Tải bản đầy đủ (.pdf) (226 trang)

(LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC) HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.44 MB, 226 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGÔ THỊ NGỌC VÂN

HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA CỦA LUẬT SƯ
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
Chuyên ngành

: Luật Hình sự và tố tụng hình sự

Mã số

: 62 38 01 04

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS.TS NGUYỄN VĂN HUYÊN
2. TS. PHAN THANH MAI

HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa


học của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Ngô Thị Ngọc Vân


MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và những
vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu
Kết luận chương 1

7
7
11
25
29

Chương 2: LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA CỦA LUẬT SƯ
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

2.1. Khái niệm hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự
2.2. Ý nghĩa hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự
Kết luận chương 2

30
30
59
65

Chương 3: CƠ SỞ PHÁP LÝ VÀ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BÀO
CHỮA CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ
THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

3.1. Cơ sở pháp lý của hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự
3.2. Thực trạng hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự
3.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động bào chữa của luật sư
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Kết luận chương 3

67
67
82
110
125

Chương 4: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG BÀO
CHỮA CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ

THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

126

4.1. Yêu cầu của cải cách tư pháp và vấn đề nâng cao chất lượng hoạt động
bào chữa của luật sư
4.2. Giải pháp về hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự
4.3. Các giải pháp khác
Kết luận chương 4

126
131
138
146

KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

149
151
152


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLTTHS
CQĐT
HĐXX


:
:
:

Bộ luật Tố tụng hình sự
Cơ quan điều tra
Hội đồng xét xử

NBC
LĐLSVN
TA

:
:
:

Người bào chữa
Liên đoàn Luật sư Việt Nam
Toà án

TANDTC

:

Toà án nhân dân tối cao

TTHS

:


Tố tụng hình sự

VKS
VKSNDTC

:
:

Viện kiểm sát
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 3.1:

Số lượng luật sư tham gia bào chữa trong 5 năm từ năm 2007
đến 2011

Biểu đồ 3.2:

Tình hình số luật sư được mời và theo yêu cầu của cơ quan
tiến hành tố tụng trong 5 năm từ năm 2007 đến 2011

Biểu đồ 3.3:

83

Tình hình luật sư tham gia bào chữa giai đoạn từ 5/2009 đến

5/2014

Biểu đồ 3.4:

82

84

Số vụ án luật sư tham gia bào chữa theo yêu cầu của cơ quan
tiến hành tố tụng

84


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, đặc biệt sau khi ban hành Hiến pháp năm 2013,
vấn đề mở rộng dân chủ, tăng cường pháp chế để bảo vệ có hiệu quả các quyền con
người, các quyền công dân càng trở nên cấp bách và trở thành nhiệm vụ của toàn xã
hội. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền trong đó có hệ thống pháp luật hoàn
chỉnh và những điều kiện kinh tế, chính trị xã hội thuận lợi là mục tiêu của cách
mạng trong giai đoạn hiện nay. Mặc dù Đảng và Nhà nước rất quan tâm tới nhiệm
vụ thúc đẩy quá trình dân chủ hoá mọi mặt của đời sống xã hội, bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân song sự vi phạm tới các quyền con người, đặc biệt
trong lĩnh vực tố tụng hình sự vẫn đang là vấn đề nhức nhối. Để đẩy mạnh công tác
tư pháp cho ngang tầm nhiệm vụ trong thời kỳ mới, ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị
Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã ra Nghị quyết số 08/NQTW về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. Nghị quyết
đã chỉ ra những quan điểm chỉ đạo như “bảo đảm tranh tụng với Luật sư, người bào
chữa và những người tham gia tố tụng khác...”, “ các cơ quan tư pháp có trách

nhiệm tạo điều kiện để Luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị
can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên toà...”.
Như vậy, bảo đảm thực hiện quyền và trách nhiệm của Luật sư trong hoạt
động tố tụng nói chung và trong giai đoạn đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói
riêng là vấn đề bức xúc trong cải cách tư pháp, đồng thời có ý nghĩa chiến lược
trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân,
vì dân. Đó là yêu cầu tất yếu khách quan để bảo đảm quyền con người, quyền công
dân. Giai đoạn xét xử sơ thẩm là giai đoạn trung tâm, thể hiện bản chất hoạt động tố
tụng hình sự, có vai trò quyết định trong giải quyết vụ án hình sự. Hoạt động bào
chữa của Luật sư trong tố tụng hình sự nói chung và trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự nói riêng là cần thiết khách quan. Khi tham gia giai đoạn xét xử sơ
thẩm, trong phạm vi được pháp luật cho phép, Luật sư bào chữa có trách nhiệm,
nghĩa vụ thực hiện các hoạt động nghề nghề nghiệp khác nhau nhằm bào chữa cho
bị can, bị cáo một cách có hiệu quả. Hoạt động bào chữa của Luật sư trong trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thể hiện trong các tiểu giai đoạn khác nhau:
trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, trong phiên toà sơ thẩm và sau khi kết thúc
phiên tòa sơ thẩm. Các hoạt động này thể hiện cụ thể khác nhau, tuỳ theo nhiệm vụ
tố tụng, thủ tục tố tụng của mỗi giai đoạn.


2
BLTTHS năm 1988 cũng như BLTTHS năm 2003 đều ghi nhận các quyền
của bị can, bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, với mục đích bảo vệ
họ tránh khỏi sự vi phạm từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng. Trên thực tế, tất cả
các quyền đó đều sẽ trở thành hình thức nếu không có cơ chế bảo đảm cho nó được
thực hiện. Do đó, sự tham gia của Luật sư thực chất là để giúp đỡ bị can, bị cáo thực
hiện các quyền mà pháp luật quy định cho bị can, bị cáo. Sự giúp đỡ này biểu hiện
qua việc Luật sư thực hiện các quyền của mình trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo (thực chất là thông qua
hoạt động bào chữa của luật sư). Việc tham gia tố tụng của Luật sư bào chữa là sự

giám sát tốt nhất các hoạt động của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án; đấu
tranh với những hành vi sai trái để bảo vệ mục đích cuối cùng của quá trình tố tụng
hình sự là giải quyết vụ án một cách khách quan, chính xác, đúng người, đúng tội và
đúng pháp luật. Bên cạnh đó, Luật sư bào chữa có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp
luật định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định bị can, bị cáo không có tội, những
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo... Hoạt động bào chữa của
Luật sư cũng góp phần giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án một cách
nhanh chóng, chính xác, hợp tình, hợp lý; giúp Toà án cân nhắc, xem xét để đưa ra
phán quyết có sức thuyết phục và nâng cao hiệu quả của pháp luật tố tụng hình sự.
Tuy nhiên, thực trạng thi hành các quy định của BLTTHS về sự tham gia của luật
sư bào chữa trong tố tụng hình sự nói chung và trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự nói riêng vẫn còn nhiều bất cập, vướng mắc. Khó khăn đầu tiên khiến
hoạt động bào chữa của luật sư bị cản trở đó là thủ tục cấp gấy chứng nhận người
bào chữa của Tòa án, tiếp đó là việc xác định quyền và lợi ích của các bị can, bị cáo
không đối lập nhau thường không rõ ràng dẫn đến trường hợp luật sư buộc phải,
hoặc bị từ chối tham gia bào chữa; luật sư không được tòa án thông báo về quyết
định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, thâm chí có trường hợp quyết định nói trên còn
đóng dấu “mật ” khiến luật sư khó nắm bắt được nội dung; vấn đề tiếp xúc bị cáo tại
phiên tòa chưa thuận tiện khi cán bộ dẫn giải luôn yêu cầu sự đồng ý của chủ tọa
phiên tòa… BLTTHS không quy định các trường hợp luật sư được quyền chủ động
đề xuất người làm chứng cũng như triệu tập những người liên quan khác có mặt tại
phiên tòa nếu không được sự chấp thuận của tòa án; các quy định về sự có mặt của
người bào chữa chưa rõ ràng nên trên thực tế nhiều HĐXX tùy tiện trong việc quyết
định xét xử nếu người bào chữa vắng mặt…
Hoạt động bào chữa của Luật sư thời gian qua còn nhiều bất cập, hạn chế.
Nguyên nhân của các bất cập, hạn chế đó là do bất cập trong quy định của pháp luật


3
cũng như nhận thức và tổ chức thực hiện hoạt động bào chữa trên thực tế. Việc

nâng cao hiệu quả hoạt động bào chữa của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
đòi hỏi phải có nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của Luật sư trong tố tụng hình
sự; làm rõ chức năng xét xử, chức năng buộc tội và chú trọng chức năng gỡ tội.
Theo đó, vị trí của Luật sư phải được xem là một bên tham gia tố tụng, ngang hàng
với Viện kiểm sát tại phiên toà nói chung và phiên toà sơ thẩm nói riêng. Nhận thức
đó phải được quán triệt trong đội ngũ cán bộ làm công tác tư pháp, đặc biệt là
những người tiến hành tố tụng và mọi công dân. Đồng thời, cần có giải pháp hoàn
thiện pháp luật tố tụng hình sự, nâng cao phẩm chất đạo đức và trình độ chuyên
môn của Luật sư; chú ý đến vai trò của tổ chức Luật sư trong việc nâng cao hiệu
quả hoạt động tư pháp; Nhà nước phải tạo hành lang pháp lý và điều kiện cần thiết
để khuyến khích Luật sư trong hoạt động nghề nghiệp, đồng thời nâng cao vai trò tự
quản của Đoàn Luật sư. Trong quá trình cải cách tư pháp cần củng cố, tăng cường
tổ chức và hoạt động của Luật sư. Sự đổi mới này phải đặt trong tổng thể cải cách
tư pháp, trên cơ sở quán triệt quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN ở Việt Nam. Trong quá trình tham khảo các tài liệu có liên quan,
nghiên cứu sinh nhận thấy mới chỉ có các công trình nghiên cứu ở cấp độ thạc sỹ,
tiến sỹ, đề tài khoa học cấp cớ sở, cấp Bộ, các bài viết viết trên các tạp chí chuyên
ngành của các nhà khoa học, những người làm công tác thực tiễn về vai trò của
người bào chữa trong tố tụng hình sự nói chung hoặc vấn đề bảo đảm quyền con
người, quyền của bị can, bị cáo …hay chỉ đề cập đến khía cạnh hẹp của vấn đề mà
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách trực diện, chuyên sâu về vấn đề hoạt
động thực tế của luật sư đặc biệt là hoạt động bào chữa của luật sư. Vì vậy, việc
nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động bào chữa của Luật
sư trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; đánh giá thực trạng hoạt động bào chữa của
luật sư trong giai đoạn này và đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bào
chữa của Luật sư có ý nghĩa quan trọng cả trên phương diện lý luận và phương
diện thực tiễn.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu Đề tài “Hoạt động bào chữa của luật sư trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự” là trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận,

quy định của pháp luật và thực tiễn về hoạt động bào chữa của Luật sư trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, đưa ra những kiến nghị hoàn thiện quy định của
pháp luật liên quan đến hoạt động bào chữa và các giải pháp bảo đảm, nâng cao
chất lượng hoạt động bào chữa của Luật sư trong tố tụng hình sự.


4
Với mục đích đó, Đề tài nghiên cứu đặt ra các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ vấn đề lý luận về hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự như: xây dựng khái niệm hoạt động bào chữa của
luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, nội dung hoạt động bào chữa,
đặc điểm, mục đích và ý nghĩa của hoạt động này.
- Làm rõ cơ sở pháp lý và thực trạng hoạt động bào chữa của Luật sư trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự (những kết quả đạt được, hạn chế, vướng
mắc, nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc).
- Kiến nghị các giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm và nâng cao chất lượng hoạt
động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận
về hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự,
quy định pháp luật liên quan đến hoạt động bào chữa của luật sư, thực trạng hoạt
động bào chữa của luật sư trong giai đoạn này.
Phạm vi nghiên cứu: tập trung làm rõ khái niệm hoạt động bào chữa của
luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, cở sở pháp lý, nội dung, đặc
điểm và ý nghĩa của hoạt động này; làm rõ sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về
hoạt động bào chữa của luật sư và những phương hướng, yêu cầu đặt đối với việc kiến
nghị hoàn thiện pháp luật và các giải pháp khác. Luận án nghiên cứu nội dung hoạt
động bào chữa và thực trạng của hoạt động này trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự và tại phiên toà sơ thẩm (không nghiên cứu hoạt động bào chữa của luật sư
trong một số trường hợp đặc thù như bào chữa cho người chưa thành niên, theo thủ tục

rút gọn và sau phiên toà sơ thẩm).
Về pháp luật, luận án tập trung nghiên cứu quy định của BLTTHS năm 2003

liên quan đến hoạt động bào chữa của luật sư. Ngoài ra, luận án cũng nghiên cứu các
văn bản pháp luật TTHS khác và văn bản pháp luật khác có liên quan đến hoạt động
bào chữa của luật sư. Việc nghiên cứu các quy định của pháp luật quốc tế về vấn đề
này cũng thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài ở mức độ phù hợp với yêu cầu và
điều kiện nghiên cứu.
Vấn đề thực trạng hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự, luận án sẽ đánh giá thông qua việc nghiên cứu, tổng kết các vụ án
đã xét xử sơ thẩm có sự tham gia của luật sư bào chữa từ năm 2005-2014 và hoạt động
thực tế của luật sư bào chữa ở một số tỉnh, thành phố trên cơ sở báo cáo của LĐLS Việt
Nam, của VKSNDTC, TANDTC, phiếu khảo sát và các thông tin, tài liệu khác.


5
4. Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng của triết học Mác Lê nin; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người, về vấn đề cải
cách tư pháp và về xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân làm
phương pháp luận cho việc nghiên cứu. Tác giả chú trọng sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học phù hợp với nội dung nghiên cứu. Cụ thể:
- Sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp trong tất cả các
chương của luận án để làm rõ các vấn đề về lý luận, thực trạng và giải pháp.
- Sử dụng phương pháp so sánh khi nghiên cứu vấn đề tổng quan tình hình
nghiên cứu trên thế giới và trong nước liên quan đến luận án; so sánh với các chuẩn
mực quốc tế; đánh giá tình hình luật sư tham gia bào chữa; đánh giá thực trạng hoạt
động bào chữa của luật sư; so sánh pháp luật mới - cũ, Việt Nam - các nước khác.
- Sử dụng phương pháp thống kê khi tổng hợp các số liệu liên quan đến luật
sư tham gia bào chữa trong các vụ án hình sự; khảo sát, phỏng vấn đối với các luật
sư đang hành nghề, người tiến hành tố tụng đánh giá về chất lượng hoạt động bào

chữa của luật sư.
5. Những điểm mới của luận án
- Luận án làm rõ những vấn đề lý luận về hoạt động bào chữa của luật sư như
xây dựng khái niệm hoạt động bào chữa, chỉ ra các đặc điểm và ý nghĩa, nội dung
của hoạt động này trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
- Chỉ rõ những bất cập trong các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và
pháp luật về hành nghề luật sư ảnh hưởng đến hoạt động bào chữa của luật sư.
- Làm rõ thực trạng hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự và nguyên nhân của những bất cập, hạn chế của hoạt động bào
chữa của luật sư trong giai đoạn này.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật, bảo đảm thực hiện và nâng cao
chất lượng hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của Luận án có thể bổ sung lý luận về hoạt động bào
chữa của luật sư nói chung và trong giai đoạn xét xử sơ thẩm nói riêng. Luận án sẽ
là nguồn tư liệu có ý nghĩa để các cá nhân, cơ quan hữu quan tham khảo, nghiên
cứu trong quá trình sửa đổi, bổ sung BLTTHS, Luật Luật sư; là nguồn tài liệu để
biên soạn tài liệu dạy và học cho các cơ sở đào tạo các chức danh tư pháp.


6
7. Kết cấu của luận án
Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đó đặt ra, luận án có kết cấu như sau:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung
của luận án sẽ gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu.
Chương 2: Lý luận về hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương 3: Cơ sở pháp lý và thực trạng hoạt động bào chữa của luật sư trong

giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương 4: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động bào chữa của luật sư
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.


7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI

Hoạt động bào chữa của luật sư là vấn đề đã được nghiên cứu trong một số
công trình khoa học ở các góc độ tiếp cận, mức độ, phạm vi khác nhau và đã đạt
được những kết quả nghiên cứu đáng trân trọng. Về mặt lý luận, những nghiên cứu
về vấn đề quyền con người (trong đó nhấn mạnh quyền bào chữa và quyền có người
bào chữa của người bị buộc tội), mô hình tố tụng, chức năng tố tụng và cải cách tư
pháp trên thế giới và ở Việt Nam là cơ sở lý luận và định hướng cho việc nghiên
cứu đề tài.
Trên diễn đàn nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước, có không ít bài báo,
công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài đề cập đến quyền bào chữa và
quyền có NBC. Cuốn “ Brownlie’s document on the man right” của tác giả Lan
Brownlie, GuyS.Goodwin -Grill năm 2010 tập trung phân tích các chuẩn mực pháp
lý quốc tế về quyền bào chữa, quyền có người bào chữa trong tố tụng hình sự và
vấn đề bảo vệ quyền bào chữa của người bị buộc tội trong đó có việc nhờ người
khác bào chữa của người bị buộc tội. Sách “Toward an international criminal
procedure” của tác giả Christoph Saffeling năm 2003 với nội dung so sánh, phân
tích những quy định bảo đảm các chuẩn mực quốc tế về quyền con người của người
bị buộc tội nói chung và quyền bào chữa nói riêng, đặc biệt, cuốn sách có đề cập
đến nội dung tạo hành lang pháp lý và điều kiện cần thiết để luật sư trợ giúp người
bị buộc tội thực hiện quyền bào chữa của họ. Bài viết “Basic principles on the role
of lawyers” của tác giả Adam Paker năm 2008 đã phân tích rõ nội dung nguyên tắc

cơ bản về vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự quốc tế qua việc chỉ ra các quy
định minh bạch về quyền bào chữa và trách nhiệm của Chính phủ trong việc bảo
đảm, bảo vệ quyền bào chữa của người bị buộc tội như được nhanh chóng tiếp cận
với luật sư, được tiếp xúc riêng với luật sư. Bài viết cũng phân tích rõ các quyền của
luật sư khi tham gia bào chữa như quyền có đủ thời gian và phương tiện chuẩn bị
cho việc bào chữa của mình, tranh tụng, tiếp cận đối tượng có liên quan, thu thập
chứng cứ…. Bài viết “Quá trình phát triển luật hình sự ở Hoa Kỳ” của GS. JamesB.
Jacobs, Warren.E.Burger tại tạp chí điện tử của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ năm 2001 đề
cập đến việc bảo vệ quyền con người trong suốt quá trình tố tụng trong đó có quyền
bào chữa, quyền có người bào chữa. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu được viết dưới
góc độ so sánh và hầu hết mang tính mô tả pháp luật TTHS các nước. Ngoài ra, có


8
không nhiều các nghiên cứu có liên quan đến quyền tố tụng của người bị buộc tội
được tiếp cận ở góc độ pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con người. Nhìn chung,
những nghiên cứu trên đã cung cấp cho tác giả một khối lượng kiến thức nền tảng
về quyền bào chữa, quyền có người bào chữa trong TTHS quốc tế và một số quốc
gia trên thế giới. Vì vậy, việc nghiên cứu toàn diện về quyền có NBC của người bị
buộc tội cũng như các cơ chế pháp lý bảo đảm quyền trong sự so sánh và đối chiếu
với pháp luật nước ngoài là thực sự cần thiết và có ý nghĩa.
Nghiên cứu lý luận cơ bản về mô hình tố tụng cần kể đến cuốn sách “Tư
pháp hình sự so sánh” của Philip. L. Reichel (bản dịch tiếng Việt - Viện nghiên cứu
Khoa học Pháp lý). Trong cuốn sách này, tác giả đã phân tích đặc điểm và so sánh
các truyền thống pháp luật khác nhau trên thế giới. Tác giả cũng phân tích làm rõ và
so sánh các loại mô hình tố tụng, đặc biệt là mô hình tố tụng kiểm soát tội phạm và
mô hình tố tụng công bằng. Những nghiên cứu cho thấy rằng mặc dù cùng chung
mục đích là tìm ra sự thật, phát hiện và xử lý tội phạm nhưng mỗi truyền thống
pháp luật sử dụng mỗi mô hình tố tụng khác nhau và đặt vấn đề là cách thức nào
được xem là tốt nhất để tìm ra sự thật. Sự khác nhau giữa các mô hình tố tụng tất

yếu dẫn đến sự khác nhau, trong đó có sự khác nhau về địa vị pháp lý của các chủ
thể và cách thức vận hành các chức năng tố tụng, trong đó có sự khác nhau về
những quy định liên quan đến hoạt động bào chữa của luật sư. Cuốn sách Khái quát
hệ thống pháp luật của Hoa Kỳ (dịch từ nguyên bản tiếng Anh Outline of the U.S.
Legal System, Congressional Quarterly, Inc, 2001) cũng là một tài liệu đáng quan
tâm nghiên cứu vì cuốn sách này đã “phác họa bức tranh toàn cảnh hoạt động luật
pháp Hoa Kỳ - về các thẩm phán, luật sư, bồi thẩm đoàn; về thủ tục TTHS và dân
sự; về tòa án tối cao, các tòa sơ thẩm và phúc thẩm cấp bang và liên bang” [21].
Đặc biệt, cuốn sách đề cập đến hoạt động và vai trò của luật sư trong việc thương
lượng lời khai (hay còn gọi là mặc cả thú tội), khi mà đổi lấy việc nhận tội, bị cáo
được áp dụng pháp luật cả về nội dung và hình thức theo hướng có lợi hơn. Hoạt
động này không có ở Việt Nam nhưng cũng có thể nghiên cứu để rõ hơn mức độ
chủ động của luật sư trong TTHS.
Bài viết “Phân tích, so sánh hai hệ thống pháp luật Mỹ và Pháp” của tác giả
James Claude và Joseph Daly đã chỉ ra cách thức thực hiện QBC của luật sư Pháp
và Mỹ trong một vụ án hình sự cũng như đề cập một số kỹ năng bào chữa dưới góc
độ luật sư Mỹ trong một vụ án cụ thể. Cuốn sách “Những mô hình tố tụng hình sự
trên thế giới” của Jean -Philippe Rivaud nêu rõ sự tham gia của luật sư ngay từ khi
một người bị bắt và các quyền cơ bản của người bị buộc tội như quyền có người


9
bào chữa, quyền im lặng… Cuốn sách “Nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của hệ
thống tư pháp Trung Quốc, Indonesia, NHật Bản, Hành Quốc và Nga” do Liên hợp
quốc thực hiện năm 2010 đã làm rõ cơ cấu tổ chức cơ quan tư pháp hình sự, quy
định về quyền bào chữa, tạo điều kiện để luật sư tham gia bào chữa của 5 quốc gia
chọn lọc. Trong đó, các vấn đề luật sư được phép sử dụng nhiều phương pháp đặc
biệt để thu thập chứng cứ, cho phép luật sư đề nghị Đoàn luật sư địa phương yêu
cầu cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, việc hỏi cung không được ghi hình, ghi tiếng
khi chưa có sự hiện diện của luật sư … được tập trung nghiên cứu. Những nghiên

cứu về mô hình tố tụng nói trên có những nội dung liên quan đến hoạt động bào
chữa của người bào chữa, trong đó có luật sư. Vì vậy, việc tham khảo các tài liệu
trên giúp cho việc nghiên cứu của tác giả có những hiểu biết cần thiết về các mô
hình tố tụng, trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật hợp lý, phù
hợp với mô hình tố tụng pha trộn mà cải cách tư pháp ở Việt Nam đang hướng tới.
Liên quan đến vấn đề hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự, cuốn sách “Bào chữa trong các vụ án hình sự ở Liên bang
Nga” đăng trên trang web: của William Burnham năm 2012,
Giáo sư Luật, có nội dung phân tích quyền của luật sư bào chữa, cụ thể tập trung
vào các vấn đề: Liệt kê các văn bản pháp luật của các nước mà bạn là chuyên gia
quy định về quyền của luật sư bào chữa; đưa ra tỷ lệ phần trăm các vụ án hình sự có
sự tham gia của luật sư bào chữa từ giai đoạn xét xử; chủ thể nào được đại diện cho
bị can, bị cáo trong các vụ án hình sự…. Bài viết phân tích rõ về giai đoạn điều tra:
quy định của Hiến pháp Liên bang Nga (điều 51) quy định về việc bảo vệ chống lại
sự buộc tội bằng việc bảo đảm rằng “không ai có nghĩa vụ khai, làm chứng chống
lại chính anh ta hoặc cô ta, hoặc chống lại vợ hoặc chồng hoặc những người có
quan hệ thân tích với anh ta/cô ta”. Ngoài ra, chuyên gia đi sâu phân tích quy định
của Bộ luật TTHS Liên bang Nga năm 2001 quy định các biện pháp bảo vệ quan
trọng để đảm bảo rằng các quyền này được bảo vệ. Cụ thể là các văn bản pháp luật
này quy định quyền bào chữa của luật sư từ giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng
- ngay từ khi tự do của người bị tình nghi hoặc của bị can bị ngăn chặn bởi các cơ
quan có thẩm quyền.; luật sư không cần thiết phải có sự chấp thuận hoặc cho phép
cụ thể nào ngoài sự thừa nhận của Đoàn luật sư nơi mà luật sư tham gia và có một
lệnh từ tổ chức luật sư ủy quyền cho luật sư đại diện cho khách hàng. Bên cạnh đó,
trong giai đoạn điều tra, người bào chữa có quyền và phải có mặt khi người bị tình
nghi hoặc bị can đưa ra lời khai trước điều tra viên, và thậm chí trước cả giai đoạn
đó. Theo đó, quyền bào chữa được bắt đầu khi một người thực sự bị bắt giữ hoặc


10

“khi có bất kỳ biện pháp tố tụng có tính cưỡng bức nào khác hoặc có hành vi tố
tụng khác xảy ra xâm phạm các quyền tự do của một người bị tình nghi là phạm
một tội”. Bộ luật TTHS Liên bang Nga 2001 chỉ rõ “thời điểm thực sự bị bắt” là khi
người dó “thực tế bị tước quyền tự do di chuyển”. Trong giai đoạn này, luật sư được
quyền tham gia vào hai hoạt động điều tra: (i) khi xét hỏi người bị tình nghi hoặc bị
can (ii) trong các hoạt động điều tra khác được thực hiện có sự tham gia của người
bị tình nghi, bị can và các hoạt động điều tra được thực hiện theo yêu cầu của người
bị tình nghi, bị can. Bài viết cũng đề cập đến vấn đề thu thập chứng cứ như việc
điều tra độc lập của người bào chữa là một trong những điểm mới lớn nhất của Bộ
luật TTHS Liên bang Nga năm 2001. Theo đó, điều 83 của luật này quy định người
bào chữa có quyền thu thập chứng cứ bằng: thu thập vật, tài liệu, thông tin khác; hỏi
người khác nếu được họ đồng ý; yêu cầu cung cấp các ghi chép, ý kiến tham khảo
và các tài liệu khác của các cơ quan chính quyền, các cơ quan tổ chức địa phương,
cơ quan tổ chức xã hội. Những cơ quan, tổ chức này có trách nhiệm cung cấp tài
liệu được yêu cầu hoặc bản sao tài liệu đó. Giai đoạn truy tố: Ở cấp sơ thẩm,
BLTTHS Nga quy định có giai đoạn điều tra trước khi xét xử và giai đoạn xét xử.
Trong giai đoạn điều tra trước xét xử, một người phạm tội có thể là “người bị tình
nghi” khi bị bắt và sau đó là “bị can” khi những buộc tội chính thức được đưa ra.
Quyền tham gia bào chữa của luật sư xuất hiện từ “thời điểm bị bắt trên thực tế”,
quyền này không có sự khác biệt đối với hai nội dung nêu trên. Trong giai đoạn
xét xử, các vấn đề về việc tiếp cận của người bào chữa với khách hàng của mình
trong giai đoạn trước xét xử và giai đoạn xét xử không có sự khác biệt, nên sẽ
không có sự cản trở nào đối với luật sư ở giai đoạn xét xử. Trong quá trình xét xử,
nếu người bào chữa không xuất hiện tại phiên tòa (trong trường hợp được chỉ
định) thì vụ án phải được hoãn sang một ngày khác. Bị cáo có 5 ngày để lựa chọn
người bào chữa mới và nếu họ người bào chữa mới không thể có mặt thì tòa án chỉ
định người bào chữa.
Trong tài liệu tại Hội thảo quốc tế về Bộ luật TTHS năm 2003 và quyền của
luật sư bào chữa năm 2012, tác giả Tian Wen Chang - chuyên gia Trung Quốc công
bố bài viết “Suy nghĩ và đánh giá tổng thể về bản dự thảo sửa đổi Luật tố tụng hình

sự Trung Quốc”. Bài viết này đã đề cập đến những khó khăn trong công tác xây
dựng Luật Tố tụng hình sự nhằm bảo đảm về mặt pháp lý và tạo bình diện mở rộng
cho sự tham gia tố tụng hình sự của luật sư. Bởi lẽ, công tác bào chữa trong vụ án
hình sự là lĩnh vực hành nghề quan trọng, có những đóng góp đáng kể trong việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, bảo vệ sự công bằng trong tư pháp và


11
thúc đẩy xây dựng hệ thống pháp luật hình sự của Trung Quốc. Tác giả đề cập đến
nội dung bản kiến nghị hoàn thiện Luật Tố tụng hình sự của Trung Quốc. Trong đó,
vấn đề bào chữa tại phiên tòa sơ thẩm được đề xuất theo hướng thực hiện chế độ đối
kháng. Cụ thể: Hoàn thiện chế độ làm chứng tại tòa của người làm chứng; hoàn
thiện quy chế thẩm vấn chéo; tăng cường quyền bào chữa, tạo sự cân bằng giữa cơ
quan tố tụng và bên bào chữa, đảm bảo cho bên bảo chữa tham gia xét xử một cách
hiệu quả và thực chất; đề phòng trường hợp cơ quan kiểm sát lạm dụng quyền truy
tố, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bên bào chữa; giảm bớt màu sắc chức
trách trong hoạt động xét xử của tòa án, thực hiện tính trung lập của tòa án, tăng
quyền tham dự và quyền quyết định của các bên tố tụng và bên bào chữa.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM

Thời gian qua, ở Việt Nam đã có khá nhiều công trình nghiên cứu làm rõ
những vấn đề lý luận về quyền con người, quyền bào chữa của bị can, bị cáo, điạ vị
pháp lý của luật sư, các giai đoạn tố tụng hình sự. Các nội dung này được tiếp cận ở
phạm vi rộng, hẹp khác nhau, trong đó có đề cập đến vấn đề hoạt động bào chữa
của luật sư. Những vấn đề lý luận đó giúp cho tác giả luận án có được cách tiếp cận
đúng đắn về quyền bào chữa và hoạt động bào chữa của luật sư, xác định hướng
kiến nghị hoàn thiện pháp luật trên nguyên tắc vừa bảo đảm quyền bào chữa của đối
tượng bị buộc tội, vừa bảo đảm lợi ích nhà nước, lợi ích chung của xã hội, bảo đảm
lợi ích của cơ quan, tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân khác cũng
như đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động bào chữa của luật sư trong

giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
1.2.1. Nhóm các công trình liên quan đến cơ sở lý luận của luận án
Những nghiên cứu về quyền con người có thể kể đến các cuốn sách chuyên
khảo: “Quyền con người - tiếp cận đa ngành và liên ngành Luật học”- GS.TS. Võ
Khánh Vinh chủ biên, Nxb KHXH, Hà Nội 2010 (2 tập); “Cơ chế bảo đảm và bảo
vệ quyền con người ”- G.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb KHXH, Hà Nội 2011;
“Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người” của nhóm tác giả gồm GS.TS
Nguyễn Đăng Dung, TS. Vũ Công Giao và Th.S Lã Khánh Tùng chủ biên, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2011 và bài viết “ Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con
người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự ” của PGS. TSKH. Lê Cảm,
Tạp chí TAND số 11, 13 và 14/2006. Nhóm các công trình này đã phân tích nội
dung, khẳng định quyền con người là quyền tự nhiên, xuất hiện trước khi các nhà
nước ra đời và quyền bào chữa là quyền cơ bản của người bị buộc tội. Trong mối
quan hệ tố tụng giữa chủ thể buộc tội và người bị buộc tội, người bị buộc tội luôn


12
yếu thế do đó nhà nước phải ghi nhận quyền bào chữa trong tố tụng hình sự để họ
có thể tự bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của mình. Quyền bào chữa của người bị
buộc tội cần được nhà nước thể chế hoá trong quy định pháp luật thì mới có thể
thực hiện trên thực tế và đây là một trong các quyền cấu thành nên quyền được xét
xử công bằng trong luật pháp quốc tế.
Quyền bào chữa, quyền có NBC của người bị buộc tội được ghi nhận từ rất
sớm trong lịch sử TTHS thế giới cũng như trong TTHS Việt Nam. Theo quy định
của pháp luật Việt Nam, quyền có NBC được ghi nhận trong Hiến pháp và Bộ luật
TTHS như là một nguyên tắc cơ bản định hướng các hoạt động tố tụng của các cơ
quan tiến hành tố tụng (THTT). Mặc dù vậy, việc bảo đảm quyền này trong thực tế
còn tồn tại nhiều hạn chế, không chỉ ở Việt Nam mà ở nhiều quốc gia khác trên thế
giới. Trên thực tế, việc nghiên cứu nhằm tìm kiến những giải pháp bảo đảm có hiệu
quả quyền lợi của người bị buộc tội trong TTHS đã được nhiều nhà khoa học tiến

hành. Tuy nhiên hầu hết các nghiên cứu đều đề cập ở phạm vi bảo đảm các quyền tố
tụng cơ bản của người bị buộc tội. Những nghiên cứu trực tiếp về bảo đảm quyền có
NBC còn khá khiêm tốn, đặc biệt chưa có nghiên cứu nào được thực hiện dưới góc
độ so sánh pháp luật. Ở Việt Nam, các nghiên cứu có liên quan đến quyền bào chữa
và bảo đảm quyền có NBC còn chưa nhiều. Tài liệu “Nghiên cứu QBC trong pháp
luật TTHS và thực tiễn tại Việt Nam” do nhóm nghiên cứu Nguyễn Hưng Quang và
cộng sự năm 2012 đã làm rõ các tiêu chuẩn quốc tế về QBC thông qua việc nghiên
cứu các văn bản pháp lý quốc tế, khu vực như ICCPR, ECHR, quy chế Rome… ;
đánh giá mức độ bảo đảm, tạo điều kiện của cơ quantiến hành tố tụng đối với việc
thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội, luật sư. Bên cạnh đó, các công
trình khác như Luận văn thạc sỹ “Thực hiện pháp luật về quyền bào chữa của bị
can, bị cáo ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Tường Vi; luận án tiến sỹ “Bảo đảm
quyền có người bào chữa của người bị buộc tội - So sánh giữa luật tố tụng hình sự
Việt Nam, Mỹ và Đức” của tác giả Lương Thị Mỹ Quỳnh; cuốn “Bảo đảm quyền
bào chữa của người bị buộc tội” của tác giả Phạm Hồng Hải xuất bản năm 1999;
cuốn“Địa vị pháp lý và mối quan hệ của người bào chữa với bị can, bị cáo trong tố
tụng hình sự” của tác giả Nguyễn Văn Tuân năm 2003… cũng đề cập đến vấn đề
QBC, quyền có NBC, người bào chữa ở những khía cạnh nhất định. Hầu hết các
nghiên cứu nêu trên mới chỉ dừng ở mức độ diễn giải luật thực định. Nhìn chung,
nội dung đề cập trong các bài viết này tập trung ở 3 khía cạnh: một là nghiên cứu
những quy định của Bộ luật TTHS dưới góc độ bảo đảm quyền con người (bao gồm
quyền của người bị buộc tội); hai là nghiên cứu nguyên tắc TTHS về bảo đảm


13
quyền bào chữa nói chung của người bị buộc tội; ba là nghiên cứu vai trò của NBC
trong TTHS. Bên cạnh đó, một số rất ít bài viết khoa học đề cập đến bảo đảm quyền
bào chữa nói chung trong bối cảnh của cuộc cải cách tư pháp. Một vài nghiên cứu
dưới dạng sách và luận án (ở cấp độ thạc sĩ và tiến sĩ) đã trở nên lạc hậu, không còn
tính thời sự. Ở quy mô lớn hơn, đã có những nhóm chuyên gia tiến hành nghiên cứu

về thực trạng thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội trong TTHS như đã
nêu trên. Mặc dù vậy, kết quả từ những nghiên cứu trên đã giúp làm sáng tỏ quy
định của luật TTHS về quyền bào chữa và bảo đảm quyền bào chữa nói chung, cũng
như chỉ ra tương đối những bất cập còn tồn tại. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên vẫn
chưa tiếp cận trực tiếp và toàn diện về bảo đảm quyền có NBC, nhất là hoạt động
bào chữa của người bào chữa.
Những công trình khoa học nghiên cứu lý luận về chức năng của TTHS,
trong đó có chức năng gỡ tội cũng góp phần quan trọng trong việc nghiên cứu đề tài
luận án. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu như “Mô hình TTHS Việt Nam”
do VKSNDTC chủ trì soạn thảo trong Đề án về Mô hình TTHS Việt Nam. Đề án
này nghiên cứu những mô hình TTHS điển hình trên thế giới và mô hình tố tụng
của một số nước; nghiên cứu lịch sử mô hình TTHS Việt Nam; tổng kết thực tiễn
thi hành BLTTHS năm 2003 và phương hướng xây dựng mô hình TTHS ở Việt
Nam. Đề án này nghiên cứu những mô hình TTHS điển hình trên thế giới và mô
hình tố tụng của một số nước; nghiên cứu lịch sử mô hình TTHS Việt Nam; tổng
kết thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003 và phương hướng xây dựng mô hình
TTHS ở Việt Nam. Luận án tiến sĩ Các chức năng trong TTHS Việt Nam - Những
vấn đề lý luận và thực tiễn của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng, năm 2012. Trong luận
án, tác giả đã làm rõ những vấn đề lý luận về các chức năng buộc tội, chức năng bào
chữa và chức năng xét xử trong TTHS; tìm hiểu, đánh giá thực trạng thực hiện các
chức năng này trong thực tiễn TTHS Việt Nam và đề xuất những giải pháp cần thiết
để thực hiện hiệu quả các chức năng của TTHS. Bài viết “Phân định rành mạch các
chức năng cơ bản của TTHS: Buộc tội, bào chữa và xét xử” của tác giả Hà An [73]
đã phân tích sự cần thiết phải tạo được cơ chế bảo đảm sự bình đẳng giữa bên buộc
tội và bên bào chữa trong việc thực thi các chức năng buộc tội và bào chữa, nâng
cao vai trò của người bào chữa trong các giai đoạn tố tụng.
Các nghiên cứu về thủ tục, phương thức thực hiện các hoạt động tố tụng,
trong đó có hoạt động bào chữa của luật sư cũng là những nghiên cứu liên quan đến
đề tài luận án, đặc biệt là các nghiên cứu về tranh tụng. Có thể kể đến luận án tiến sĩ
“Nguyên tắc tranh tụng trong TTHS Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn”



14
của tác giả Nguyễn Văn Hiển, năm 2010. Trong luận án này, tác giả đã nghiên cứu
toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn để chứng minh sự tồn tại khách quan của
nguyên tắc tranh tụng trong các mô hình TTHS; khả năng xây dựng và áp dụng có
hiệu quả nguyên tắc này phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam mà không
cần thay đổi mô hình tố tụng truyền thống. Từ đó, khẳng định tầm quan trọng của
chức năng gỡ tội và hoạt động bào chữa của người bào chữa. Ngoài ra còn có bài
viết “Một số vấn đề về tranh tụng trong TTHS” của tác giả Lê Tiến Châu, tạp chí
Khoa học pháp lý số 1, năm 2003; bài Nguyên tắc tranh tụng trong hệ thống nguyên
tắc cơ bản của luật TTHS của PGS.TSKH. Lê Cảm, tạp chí Luật học, số 6, năm
2004; bài “Thực trạng tranh tụng và vấn đề nâng cao vai trò của luật sư trong
tranh tụng trước yêu cầu cải cách tư pháp” của TS. Nguyễn Văn Tuân, tạp chí Dân
chủ và Pháp luật số tháng 3/2010 (216); bài“Bảo đảm quyền của bị cáo trong phiên
toà mở rộng tranh tụng” của TS. Nguyễn Văn Huyên, tạp chí Dân chủ và Pháp luật
số chuyên để về tranh tụng năm 2003, luận văn thạc sỹ “Tranh tụng tại phiên toà sơ
thẩm hình sự, những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Lưu Bình Dương năm
2004… Các công trình trên đã phân tích khía cạnh khác nhau về quyền bào chữa,
bảo đảm quyền bào chữa nhưng nhìn chung đã cho chúng ta cái nhìn tổng thể về
quyền bào chữa và đảm bảo thực hiện quyền này trên thực tế cũng như làm sáng tỏ
về mặt lý luận nội dung quyền này; nhận diện được vai trò của người bào chữa
trong đó có luật sư trong tố tụng hình sự; bất cập và nguyên nhân của những hạn
chế trong thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội trong tế, giải pháp nâng
cao hiệu quả bào chữa. Những công trình nghiên cứu trên đều có nội dung liên quan
đến quyền bào chữa và hoạt động bào chữa, trong đó có hoạt động bào chữa của
luật sư.
1.2.2. Nhóm công trình liên quan trực tiếp đến nội dung luận án
Những vấn đề liên quan trực tiếp đến đề tài cũng được nghiên cứu ở nhiều
phạm vi và mức độ khác nhau. Ở mức độ đại cương, “Giáo trình Luật TTHS” của

Trường Đại học Luật Hà Nội, “Giáo trình Luật TTHS” của Học viện Tư pháp cũng
như giáo trình của các cơ sở đào tạo luật khác nghiên cứu về khái niệm người bào
chữa nói chung và luật sư nói riêng; nghiên cứu, phân tích quy định của BLTTHS
về quyền, nghĩa vụ tố tụng của người bào chữa cũng như những quy định điều
chỉnh các hoạt động cụ thể của luật sư trong quá trình tố tụng. Giáo trình “Kỹ năng
hành nghề luật sư” của Học viện Tư pháp (năm 2001), giáo trình “Kỹ năng tham
gia giải quyết các vụ án hình sự” của Học viện Tư pháp được sửa đổi, bổ sung năm
2013, giáo trình “Kỹ năng chuyên sâu của Luật sư trong một số vụ án hình sự” năm


15
2015 nghiên cứu về kỹ năng nghề nghiệp của luật sư trong các lĩnh vực hoạt động,
trong đó có hoạt động bào chữa của luật sư trong TTHS. Những nội dung trong các
cuốn giáo trình này là những kiến thức đại cương, cơ bản về mặt pháp luật và những
kỹ năng mềm liên quan đến hoạt động bào chữa của luật sư và kỹ năng hành nghề
của luật sư.
Nghiên cứu chuyên sâu có liên quan đến vấn đề này có thể kể đến luận án
tiến sĩ “Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong TTHS” của TS. Hoàng
Thị Sơn, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2003. Trong luận án tác giả trình bày
một số vấn đề chung về quyền bào chữa của bị can, bị cáo; hình thức thực hiện
quyền bào chữa của bị can, bị cáo; các bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của bị
can, bị cáo; thực tiễn thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo; trên cơ sở đó tác
giả đã đề xuất các giải pháp có giá trị để nâng cao hiệu quả thực hiện quyền bào
chữa. Luận án này là một công trình nghiên cứu có giá trị, tác giả đã nghiên cứu
toàn diện về cả lý luận và thực tiễn về việc thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị
cáo, những hoạt động của người bào chữa nhằm thực hiện quyền bào chữa của bị
can, bị cáo và đã đề xuất nhiều kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm thực hiện có
hiệu quả quyền bào chữa của bị can, bị cáo có tính khoa học và khả thi. Tuy nhiên
đối tượng nghiên cứu về pháp luật của luận án là BLTTHS năm 1988, vì vậy có
những vấn đề không còn mới trong thời điểm hiện nay. Về sách chuyên khảo phải

kể đến cuốn “Vai trò của luật sư trong TTHS” của TS. Nguyễn Văn Tuân, Nhà xuất
bản Đại học quốc gia, năm 2001, trong cuốn sách này tác giả đã làm rõ vị trí, vai trò
của luật sư trong việc bảo đảm quyền cơ bản của công dân và phân tích sâu vai trò
của luật sư trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Nội dung cơ bản của cuốn sách
tập trung phân tích các quyền và nghĩa vụ của luật sư trong tố tụng hình sự nói
chung và vai trò của luật sư trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Vai trò của
luật sư được thể hiện rõ nét thông qua việc thực hiện các quyền mà BLTTHS quy
định như có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu
Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những
hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của
mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa; đề nghị Cơ
quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi
cung bị can; đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên
dịch theo quy định của Bộ luật này; thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến
việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người
này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị


16
cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác; đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu
cầu; gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;đọc, ghi chép và sao
chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc
điều tra theo quy định của pháp luật; tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà.
Đề tài khoa học “Hoàn thiện pháp luật TTHS nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động bào chữa của luật sư” năm 2003 của trường ĐH Luật Hà Nội năm 2013 cũng
có những nội dung liên quan mật thiết với luận án. Nội dung đề tài đề cập đến việc
xây dựng khái niệm khoa học về hoạt động bào chữa của luật sư trên cơ sở phân
tích làm rõ những đặc điểm của hoạt động này; làm rõ ý nghĩa về chính trị, xã hội và
pháp lý của hoạt động bào chữa của luật sư; làm rõ những điều kiện bảo đảm thực
hiện hoạt động bào chữa của luật sư; nghiên cứu yêu cầu của cải cách tư pháp,

nghiên cứu những tiêu chí của hệ thống pháp luật, so sánh với thực trạng pháp luật
hiện nay, từ đó lý giải sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật TTHS để nâng cao hiệu
quả hoạt động bào chữa của luật sư đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp; nghiên cứu
các quy định của BLTTHS năm 2003 về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, về
hoạt động bào chữa của luật sư và những quy định pháp luật có liên quan, xác định
những bất cập của các quy định này dẫn đến việc chưa thực sự bảo đảm hiệu quả
hoạt động bào chữa của luật sư; nghiên cứu thực trạng hoạt động bào chữa của luật
sư, tìm hiểu những vướng mắc, hạn chế trong hoạt động bào chữa của luật sư và xác
định nguyên nhân về phương diện pháp luật của thực trạng đó; đề xuất những kiến
nghị cụ thể sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp luật TTHS nhằm tạo khung pháp
lý phù hợp cho hoạt động bào chữa của luật sự đạt hiệu quả cao hơn.
Trên các tạp chí chuyên ngành luật đã có một số bài viết liên quan nhưng
chưa thực sự đi sâu về hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự. Tạp chí luật học số 5/2003, PTS. TS. Phạm Hồng Hải, Viện
Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, Trung tâm KHXH&NV quốc gia đã có bài viết
“Vị trí của luật sư bào chữa trong phiên tòa xét xử”. Bài viết phân tích vai trò của
luật sư bào chữa trong phiên tòa xét xử, việc thể hiện quyền bào chữa của những
người bị buộc tội trong TTHS; khẳng định vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của luật
sư trong thực tế không chỉ là nét dân chủ của Luật TTHS XHCN mà còn tạo điều
kiện cho tố tụng hình sự đạt được những mục đích đặt ra, trong đó có mục đích bảo
vệ có hiệu quả quyền, lợi ích hợp pháp của công dân; phân tích sự tham gia của luật
sư với tư cách là người bào chữa tại phiên tòa xét xử. Theo đó, giai đoạn xét xử
được tác giả phân tích theo nghĩa rộng, không chỉ bao gồm phiên tòa xét xử mà cả
khoảng thời gian chuẩn bị xét xử. Sự tham gia của luật sư đã được Bộ luật TTHS


17
quy định cụ thể các quyền của họ như: quyền đề nghị Tòa án quyết định trả lại hồ
sơ để điều tra bổ sung (Điều 154), quyết định tạm đình chỉ vụ án (Điều 155), thay
đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn (Điều 152) hoặc đề nghị Viện kiểm sát rút

một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố (Điều 156); đưa ra những đề xuất, kiến
nghị nhằm nâng cao vị trí, vai trò của luật sư trong phiên tòa xét xử, trong đó có
những đề xuất, kiến nghị với Tòa án trong việc tạo điều kiện cho luật sư thực hiện
quyền của mình; đề xuất, kiến nghị trong việc bảo đảm thực hiện các quyền của luật
sư trên thực tế trong quá trình xét xử các vụ án hình sự…
Vào năm 2005, PGS.TS, luật sư Phạm Hồng Hải tiếp tục công bố bài viết
“Thực trạng hoạt động của luật sư - Người bào chữa qua hơn một năm thì hành Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2003” trên Tạp chí kiểm sát số 24 (12-2005) với nội dung
phân tích những điểm mới quy định về luật sư - người bào chữa trong Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003. Bài viết chỉ rõ Điều 11 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định
về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong TTHS, Điều 58 Bộ luật TTHS 2003
khi quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa đã ghi nhận nhiều nội dung
mới so với luật cũ như: người bào chữa có quyền tham gia tố tụng từ khi có quyết
định tạm giữ của cơ quan điều tra đối với một người bị bắt trong trường hợp khẩn
cấp, phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã; người bào chữa có quyền đề nghị cơ
quan điều tra báo trước về thời gian, địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi
cung bị can; quy định người bào chữa có quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết
liên quan tới việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của
những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm
giữ, bị can…; phân tích thực trạng hoạt động của luật sư - người bào chữa hiện nay,
bài viết đi sâu phân tích thực trạng của việc cấp giấy chứng nhận bào chữa trên thực
tế không thực hiện đúng theo quy định tại khoản 4, Điều 56 Bộ luật TTHS; việc gặp
bị can đang bị tạm giam trên thực tế cũng rất khó khăn; quá trình tham gia hỏi cung
bị can của luật sư còn nhiều hạn chế, những câu hỏi, ý kiến của luật sư không được
điều tra viên quan tâm; việc tuân thủ nguyên tắc “khi xét xử, HĐXX phải căn cứ
vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa” rất ít được áp dụng trên thực tế,
mà chủ yếu Thẩm phán chủ tọa phiên tòa dựa vào những “định hướng” của Ủy ban
thẩm phán về tội danh và mức hình phạt sẽ được áp dụng đối với bị cáo; đưa ra một
số kiến nghị trên cơ sở phân tích thực trạng như kiến nghị các cơ quan có thẩm
quyền ban hành Thông tư hoặc Thông tư liên ngành để giải thích, hướng dẫn thực

hiện các quy định của Bộ luật TTHS về trình tự, thủ tục và nội dung tham gia bào
chữa của luật sư trong trong các vụ án hình sự; đơn giản hóa thủ tục cấp giấy chứng


18
nhận bào chữa cho luật sư và thủ tục cho phép luật sư vào gặp bị can, bị cáo trong
trại giam; các ý kiến tranh luận tại phiên tòa của luật sư cần được đánh giá như ý
kiến của kiểm sát viên và phải được chấp nhận khi có căn cứ. Các ý kiến không
được chấp nhận cũng phải được phân tích, lập luận trong bản án hoặc quyết định
của Hội đồng xét xử. Những đề xuất, kiến nghị của bài viết rất cụ thể, có căn cứ,
phù hợp với thực tế hoạt động của luật sư hiện nay khi tham gia bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của bị can, bị cáo trong các giai đoạn của quá trình tố tụng. Những đề
xuất, kiến nghị này giúp cho các cơ quan có thẩm quyền trong việc ban hành các
văn bản dưới luật trong việc hướng dẫn một số điều của Bộ luật TTHS.
Trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Số 5 - 2008), ThS. Nguyễn Văn Trượng,
Tòa án Quân sự Trung ương có bài viết “Bàn về việc bảo đảm quyền bình đẳng của
luật sư bào chữa khi tham gia tranh tụng tại phiên tòa hình sự”. Bài viết đi sâu
phân tích những quy định của Bộ luật TTHS hiện hành trong việc đảm bảo quyền
bình đẳng của luật sư khi tham gia tranh luận tại phiên tòa, cụ thể là quyền của
người bào chữa được quy định tại Điều 58 Bộ luật TTHS, theo đó quyền của người
bào chữa được quy định cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người bào chữa
khi tham gia tranh luận lại phiên tòa. Trong các giai đoạn của quá trình tố tụng,
người bào chữa còn có các quyền cụ thể được quy định từ giai đoạn điều tra, truy
tố và xét xử vụ án hình sự. Tác giả cũng đưa ra những giải pháp nhằm đảm bảo
quyền bình đẳng của luật sư bào chữa khi tham gia tranh tụng tại phiên tòa, cụ thể:
(i) cần nhận thức và xác định đúng vai trò, vị trí của luật sư bào chữa trong TTHS;
(ii) hoàn thiện pháp luật TTHS theo hướng bổ sung thêm quyền của người bào
chữa khi tham gia tố tụng; (iii) xây dựng cơ chế đảm bảo cho các quy định của
pháp luật về quyền của luật sư được thực hiện trên thực tế; (iv) tăng cường công
tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn để nâng cao trình độ nghiệp vụ và kỹ năng tranh

tụng cho các luật sư bào chữa.
Năm 2009, ThS. Lê Văn Thảo, Đại học Vinh có bài viết “Coi trọng hoạt
động nghề nghiệp của luật sư và phiên tòa tranh tụng nhằm nâng cao chất lượng
xét xử các vụ án hình sự ở nước ta hiện nay” trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Số
4 - 2009). Tác giả đã phân tích những kết quả đạt được trong công tác xét xử của
ngành Tòa án trong những năm gần đây; phân tích, đánh giá những tồn tại, hạn chế
của công tác xét xử, của đội ngũ thẩm phán; phân tích những sai sót trong công tác
xét xử các vụ án hình sự. Cụ thể, đội ngũ thẩm phán còn thiếu, trình độ nghiệp vụ
và bản lĩnh chính trị của một bộ phân cán bộ còn yếu; quá trình thẩm vấn, tranh
luận tại phiên tòa chưa đầy đủ, đánh giá căn cứ thiếu khách quan, toàn diện dẫn tới


19
áp dụng tội danh không đúng; việc chấp hành các quy định về thủ tục tố tụng trong
việc giải quyết các vụ án hình sự còn nhiều thiếu sót. Trên cơ sở phân tích những
tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế, bài viết đưa ra những
giải pháp cụ thể để cơ quan, người tiến hành tố tụng coi trọng đúng mức hoạt động
nghề nghiệp của luật sư và phiên tòa tranh tụng, cụ thể: hoàn thiện pháp luật về luật
sư; tăng thêm các trường hợp và mở rộng quy mô đào tạo đội ngũ luật sư; hoàn
thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa; Nhà
nước cần tạo điều kiện thuận lợi cho việc hoạt động của các Đoàn luật sư, tạo điều
kiện về pháp lý để phát huy chế độ tự quản của tổ chức luật sư, đề cao trách nhiệm
của tổ chức đối với thành viên của mình; thực hiện đúng và đầy đủ các điểm c, d,
mục 1, phần B Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị.
Bàn về các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động của luật sư bào chữa,
bài viết “Thực trạng quy định của pháp luật về hoạt động tham gia tố tụng của luật
sư với tư cách là người bào chữa và hướng hoàn thiện” trên Tạp chí Tòa án nhân
dân (kỳ II, tháng 4/2012, số 08) của ThS. Vũ Huy Khánh, Vụ Pháp chế, Bộ Công an
đã phân tích những điều kiện để được cấp giấy chứng nhận bào chữa. Theo đó, tác
giả phân tích cụ thể Điều 27 Luật luật sư quy định về điều kiện được cấp giấy

chứng nhận bào chữa như: đối với trường hợp luật sư hành nghề trong tổ chức hành
nghề luật sư; đối với luật sư hành nghề với tư cách cá nhân; đối với trường hợp luật
sư tham gia bào chữa theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng; những vướng mắc
về pháp luật khi luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa, theo đó thủ
tục cấp giấy chứng nhận bào chữa, thời hạn cấp giấy chứng nhận bào chữa, giá trị
của giấy chứng nhận bào chữa, việc tham gia tố tụng của người tập sự hành nghề
luật sư là những vướng mắc được chỉ ra; đưa ra những đề xuất, kiến nghị sửa đổi Bộ
luật TTHS, cụ thể: giữ nguyên quy định cấp giấy chứng nhận bào chữa cho luật sư
khi tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa; bổ sung quy định về thời hạn
cấp giấy chứng nhận bào chữa trong trường hợp bào chữa cho người bị tạm giữ;
quy định cụ thể hơn về giá trị của giấy chứng nhận người bào chữa; nghiên cứu việc
cho phép người tập sự hành nghề luật sư được tham gia vào một số hoạt động tố
tụng hình sự.
Liên quan đến hoạt động bào chữa của luật sư, ThS. Thẩm phán Nguyễn
Hữu Chính, Phó Chánh án, TAND Tp.Hà Nội công bố bài viết “Những thuận lợi,
khó khăn đối với hoạt động hành nghề luật sư trong giai đoạn xét xử tại Tòa án và
một số giải pháp hoàn thiện” trên Tạp chí Tòa án nhân dân, kỳ II tháng 9/2012 (số
18). Tác giả phân tích vai trò của luật sư trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp


20
quyền XHCN, trong đó bằng các hoạt động cụ thể của luật sư với vai trò là người
bào chữa cho bị can, bị cáo, người bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự trong các
vụ án kinh tế, lao động…; phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của luật sư trong
quá trình xét xử tại Tòa án, trong đó đưa ra những đánh giá về mặt thuận lợi từ phía
Tòa án, luật sư và những khó khăn làm ảnh hưởng đến vai trò của luật sư trong giai
đoạn xét xử; đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của luật sư trong giai đoạn
xét xử, cụ thể: phải nâng cao chất lượng đào tạo luật sư đặc biệt là chú trọng đào tạo
về kỹ năng hành nghề nói chung và kỹ năng tranh tụng nói riêng; nâng cao trách
nhiệm của luật sư; Liên Đoàn luật sư Việt Nam cần quán triệt đối với các luật sư khi

tham gia tố tụng tại Tòa án cần có thái độ hợp tác và đúng mực với HĐXX và cán
bộ Tòa án. Các kiến nghị này khá cụ thể và khả thi để giúp các cơ quan chức năng
sửa đổi pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động hành nghề luật sư trong giai
đoạn xét xử Tại tòa án.
ThS. Đào Thị Nga, Phó Chánh tòa - Tòa phúc thẩm TANDTC tại HN và ThS.
Nguyễn Trí Chinh, Trưởng phòng TKTH - Tòa phúc thẩm TANDTC tại HN đã có
bài viết “Hoạt động của luật sư trong giai đoạn xét xử” trên Tạp chí Tòa án nhân
dân, kỳ I tháng 10/2012 (số 19). Bài viết phân tích những thuận lợi, khó khăn của
luật sư khi tham gia tố tụng trong các vụ án tại Tòa án, cụ thể là về thủ tục khi luật
sư liên hệ với Tòa án để biết thông tin về vụ án mà mình được tham gia tố tụng; khó
khăn về thủ tục cấp Giấy chứng nhận tham gia tố tụng cho luật sư; về việc sao chụp
tài liệu, chứng cứ và nghiên cứu hồ sơ vụ án; về việc tham gia phiên tòa của luật sư.
Đây là những khó khăn, vướng mắc làm ảnh hưởng đến vai trò của luật sư trong các
giai đoạn xét xử. Tác giả đã đưa ra đề xuất, kiến nghị nhằm tháo gỡ những khó khăn,
vướng mắc cho hoạt động hành nghề luật sư trong hoạt động tố tụng, trong đó có
những kiến nghị cụ thể về phía Tòa án, Liên Đoàn luật sư Việt Nam trong việc thực
hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng, thực hiện bồi dưỡng, nâng cao trình
độ cho đội ngũ thư ký Tòa án. Những đề xuất này cụ thể, chi tiết và có giá trị trong
việc giúp các cơ quan chức năng có những giải pháp nhằm nâng cao hoạt động của
đội ngũ luật sư trong giai đoạn xét xử.
Đầu năm 2012, TS. Lê Hữu Thể, Phó Viện trưởng VKSNDTC và Ths Lê Thị
Thủy, VKSNDTC có bài viết “Hoàn thiện chế định người bào chữa trong Bộ luật
TTHS năm 2003 đáp ứng các yêu cầu cải cách tư pháp” công bố trong tài liệu Hội
thảo quốc tế về Bộ luật TTHS năm 2003 và quyền của luật sư bào chữa. Bài viết
phân tích thực trạng chế định người bào chữa trong TTHS Việt Nam. Theo đó, quá
trình phát triển của mô hình TTHS Việt Nam chịu ảnh hưởng lớn từ mô hình TTHS


×