Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

CÂU HỎI & ĐÁP ÁN ÔN TẬP MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN CHI TIẾT NHẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.57 KB, 35 trang )

CÂU HỎI & ĐÁP ÁN ÔN TẬP MÔN TRIẾT HỌC
MÁC – LÊNIN CHI TIẾT NHẤT

Câu 1: Phân tích khái niệm vật chất theo quan niệm của Lênin và mối
quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.
a. Khái niệm vật chất theo quan niệm của Lênin:
Phạm trù vật chất là vô cùng trừu tượng, là nền tảng thống nhất và là bản nguyên
của thế giới triết học chủ nghĩa duy vật. Bàn về vật chất thì có nhiều quan điểm khác
nhau :
Các nhà triết học duy tâm tìm nguồn gốc, bản chất của thế giới ở "ý niệm
tuyệt đối" hoặc ở ý thức con người; ngược lại thì các nhà duy vật trước Mác
có khuynh hướng chung là tìm nguồn gốc, bản chất của thế giới ngay trong bản thân
nó. Nhưng do ảnh hưởng của quan điểm siêu hình - máy móc nên họ cho rằng
mọi hiện tượng của thế giới đều được cấu tạo từ những vật thể ban đầu giống nhau,
thống nhất với nhau, cùng bị chi phối bởi một số quy luật nhất định. Quan điểm ấy
không phản ánh được tính nhiều vẻ, tính vô tận của thế giới hiện thực.
Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen; tổng kết những thành tựu khoa học
tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và từ nhu cầu của cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa duy tâm, Lênin đã định nghĩa: "Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ
thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác".
Theo quan niệm duy vật biện chứng: “VC tồn tại cụ thể, con người dựa vào cảm
giác có khả năng nhận thức được nó. Cảm giác là cơ sở đầu tiên của quá trình nhận
1


thức, cơ sở thứ hai là ý thức của con người; khác với chủ nghĩa duy tâm chủ quan,
cho rằng cảm giác là cơ sở duy nhất của quá trình nhận thức”.
Ở định nghĩa này, Lênin phân biệt hai vấn đề quan trọng:
Thứ nhất là phân biệt vật chất với tư cách là phạm trù triết học với các quan niệm
của khoa học tự nhiên về cấu tạo và những thuộc tính cụ thể của các đối tượng các


dạng vật chất khác nhau. Vật chất với tư cách là phạm trù triết học dùng chỉ
vật chất nói chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi; còn các đối tượng,
các dạng vật chất khoa học cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn, có sinh ra và mất đi để
chuyển hóa thành cái khác. Vì vậy, không thể quy vật chất nói chung về vật thể,
không thể đồng nhất vật chất nói chung với những dạng cụ thể của vật chất như các
nhà duy vật trong lịch sử cổ đại, cận đại đã làm.
Thứ hai là trong nhận thức luận, đặc trưng quan trọng nhất để nhận biết vật chất
chính là thuộc tính khách quan. Khách quan, theo V.I.Lênin là "cái đang tồn tại độc
lập với loài người và với cảm giác của con người". Trong đời sống xã hội, vật chất
"theo ý nghĩa là tồn tại xã hội, không phụ thuộc vào ý thức xã hội của con người". Về
mặt nhận thức luận thì khái niệm vật chất không có nghĩa gì khác hơn là "thực tại
khách quan tồn tại độc lập với ý thức con người và được ý thức con người phản ánh".
Như vậy, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau:
Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức,
bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được.
Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hoặc trực tiếp tác động
lên giác quan của con người.
Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất.
Với những nội dung cơ bản như trên định nghĩa vật chất của V. I. Lênin có nhiều ý
nghĩa to lớn.
Đưa ra tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất cái gì không phải là vật chất,
2


khẳng định “thực tại khách quan” (vật chất ) là cái có trước (tính thứ nhất), còn “cảm
giác ý thức” là cái có sau ( tính thứ hai); vật chất tồn tại không phụ thuộc vào ý thức.
Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã bác bỏ quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, bác
bỏ thuyết không thể biết, đã khắc phục được những hạn chế trong các quan điểm của
chủ nghĩa duy vật trước Mác về vật chất.
Đồng thời, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin còn có ý nghĩa định hướng và mở

đường cho các khoa học khác phát triển, đặc biệt là khoa học tự nhiên, đấu tranh khắc
phục triệt để tính chất trực quan, siêu hình , máy móc và những biến tướng của nó
trong quan niệm về vật chất của các nhà triết học tư sản hiện đại. Do đó, định nghĩa
này cũng giải quyết được sự khủng hoảng trong quan điểm về vật chất của các nhà
triết học và khoa học theo quan điểm của chủ nghĩa siêu hình
Cổ vũ, động viên các nhà khoa học đi sâu nghiên cứu thế giới vât chất, tìm ra
những kết cấu mới, những thuộc tính mới và những quy luật vận động của vật chất để
làm phong phú thêm kho tàng tri thức của nhân loại
Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin cho phép xác định cái gì là vật chất trong lĩnh
vực xã hội. Từ đó giúp các nhà khoa học có cơ sở lý luận để giải thích những nguyên
nhân cuối cùng của các biến cố xã hội, những nguyên nhân thuộc về sự vận động của
phương thức sản xuất; trên cơ sở ấy, người ta có thể tìm ra các phương án tối ưu để
hoạt động thúc đẩy xã hội phát triển.

b. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
Vai trò của vật chất đối với ý thức:
Vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vì ý thức là sản phẩm của bộ óc con
người nên khi có con ngưới mới có ý thức,mà con người là sản phẩm của thế giới vật
chất.
Vật chất là nguồn gốc của ý thức, vì các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, XH
3


của ý thức là bản thân thế giới vật chất, hoặc là những dạng tồn tại của vật chất.
Nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất, vì ý thức là cái phản ánh thế
giới vật chất, là hình ảnh về thế giới vật chất.
vật chất quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức, vì
những yếu tố vật chất ( qui luật sinh học, qui luật XH, sự tác động của môi trường
sống) quyết định sự vận động, phát triển và hình thưc biểu hiện của ý thức.
Vai trò của ý thức đối với vật chất:

Ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con
người: ý thức trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan để xác định mục
tiêu, đề ra phương hướng, nhằm thực hiện mục tiêu của mình.
Sự tác động trở lại đó diễn ra theo 2 hướng:
-

Tích cực: khi con người nhận thức đúng, hành động phù hợp với qui luật

-

khách quan, cải tạo được thế giới.
Tiêu cực: khi ý thức con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan,
hành động đi ngược lại qui luật khách quan.

Ý thức có thể quyết định hành động của con người.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, chung nhất: trong mọi hoạt động nhận thưc
và thực tiễn, phải:
Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan.
Trong nhận thức và hành động phải xuất phát từ thực tế khách quan để xác định
mục đích, đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch, biện pháp; phải lấy
thực tế khách quan làm cơ sở, phương tiện; phải tìm ra những nhân tố VC, tổ chức
chúng thành lực lượng VC để hành động.
Phát huy tính năng động chủ quan: phát huy vai trò tích cực, ănng động, sáng
tạo của ý thức và vai trò nhân tố con người.
4


Tôn trọng tri thức khoa học; tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ và truyền
bá tri thức khoa học vào quần chúng, hướng dẫn họ hành động; tu dưỡng, rèn luyện để

hình thành, củng cố nhân sinh quan CM, tình cảm, nghị lực CM để có sự thống nhất
hữu cơ giữa tính khoa học và tính nhân văn trong định hướng hành động.
Để thực hiện nguyên tắc trên, phải phòng chống và khắc phục bệnh chủ quan duy ý
chí, chống chủ nghĩa kinh nghiệm, xem thường tri thức khoa học, xem thường lí luận,
bảo thủ, trì trệ, thụ động trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.

Câu 2: Phân tích nội dung 2 nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy
vật
a. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
Khái niệm:
Mối liên hệ là khái niệm dung để chỉ sự qui định, tác động và chuyển hóa
lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng hay các mặt, các biến cố của mỗi sự vật, hiện
tượng trong thế giới.
Mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện
tượng của thế giới (giới tự nhiên, XH và tư duy).
Tính chất: Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng là các tính chất cơ
bản của các mối liên hệ
Tính khách quan: Sự quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau và làm chuyển hóa
lẫn nhau trong tổ chức, kết cấu của các sự vật, hiện tượng (hoặc trong bản thân chúng)
là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào ý thức của con người; con
người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn
của mình. Do tính chất của sự qui định đó mà ta phân biệt được trạng thái khác nhau
của VC: tồn tại khách quan là tồn tại VC, khác với chủ quan thể hiện ở ý thức, tinh
thần.
5


Tính phổ biến: Theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ sự vật, hiện
tượng hay quá trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá
trình khác; đồng thời cũng không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một

cấu trúc hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong
của nó, tức là bất cứ một tồn tại nào cũng là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở,
tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau. Vậy
tất cả mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại và đặt trong mối liện hệ.
Tính đa dạng, phong phú:
Các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có nhiều tổ chức, cấu
trúc khác nhau nên có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vai trò, vị trí khác
nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt khác, cùng một mối liên hệ nhất định
của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác
nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật thì cũng có những tính chất và vai
trò khác nhau.
Tùy thuộc vào mối liên hệ mà qui định cho tính chất của sự vật, hiện tượng.
Một sự vật có rất nhiều tính chất, thuộc tính cơ bản và không cơ bản. thuộc tính cơ
bản là thuộc tính vốn có qui định cho bản chất của sự vật, mất thuộc tính này sự vật
không còn là nó nữa thuộc tính cơ bản qui định cho sự tồn tại và biến đổi sự vật. Biến
đổi sự vật qui định ở những mặt đối lập trong bản thân sự vật.
Như vậy, không thể đồng nhất tính chất và vị trí, vai trò cụ thể của các mối
liên hệ khác nhau đối với những sự vật nhất định, trong những điều kiện xác định. Đó
là mối liên hệ bên trong và bên ngoài, mối liên hệ bản chất và hiện tượng, liên hệ chủ
yếu và thứ yếu, liên hệ trực tiếp và gián tiếp, liên hệ cơ bản và không cơ bản….Trong
đó, liên hệ bên trong, bản chất, chủ yếu, trực tiếp, cơ bản mang tính chất quyết định.
Ý nghĩa:
Từ tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện.
6


Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực
tiễn cần xem xét sự vật trong mối liên hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa
các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó

với các sự vật khác. Như vậy, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện,
siêu hình trong nhận thức và thực tiễn.
Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn khi đã thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng thời cũng
cần phải kết hợp với quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các tình
huống trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối
tượng nhận thức và tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn. Như vậy,
trong nhận thức và thực tiễn không những cần phải tránh và khắc phục quan điểm
phiến diện siêu hình mà còn phải tránh và khắc phục quan điểm chiết trung, ngụy
biện.

b. Nguyên lý về sự phát triển:
Khái niệm:
Quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng giảm thuần túy về lượng,
không có sự thay đổi về chất của sự vật; đồng thời, nó cũng xem sự phát triển là quá
trình tiến lên liên tục, không trải qua những bước quanh co phức tạp.
Đối lập với quan điểm siêu hình, trong phép biện chứng khái niệm phát triển
dùng để chỉ quá trình vận động theo khuynh hướng đi từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Phát triển là quá trình vận động
nhưng không đồng nhất với vận động vì phát triển chỉ có 1 xu hướng, vận động bao
gồm nhiều xu hướng ( đi lên, đi xuống, đứng lên). Phát triển cũng là quá trình phát
sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật; là quá trình thống nhất
giữa phủ định những nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật
7


cũ trong hình thái mới của sự vật.
Tính chất: Các quá trình phát triển đều có tính khách quan, tính phổ biến và
tính đa dạng, phong phú.

Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động
và phát triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là quá trình tự
vận động, tự biến đổi, tự giải quyết mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng đó. Vì vậy,
phát triển là thuộc tính tất yếu, khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con người.
Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn
ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả moi sự vật, hiện tượng và
trong mọi quá trình, mọi giai đoạn của sự vật, hiện tượng đó; trong mỗi quá trình biến
đổi đã bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới, phù hợp với qui luật khách
quan.
Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển là
khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng,
mỗi lĩnh vực hiện thực lại có quá trình phát triển không hoàn toàn giống nhau. Trong
quá trình phát triển của mình, sự vật còn chịu nhiều sự tác động của các sự vật, hiện
tượng hay quá trình khác, của rất nhiều yếu tố và điều kiện lịch sử, cụ thể. Sự tác
động đó có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí có thể làm
cho sự vật thụt lùi tạm thời, có thể dẫn tới sự phát triển về mặt này và thoái hóa ở mặt
khác.
Ý nghĩa:
Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc nhận
thức thế giới và cải tạo thế giới. Theo nguyên lý này, trong mọi nhận thức và thực tiễn
cần phải có quan điểm phát triển: không chỉ nhận thức sự vật ở hiện tại mà phải dự
đoán ở tương lai, thấy được xu thế tương lai, tạo điều kiện cho cái mới, tiến bộ ra đời,
xoa bỏ những cái cũ lạc hậu. Trong quá trình phát triển cũng có những bước lùi tạm
thời, nhưng sự thục lùi đó tạo điều kiện cho sự tiến lên nhiều hơn tránh tình trạng dao
8


động, hoang mang, lùi cũng được coi là 1 chiến lược.
Theo đó để nhận thức và giải quyết bất cứ vấn đề gì trong thực tiễn, một mặt
cần đặt sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên của nó, mặt khác cần có quan

điểm lịch sử, cụ thể trong nhận thức và giải quyết các vấn đề, phù hợp với tính chất
phong phú, đa dạng, phức tạp của nó.

Câu 3: Trình bày các qui luật của phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu khái quát biện chứng của thế giới thành hệ
thống các nguyên lí và quy luật khoa học nhằm xây dựng phương pháp luận của nhận
thức và thực tiễn. Trong đó, phép biện chứng duy vật của Chủ nghĩ Mác Lênin được
xác lập trên nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học, với sự thống nhất giữa nội
dung của thế giới quan (Duy vật biện chứng) và phương pháp luận (Biện chứng duy
vật)
Nội dung của phép biện chứng duy vật gồm có 2 nguyên lí, 3 quy luật cơ bản và 6
quy luật không cơ bản (hay còn gọi là 6 cặp phạm trù).
Qui luật là những mối lien hệ khách quan, bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại
giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính bên trong mỗi một sự vật, hay giữa các sự vật,
hiện tượng với nhau.
Căn cứ vào mức độ của tính phổ biến, các qui luật được chia thành: những qui luật
riêng, những qui luật chung và những qui luật phổ biến.
Căn cứ vào lĩnh vực tác động, các qui luật được chia thành: những qui luật tự nhiên,
những qui luật XH và những qui luật của tư duy.
Qui luật được vận dụng vào những khoa học cụ thể thì mang tính tự phát, đặc thù,
gọi là định luật qui luật trong tự nhiên.
Sự vận động của XH loài người cũng có qui luật nhưng mang tính khách quan qui
luật XH.
Sự nhận thức của con người cũng mang tính qui luật qui luật của tư duy logic học.
9


Qui luật và bản chất đồng nhất với nhau.
Qui luật mang tính khái quát, không phụ thuộc ý thức con người. Con người chỉ
nhận thức được qui luật chứ không thể thay đổi qui luật. Qui luật là cái có sẵn.

Để qui luật được vận hành thì qui luật phải gắn với điều kiện, nếu điều kiện thay đổi
thì kết quả thay đổi. Khi xét 1 sự vật, hiện tượng phải xét trong điều kiện cụ thể.
3 qui luật sau là các qui luật cơ bản của phép BCDV:
Qui luật chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và
ngược lại ( qui luật lượng chất) :
Qui luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất
và ngược lại là qui luật cơ bản, phổ biến về phương thức chung của các quá trình vận
động, phát triển trong tự nhiên, XH và tư duy.
Quan điểm siêu hình cho rằng sự vật chỉ biến đổi về lượng chứ không biến đổi về
chất.
Quan điểm duy vật cho rằng sự vật biến đổi về cả lượng và chất.
a. Khái niệm chất, lượng :
Chất dùng để chỉ tính qui định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng ; là sự
thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với cái khác. Con người
chỉ có khả năng nhận thức chứ không thay đổi được chất.
Mỗi sự vật, hiện tượng đều có những thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Chỉ những
thuộc tính cơ bản mới hợp thành chất của sự vật, hiện tượng. Khi những thuộc tính cơ
bản thay đổi thì chất của nó thay đổi.
Chất còn được xác định bởi cấu trúc và phương thức liên kết giữa chúng, thông qua
những mối liên hệ cụ thể. Chất không tồn tại thuần túy tách rời sự vật, biểu hiện tính
ổn định tương đối của nó.
Lượng dùng để chỉ tính qui định khách quan vốn có của sự vật về các phương diện:
số lượng các yếu tố cấu thành, qui mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá
10


trình vận động, phát triển của sự vật.
Vậy chất và lượng là 2 phương diện khác nhau của cùng 1 sự vật, hiện tượng, hay 1
quá trình nào đó trong tự nhiên, XH và tư duy. Lượng là lượng của chất, chất được thể
hiện thông qua lượng. Lượng và chất tồn tại khách quan.

b. Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng :
Trong 1 sự vật bao giờ cũng có sự gắn bó chặt chẽ giữa lượng và chất. Trong quá
trình vận động, lượng biến đổi liên tục, ít nhiều ảnh hưởng đến chất.
Độ : là giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa làm chất thay đổi. Sự vật hiện tượng
vẫn còn là nó, chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác.
Điểm nút : là điểm đánh dấu khi lượng thay đổi đến 1 giới hạn nhât định sẽ dẫn đến
sự thay đổi về chất.
Bước nhảy : dùng để chỉ sự thay đổi của chất : sự thay đổi về lượng khi đạt tới
điểm nút, với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới.
Sự thay đổi về chất diễn ra với nhiều hình thức bước nhảy khác nhau : lớn và nhỏ,
cục bộ và toàn bộ, tự phát và tự giác, dần dần và đột biến,...
Về qui mô :
Bước nhảy cục bộ : là thay đổi từng mặt, từng phần và dẫn đến thay đổi toàn bộ
bước nhảy toàn bộ.
Bước nhảy toàn bộ : là thay đổi toàn diện.
Về nhịp điệu :
Bước nhảy dần dần : là bước nhảy diễn ra từ từ, dẫn đến sự biến hóa XH bước
nhảy đột biến.
Bước nhảy đột biến : diễn ra nhanh chóng
Khi chất mới ra đời sẽ tác động trở lại lượng mới làm thay đổi kết cấu, qui mô, trình
độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật.
11


c. Ý nghĩa phương pháp luận :
Phải coi trọng cả chất và lượng của sự vật, tạo nên nhận thức toàn diện về sự vật.
Không được tuyệt đối hóa vai trò của lượng hoặc chất. Chỉ biến đổi về lượng thì là
bảo thủ, chỉ biến đổi về chất thì là chủ quan duy ý chí.
Tùy mục đích cụ thể, cần từng bước tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi về chất
của sự vật ; đồng thời có thể phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi

về lượng của sự vật.
Trong công tác thực tiễn, cần khắc phục tư tưởng nôn nóng tả khuynh ( bất chấp qui
luật, chủ quan, duy ý chí) và tư tưởng bảo thủ hữu khuynh ( bảo thủ, trì trệ).
Trong nhận thức và thực tiễn cần phải có sự vận dụng linh hoạt các hình thức của
bước nhảy cho phù hợp với từng điều kiện, lĩnh vực cụ thể. Cần nâng cao tính tích
cực chủ động của chủ thể để thúc đẩy quá trình chuyển hóa từ lượng đến chất 1 cách
hiệu quả nhất.
Qui luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập ( qui luật mâu thuẫn) :
Là qui luật ở thế hạn nhân của phép BCDV, là qui luật về nguồn gốc, động lực cơ
bản, phổ biến của mọi quá trình vận động và phát triển xuất phát từ các mâu thuẫn
khách quan , vốn có của nó.
a. Khái niệm mâu thuẫn
Quan niệm biện chứng : Khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất và
đấu tranh, chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các
sự vật, hiện tượng với nhau.
Quan niệm siêu hình : mâu thuẫn là cái đối lập phản logic, không có sự thống nhất,
không có sự chuyển hóa biện chứng giữa các mặt đối lập.
Nhân tố tạo thành mâu thuẫn là mặt đối lập : những mặt, những thuộc tính, những
khuynh hướng vận động trái ngược nhau nhưng là điều kiện, tiền đề tồn tại của nhau.
b. Các tính chất chung của mâu thuẫn :
12


Tính khách quan và tính phổ biến.
Tính đa dạng, phong phú :
Tính đa dạng: mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đều có thể bao hàm nhiều loại mâu
thuẫn khác nhau trong những điều kiện LS, cụ thể khác nhau; chúng giữ vị trí, vai trò
khác nhau đối với sự tồn tại, vận động, phát triển của sự vật. Đó là mâu thuẫn bên
trong và bên ngoài, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và thứ yếu.
Tính phong phú: trong các lĩnh vực khác nhau cũng tồn tại những mâu thuẫn với

những tính chất khác nhau.
c. Quá trình vận động của mâu thuẫn:
Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh với
nhau:
Thống nhất: chỉ sự ràng buộc, liên hệ, không tách rời nhau, qui định lẫn nhau của
các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại. Thống nhất bao hàm sự đồng
nhất.
Đấu tranh: chỉ khuynh hướng tác động qua lại, bại trừ, phủ định nhau của các mặt
đối lập, mang tính phong phú, đa dạng.
Sự đấu tranh là tuyệt đối, sự thống nhất là tương đối, có điều kiện, tạm thời. Trong
sự thống nhất đã có sự đấu tranh, đấu tranh trong tính thống nhất.
Quá trình thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập tất yếu dẫn đến sự chuyển
hóa giữa chúng. Lúc mới xuất hiện, mâu thuẫn thể hiện ở sự khác biệt và phát triển
thành 2 mặt đối lập. Khi 2 mặt đối lập xung đột với nhau gay gắt và khi điều kiện chin
mùi sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu
thuẫn mới hình thành, quá trình tác động, chuyển hóa giữa 2 mặt đối lập lại tiếp diễn,
làm sự vật, hiện tượng luôn vận động, phát triển
d. Ý nghĩa phương pháp luận:
Tôn trọng mâu thuẫn, phát hiện mâu thuẫn, phân tích đầy đủ các mặt đối lập, nắm
13


được bản chất, nguồn gốc, khuynh hướng của sự vận động và phát triển.
Phân tích cụ thể từng loại mâu thuẫn và phương pháp giải quyết phù hợp.
Phân biệt đúng vai trò, vị trí của các loại mâu thuẫn trong từng hoàn cảnh, điều kiện
nhất định.
Đấu tranh xóa bỏ cái cũ, tạo điều kiện cho cái mới ra đời.
Qui luật phủ định của phủ định:
Là qui luật về khuynh hướng cơ bản, phổ biến của mọi vận động, phát triển diễn ra
trong các lĩnh vực tự nhiên, XH và tư duy. Đó là khuynh hướng vận động, phát triển

của sự vật thông qua những lần phủ định biện chứng mang tính chu kì “phủ định của
phủ định”.
a. Khái niệm phủ định, phủ định biện chứng:
Phủ định: là sự xóa bỏ sự vật này để thay vào đó 1 sự vật khác, mang tính phổ biến.
Nguyên nhân của sự phủ định:
Do tác động của ngoại lực làm sự vật biến đổi.
Do tác động nội lực.
Kết quả của sự phủ định:
Làm cho sự vật chấm dứt phát triển.
Tạo điều kiện, tiền đề cho quá trình phát triển của sự vật. Đó gọi là phủ định biện
chứng.
Tính chất của phủ định BC:
Tính khách quan: vì nguyên nhân của sự phủ định nằm trong chính bản thân sự vật,
hiện tượng; nó là kết quả của quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn tất yếu, bên
trong bản thân sự vật; tạo khả năng ra đời của cái mới, thay thế cái cũ, tạo xu hướng
phát triển của bản thân sự vật..

14


Tính kế thừa: kế thừa nhân tố hợp qui luật và loại bỏ nhân tố phản qui luật.
Vậy PĐBC là khuynh hướng tất yếu của mối liên hệ bên trong giữa cái cũ và cái
mới, là sự tự khẳng định của các quá trình vận động, phát triển của sự vật.
b. Phủ định của phủ định:
Để hoàn tất chu kì của sự phát triển thì sự vật ít nhất phải trải qua 2 lần phủ định.
Phủ định chia làm 2 giai đoạn:
Phủ định cái khẳng định: 2 mặt đối lập có sự chuyển hóa cho nhau phủ định mang
tính trung gian, tạo điều kiện cho sự vật tiếp tục phát triển.
Phủ định cái phủ định: sự phủ định là sự tổng hợp của mọi PĐBC sự vật mới xuất
hiện, về mặt hình thức giống cái ban đầu, về mặt nội dung tiến bộ hơn cái ban đầu. Sự

ra đời cái mới dường như có lặp lại cái cũ nhưng trên 1 cơ sở cao hơn, có sự tiến lên.
Qui luật phủ định của phủ định khái quát tính chất chung, phổ biến của sự phát triển
theo hình thức con đường “xoáy ốc”, thể hiện tính biện chứng của sự phát triển: tính
kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên.
Tóm lại, nội dung cơ bản của qui luật phủ định của phủ định phản ánh mối quan hệ
biện chứng giữa cái phủ định và cái khẳng định trong quá trình phát triển của sự vật.
PĐBC là điều kiện cho sự phát triển, cái mới ra đời là kết quả của sự kế thừa những
nội dung tích cực từ trong sự vật cũ, phát huy nó trong sự vật mới và tạo nên tính chu
kì của sự phát triển.
c. Ý nghĩa phương pháp luận:
Qui luật phủ định của phủ định là cơ sở để chúng ta nhận thức 1 cách đúng đắn về cơ
sở vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Cần nắm được đặc điểm, bản chất, các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng để tác động
tới sự phát triển, phù hợp yêu cầu hoạt động nhận thức biểu hiện của thế giới quan
khoa học và nhân sinh quan cách mạng trong mọi hoạt động của chúng ta ( khẳng
định niềm tin vào xu hướng tất yếu là phát triển tiến lên) và thực tiễn.
15


Nâng cao tính tích cực của nhân tố chủ quan trong moi hoạt động, có niềm tin vào sự
tất thắng của cái mới, ủng hộ cái mới và đấu tranh cho cái mới thắng lợi Khắc phục
tư tưởng bảo thủ, trì trệ, giáo điều, kiềm hãm sự phát triển của cái mới, làm trái với
qui luật phủ định của phủ định.
Phải có quan niệm biện chứng trong quá trình kế thừa sự phát triển khắc phục tư
tưởng tả khuynh và hữu khuynh chỉ kế thừa những yếu tố hợp lí của cái cũ cho sự
phát triển của cái mới.

Câu 4: Lí luận nhận thức và thực tiễn
a. Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính LS-XH của con

người nhằm cải biến tự nhiên và XH.
Trong đó:
HĐVC là HĐ con người tham gia vào, tác động vào thế giới nói chung với mục
đích duy trì sự tồn tại và phát triển của con người trong XH, sản xuất ra XH.


Thực tiễn là phương thức cơ bản của HĐ, HĐ là thông điệp giữa con người và con
vật.
HĐ mang tính LS-XH vì gắn liền với môi trường quan hệ XH, vì HĐ có sự
vận động, phát triển. HĐ thực tiễn qui định cho tính chất khác nhau của các thời đại
LS.
3 hình thức cơ bản của thực tiễn:
HĐSXVC: là hình thức HĐ cơ bản, đầu tiên của thực tiễn,chi phối những HĐ
thực tiễn khác, là HĐ con người sử dụng những công cụ LĐ tác động vào thế giới
tự nhiên để tạo ra của cải VC nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình.
HĐ chính trị XH: là HĐ của các cộng đồng người, các tổ chức khác nhau trong
XH nhằm cải biến những quan hệ chính trị XH để thúc đẩy XH phát triển.

16


HĐ thực nghiệm khoa học: là hình thức đặc biệt của HĐ thực tiễn, ngày càng
có vai trò quan trọng trong sự phát triển XH, đặc biệt trong thời kì CM khoa học
và công nghệ hiện đại. Đây là HĐ được tiến hành trong những điều kiện do con
người tạo ra, gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và XH
nhằm xác định những qui luật biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu, giúp
con người rút ngắn quá trình nhận thức, nâng cao hiệu quả của LĐSX và cải tạo
phục vụ XH.
HĐ chính trị XH và HĐ thực nghiệm khoa học 1 mặt phục vụ cho
HĐSXVC, mặt khác kiềm hãm hoặc thúc đẩy HĐSXVC. Sự tác động qua lại này

làm cho HĐ thực tiễn vận động, phát triển và ngày càng có vai trò quan trọng đối
với HĐ nhận thức.
b. Nhận thức và các trình độ nhận thức
Nhận thức là 1 quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách
quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn , nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế
giới khách quan đó.
Chủ thể và khách thể là các yếu tố cơ bản của nhận thức. Khách thể nhận thức
quyết định chủ thể nhận thức.
Các trình độ nhận thức:
Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lí luận:
Nhận thức kinh nghiệm: là trình độ nhận thức hình thành từ sự quan sát trực
tiếp các sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên, XH hay trong các thí nghiệm khoa
học.Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm thông thường và tri
thức kinh nghiệm khoa học.
Nhận thức lí luận: là trình độ nhận thức gián tiếp, trừu tượng, có tính hệ thống
trong việc khái quát bản chất, qui luật của các sự vật, hiện tượng.
Mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lí luận:
17


Nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức lí luận.
Nhận thức lí luận không hình thành 1 cách tự phát, trực tiếp từ kinh nghiệm. Do tính độc lập
tương đối của nó, lí luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm, hướng dẫn hình
thành những tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn những kinh nghiệm hợp lí để
phục vụ cho hoạt động thực tiễn.
Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học:
Nhận thức thông thường: là loại nhận thức được hình thành 1 cách tự phát,
trực tiếp từ trong hoạt động hằng ngày của con người, phản ánh sự vật, hiện tượng
xảy ra với tất cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự
vật. Nó mang tính phong phú và gắn liền với những quan niệm sống thực tế hằng

ngày nên có vai trò thường xuyên và phổ biến chi phối hoạt động của mọi người trong
XH.
Nhận thức khoa học: là loại nhận thức được hình thành 1 cách tự giác và gián
tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên
cứu diễn ra dưới dạng trừu tượng, logic. Đó là các khái niệm, phạm trù và các qui luật
khoa học. Nó vừa có tính khách quan, trừu tượng, khái quát, vừa có tính hệ thống, có
căn cứ và có tính chân thực. Nó có vai trò ngày càng to lớn trong hoạt động thực tiễn,
đặc biệt trong thời đại khoa học và công nghệ hiện đại.Mối quan hệ giữa nhận thức
thông thường và nhận thức khoa học: Nhận thức thông thường có trước nhận thức
khoa học và là nguồn chất liệu để xây dựng nội dung của các khoa học.
Khi đạt tới trình độ nhận thức khoa học, nó tác động trở lại nhận thức thông
thường, xâm nhập vào nhận thức thông thường và làm cho nhận thức thông thường
phát triển, tăng cường nội dung khoa học cho quá trình con người nhận thức thế giới.
Tóm lại, nhận thức phải là 1 quá trình đi từ trình độ nhận thức kinh nghiệm đến
trình độ nhận thức lí luận; từ trình độ nhận thức thông thường đến trình độ nhận thức
khoa học.
Đi từ cảm tính đến lí tính.
18


c. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, vì thực tiễn là điểm xuất
phát trực tiếp của nhận thức, nó đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức, khuynh hướng
vận động và phát triển của nhận thức.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lí, kiểm tra tính chân lí của quá trình nhận thức.
Nhận thức giúp con người nâng cao giá trị sống, để nâng cao giá trị sống thì phải
kinh qua thực tiễn.
Tuy nhiên, nhận thức cũng có ý nghĩa quan trọng trong quan hệ với thực tiễn:
Nhận thức giúp con người nắm bắt những thuộc tính, qui luật, bản chất của sự
vật, hiện tượng, từ đó đề ra những phương án để giải quyết nó.

Nhận thức phản ánh đúng hiện thưc khách quan, tác động vào hiện thực, cải tạo
hiện thực, nếu phản ánh sai hiện thực khách quan thì sẽ ngăn cản quá trình cải tạo
hiện thực.
d. Ý nghĩa phương pháp luận:
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta phải quán triệt quan điểm
thực tiễn. Mọi nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn. Nghiên cứu lí luận phải liện hệ
thực tiễn (vì thế học phải đi đôi với hành). Không nên tuyệt đối hóa vai trò của thực
tiễn hay vai trò của nhận thức. Phát huy vai trò của nhận thức khoa học trong hoạt
động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại khoa học công nghệ hiện nay. Thực tiễn mà
không có lí luận khoa học sẽ là thực tiễn mù quáng. Trong hoạt động Đảng, xa rời
thực tiễn sẽ mắc bệnh giáo điều, máy móc, quan liêu. Tóm lại nguyên tắc thống nhất
giữa thực tiễn và lí luận là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thực tiễn và hoạt động lí
luận.
Do vai trò của thực tiễn đối với nhận thức và tác động trở lại của nhận thức đối với
thực tiễn, triết học Mác Lênin đề ra nguyên tắc thống nhất giữa nhận thức và thực
tiễn, trong đó thực tiễn có ý nghĩa quyết định.
19




Tuy nhiên, có lúc thực tiễn mâu thuẫn với nhận thức. Khi nhận thức không phù hợp
với thực tiễn, ta phải thay đổi nhận thức. Ta phải xuất phát từ hiện thực vì thực tiễn
cao hơn nhận thức và lí luận, nhưng không hạ thấp vai trò nhận thức mà phải tạo điều
kiện thúc đẩy nhận thức làm nhận thức phù hợp xu thế hoạt động của thực tiễn.

Câu 5: HĐSXVC là nền tảng của sự tồn tại và phát triển XH
a. SXVC và phương thức SX (PTSX)
SX là 1 loại hình HĐ đặc trưng của con người và XH loài người, bao gồm: SXVC,
SX tinh thần và SX ra bản thân con người., trong đó SXVC là yếu tố quyết định.

SXVC cũng chính là 1 loại hình HĐ thực tiễn với mục đích cải biến các đối tượng
của giới tự nhiên theo nhu cầu tồn tại, phát triển của con người và XH.
Vậy SXVC mang tính khách quan, tính XH, tính LS và tính sáng tạo:
KQ vì HĐ này không phải do ý muốn chủ quan của con người mà do yêu cầu
của HĐSXXH.
LS-XH vì khi XH thay đổi thì HĐ này thay đổi theo.
Sáng tạo vì HĐ này có sự tham gia của con người, SX ra con người.
Bất kì 1 quá trình SX nào cũng được cấu tạo từ 3 yếu tố cơ bản:
Sức LĐ của người LĐ: là toàn bộ thể lực và trí lực của con người có khả năng
được vận dụng, sử dụng trong quá trình SXVC. Đây là nhân tố quyết định.
Đối tượng LĐ: là những khách thể được con người tác động vào trong quá trình
LĐ, làm biến đổi chúng nhằm phục vụ cho nhu cầu sống của con người.
Tư liệu LĐ: là nhũng phương tiện VC mà con người sử dụng trong quá trình LĐ
để tác động vào đối tượng LĐ.
Khái niệm PTSX dùng để chỉ những cách thức mà con người sử dụng để tiến hành
quá trình SX của XH ở những giai đoạn LS nhất định.
Mỗi PTSX có 2 phương diện cơ bản là kĩ thuật và kinh tế:
20


Phương diện kĩ thuật: là sự thể hiện năng lực, trình độ, cách thức, kĩ thuật hoặc
HĐ công nghệ nhằm biến đổi các đối tượng của quá trình SX.
Phương diện kinh tế: là sự thể hiện cách thức tổ chức kinh tế của HĐSX. Vào
mỗi thời đại LS có 1 cách tổ chức kinh tế khác nhau.

b. Vai trò của SXVC và PTSX đối với sự tồn tại, phát triển của XH:
Theo quan điểm duy vật LS, SXVC giữ vai trò là nhân tố quyết định sự sinh tồn,
phát triển của con người và XH, là cơ sở làm phát sinh, phát triển những mối quan
hệ XH của con người, là cơ sở nền tảng của sự hình thành, biến đổi và phát triển của
XH loài người.

Để tiến hành quá trình SXVC, con người phải thiết lập nên những mối quan hệ
nhất định:
Giữa con người với tự nhiên: thể hiện năng lực chinh phục tự nhiên của con
người, là quan hệ kĩ thuật của nền KTXH.
Giữa con người với con người: thuần túy đứng trên góc độ kinh tế, lợi ích của
những phần tử tham gia quá trình LĐ là chất xúc tác tạo quan hệ bền vững, cũng là
chất xúc tác phá hủy mối quan hệ này.
Sự kết hợp 2 quan hệ trên hình thành PTSX. Các Mac gọi mối QH giữa con người
và tự nhiên là LLSX, mối QH giữa con người với con người là QHSX.
Mỗi PTSX hình thành những QHSX nhất định, dẫn đến hình thành các QHSX
khác.
Do QHSX là cơ sở của QHXH nên khi QHSX thay đổi sẽ làm thay đổi hàng loạt
các QHXH khác.
Như vậy, sự vận động, phát triển của toàn bộ đời sống XH, suy đến cùng có
nguyên nhân từ tình trạng phát triển của nền SX của XH.
QHSX thể hiện trình độ quan hệ người trong quá trình SXVC và gián tiếp nói lên
21


trình độ tiến bộ của XH loài người.
Trên cơ sở phân tích vai trò của nền SXXH, triết học Mác Lênin đã lí giải sự vận
động của LS. Sự thay thế và phát triển của các PTSX qua các thời đại là phản ánh
xu hướng tất yếu khách quan của quá trình phát triển XH loài người từ trình độ thấp
đến cao.

Câu 6: Phân tích quy luật của sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình
độ của lực lượng sản xuất
a.Khái niệm LLSX và QHSX:
Lực lượng sản xuất là khái niệm biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên trong quá trình sản xuất.

LLSX bao gồm:
Người lao động với trình độ- năng lực, tri thức khoa học, sức khỏe và thói
quen lao động, trong đó tri thức khoa học là lực lượng then chốt, nhân tố trực tiếp
của LLSX làm thay đổi đời sống.
Tư liệu sản xuất, bao gồm:
Tư liệu LĐ:
Công cụ LĐ: yếu tố quyết định làm tăng năng suất LĐ, cùng với người
LĐ quyết định cho sự phát triển của LLSX, không thể thiếu trong quá trình
LĐ.
Phương tiện LĐ: vật hay phức hợp vật có thể tạo ra khó khăn hay thuận
lợi cho quá trình LĐ.
Đối tượng LĐ:
Đối tượng LĐ có sẵn như ao, hồ,… hữu hạn.
Đối tượng LĐ do con người tạo ra, được lấy từ tự nhiên và qua chế biến
như vải, xăng dầu,… vô hạn vì phụ thuộc năng lực, trình độ con người.
22


Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động,
trình độ của người lao động, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ
ứng dụng những thành tựu khoa học vào sản xuất. Trong từng giai đoạn lịch sử nhất
định, trình độ LLSX thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai
đoạn lịch sử đó.
Quan hệ sản xuất là khái niệm chỉ mối quan hệ giữa người với người trong quá
trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội), là 1 trong những biểu hiện của
QHXH, giữ vai trò xuyên suốt trong QHXH vì QHSX là quan hệ đầu tiên, quyết
định những quan hệ khác.
Quan hệ sản xuất gồm 3 mặt:
Quan hệ sở hữu đối với TLSX : quyết định các quan hệ khác, là quan hệ xác
định vai trò, vị trí của con người trong sản xuất, xác định chủ sở hữu ( quyền sử

dụng và quyền định đoạt, trong đó quyền định đoạt đóng vai trò quyết định), bao
gồm QHSH về tư nhân và QHSH về tập thể, XH.
Quan hệ tổ chức lao động sản xuất
Quan hệ phân phối sản phẩm LĐ
QH tổ chức lao động sản xuất và QH phân phối sản phẩm LĐ 1 mặt chịu sự
chi phối của QH sở hữu về TLSX, mặt khác tác động trở lại QHSH. Sự tác động qua
lại này thúc đẩy sự phát triển của nền SXXH.

b. Mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX:
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thống nhất biện chứng với nhau trong
một phương thức sản xuất nhất định. Trong đó, lực lượng sản xuất là mặt nội dung,
thường xuyên biến đổi, phát triển (do trình độ của LLSX là yếu tố năng động, không
ngừng biến đổi và phát triển); quan hệ sản xuất là mặt hình thức, tương đối ổn định.
Sự tác động qua lại giữa hai mặt đó tạo thành quy luật về sự phù hợp của QHSX với
23


trình độ của LLSX. Đây là quy luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển xã hội.
.

Sự vận động, phát triển của LLSX đóng vai trò quyết định đối với QHSX, làm

cho QHSX biến đổi phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi
đó QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Sự phù hợp của QHSX với
trình độ phát triển của LLSX là trạng thái mà trong đó, QHSX là hình thức phát triển
của LLSX, các mặt của QHSX đều tạo điều kiện cho LLSX phát triển.
Mối quan hệ thống nhất giữa LLSX và QHSX tuân theo qui tắc khách quan:
QHSX phụ thuộc vào thực trạng phát triển thực tế của LLSX hiện thực trong mỗi
giai đoạn LS nhất định.
Khi LLSX phát triển ở một trình độ nhất định, QHSX cũ không còn phù hợp

với nó nữa thì yêu cầu khách quan sẽ thay thế QHSX cũ bằng một QHSX mới, PTSX
mới theo đó cũng hình thành và phát triển.
Như vậy, về bản chất, sự phù hợp giữa QHSX và trình độ phát triển của LLSX
tuân theo quy luật chuyển hóa từ sự biến đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và
ngược lại (quy luật lượng- chất). Về nguyên nhân, sự phù hợp giữa QHSX và trình độ
phát triển của LLSX mô phỏng quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập .
Về khuynh hướng, sự phù hợp giữa QHSX và trình độ phát triển của LLSX hoàn toàn
đúng với nội dung của quy luật phủ định của phủ định.
Tuy nhiên, quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại
sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển .
Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Sự kìm hãm này làm cho quan hệ sản xuất cũ được thay thế bằng một quan
hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy
lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển . Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất không phải đơn giản mà đòi hỏi phải thông qua
nhận thức hoạt động cải tạo xã hội của con người, thông qua đấu tranh giai cấp và
24


cách mạng xã hội.
Quy luật sản xuất phù hơp với trình độ sản xuất là quy luật phổ biến trong toàn
bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ
công xã nguyên thuỷ đến chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, TBCN và xã hội cộng
sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội trong đó quy luật
QHSX phù hợp với trình độ sản xuất là cơ bản nhất
c. Ý nghĩa phương pháp luận:
Cần quan tâm xây dựng lực lượng sản xuất tiên tiến và quan hệ sản xuất tiên
tiến. Không tuyệt đối hóa vai trò của LLSX hoặc QHSX.
Phải xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, mỗi thành phần kinh tế phù hợp

với 1 LLSX nhất định phù hợp trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa XH.
Con người và công cụ LĐ là yếu tố quan trọng của LLSX, quyết định trình độ
SX phải nâng cao trình độ chuyên môn và tư duy khoa học, tiến hành công nghiệp
hóa-hiện đại hóa để phát triển nền SXXH.

Câu 7: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng
a. Khái niệm CSHT, KTTT:
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một
xã hội nhất định, gồm 2 kiểu:
QHSX cơ bản: giữ địa vị thống trị nền SXXH, chi phối toàn bộ những QHSX
khác.
QHSX không cơ bản:
QHSX đóng vai trò tàn dư: đã từng giữ địa vị thống trị, nhưng trong hiện
tại trở thành bị thống trị.
QHSX đóng vai trò mầm mống: xuất hiện trong lòng KTXH nhất định,
25


×