Tải bản đầy đủ (.docx) (74 trang)

Luận văn Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động tại công ty Cổ phần dịch vụ Minh Thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.88 KB, 74 trang )

MỤC LỤC
Trang

Sinh viên: Đào Thị Thanh Hà


DANH MỤC VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Diễn giải

CTY

Công ty

BCHTWĐ

Ban chấp hành Trung Ương Đảng

KHĐT

Kế hoạch đầu tư

HCTH

Hành chính tổng hợp

TCLĐ

sTổ chức lao động


TSCĐ

Tài sản cố định

TSLĐ

Tài sản lưu động

CBCNV

Cán bộ công nhân viên

VCĐ

Vốn cố định

VLĐ

Sinh viên: Đào Thị Thanh Hà

Tài sản lưu động


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Trang

Sinh viên: Đào Thị Thanh Hà


LỜI MỞ ĐẦU

Để khởi sự và tiến hành hoạt động kinh doanh, bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng
cần phải có một lượng vốn nhất định. Vốn là một tiền đề cần thiết không thể thiếu cho
việc hình thành và phát triển sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp.
Nghị quyết hội nghị lần thứ 6 BCHTW Đảng CSVN đã chỉ rõ “Các xí nghiệp quốc
doanh không còn được bao cấp về giá và vốn, phải chủ động kinh doanh với quyền tự chủ
đầy đủ đảm bảo tự bù đắp chi phí, kinh doanh có lãi ...”. Theo tinh thần đó các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh phải gắn với thị trường, bám sát thị trường, tự chủ trong sản
xuất kinh doanh và tự chủ về vốn. Nhà nước tạo môi trường hành lang kinh tế pháp lý cho
các doanh nghiệp hoạt động đồng thời tạo ra áp lực cho các doanh nghiệp muốn tồn tại và
đứng vững trong cạnh tranh phải chú trọng quan tâm đến vốn để tạo lập quản lý và sử
dụng đồng vốn sao cho có hiệu quả nhất. Nhờ đó nhiều doanh nghiệp đã kịp thích nghi
với tình hình mới, hiệu quả sản xuất kinh doanh tăng lên rõ rệt song bên cạnh đó không ít
doanh nghiệp trước đây làm ăn có phần khả quan nhưng trong cơ chế mới đã hoạt động
kém hiệu quả. Thực tế này là do nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên nhân quan
trọng là công tác tổ chức quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp còn nhiều hạn chế,
hiệu quả sử dụng đồng vốn còn quá thấp.
Chính vì vậy, vấn đề bức thiết đặt ra cho các doanh nghiệp hiện nay là phải xác
định và phải đáp ứng được nhu cầu vốn thường xuyên cần thiết và hiệu quả sử dụng đồng
vốn ra sao? Đây là một vấn đề nóng bỏng có tính chất thời sự không chỉ được các nhà
quản lý doanh nghiệp quan tâm, mà còn thu hút được sự chú ý của các nhà đầu tư trong
lĩnh vực tài chính, khoa học vào doanh nghiệp.
Xuất phát từ vị trí, vai trò vô cùng quan trọng của tài sản lưu động và thông qua
quá trình thực tập tại Công ty Cổ phần dịch vụ Minh Thành em quyết định chọn đề tài:
“Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động tại công ty Cổ phần dịch vụ Minh Thành
” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận bố cục của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Tài sản lưu động và hiệu quả sử dụng tài sản lưu động
Chương 2. Thực trạng hiệu quả sử dụng tài sản lưu động tại Công ty Cổ phần
dịch vụ Minh Thành.
Sinh viên: Đào Thị Thanh Hà


4


Chương 3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động tại
Công ty Cổ phần dịch vụ Minh Thành
Mặc dù đã hết sức cố gắng song do trình độ nhận thức về thực tế và lý luận còn
hạn chế, đề tài này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được
sự góp ý quý báu của các thầy cô, các cán bộ tài chính đã qua công tác cũng như các bạn
sinh viên để đề tài nghiên cứu của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn, cùng cán bộ phòng Kế toán - Tài
vụ của Công ty Cổ phần dịch vụ Minh Thành đã hết sức giúp đỡ và tạo điều kiện cho em
hoàn thành đề tài này.

Sinh viên: Đào Thị Thanh Hà

5


CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÀI SẢN LƯU ĐỘNG VÀ HIỆU QUẢ SỬ
DỤNG TÀI SẢN LƯU ĐỘNG
1.1.Tài sản lưu động của doanh nghiệp
1.1.1. Khái quát về doanh nghiệp
Trong một nền kinh tế, không thể không nhắc đến các doanh nghiệp. Doanh nghiệp
là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh doanh trên thị trường
nhằm làm tăng giá trị của chủ sở hữu. Doanh nghiệp là một cách tổ chức hoạt động kinh
tế của nhiều cá nhân.
Theo Luật doanh nghiệp ở Việt nam: doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng,
có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp
luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh - tức là thực hiện một, một số

hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc
cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể kinh doanh bao gồm:
- Kinh doanh cá thể;
- Kinh doanh góp vốn;
- Công ty
Công ty là loại hình doanh nghiệp mà ở đó có sự kết hợp ba loại lợi ích: các cổ
đông (chủ sở hữu), hội đồng quản trị và các nhà quản lí. Cổ đông kiểm soát toàn bộ
phương huớng, chính sách của công ty. Cổ đông bầu ra Hội đồng quản trị, sau đó hội
đồng quản trị lựa chọn ban quản lí. Các nhà quản lí quản lí hoạt dộng của công ty theo
cách thức mang lại lợi ích cao nhất cho cổ đông.
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên theo luật doanh nghiệp năm 2005
được quy định là: doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu; chủ sở
hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong
phạm vi số vốn điền lệ của công ty.
1.1.2. Tài sản lưu động của doanh nghiệp
1.1.2.1.Khái niệm tài sản lưu động của doanh nghiệp
Chúng ta biết rằng tài sản của một doanh nghiệp được chia thành 2 bộ phận: Tài
sản cố định và tài sản lưu động. Nếu như tài sản cố định, hiểu theo nghĩa rộng là những
Sinh viên: Đào Thị Thanh Hà

6


yếu tố của tư liệu lao động được sử dụng trong một thời gian luân chuyển tương đối dài
và có giá trị đơn vị tương đối lớn thì tài sản lưu động, ngược lại, là những yếu tố của tư
liệu lao động được sử dụng trong một thời gian luân chuyển ngắn. Các tài sản lưu động
phần lớn đóng vai trò là đối tượng lao động, tức là các vật bị tác động trong quá trình chế
biến, bởi lao động của con người hay máy móc. Do đó tài sản lưu động phản ánh các dạng
nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, phụ liệu…Trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp,

tái sản lưu động của doanh nghiệp được thể hiện ở các bộ phận tiền mặt, các chứng khoán
thanh khoản cao, phải thu và dự trữ tồn kho. Giá trị các loại tài sản lưu động của doanh
nghiệp kinh doanh, sản xuất thường chiếm tỉ trọng lớn trong tổng giá trị tài sản của
chúng. Quy mô tài sản lưu động của một doanh nghiệp tăng giảm theo chu kì kinh doanh
và xu hướng mùa vụ. Vào giai đoạn tăng trưởng của chu kì kinh doanh, doanh nghiệp
thường đạt mức tài sản lưu động tối đa. Quản lí sử dụng hợp lí tài sản lưu động có ảnh
hưởng lớn đến việc thực hiện sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.2.2. Phân loại tài sản lưu động của doanh nghiệp
Tài sản lưu động có thể được phân loại khác nhau tuỳ theo mục đích và tiêu chí áp
dụng. Có thể phân loại theo khả năng chuyển đổi và đặc diểm kinh tế của từng nhóm như
sau:
(1) Tài sản bằng tiền (Cash)
Tất cả tiền mặt tại quỹ, tiền trên các tài khoản ngân hàng và tiền đang chuyển (kể
cả nội tệ và ngoại tệ) đều thuộc nhóm “tài sản bằng tiền mặt”. Lưu ý rằng, tiền ở đây
không phải chỉ là tiền mặt, trong lĩnh vực tài chính - kế toán, tài sản bằng tiền của một
doanh nghiệp bao gồm:
-

Tiền mặt

-

Séc các loại

-

Tiền gửi ngân hàng

-


Tiền trong thanh toán

(2) Vàng bạc, đá quý và kim khí quý
Đây là nhóm tài sản đặc biệt, được sử dụng vào mục đích dự trữ. Trong một số
ngành như ngân hàng, tài chính, bảo hiểm… giá trị của loại tàí sản này rất lớn.
(3) Các tài sản tương đương với tiền
Sinh viên: Đào Thị Thanh Hà

7


Nhóm này gồm các tài sản chính có khả năng chuyển đổi cao (dễ bán, dễ chuyển
đổi thành tiền khi cần thiết). Loại tài sản này bao gồm: chứng khoán ngắn hạn dễ bán chứ
không phải tất cả các loại chứng khoán: các giấy tờ thương mại ngắn hạn được bảo đảm
hoặc có độ an toàn cao (hối phiếu ngân hàng, kì phiếu thương mại, bộ chứng từ hoàn
chỉnh)…
(4) Chi phí trả trước
Chi phí trả trước bao gồm các khoản tiền mà công ty đã trả trước cho người bán,
nhà cung cấp hoặc cho các đối tượng khác. Một số khoản trả trước có thể có mức độ rủi
ro cao vì phụ thuộc vào một số yếu tố khó dự đoán trước.
(5) Các khoản phải thu
Các khoản phải thu là một loại tài sản rất quan trọng của doanh nghiệp, đặc biệt là
công ty kinh doanh thương mại, mua bán hàng hoá. Hoạt động mua bán chịu giữa các
bên, phát sinh các khoản tín dụng thương mại. Thực ra các khoản phải thu gồm nhỉều
khoản mục khác nhau tuỳ theo tính chất của quan hệ mua bán, quan hệ hợp đồng. Theo
mức độ rủi ro thì các khoản phải thu có thể chia thành các loại sau:
-

Độ tin cậy cao (loại A)


-

Độ tin cậy trùng bình (B)

-

Độ tin cậy thấp (C)

-

Không thể thu hồi được (D)
Khi phân tích tín dụng hoặc đánh giá khả năng thanh toán của một công ty, loại A
được tính 100% trị giá ghi trên tài khoản, loại B là 90% - 95%, loại C là 70% - 80% còn
loại D không đựơc tính. Loại D coi như không có hy vọng thu hồi, sau một thời gian xác
định không đòi đựơc thì có thể được xoá khỏi tài khoản phải thu.

(6) Tiền đặt cọc
Trong nhiều trường hợp các bên liên quan đến hợp đồng đặt cọc một số tiền nhất
định. Các điều khoản về tiền đặt cọc thường được quy định theo 2 cách:
-

Số tiền đặt cọc tính theo tỷ lệ phần trăm trị giá hợp đồng hoặc trị giá tài sản được mua
bán.

-

Số tiền đặt cọc được ấn định bằng một số tiền cụ thể, hoặc một giá trị tối thiểu cho hợp
đồng.
Sinh viên: Đào Thị Thanh Hà


8


Trong các trường hợp bên đặt cọc thực hiện đúng hợp đồng thì họ có quyền lấy lại
tiền đặt cọc. Nếu như có sự vi phạm hoặc huỷ bỏ hợp đồng, hoặc không tiếp tục tham gia
(ví dụ như đấu thầu) thì họ có thể bị mất tiền đặt cọc. Nhưng vậy, tiền đặt cọc là một
khoản mục tài sản không chắc chắn, độ tin cậy có thể giao động lớn. Do tính chất như vậy
nên tiền đặt cọc không được các ngân hàng tính đến khi xác định khả năng thanh toán
bằng tiền của doanh nghiệp.
(7) Hàng hoá vật tư
Hàng hoá vật tư hay còn gọi là hàng tồn kho, không mang nghĩa hẹp là hàng hoá bị
ứ đọng, không bán đựơc mà thực chất bao hàm nghĩa toàn bộ các hàng hoá vật liệu,
nguyên liệu đang tồn tại ở các kho, quầy hàng hoặc trong xưởng. Trên thực tế, hàng tồn
kho có thể bao gồm hàng trăm chủng loại khác nhau. Tuy nhiên, có thể gộp lại thành
những nhóm sau:
-

Nguyên liệu, vật liệu chính

-

Vật liệu phụ, vật liệu bổ trợ

-

Nhiên liệu và các loại dầu mỡ

-

Thành phẩm


-

Sản phẩm dở dang và bán thành phẩm

-

Công cụ nhỏ, các dụng cụ lao động thuộc tài sản lưu động

-

Phụ tùng thay thế

-

Sản phẩm hỏng và các loại thay thế

(8) Các chi phí chờ phân bổ
Một số khoản chi phí đã phát sinh, nhưng có thể chưa được phân bổ vào giá thành
sản phẩm hay dịch vụ. Những khoản này sẽ được đưa vào giá thành trong khoản thời gian
thích hợp.
1.1.2.3.Vai trò của tài sản lưu động của doanh nghiệp
Đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, muốn hoạt động sản xuất kinh
doanh thì cần phải có vốn. Tài sản lưu động là một thành phần quan trọng trong tất cả các
khâu của quá trình sản xuất kinh doanh.
Trong khâu dự trữ và sản xuất, tài sản lưu động đảm bảo cho sản xuất của doanh
nghiệp được tiến hành liên tục, đảm bảo quy trình công nghệ, công đoạn sản xuất. Trong
Sinh viên: Đào Thị Thanh Hà

9



lưu thông, tài sản lưu động đảm bảo dự trữ thành phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ được
nhịp nhàng và đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Thời gian luân chuyển tài sản lưu
động lớn khiến cho công việc quản lý và sử dụng tài sản lưu động luôn luôn diễn ra
thường xuyên, liên tục. Với vai trò to lớn như vậy, việc tăng tốc độ luân chuyển tài sản
lưu động, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động trong doanh nghiệp là một yêu cầu
tất yếu.
1.2.Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp
1.2.1.Khái niệm hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp
Hiệu quả là một khái niệm luôn được đề cập trong nền kinh tế thị trường. Ví dụ các
doanh nghiệp luôn hướng tới hiệu quả kinh tế còn chính phủ nỗ lực đạt hiệu quả kinh tế xã hội.
Theo nghĩa chung nhất, hiệu quả là một khái niệm phản ánh trình độ sử dụng các
yếu tố cần thiết để tham gia vào một hoạt động nào đó với những mục đích xác định do
con người đặt ra. Như vậy, có thể hiểu hiệu quả sử dụng là một phạm trù kinh tế đánh giá
trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để đạt kết quả cao nhất trong quá trình
sản xuất kinh doanh với tổng chi phí thấp nhất. Do đó, hiệu quả sử dụng tài sản lưu động
là một phạm trù kinh tế đánh giá trình độ sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp để
đạt kết quả cao nhất trong quá trình sản xuất kinh doanh với mức tài sản lưu động hợp lý.
Tài sản lưu động của doanh nghiệp được sử dụng cho các quá trình dự trữ, sản xuất
và lưu thông. Quá trình vận động của tài sản lưu động bắt đầu từ việc dùng tiền tệ mua
sắm vật tư dự trữ cho sản xuất, tiến hành sản xuất và khi sản xuất xong doanh nghiệp tổ
chức tiêu thụ để thu về một số vốn dưới hình thái tiền tệ ban đầu với giá trị tăng thêm.
Mỗi lần vận động như vậy được gọi là một vòng luân chuyển của tài sản lưu động. Doanh
nghiệp sử dụng tài sản đó càng có hiệu quả bao nhiêu thì càng có thể sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm nhiều bấy nhiêu. Vì lợi ích kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải sử dụng
hợp lý, hiệu quả hơn từng đồng tài sản lưu động, làm cho mỗi đồng tài sản lưu động hàng
năm có thể mua sắm nguyên, nhiên vật liệu nhiều hơn, sản xuất ra sản phẩm và tiêu thụ
được nhiều hơn. Nhưng điều đó cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp nâng cao tốc độ
luân chuyển tài sản lưu động (số vòng quay tài sản lưu động trong một năm).


Sinh viên: Đào Thị Thanh Hà

10


Để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản lưu động chúng ta có thể sử dụng nhiều chỉ
tiêu khác nhau nhưng tốc độ luân chuyển tài sản lưu động là chỉ tiêu cơ bản và tổng hợp
nhất phản ánh trình độ sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp.
1.2.2 .Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp
1.2.2.1. Tốc độ luân chuyển tài sản lưu động
Trong tài chính, tốc độ luân chuyển tài sản lưu động là một chỉ tiêu tổng hợp rất
quan trọng đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Tốc độ luân chuyển tài sản
lưu động nhanh hay chậm nói lên tình hình tổ chức các mặt: mua sắm, dự trữ, sản xuất,
tiêu thụ của doanh nghiệp có hợp lý hay không, các khoản vật tư dự trữ sử dụng tốt hay
không, các khoản phí tổn trong quá trình sản xuất kinh doanh là cao hay thấp. Thông qua
phân tích chỉ tiêu tốc độ luân chuẩn tài sản lưu động có thể giúp cho doanh nghiệp đẩy
nhanh được tốc độ luân chuyển, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động.
(1) Vòng quay tài sản lưu động trong kỳ
Vòng quay TSLĐ =

Tổng mức luân chuyển TSLĐ trong kỳ
TSLĐBQkỳ

Trong đó:
- Trong năm tổng mức luân chuyển tài sản lưu động được xác định bằng doanh thu
thuần của doanh nghiệp.
- TSLĐBQkỳ : Tài sản lưu động bình quân trong kỳ được tính như sau:
TSLĐBQkỳ =


TSLĐđầu kỳ + TSLĐcuối kỳ
2

- Tài sản lưu động bình quân năm
TSLĐBQnăm =

TSLĐđầu tháng 1/2+ TSLĐđầu tháng 2+…+TSLĐđầu tháng 12 +TSLĐcuối tháng 12/2
12

Để đơn giản trong tính toán ta sử dụng công thức tính TSLĐBQ gần đúng:
TSLĐBQnăm =

TSLĐđầu năm +TSLĐcuối năm
2

Ta có:
Vòng quay TSLĐnăm =

Sinh viên: Đào Thị Thanh Hà

11

Doanh thu thuần
TSLĐBQ năm


Đây là chỉ tiêu nói lên số lần quay (vòng quay) của tài sản lưu động trong một thời
kỳ nhất định (thường là một năm), chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản lưu động
trên mối quan hệ so sánh giữa kết quả sản xuất (tổng doanh thu thuần) và số tài sản lưu
động bình quân bỏ ra trong kỳ. Số vòng quay tài sản lưu động trong kỳ càng cao thì càng

tốt.
(2)Thời gian luân chuyển tài sản lưu động
Thời gian luân chuyển TSLĐ =

TSLĐBQkỳ x Thời gian của kỳ phân tích
Tổng mức luân chuyển TSLĐ trong kỳ

hay
Thời gian luân chuyển TSLĐ =

Thời gian của kỳ phân tích
Vòng quay TSLĐ trong kỳ

Trong đó:
Thời gian của kỳ phân tích được ước tính một năm là 360 ngày, một quý là 90
ngày và một tháng là 30 ngày.
Chỉ tiêu này nói lên độ dài bình quân của một lần luân chuyển của tài sản lưu động
hay số ngày bình quân cần thiết để tài sản lưu động thực hiện một vòng quay trong kỳ.
Ngược với chỉ tiêu số vòng quay tài sản lưu động trong kỳ, thời gian luân chuyển tài sản
lưu động càng ngắn chứng tỏ tài sản lưu động càng được sử dụng có hiệu quả.
(3) Hệ số đảm nhiệm tài sản lưu động
Hệ số đảm nhiệm TSLĐ =

TSLĐBQkỳ
Doanh thu thuần

Hệ số này cho biết để thu được mỗi đơn vị doanh thu, doanh nghiệp phải sử dụng
bao nhiêu đơn vị TSLĐ. Hệ số này càng thấp, thì hiệu quả sử dụng TSLĐ của doanh
nghiệp càng cao. Thông qua chỉ tiêu này, các nhà quản trị kinh doanh xây dựng kế hoạch
về đầu tư TSLĐ một cách hợp lí góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh.

1.2.2.2. Hệ số sinh lời tài sản lưu động
Hệ số sinh lời của TSLĐ =

Sinh viên: Đào Thị Thanh Hà

12

Lợi nhuận sau thuế
TSLĐBQ


Hệ số này cho biết mỗi đơn vị TSLĐ có trong kỳ đem lại bao nhiêu đơn vị lợi
nhuận sau thuế. Hệ số sinh lợi của TSLĐ càng cao thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng TSLĐ
càng tốt.
1.2.2.3. Tốc độ luân chuyển của hàng tồn kho
Trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thì hàng tồn kho thường chiếm tỉ
trọng cao trong tổng tài sản lưu động, do vậy hiệu quả sử dụng tài sản lưu động bị ảnh
hưởng đáng kể của hiệu quả sử dụng hàng tồn kho. Khi phân tích hiệu quả của hàng tồn
kho, ta sử dụng các chỉ tiêu sau:
(1) Số vòng quay của hàng tồn kho
Số vòng quay HTK Giá vốn hàng bán
HTK bình quân
=
Chỉ tiêu này cho biết, trong kì phân tích hàng tồn kho quay được bao nhiêu vòng,
chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ vốn đầu tư hàng tồn kho vận động không ngừng đó là
nhân tố để tăng doanh thu, góp phần tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
(2) Hệ số đảm nhiệm hàng tồn kho
Hệ số đảm nhiệm HTK HTK bình quân
Tổng doanh thu thuần
=

Chỉ tiêu này cho biết doanh nghiệp muốn có 1 đồng doanh thu thuần thì cần bao
nhiêu đồng vốn đầu tư cho hàng tồn kho, chỉ tiêu này càng thấp thì chứng tỏ hiệu quả vốn
đầu tư sử dụng cho hàng tồn kho càng cao. Thông qua chỉ tiêu này các nhà quản trị kinh
doanh xây dựng kế hoạch về dự trữ, thu mua, sử dụng hàng hoá, thành phẩm một cách
hợp lí góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh.
(3) Thời gian một vòng quay của hàng tồn kho
Thời gian một vòng quay của HTK Thời gian của kỳ phân tích
Số vòng quay của hàng tồn kho
=
Chỉ tiêu này cho biết một vòng quay của hàng tồn kho mất bao nhiêu ngày, chỉ tiêu
này càng thấp chứng tỏ hàng tồn kho vận động nhanh.

Sinh viên: Đào Thị Thanh Hà

13


Tăng tốc độ luân chuyển hàng tòn kho là rút ngắn thời gian hàng tồn kho nằm
trong các khâu sản xuất kinh doanh. Đồng thời là điều kiện quan trọng để phát triển sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.2.4. Kì thu tiền bình quân
Kỳ thu tiền bình quân Tổng số ngày trong 1 kỳ (360 ngày)
Vòng quay phải thu trong kỳ
=
Trong đó:
Vòng quay khoản phải thu trong kỳ
=

Các khoản phải thu bình quân =


Doanh thu thuần
Các khoản phải thu bình quân

Các khoản phải thuđầu kỳ + Các khoản phải thucuối kỳ
2

Chỉ tiêu này cho biết số ngày cần thiết để thu được các khoản phải thu, chỉ tiêu
càng nhỏ chứng tỏ tốc độ thanh toán tiền hàng càng nhanh. Khả năng tài chính của doanh
nghiệp dồi dào.
1.2.2.5. Các chỉ tiêu về khả năng thanh toán
(1) Khả năng thanh toán ngắn hạn
Khả năng thanh toán ngắn hạn TSLĐ
Nợ ngắn hạn
=
Chỉ tiêu này cho biết khả năng chuyển đổi thành tiền của các tài sản lưu động hiện
có của doanh nghiệp có đảm bảo khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn không. Chỉ
tiêu này càng cao chứng tỏ khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp càng tốt và
ngược lại.
(2) Khả năng thanh toán nhanh
Khả năng thanh toán nhanh TSLĐ - HTK
Nợ ngắn hạn
=
Chỉ tiêu này cho biết khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp đối với các
khoản nợ ngắn hạn. Chỉ tiêu này cao chứng tỏ khả năng thanh toán của doanh nghiệp dồi
dào. Tuy nhiên chỉ tiêu này cao quá kéo dài có thể dẫn tới vốn bằng tiền của doanh nghiệp
Sinh viên: Đào Thị Thanh Hà

14



nhàn rỗi, ứ đọng, dẫn đén hiệu quả sử dụng vốn thấp. Ngược lại, chỉ tiêu này thấp quá kéo
dài ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp và có thể dẫn tới doanh nghiệp bị giải thể
hoặc phá sản.
(3) Khả năng thanh toán tức thời
Khả năng thanh toán tức thời =

Tiền
Nợ đến hạn

Chỉ tiêu này phản ánh khả năng thanh toán nhanh các khoản nợ đến hạn bằng tiền
hoặc các khoản tương đương tiền khi nợ ngắn hạn đã đến kỳ thanh toán.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp
1.3.1. Các nhân tố vĩ mô
Đây là các nhân tố có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói
chung và việc sử dụng tài sản lưu động nói riêng. Nhóm các nhân tố khách quan là những
nhân tố mà doanh nghiệp không thể kiểm soát được.
1.3.1.1. Chính sách quản lí vĩ mô của Nhà nước
Chính sách vĩ mô của Nhà nước có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế nói chung, từng
ngành kinh tế nói riêng và từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của
doanh nghiệp. Những chính sách đó có thể tác động đến nguồn tài trợ cho tài sản lưu
động, ví dụ như nguồn vốn vay ngân hàng, tăng hay giảm phụ thuộc vào lãi suất cho vay
của các ngân hàng. Nhà nước có thể ra những chính sách ảnh hưởng đến việc mua sắm
các nguyên liệu đầu vào, hay đến việc dự trữ hàng hoá… như chính sách về xuất nhập
khẩu nguyên vật liệu. Doanh nghiệp cần phải nghiên cứu kĩ các chính sách của Nhà nước
để có chính sách hoạt động cho phù hợp.
1.3.1.2. Môi trường cạnh tranh của doanh nghiệp
Mỗi doanh nghiệp hoạt động trong bất kì lĩnh vực nào đều có đối thủ cạnh tranh.
Khi nền kinh tế phát triển, có sự mở rộng về các loại hình doanh nghiệp cũng như lĩnh
vực hoạt động, thì yếu tố cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng tăng lên. Doanh nghiệp
phải quan tâm nhiều hơn đến tính cạnh tranh khi lập kế hoạch mua nguyên vật liệu, nếu

không sẽ dẫn đến tình trạng nguyên vật liệu và dự trữ chỗ thừa, chỗ thiếu, ách tắc trong
khâu lưu thông. Khi cạnh tranh ra tăng, việc đưa ra các biện pháp nhằm đẩy nhanh lượng
hàng tiêu thụ khiến doanh nghiệp nới lỏng trong chính sách tín dụng làm cho việc quản lí
Sinh viên: Đào Thị Thanh Hà

15


các khoản phải thu khó khăn. Sự phát triển hay suy thoái của đối thủ cạnh tranh sẽ ảnh
hưởng đến kế hoạch tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp.
1.3.1.3. Nhu cầu của thị trường
Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá cho nên nhu
cầu đối với mọi mặt hàng đều rất lớn. Vì vậy các doanh nghiệp thi nhau mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm của mình ra khắp cả nước. Khi đó, TSLĐ cũng chịu sự ảnh
hưởng, doanh nghiệp dự trữ nhiều hơn, các khoản phải thu có xu hướng giảm do có nhiều
nguời tiêu dùng. Nhu cầu của người tiêu dùng về các sản phẩm dịch vụ thay đổi theo thời
gian, vùng lãnh thổ, văn hoá…Sản phẩm cũng có chu kì sống của nó. Sản phẩm đang
trong chu kì tăng trưỏng, nhu cầu tăng mạnh đòi hỏi phải dự trữ nhiều hơn hoặc khi ở thời
kì suy thoái, nhu cầu giảm thì doanh nghiệp sẽ giảm lượng dự trữ xuống.
1.3.1.4. Sự phát triển khoa học công nghệ
Xã hội càng phát triển thì ngày càng có nhiều tiến bộ khoa học công nghệ ra đời,
góp phần giảm các nguồn lực cần thiết cho sản xuất như sức người, sức của, thời gian.
Việc áp dụng các công nghệ tiên tiến vào sản xuất còn giúp doanh nghiệp đưa ra những
sản phẩm có tính ưu việt hơn, giúp doanh nghiệp đánh bại các đối thủ, thu hút khách hàng
từ đó tăng hiệu suất sử dụng tài sản lưu động hơn. Tác động của cuộc cách mạng khoa
học kĩ thuật cũng làm giảm giá trị tài sản, vật tư… Vì vậy, nếu doanh nghiệp không bắt
kịp để điều chỉnh kịp thời giá cả sản phẩm hàng hoá thì luợng hàng hoá bán ra sẽ thiếu
tính cạnh tranh.
1.3.2. Các nhân tố vi mô
Trong cùng một môi trường kinh doanh khách quan như nhau nhưng trong khi một

số doanh nghiệp phát triển thì không ít doanh nghiệp kinh doanh trì trệ, thâm chí phá sản.
Vậy nguyên nhân thất bại ở đây chính là ở bản thân doanh nghiệp. Những nhân tố chủ
quan xuất phát từ chính doanh nghiệp nên các nhân tố này có thể khắc phục được.
1.3.2.1. Trình độ nguồn nhân lực
Đây là nhân tố quan trọng, có ảnh hưởng to lớn đến việc quản lí tài sản lưu động
của doanh nghiệp. Chính những con người này sẽ là yếu tố quyết định đến chính sách
quản lí TSLĐ, việc đưa ra những quyết định quản lí đúng đắn hay sai lầm sẽ ảnh hưởng
đến hiệu quả sử dụng TSLĐ, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Sinh viên: Đào Thị Thanh Hà

16


1.3.2.2. Kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
Mỗi doanh nghiệp hoạt động trong các ngành khác nhau, khả năng về tài chính và
năng lực kinh doanh khác nhau sẽ có kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm khác nhau.
Vào kì sản xuất của doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ sử dụng lượng nguyên vật liệu, hàng
hoá lớn nên dự trữ tăng lên. Hoặc khi doanh nghiệp chuẩn bị cho công tác lưu thông thì
công tác bán hàng đựoc chú trọng, lượng hàng gửi bán tăng lên thì TSLĐ cũng tăng lên.
Việc lập kế hoạch ngay từ đầu kì giúp doanh nghiệp có lượng dự trữ hợp lí hạn chế những
rủi ro có thể gặp phải trong quá trình sản xuất kinh doanh.
1.3.2.3. Cơ sở hạ tầng của doanh nghiệp
Đây có thể coi là một nhân tố quan trọng, một doanh nghiệp có hệ thống cơ sở hạ
tầng (trụ sở làm việc, các cơ sở sản xuất, chi nhánh, hệ thống bán hàng ..) được bố trí hợp
lí sẽ giúp doanh nghiệp sử dụng tài sản lưu động một cách có hiệu quả hơn. Ví dụ như,
một kho chứa hàng tốt sẽ tránh được các khấu khao trong khi chứa hàng hoá. Khi người
lao động được làm việc ở một môi trường thuận lợi, đảm bảo an toàn lao động thì tất
nhiên là hiệu quả làm việc sẽ cao hơn. Và máy móc đựơc trang bị tiên tiến cũng đem lại
những sản phẩm tốt hơn.
1.3.2.4. Công tác quản lí tài sản lưu động

(1) Quản lí hàng tồn kho
Trong quá trình luân chuyển của tài sản lưu động phục vụ cho sản xuất kinh doanh
thì việc tồn tại vật tư hàng hoá dự trữ là những bước đệm cho quá trình hoạt động của
doanh nghiệp. Hàng tồn kho có 3 loại chính: nguyên vật liệu thô phục vụ cho quá trình
sản xuất, sản phẩm dở dang và thành phẩm. Các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường không thể tiến hành sản xuất đến đâu mua hàng đến đó mà cần phải dự trữ nguyên
vật liệu. Nếu doanh nghiệp dự trữ quá lớn sẽ tốn kém chi phí, ứ đọng vốn còn dự trữ quá
ít sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh bị gián đoạn. Do vậy, việc dự trữ nguyên vật
liệu có ảnh hưởng lớn đến quá trình sản xuất kinh doanh.
Hàng tồn kho trong quá trình sản xuất là các nguyên vật liệu nằm ở các công đoạn
của dây chuyền sản xuất. Nếu dây chuyền sản xuất càng dài và càng nhiều công đoạn sản
xuất thì hàng tồn kho trong quá trình sản xuất sẽ càng lớn. Đây là những bước đệm nhỏ để
quá trình sản xuất được liên tục.
Sinh viên: Đào Thị Thanh Hà

17


Khi tiến hành sản xuất xong, do có độ trễ nhất định giữa sản xuất và tiêu thụ, do
những chính sách thị trường của doanh nghiệp trong việc bán hàng… đã hình thành nên
bộ phận thành phẩm tồn kho.
Hàng hoá dự trữ đối với các doanh nghiệp gồm 3 bộ phận như trên, nhưng thông
thường trong quá trình quản lý chúng ta tập trung vào bộ phận thứ nhất, tức là nguyên vật
liệu dự trữ cho sản xuất kinh doanh.
Có nhiều phương pháp được đưa ra nhằm xác định mức dự trữ tối ưu.
• Quản lý dự trữ theo phương pháp cổ điển hay mô hình đặt hàng hiệu quả nhất EOQ (Economic Odering Quantity).
Mô hình được dựa trên giả định là những lần cung cấp hàng hoá là bằng nhau.
Theo mô hình này, mức dự trữ tối ưu là:
2 xDxC2
C1


Q* =
Trong đó:
Q*: mức dự trữ tối ưu
D : toàn bộ lượng hàng hoá cần sử dụng
C2 : chi phí mỗi lần đặt hàng (chi phí quản lý giao dịch và vận chuyển hàng hoá).
C1 : chi phí lưu kho đơn vị hàng hoá (chi phí bốc xếp, bảo hiểm, bảo quản…).
Điểm đặt hàng mới:
Về mặt lý thuyết người ta giả định khi nào lượng hàng kỳ trước hết mới nhập kho
lượng hàng mới nhưng trên thực tế hầu như không bao giờ như vậy. Nhưng nếu doanh
nghiệp đặt hàng quá sớm sẽ làm tăng lượng nguyên liệu tồn kho. Do vậy các doanh
nghiệp cần phải xác định thời điểm đặt hàng mới.
Thời điểm đặt hàng
mới

=

Số lượng nguyên liệu sử dụng mỗi
ngày

x

Độ dài thời gian giao
hàng

Lượng dự trữ an toàn
Nguyên vật liệu sử dụng mỗi ngày không phải là số cố định mà chúng biến động
không ngừng. Do đó để đảm bảo cho sự ổn định của sản xuất, doanh nghiệp cần phải duy
trì một lượng hàng tồn kho dự trữ an toàn. Lượng dự trữ an toàn tuỳ thuộc vào tình hình
Sinh viên: Đào Thị Thanh Hà


18


cụ thể của doanh nghiệp. Lượng dự trữ an toàn là lượng hàng hoá dự trữ thêm vào lượng
dự trữ tại thời điểm đặt hàng.
Ngoài phương pháp quản lý dự trữ theo mô hình đặt hàng hiệu quả nhất (EOQ)
một số doanh nghiệp còn sử dụng phương pháp sau:

• Phương pháp cung cấp đúng lúc hay dự trữ bằng 0
Theo phương pháp này các doanh nghiệp trong một số ngành nghề có liên quan
chặt chẽ với nhau hình thành nên những mối quan hệ. Khi có một đơn đặt hàng nào đó họ
sẽ tiến hành huy động những loại hàng hoá và sản phẩm dở dang của các đơn vị khác mà
họ không cần phải dự trữ. Tuy vậy, sử dụng phương pháp này tạo ra sự ràng buộc các
doanh nghiệp với nhau, khiến các doanh nghiệp đôi khi mất sự chủ động trong hoạt động
sản xuất kinh doanh.
(2) Quản lý tiền mặt và các chứng khoán thanh khoản cao
Tiền mặt được hiểu là tiền tồn quỹ, tiền trên tài khoản thanh toán của doanh nghiệp
ở ngân hàng. Tiền mặt bản thân nó là tài sản không sinh lãi, tuy vậy việc giữ tiền mặt
trong kinh doanh rất quan trọng xuất phát từ những lý do sau: Đảm bảo giao dịch hàng
ngày, bù đắp cho ngân hàng về việc ngân hàng cung cấp các dịch vụ cho doanh nghiệp
đáp ứng nhu cầu dự phòng trong trường hợp biến động không lường trước của các luồng
tiền vào ra, hưởng lợi thế trong thương lượng mua hàng.
Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, việc gửi tiền mặt là cần thiết nhưng
việc giữ đủ tiền mặt cũng cần thiết không kém do những lí do sau: khi mua hàng hoá, nếu
có đủ tiền mặt công ty có thể tận dụng được lợi thế chiết khấu; duy trì tốt khả năng thanh
toán; đáp ứng nhu cầu trong các trường hợp khẩn cấp
Quản lý tiền mặt gồm quản lý tiền giấy và tiền gửi ngân hàng. Sự quản lý này liên
quan chặt chẽ đến việc quản lý các loại tài sản gắn liền với tiền mặt như các loại chứng
khoán khả năng thanh khoản cao, nhằm duy trì tiền mặt ở mức dộ mong muốn. Ta có thể

thấy điều này qua sơ đồ luân chuyển sau:
Sơ đồ 1. . Luận chuẩn tiền trong doanh nghiệp

Các chứng khoán thanh khoản cao
Đầu tư tạm thời bằng cách mua chứng khoán có tính thanh khoán cao
Sinh viên: Đào Thị Thanh Hà

19


Bán những chứng khoán thanh khoán cao để bổ sung cho tiền mặt
Tiền mặt
Dòng thu
tiền mặt
Dòng chi
tiền mặt

Nhìn sơ đồ trên ta thấy một cái nhìn tổng quát về tiền mặt, nó cũng là một loại tài
sản nhưng là một loại tài sản đặc biệt - tài sản có tính lỏng cao nhất.
Trong kinh doanh, doanh nghiệp phải lưu giữ tiền mặt cần thiết cho việc thanh toán
các hoá đơn. Do vậy, khi tiền mặt xuống thấp doanh nghiệp sẽ phải bổ sung tiền mặt bằng
cách bán các chứng khoán thanh khoản cao. Chi phí cho việc lưu giữ tiền mặt ở đây chính
là chi phí cơ hội, là lãi suất mà doanh nghiệp bị mất đi. Chi phí đặt hàng chính là chi phí
cho việc bán các chứng khoán. Khi đó áp dụng mô hình EOQ ta có lượng dự trữ tiền mặt
tối ưu M* là:

M* =

2 xM n xC b
i


Trong đó:
Sinh viên: Đào Thị Thanh Hà

20


M*: tổng mức tiền mặt giải ngân hàng năm
Mn: tiền mặt thanh toán hàng năm
Cb: chi phí một lần bán chứng khoán thanh khoản
i : lãi suất
Từ công thức trên cho thấy nếu lãi suất cao thì doanh nghiệp càng giữ ít tiền mặt
và ngược lại, nếu chi phí cho việc bán chứng khoán càng cao thì họ lại càng giữ nhiều tiền
mặt. Mô hình số dư tiền mặt không thực tiễn ở chỗ giả định rằng doanh nghiệp chi trả tiền
mặt một cách ổn định, điều này không luôn luôn đúng trong thực tế do hiếm khi lượng
tiền vào ra của doanh nghiệp lại dự kiến trước được.
Bằng việc nghiên cứu và phân tích thực tiễn, các nhà kinh tế học đã đưa ra mô hình
quản lý tiền mặt để mức tiền dự trữ luôn dao động trong một khoảng. Theo mô hình này,
doanh nghiệp sẽ xác định mức giới hạn trên và giới hạn dưới của tiền mặt, đó là các
khoản mà doanh nghiệp bắt đầu tiến hành nghiệp vụ mua hoặc bán chứng khoán có tính
thanh khoản cao để đưa mức tiền mặt về dự kiến.
Khoảng dao động tiền mặt dự kiến phụ thuộc vào 3 yếu tố sau: mức dao động của
thu chi ngân quỹ hàng ngày lớn hay nhỏ; chi phí cố định của việc mua bán chứng khoán;
lãi suất càng cao các doanh nghiệp sẽ giữ lại ít tiền và do vậy khoảng dao động tiền mặt
sẽ giảm xuống.
Khoảng dao động:
3

d=3x


3 C b xVb
x
4
i

Trong đó:
d: khoảng dao động tiền mặt (khoảng cách giữa giới hạn trên và giới hạn dưới của
lượng tiền mặt dự trữ).
Cb: chi phí của mỗi lần giao dịch mua bán chứng khoán thanh khoản
Vb: phương sai của thu chi ngân quỹ
i: lãi suất

Sinh viên: Đào Thị Thanh Hà

21


Mô hình này được biểu diễn theo đồ thị sau đây:
B
A
Mức tiền mặt theo thiết kế
Giới hạn trên
Giới hạn dưới
Thời gian
Số dư tiền mặt
0

Mức tiền mặt thiết kế được xác định như sau:
Mức tiền mặt theo
thiết kế


=

Mức tiền mặt
giới hạn dưới

+

Khoảng dao động tiền mặt
3

Thực tiễn hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp cho thấy, trong các doanh
nghiệp lớn, luồng tiền vào ra của doanh nghiệp hàng ngày là rất nhiều, nên chi phí cho
việc mua bán chứng khoán sẽ trở nên quá nhỏ so với cơ hội phí mất đi do lưu giữ một
lượng tiền mặt nhàn rỗi do vậy hoạt động mua bán chứng khoán nên diễn ra hàng ngày ở
các doanh nghiệp này.
(3) Quản lý các khoản phải thu
Sinh viên: Đào Thị Thanh Hà

22


Trong nền kinh tế thị trường, để thắng lợi trong cạnh tranh các doanh nghiệp có thể
áp dụng các chiến lược về sản phẩm, về quảng cáo, về giá cả, các dịch vụ sau khi bán
hàng… trong đó chính sách tín dụng thương mại là một công cụ hữu hiệu và không thể
thiếu đối với các doanh nghiệp tín dụng thương mại. Chính sách này giúp cho doanh
nghiệp đứng vững trên thị trường và trở nên giàu có, nhưng cũng có thể đem đến những
rủi ro cho hoạt động của doanh nghiệp. Do đó, các doanh nghiệp cần phải đưa ra những
phân tích về khả năng tín dụng của khách hàng từ đó quyết định có nên cấp tín dụng
thương mại cho đối tượng khách hàng đó hay không. Đây là nội dung chính của quản lý

các khoản phải thu.
Để thực hiện được việc cấp tín dụng cho khách hàng thì điều đầu tiên doanh
nghiệp phải phân tích được năng lực tín dụng của khách hàng.
* Phân tích năng lực tín dụng của khách hàng:
Công việc bao gồm : Thứ nhất, phải xây dựng một tiêu chuẩn tín dụng hợp lí; Thứ
hai, xác minh phẩm chất tín dụng của khách hàng tiềm năng. Nếu khả năng tín dụng của
khách hàng phù hợp với những tiêu chuẩn tín dụng tối thiểu thì tín dụng thương mại có
thể được cấp. Nếu tiêu chuẩn tín dụng quá cao sẽ loại bỏ nhiều khách hàng tiềm năng và
sẽ làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp, còn ngược lại với tiêu chuẩn quá thấp có thể làm
tăng doanh thu nhưng đi kèm theo đó là những khoản tín dụng có rủi ro cao và chi phí
tiền cũng cao. Khi phân tích khả năng tín dụng của khách hàng, chúng ta thường sử dụng
các tiêu chuẩn sau:
- Phẩm chất tư cách tín dụng: Tiêu chuẩn này nói lên tinh thần trách nhiệm của
khách hàng trong việc trả nợ, trên cơ sở việc thanh toán các khoản nợ trước đây của khách
hàng đối với doanh nghiệp và đối với doanh nghiệp khác.
- Năng lực trả nợ: dựa vào các chỉ tiêu về khả năng thanh toán nhanh, bảng dự trữ
ngân quỹ của doanh nghiệp…
- Vốn của khách hàng: đánh giá tiềm năng tài chính dài hạn của khách hàng.
- Thế chấp: xem xét các tài sản riêng mà khách hàng sử dụng để đảm bảo các
khoản nợ.
- Điều kiện kinh tế: đánh giá khả năng phát triển của khách hàng trong tương lai.
Sinh viên: Đào Thị Thanh Hà

23


Các tài liệu được sử dụng để phân tích khách hàng là bảng cân đối kế toán, bảng kế
hoạch ngân quỹ, phỏng vấn trực tiếp, xuống tận nơi để kiểm tra xem xét hay tìm hiểu qua
các khách hàng khác.
Sau khi phân tích năng lực tín dụng của khách hàng, doanh nghiệp tiến hành việc

phân tích đánh giá khoản tín dụng thương mại được đề nghị.
* Phân tích khoản tín dụng
Việc đánh giá dựa vào việc tính NPV của luồng tiền

NPV = -[ P.Q + V.( Q'-Q) + C.P'.Q'] +

(1 - r ).P'.Q'
1+ R

Trong đó:
NPV: Giá hiện tại ròng của việc chuyển từ chính sách bán trả ngay sang chính sách
bán chịu
Q, P: Sản lượng hàng bán được trong một tháng và giá bán đơn vị nếu khách hàng
trả tiền ngay
Q’, P’: Sản lượng và giá bán đơn vị nếu bán chịu
C : Chi phí cho việc đòi nợ và tài trợ bù đắp cho khoản phải thu
V : Chi phí biến đổi cho một đơn vị sản phẩm
R : Doanh lợi yêu cầu thu được hàng tháng
r : Tỉ lệ phần trăm của hàng bán chịu không thu được tiền
Nếu NPV > 0 chứng tỏ việc bán hàng chịu mang lại hiệu quả cao hơn việc thanh
toán ngay, có lợi cho doanh nghiệp. Do đó khoản tín dụng được chấp nhận.
* Theo dõi các khoản phải thu
Đây là một nội dung quan trọng trong quản lí các khoản phải thu. Thực hiện tốt công
việc này sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể kịp thời thay đổi các chính sách tín dụng thương
mại phù hợp với tình hình thực tế. Thông thường để theo dõi các khoản phải thu ta dùng
các chỉ tiêu, phương pháp, mô hình sau:
-

Kì thu tiền bình quân (đã được trình bày ở phần trên).


-

Sấp xếp “tuổi” của các khoản phải thu theo độ dài thời gian. Qua đó, các nhà quản lí
doanh nghiệp có thể theo dõi và có biện pháp thu hồi nợ khi đến hạn.
Sinh viên: Đào Thị Thanh Hà

24


-

Xác định số dư khoản phải thu: Bằng phương pháp này doanh nghiệp có thể thấy được nợ
tồn đọng của khách hàng nợ doanh nghiệp. Cùng với các biện pháp theo dõi và quản lí
khác doanh nghiệp có thể thấy được ảnh hưởng của chính sách tín dụng thương mại và có
những điều chỉnh kịp thời, hợp lí phù hợp với từng đối tuợng khách hàng, từng khoản
mục cụ thể.

Sinh viên: Đào Thị Thanh Hà

25


×