến 86,7 triệu tấn. Trong đó, Mỹ xuất khẩu
64,41 % tổng sản lượng và các nước khác chiếm 35,59 %



Khoai tây:
Khoai tây là loài cây nông nghiệp ngắn ngày, trồng lấy củ chứa tinh bột, loại
cây trồng lấy củ rộng rãi nhất thế giới, và là loại cây trồng phổ biến thứ 4 về mặt
sản lượng tươi - xếp sau lúa, lúa mì và ngô. Khoai tây có nguồn gốc từ Peru,
trong nghiên cứu được David Spooner xuất bản năm 2005 thì quê hương của
cây khoai tây là một khu vực phía nam Peru. Hiện tại người ta cho rằng khoai
tây đã được du nhập vào châu Âu vào khoảng thập niên 1570 và sau đó nó đã
được những người đi biển châu Âu đưa đến các lãnh thổ trên khắp thế giới.

Lúa mì:
Lúa mì hay tiểu mạch là một nhóm các loài cỏ đã thuần dưỡng từ khu vực
Levant và được gieo trồng rộng khắp thế giới. Về tổng thể, lúa mì là thực phẩm
quan trọng cho loài người, sản lượng của nó chỉ đứng sau ngô và lúa gạo trong
số các loài cây lương thực. Hạt lúa mì là một loại lương thực chung được sử
dụng để làm bột mì trong sản xuất các loại bánh mì; mì sợi, bánh, kẹo v.v...
cũng như được lên men để sản xuất bia, rượu, hay nhiên liệu sinh học. Theo dự
báo của Hãng phân tích ở Đức, F.O.Licht, sản lượng lúa mì thế giới vụ 2009/10
lên 659 triệu tấn, do khả năng một số nước sẽ được mùa. Con số mới này cao


hơn 2% so với dự báo hồi tháng 8, mặc dù vẫn thấp hơn mức 684,5 triệu tấn sản
xuất trong vụ 2008/09.

Sắn:
Sắn là cây lương thực ăn củ hàng năm, có thể sống lâu năm, thuộc họ thầu dầu
Euphorbiaceae. Cây sắn cao 2-3m, đường kính tán 50-100 cm. Lá khía thành
nhiều thùy, có thể dùng để làm thức ăn chăn nuôi gia súc. Rễ ngang phát triển
thành củ và tích luỹ tinh bột. Sắn có thời gian sinh trưởng thay đổi từ 6 đến 12
tháng, có nơi tới 18 tháng, tùy thuộc giống, vụ trồng, địa bàn trồng và mục đích
sử dụng. Thái Lan chiếm trên 85% lượng xuất khẩu sắn toàn cầu, kế đến là

Indonesia và Việt Nam. Thị trường xuất khẩu sắn chủ yếu của Thái Lan là Trung
Quốc, Đài Loan, Nhật Bản và cộng đồng châu Âu với tỷ trọng xuất khẩu sắn
khoảng 40% bột và tinh bột sắn, 25% là sắn lát và sắn viên.

Khoai lang:
Khoai lang là một loài cây nông nghiệp với các rễ củ lớn, chứa nhiều tinh bột,
có vị ngọt. Nó là một nguồn cung cấp rau ăn củ quan trọng, được sử dụng trong
vai trò của cả rau lẫn lương thực. Năm 2006, toàn thế giới có 111 nước trồng
khoai lang (FAO 2008) trên diện tích 8,99 triệu ha, trong đó 95% tại các nước
đang phát triển, năng suất bình quân 13,72 tấn/ha. Việt Nam có sản lượng khoai
lang 1,45 triệu tấn, đứng thứ năm của toàn thế giới sau Trung Quốc (100,22


triệu tấn), Nigeria (3,46 triệu tấn), Uganda (2,62 triệu tấn) và Indonesia (1,85
triệu tấn). Khoai lang dùng làm lương thực cho người, thức ăn chăn nuôi và làm
nguyên liệu chế biến tinh bột, rượu, cồn, xi rô, nước giải khát, bánh kẹo, mì,
miến, phụ gia dược phẩm, màng phủ sinh học.

Cao lương:
Cây cao lương (lúa miến) là một trong những loại cây ngũ cốc quan trọng nhất
thế giới. Sản lượng cao lương toàn cầu năm 2006 đạt 56.525.765 tấn, so với
năm 2005 đạt 59.214.205 tấn và năm 1961 đạt 40.931.625 tấn. Cao lương là cây
lương thực ở châu Á, châu Phi và sử dụng khắp thế giới để nuôi gia cầm, gia
súc.Hiện nay, các nhà khoa học đang tìm cách cải tiến loại cây này bằng cách
đưa đặc tính chịu lạnh vào cây lúa miến nhằm cho phép lúa miến trồng được ở
nhiều nơi hơn và trồng được cả trong giai đoạn đầu xuân, thời điểm mà độ ẩm
trở nên cao hơn.


Kê:

Kê là tên gọi chung để chỉ một vài loại ngũ cốc có thân cỏ giống lúa, hạt nhỏ,
thoạt nhìn tương tự cỏ lồng vực nhưng hạt to và mẩy hơn. Hạt kê làm lương
thực như gạo cho người ăn hoặc chim chóc. Sản lượng kê toàn cầu năm 2006
đạt 31.783.428 tấn, so với năm 2005 đạt 30.589.322 tấn và năm 1961 đạt
25,703,968 tấn. Kê là nhóm các loài cây lương thực trông tương tự nhưng khác
biệt, nguồn lương thực quan trọng tại châu Á và châu Phi và để nuôi gia cầm,
gia súc.

Đại mạch:
Đại mạch là một loại cây lương thực được trồng để sản xuất mạch nha và nuôi
gia cầm, gia súc tại các khu vực quá lạnh hay đất quá nghèo dinh dưỡng. Sản
lượng đại mạch toàn cầu năm 2006 đạt 138.704.379 tấn, con số này năm 2005 là
141.334.270 tấn và năm 1961là 72.411.104 tấn.

II. MỘT SỐ LOẠI CÂY LƯƠNG
THỰC CHÍNH Ở VIỆT NAM:


Phân bố:

-Vùng núi và trung du Bắc Bộ: lúa,
ngô và sắn
- Đồng bằng sông Hồng: lúa, ngô
- Bắc và Duyên hải Nam Trung Bộ: lúa, ngô


- Đồng bằng sông CửuLong: lúa
- Đông Nam Bộ: lúa, ngô, sắn.




Sản lượng:
Bảng 1: Sản lượng một số loại cây lương thực chính ở Việt Nam (Nghìn
tấn).
2010

2011

2012

2013

2014

Ước 2015

Lúa gạo 40.005,60 42.398,50 43.737,80 44.039,10 44.975,00 45.100,00
Chỉ số
phát triển
(Năm
102,71
trước
=100)
Ngô
4.625,70
(bắp)
Chỉ số
phát triển
(Năm
105,81

trước
=100)
Sắn (củ
8.595,6
mì)
Chỉ số
phát triển
(Năm
100,76
trước
=100)
Khoai
1.318,5
lang
Chỉ số
phát triển
(Năm
108,85
trước
=100)


105,98

103,16

100,69

102,13


100,28

4.835,60

4.973,60

5.191,20

5.191,70

5.800,00

104,54

102,85

104,38

100,01

111,72

9.897,9

9.735,4

9.757,3

10.225,3


10.700,00

115,15

98,36

100,22

104,80

104,64

1.362,1

1.427,3

1.358,1

1.401,0

1.450,00

103,31

104,79

95,15

103,16


103,50

Nguồn: Tổng cục Thống kê và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn


1. Lúa nước:
Là cây lương thực quan trọng nhất, chiếm diện tích gieo trồng lớn nhất. Cây
lương thực quan trọng thứ hai là ngô đang có xu hướng tăng ở Đồng bằng sông
Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên và Duyên hải miền Trung.

Lúa là một trong năm loại cây lương thực chính của thế giới, cùng
với ngô (Zea Mays L.), lúa mì (Triticum sp. tên khác: tiểu mạch), sắn (Manihot
esculenta Crantz, tên khác khoai mì) và khoai tây (Solanum tuberosum L.)
Lúa

Cây lúa (Oryza sativa)
Phân loại khoa học

Giới (regnum)

Plantae

(không phân
hạng)

Angiospermae

(không phân
hạng)


Monocots


(không phân
hạng)

Commelinids

Bộ (ordo)

Poales

Họ (familia)

Poaceae

Chi (genus)

Oryza

Lúa là các loài thực vật sống một năm, có thể cao tới 1-1,8 m, đôi khi cao
hơn, với các lá mỏng, hẹp khoảng (2-2,5 cm) và dài 50–100 cm. Tuỳ thời kì
sinh trưởng, phát triển mà lá lúa có màu khác nhau. Khi lúa chín ngả sang màu
vàng. Các hoa nhỏ tự thụ phấn mọc thành các cụm hoa phân nhánh cong hay rủ
xuống, dài 35–50 cm. Hạt là loại quả thóc (hạt nhỏ, cứng của các loại cây ngũ
cốc) dài 5–12 mm và dày 2–3 mm. Cây lúa non được gọi là mạ. Sau khi ngâm
ủ, người ta có thể gieo thẳng các hạt lúa đã nảy mầm vào ruộng lúa đã
được cày, bừa kỹ hoặc qua giai đoạn gieo mạ trên ruộng riêng để cây lúa non có
sức phát triển tốt, sau một khoảng thời gian thì nhổ mạ để cấy trong ruộng lúa
chính. Sản phẩm thu được từ cây lúa là hạt lúa. Sau khi xát bỏ lớp vỏ ngoài thu

được sản phẩm chính là gạo và các phụ phẩm là cám và trấu. Gạo là nguồn
lương thực chủ yếu của hơn một nửa dân số thế giới.
Lúa thông thường được gieo hay cấy trong các ruộng lúa nước - các mảnh
ruộng được tưới hay ngâm trong một lớp nước không sâu lắm với mục đích đảm
bảo nguồn nước cho cây lúa và ngăn không cho cỏ dại phát triển. Khi cây lúa đã
phát triển và trở thành chủ yếu trong các ruộng lúa thì nước có thể tưới tiêu theo
chu kỳ cho đến khi thu hoạch mùa màng. Các ruộng lúa có tưới tiêu nước làm
tăng năng suất, mặc dù lúa có thể trồng tại các vùng đất khô hơn (chẳng hạn
các ruộng bậc thang ở sườn đồi) với sự kiểm soát cỏ dại nhờ các biện pháp hóa
học.
Ở một vài khu vực có mực nước sâu, người ta cũng có thể trồng các giống lúa
mà dân gian gọi nôm na là lúa nổi. Các giống lúa này có thân dài có thể chịu
được mực nước sâu tới trên 2 mét (6 ft).
Hạt thóc trước tiên được xay để tách lớp vỏ ngoài, đây là gạo xay còn lẫn
trấu.Quá trình này có thể được tiếp tục, nhằm loại bỏ mầm hạt và phần còn sót
lại của vỏ, gọi là cám, để tạo ra gạo.


2. Ngô:
HÀM LƯỢNG DINH DƯỠNG TRONG LÚA:
Lúa gạo là thực phẩm chính của hơn phân nửa dân tộc thế giới và cung cấp hơn
20% tổng năng lượng hấp thụ hàng ngày của nhân loại. Riêng hơn 2 tỉ người
châu Á, lúa gạo cung cấp từ 60 đến 70% calories. Hiện nay lúa gạo ngày càng
trở nên phổ biến sâu rộng ở châu Mỹ, Trung Đông và nhất là châu Phi vì lúa gạo
được xem như thực phẩm bổ dưỡng lành mạnh cho sức khoẻ và thích hợp cho
đa dạng hóa các bữa ăn hàng ngày. Khẩu phần gạo hàng năm cho mỗi đầu người
châu Á từ 60 đến 200 kg, Việt Nam gần 170 kg. Gạo và phó sản còn dùng để
chế biến thành thức ăn như bánh, bánh tráng, bún, bột, thức ăn nhanh, dầu, hoặc
các thức uống... Gạo là loại thực phẩm carbohydrate hỗn tạp, chứa tinh bột
(80%), một thành phần chủ yếu cung cấp nhiều năng lượng, protein (7,5%),

nước (12%), vitamin và các chất khoáng (0,5%) cần thiết cho cơ thể.

Chất tinh bột chứa trong hạt gạo dưới hình thức carbohydrate (carb) và trong
con người dưới dạng glucogen, gồm loại carb đơn giản như chất đường glucose,
fructuose, lactose và sucrose; và loại carb hỗn tạp là một chuỗi phân tử glucose
nối kết nhau chứa nhiều chất sợi. Tinh bột cung cấp phần lớn năng lượng cho
con người. Gạo trắng chứa carb rất cao, độ 82 gram trong mỗi 100 gram.Trong
tinh bột có hai thành phần - amylose và amylopectin. Hai loại tinh bột này ảnh
hưởng rất nhiều đến hạt cơm sau khi nấu, nhưng không ảnh hưởng đến giá trị
dinh dưỡng.
Chất protein: Hàm lượng Protêin chủ yếu trong khoảng 7- 8%. Các giống lúa
nếp có hàm lượng prôtêin cao hơn lúa tẻ
Vitamin: Cũng giống như các loại ngũ cốc khác, lúa gạo không chứa các loại
vitamin A, C hay D, nhưng có vitamin B-1, vitamin B-2, niacin, vitamin E, ít
chất sắt và kẽm và nhiều chất khoáng Mg, P, K, Ca.

Riboflavin: Gạo chứa ít chất riboflavin hay vitamin B2, rất cần thiết cho sản
xuất năng lượng và nuôi dưỡng bì mô của mắt và da. Gạo trắng chứa 0,02 mg
B2/100 gram.


Niacin là yếu tố cần thiết để phân tách chất glucose cho năng lượng và cho da
và hoạt động bình thường của hệ thần kinh. Gạo trắng chứa 1,8 mg Niacin/100
gram.
Vitamin E là một loại sinh tố tan trong mỡ, giúp cho vitamin A và các chất béo
chống oxyd hóa trong tế bào và bảo vệ hủy hoại của bì mô của cơ thể.
Ngoài ra, gạo còn cung cấp những chất khoáng cần thiết cho cơ thể với ít chất
sắt (thành phần của hồng huyết cầu và enzym) và kẽm (giúp chống oxyd hóa
trong máu, thành phần của enzym trong tăng trưởng, phân chia tế bào), nhưng
nhiều chất P (giúp xương, răng, biến hóa trong cơ thể), K (cho tổng hợp protein,

hoạt động enzym), Ca (giúp xương, răng và điều hòa cơ thể), muối (giữ cân
bằng chất lõng trong cơ thể, hoạt động bình thường của hệ thần kinh và bắp
thịt)...
Thành phần dinh dưỡng của 100 g gạo trắng, gạo lức và nếp
Gạo trắng

Gạo lức

Gạo nếp

Năng lượng, kcal

361

362

355

Nước, g

10,2

11,2

11,7

Chất béo, g

0,8


2,4

0,6

Chất sợi, g

0,6

2,8

0

Carbohydrate, g

82,0

77,7

81

Protein, g

6,0

7,4

6,3

Vitamin B-1, mg


0,07

0,26

0,08

Vitamin B-2, mg,

0,02

0,04

0,03

Niacin, mg

1,8

5,5

1,8

Calcium, mg

8

12

7


Phosphorus, mg

87

255

63

Kali, mg

111

326

0

31

12

0

Chất muối, mg

CÁCH BẢO QUẢN:


Thu hoạch: Lúamớithuhoạchcóđộẩmcaonêndễnảymầm, men mốclàmlúabịhư.
Đểlúakhôngbịhỏng, trongvòng 48
giờsaukhithuhoạchphảilàmkhôlúađểđộẩmchỉcòn 20%. Khilúacóđộẩmtừ 13 –

14% cóthểbảoquảnđượctừ 2 – 3 tháng, độẩmtừ 12 – 12,5%, bảoquảnđượchơn 3
tháng.
Làmsạch:Saukhiđập, tuốt, cầnloạibỏtạpchấtvôcơ (cát, sỏi, đá, kimloại…)
cũngnhưtạpchấthữucơ (látươi, lákhô, rơmrạ…) lẫnvàokhituốt.
Phân loại: Loại bỏ hạt xanh, hạt lép, hạt bị tróc vỏ, hạt vỡ trong quá trình vận
chuyển, đập, tuốt… cũng như hạt sâu bệnh. Có thể sàng hoặc nhờ sức gió. Chỉ
nênbảoquảnnhữnghạtlúahoàntoàntốtvàchấtlượngđảmbảo.
Làmkhô:
- Phươngphápphơinhanh: Phơidướiánhnắngchóichang, nhiệtđộlênđến 40 độ C.
Chỉcầnphơiliêntụctừ 8 – 9g sángđến 4 – 5g chiềutronghai,
bangàynắngtốtlàcóthểxayxátđược.
- Phươngphápphơilâu: Tuytốnthờigiannhưnggạoíttấmhơn.
Lúađượctrảithànhluống, ngàyđầuphơi 2g, ngàythứhai 3g, ngàythứba 4g. Cứ 15
phút, cácluốngđượccào, đảotheocáchướngkhácnhau.
Vàtốtnhấtlàsaukhiphơinênđểlúanơibóngmát, thoánggió. Nhữngngàytiếptheo,
lúacóthểphơi 5 – 6g chođếnkhicóđộẩmthíchhợp.
- Phươngphápnhântạo: sấylúa. Ưuđiểmlàlúacóthểđượclàmkhôbấtcứlúcnào,
độẩmđượckhốngchếthíchhợp, hiệusuấtthuhồigạocao.
Bảoquản: Vỏtrấucótácdụnghạnchếtácđộngcủangoạicảnhnhư: nhiệtđộ,
độẩmvàngăncảnđượcsựxâmnhiễmcủacôntrùng, nấmmốc… Tuynhiên,
tốthơnhếtlàsaukhiphơikhô, quạtsạch, lúađượcđemchếbiến, sửdụngngay hay
đưavàobảoquản. Trongquátrìnhbảoquảncầnđảmbảolúakhôngbịẩmướt, khôngbị
men mốcxâmhại… Lúasaukhiphơikhôđếnđộẩmantoàn,
loạibỏtạpchấtcầnđượcbảoquảnthíchhợptrongcácdụngcụnhư: chum, bao, bồ,
bịch, thùng phi, vựa, hòm… đểbảoquảntạigiađìnhnhưngsốlượngkhônglớn.
Vớisốlượnglớnthìphảibảoquảntrongkhovớikhônggianlớnđượcxâydựngtheođúng
yêucầukỹthuậtkhibảoquản.
2.Ngô:
Ngô, bắp hay bẹ là một loại cây lương thực được thuần canh tại khu vực Trung
Mỹ và sau đó lan tỏa ra khắp châu Mỹ. Ngô lan tỏa ra phần còn lại của thế giới



sau khi có tiếp xúc của người châu Âu với châu Mỹvào cuối thế kỷ 15, đầu thế
kỷ 16.
Ngô là cây lương thực được gieo trồng nhiều nhất tại châu Mỹ (Chỉ riêng tại
Hoa Kỳ thì sản lượng đã là khoảng 270 triệu tấn mỗi năm).Các giống ngô lai
ghép được các nông dân ưa chuộng hơn so với các giống, thứ ngô thông thường
do có năng suất cao vì có ưu thế giống lai. Trong khi một vài giống, thứ ngô có
thể cao tới 7 m (23 ft) tại một số nơi,[1] thì các giống ngô thương phẩm đã được
tạo ra với chiều cao chỉ khoảng 2,5 m (8 ft). Ngô ngọt (Zea
mays var. rugosa hay Zea mays var. saccharata) thông thường thấp hơn so với
các thứ, giống ngô khác.

Ngô(bắp) mĩ

Ngô(bắp) dâu tây
Ngô

Ngô(băp) tím

Ngô(bắp) biến đổi gen


Các bắp ngô từ các giống khác
nhau
Phân loại khoa học

Giới (regnum)

Plantae


(không phân hạng) Angiosper
mae
(không phân hạng) Monocots
(không phân hạng) Commelini
ds
Bộ (ordo)

Poales

Họ (familia)

Poaceae

Chi (genus)

Zea

Loài (species)

Z. mays



Giá trị dinh dưỡng cho mỗi 100 g (3,5 oz)

Năng lượng

360 kJ (86 kcal)


Carbohydrates

19 g

Đường

3.2 g

Chất xơ thực
phẩm

2.7 g

Chất béo

1.2 g

Chất đạm

3.2 g

Vitamin

Vitamin A equiv.

(1%)
10 μg

Thiamine (B1)


(17%)
0.2 mg

Niacin (B3)

(11%)
1.7 mg

Folate (B9)

(12%)
46 μg

Vitamin C

(8%)
7 mg

Chất khoáng

Sắt

(4%)
0.5 mg

Magiê

(10%)
37 mg


Kali

(6%)


270 mg


Thân cây ngô trông tương tự như thân cây của các loài tre và các khớp nối
(các mấu hay mắt) có thể có cách nhau khoảng 20–30 cm (8–12 inch). Ngô có hình
thái phát triển rất khác biệt; các lá hình mũi mác rộng bản, dài 50–100 cm và rộng
5–10 cm (2–4 ft trên 2-4 inch); thân cây thẳng, thông thường cao 2–3 m (7–10 ft),
với nhiều mấu, với các lá tỏa ra từ mỗi mấu với bẹ nhẵn. Dưới các lá này và ôm sát
thân cây là các bắp. Khi còn non chúng dài ra khoảng 3 cm mỗi ngày.Từ các đốt ở
phía dưới sinh ra một số rễ.

Các bắp ngô (bẹ ngô) là các cụm hoa cái hình bông, được bao bọc trong một số lớp
lá, và được các lá này bao chặt vào thân đến mức chúng không lộ ra cho đến khi
xuất hiện các râu ngô màu hung vàng từ vòng lá vào cuối của bắp ngô. Râu ngô là
các núm nhụy thuôn dài trông giống như một búi tóc, ban đầu màu xanh lục và sau
đó chuyển dần sang màu hung đỏ hay hung vàng. Khi được gieo trồng để làm cỏ ủ
chua cho gia súc thì người ta gieo hạt dày dặc hơn và thu hoạch khi cây ngô bắt
đầu xuất hiện các bắp non, do vậy tỷ lệ bắp là thấp. Một vài giống ngô cũng được
tạo ra với tỷ lệ bắp non cao hơn với mục đích tạo nguồn cung cấp các loại "ngô bao
tử" được sử dụng trong ẩm thực của một số quốc gia tại châu Á.
Ngô là loại thực vật cần thời gian ban đêm dài và ra hoa trong một lượng nhất
định ngày nhiệt độ tăng trưởng > 10 °C (50 °F) trong môi trường mà nó thích nghi.
Biên độ ảnh hưởng mà thời gian ban đêm dài có đối với số ngày cần phải có để
ngô ra hoa được quy định theo di truyền và được điều chỉnh bởi hệ thống sắc tố



thực vật. Tính chu kỳ theo ánh sáng có thể bị sai lệch ở các giống cây trồng cho
khu vực nhiệt đới, nơi mà thời gian ban ngày kéo dài ở các cao độ lớn làm cho cây
sẽ phát triển rất cao và chúng không đủ thời gian để ra hoa, tạo hạt trước khi bị
chết vì sương giá. Tuy nhiên, đặc tính này là hữu ích khi sử dụng ngô làm nguồn
cung cấp nhiên liệu sinh học
Trên đỉnh của thân cây là cụm hoa đuôi sóc hình chùy chứa các hoa đực, được gọi
là cờ ngô.Mỗi râu ngô đều có thể được thụ phấn để tạo ra một hạt ngô trên bắp.
Các bắp ngô non có thể dùng làm rau ăn với toàn bộ lõi và râu, nhưng khi bắp đã
già (thường là vài tháng sau khi trổ hoa) thì lõi ngô trở nên cứng và râu thì khô đi
nên không ăn được. Vào cuối mỗi vụ mùa, các hạt ngô cũng khô và cứng, rất khó
ăn nếu không được làm mềm bằng cách luộc. Các kỹ thuật hiện đại trong trồng trọt
tại các nước phát triển thông thường dựa trên việc gieo hạt dày hơn, tạo ra trung
bình khoảng 0,9 bắp
Các hạt ngô là các dạng quả thóc với vỏ quả hợp nhất với lớp áo hạt, là kiểu quả
thông thường ở họ Hòa thảo (Poaceae).Nó gần giống như một loại quả phức về cấu
trúc, ngoại trừ một điều là các quả riêng biệt (hạt ngô) không bao giờ hợp nhất
thành một khối duy nhất. Các hạt ngô có kích thước cỡ hạt đậu Hà Lan, và bám
chặt thành các hàng tương đối đều xung quanh một lõi trắng để tạo ra bắp ngô. Mỗi
bắp ngô dài khoảng 10 – 25 cm (4 - 10 inch), chứa khoảng 200 - 400 hạt. Các hạt
có màu như ánh đen, xám xanh, đỏ, trắng và vàng.Khi được nghiền thành bột, ngô
tạo ra nhiều bột và ít cám hơn so với lúa mì. Tuy nhiên, nó không có gluten như ở
lúa mì và như thế sẽ làm cho các thức ăn dạng nướng có độ trương nở nhỏ hơn.
Giống ngô tích lũy nhiều đường hơn tinh bột trong bắp (ngô ngọt) được tiêu dùng
chủ yếu dưới dạng rau.
Thân cây ngô non tích lũy một chất kháng sinh mạnh là DIMBOA (2,4-dihydroxy7-methoxy-1,4-benzoxazin-3-on). DIMBOA là thành viên của nhóm các axít
hydroxamic (còn gọi là các benzoxazinoit) có khả năng phòng chống tự nhiên đối
với một loạt các loài gây hại như côn trùng, nấm và vi khuẩn gây bệnh. DIMBOA
cũng được tìm thấy trong một số loài "cỏ" có họ hàng gần, cụ thể là lúa mì.Giống
ngô đột biến (bx) thiếu DIMBOA rất dễ bị các loài rệp và nấm gây bệnh. DIMBOA

cũng là chất có tác dụng đề kháng tương đối của ngô non đối với sâu ngô bore châu
Âu (họ Crambidae). Khi ngô trở nên già hơn thì hàm lượng DIMBOA cũng như
khả năng đề kháng trước sâu bore cũng giảm đi.


Ngô được gieo trồng rộng khắp thế giới với sản lượng hàng năm cao hơn bất kỳ
cây lương thực nào. Trong khi Hoa Kỳ sản xuất gần một nửa sản lượng chung của
thế giới thì các nước sản xuất hàng đầu khác còn có Trung
Quốc, Brasil, México, Argentina, Ấn Độ, Pháp, Indonesia, Nam Phi và Italia. Sản
lượng toàn thế giới năm 2003 là trên 600 triệu tấn — hơn cả lúa và lúa mì.Năm
2004, gần 33 triệu ha ngô đã được gieo trồng trên khắp thế giới, với giá trị khoảng
trên 23 tỷ USD.
Do ngô chịu lạnh kém nên trong khu vực ôn đới người ta trồng ngô vào mùa xuân.
Hệ thống rễ của nó nói chung là nông vì thế ngô phụ thuộc nhiều vào độ ẩm của
đất. Là một loại thực vật C4 (thực vật sử dụng cơ chế quang hợp C4), nên ngô là
loại cây lương thực tương đối có hiệu quả hơn trong sử dụng nước so với các thực
vật C3 như các loại cây lương thực nhỏ, cỏ linh lăng hay đậu tương. Ngô nhạy cảm
nhất với khô hạn khi trổ bắp, lúc hoa (râu) ngô đã sẵn sàng cho việc thụ phấn.
Tại Hoa Kỳ, vụ thu hoạch bội thu theo truyền thống được dự đoán là khi ngô "cao
ngang đầu gối vào ngày 4 tháng 7", mặc dù các giống lai ghép hiện nay nói chung
đều vượt quá tỷ lệ phát triển này. Ngô sử dụng để làm cỏ ủ chua được thu hoạch
khi cây còn non và bắp chưa già. Ngô ngọt được thu hoạch khi hạt ở "giai đoạn
sữa", sau khi thụ phấn nhưng trước khi hình thành tinh bột, ở Mỹ là vào khoảng
cuối mùa hè, đầu đến giữa mùa thu. Ngô lấy hạt được để lại trên đồng cho tới cuối
thu nhằm làm khô hạt và đôi khi người ta còn để nó qua mùa đông hay đầu mùa
xuân. Tầm quan trọng của lượng hơi ẩm vừa đủ trong đất được thể hiện rõ nét tại
nhiều khu vực thuộc châu Phi, nơi mà sự khô hạn mang tính chu kỳ luôn gây
ra nạn đói do mùa màng thất bại.



Bảo quản:Các bước bảo quản ngô khỏi vi khuẩn và côn trùng:
Thu hoạch

Tuốt tẽ hạt

Làm sạch và phân loại

Làm khô

Làm nguội

Phân loại theo chất lượng

Bảo quản trong các thung, chum hay kho silô
Ngô trong kho phải thông thoáng, sạch sẽ, không có lỗ hở nhỏ từ trong ra ngoài
nhà kho
Sử dụng
Chủ yếu được sử dụng làm lương thực, thực phẩm cho gia súc, gia câm, cho con
người…
Ngoài ra, hạt ngô có nhiều ứng dụng trong công nghiệp, như chuyển hóa thành
chất dẻo hay vải sợi. Một lượng ngô nhất định được thủy phân hay xử lý
bằng enzym để sản xuất xi rô, cụ thể là xi rô chứa nhiều fructoza, gọi là xi rô ngô,
một tác nhân làm ngọt và đôi khi được lên men để sau đó chưng cất trong sản xuất
một vài dạng rượu. Một vài dạng ngô cũng được trồng làm cây cảnh.Lõi ngô cũng
có thể khoan lỗ và dùng như một loại tẩu hút thuốc rẻ tiền, lần đầu tiên được sản
xuất tại Mỹ vào năm 1869.Lõi ngô cũng có thể dùng như một nguồn nhiên liệu.Các
núm nhụy từ hoa cái của ngô (râu ngô), cũng được buôn bán như là một loại thảo
dược có tác dụng lợi tiểu.




3. Sắn:
Sắn là cây lương thực quan trọng thứ ba đang có xu hướng tăng ở vùng
Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, vùng núi và trung du Bắc Bộ. Cây lương thực quan
trọng thứ tư là khoai lang có xu hướng giảm ở hầu hết các vùng. Những cây lương
thực, thực phẩm lấy củ và lấy hạt khác (như khoai tây, khoai môn, khoai mỡ, dong
riềng, hoàng tinh cao lương, lúa mì, lúa miến, lúa mạch) chiếm tỷ trọng không
nhiều. Ngô, lúa, lúa gạo và lúa mì chiếm khoảng 87% sản lượng lương thực toàn
cầu và khoảng 43% calori từ tất cả mọi lương thực, thực phẩm vào năm 2003.
SẮN: Năm 2008 toàn thế giới có 105 nước trồng sắn (FAO 2009) với tổng
diện tích 18,69 triệu ha, năng suất 12,46 tấn/ ha, sản lượng 232,95 triệu tấn. Sắn
được trồng nhiều nhất tại châu Phi 11,98 triệu ha (64% diện tích sắn toàn cầu), kế
đến là châu Á 3,96 triệu ha (21%) và châu Mỹ La tinh 2,72 triệu ha (15%). Việt
Nam đứng thứ bảy trên thế giới về sản lượng sắn (9,39 triệu tấn)với diện tích thu
hoạch năm 2008 là 555,70 nghìn ha, năng suất bình quân 16,90 tấn/ha.
Sắn là cây lương thực-thực phẩm chính của nhiều nước châu Phi và làm thức
ăn cho gia cầm, gia súc. Sắn cũng là nguyên liệu chính để chế biến cồn sinh
học (bio-ethanol), rượu, tinh bột,tinh bột biến tính, xi rô, nước giải khát, bánh kẹo,
bún miến, mì ăn liền, chất hồ vải, phụ gia dược phẩm, màng phủ sinh học
(bioplastic). Đặc biệt, hướng chế biến cồn sinh học bằng nguyên liệu sắn lát hoặc
bột sắn nghiền có lợi thế cạnh tranh rất cao vì 2,5 kg sắn lát khô (tương đương
6,0 kg sắn củ tươi)chế được một lít cồn sinh học để sử dụng làm xăng pha cồn E10.
Sắn


Lá cây khoai mì

Củ khoai mì (sắn)
Phân loại khoa học


Giới (regnum)

Plantae

(không phân hạng)

Angiospermae

(không phân hạng)

Eudicots

(không phân hạng)

Rosids

Bộ (ordo)

Malpighiales

Họ (familia)

Euphorbiaceae

Phân
họ (subfamilia)

Crotonoideae



Tông (tribus)

Manihoteae

Chi (genus)

Manihot

Loài (species)

M. esculenta

Đặc điểm: Cây khoai mì cao 2–3 m, lá khía thành nhiều thùy, rễ ngang phát
triển thành củ và tích luỹ tinh bột, thời gian sinh trưởng 6 đến 12 tháng, có nơi tới
18 tháng, tùy giống, vụ trồng, địa bàn trồng và mục đích sử dụng.

Dinh dưỡng:
Củ sắn tươi có tỷ lệ chất khô 38-40%, tinh bột 16-32%; chất protein, béo, xơ, tro
trong 100g được tương ứng là 0,8-2,5 g, 0,2-0,3 g, 1,1-1,7 g, 0,6-0,9 g; chất muối
khoáng và vitamin trong 100 g củ sắn là 18,8-22,5 mg Ca, 22,5-25,4 mg P,
0,02 mg B1, 0,02 mg B2, 0,5 mg PP. Trong củ sắn, hàm lượng các acid amin không
được cân đối, thừa arginin nhưng lại thiếu các acid amin chứa lưu huỳnh. Trong lá
và củ sắn ngoài các chất dinh dưỡng cũng chứa một lượng độc tố (HCN) đáng
kể.Các giống sắn ngọt có 80–110 mg HCN/kg lá tươi và 20–30 mg/kg củ tươi.Các
giống sắn đắng chứa 160–240 mg HCN/kg lá tươi và 60–150 mg/kg củ tươi. Liều
gây độc cho một người lớn là 20 mg HCN, liều gây chết người là 50 mg HCN cho
mỗi 50 kg thể trọng. Tuỳ theo giống, vỏ củ, lõi củ, thịt củ, điều kiện đất đai, chế độ
canh tác, thời gian thu hoạch mà hàm lượng HCN có khác nhau. Tuy nhiên, ngâm,
luộc, sơ chế khô, ủ chua là những phương thức cho phép loại bỏ phần lớn độc tố
HCN.

Ngô độc khoai mì: Ngộ độc sắn xảy ra sau khi ăn sắn chưa được chế biến đúng
cách và là một nguyên nhân gây ra tử vong ở trẻ em. Một cuộc nghiên cứu tại bệnh
viện Nhi đồng 1 tp HCM cho thấy ngộ độc sắn chiếm tỉ lệ 10% trong số ngộ độc
thức ăn với tỉ lệ tử vong là 16,7%.
Phòng ngừa:








Sắn phải được lột bỏ vỏ, cắt bỏ phần đầu và đuôi vì những phần này chứa
nhiều độc chất. Ngâm trong nước qua đêm, luộc với nhiều nước và mở nắp nồi
khi luộc. Mục đích là để độc tố tan theo nước và bốc hơi theo hơi nước.
Không ăn đọt sắn, sắn cao sản, sắn lâu năm, sắn có vị đắng. Những loại này
chứa rất nhiều độc chất.
Không cho trẻ em ăn nhiều sắn.
Không nên ăn sắn nguyên củ nướng hoặc chiên vì độc chất còn nguyên chưa
bị khử.
• NĂM GIỐNG SẮN MỚI NĂNG SUẤT CAO
• Giống sắn KM419 (SVN5)
Nguồn gốc: Giống sắn KM 419 được chọn tạo từ tổ hợp lai BKA900 x KM
98-5 (Hoàng Kim, Trần Ngọc Ngoạn, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Bạch
Mai, và tập thể 2014).
Đặc điểm giống: thời gian sinh trưởng 7-10 tháng, năng suất củ tươi 34,954,9 tấn / ha (vượt27,7- 29.6% so với KM94), hàm lượng tinh bột 27,8 30,7%, năng suất tinh bột 10,1 -15,8 tấn /ha, năng suất sắn lát khô 15,6-21,6
tấn/ha (so với KM94 hàm lượng tinh bột 25,0- 28,4 %, năng suất tinh bột
6,4-9,5 tấn/ ha, năng suất sắn lát khô 6,4-9,5 tấn/ha). Giống sắn KM419 có
chiều cây cao vừa phải, thân thẳng, tán gọn, nhặt mắt, lá xanh đậm, ngọn

xanh, cọng phớt đỏ, dạng củ đồng đều, thịt củ màu trắng, rất thích hợp với
chế biến và thị trường, nhiễm nhẹ đến trung bình bệnh cháy lá.



Giống sắn KM419 đã được khảo nghiệm cơ bản, khảo nghiệm sản xuất và
phát triển rộng tại Tây Ninh, Đồng Nai, Đắk Lắk, Phú Yên,… được nông
dân các địa phương ưa chuộng và phát triển nhanh trong sản xuất với tên gọi
sắn giống cao sản siêu bột Nông Lâm. Đặc biệt tại tỉnh Tây Ninh, KM419 là
giống sắn chủ lực được trồng trên 50% diện tích sắn của toàn tỉnh mang lại
bội thu năng suất và hiệu quả cao về kinh tế xã hội. Giống sắn KM419 được
Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Nông
Lâm Thái Nguyên, cùng với các Sở Nông nghiệp Phát triển Nông thôn Tây
Ninh, Đồng Nai, Đắk Lắk, Phú Yên đề nghị công nhận giống, định hướng ưu
tiên sử dụng cho vùng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Duyên hải Nam Trung
Bộ, Duyên hải Bắc Trung Bộ và vùng trung du miền núi phía Bắc. Giống
KM419 đã được Hội đồng giống Cục Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn công nhận giống năm 2014.
Giống sắn KM444


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×