Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Bài 6 ứng xử trẻ em trong điều trị nha khoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (309.27 KB, 10 trang )

BÀI 6
ỨNG XỬ TRẺ EM TRONG ĐIỀU TRỊ NHA KHOA
Mục tiêu
1.
2.

1.
1.1.

Trình bày được những phương pháp căn bản xử lý trẻ em trong nha khoa.
Trình bày được những bược quyết định trong điều trị.
NHỮNG PHƯƠNG PHÁP CĂN BẢN XỬ LÝ TRẺ EM TRONG NHA
KHOA
Dạo chơi nha khoa trước khi điều tri
Trước khi điều trị nên cho trẻ đến phòng răng để trẻ tập làm quen và quan
sát. Bé làm quen và có ý thức về điều trị. Không nên điều trị trong lần hẹn này
nếu không quá cần thiết. Trẻ sẽ gặp người bệnh, trợ thủ và nha sĩ.Nếu thuận lợi,
cho trẻ làm quen dần với một số dụng cụ nha khoa, giải thích các dụng cụ và quá
trình khám bệnh một cách dễ hiểu và gần gũi với bé.
Kỹ thuật này hơi khác với cuộc hẹn quan sát, để trẻ nhìn cha mẹ hoặc
người khác điều trị.Trong cuộc hẹn quan sát, cần chú ý lựa chọn bệnh nhân rất
hợp tác với điều trị, đặc biệt là những bệnh nhân có cùng độ tuổi với trẻ.Tuy
nhiên, cuộc hẹn quan sát có thể có tác dụng ngược lại nếu trẻ thấy điều gì đó làm
nó sợ hại.
Nói chung, cuộc hẹn đầu tiên càng đơn giản, càng dễ chịu càng tốt. Trong
cuộc hẹn này không làm bất kỳ điều gì khiến trẻ đau và sợ hãi.

1.2.

Nói, trình diễn, làm (tell, show, do)
Đây là phương pháp chính trong việc giáo dục để chuẩn bị một bệnh nhân


nha khoa trẻ em ngoan ngoãn, chấp nhận điều trị. Kỹ thuật này thường đơn giản
va có kết quả. Trước khi bắt đầu công việc (trừ việc gây tê tại chỗ và các thủ
thuật phức tạp khác khó khăn khi giải thích như điều trị tủy) nói cho trẻ biết việc
sẽ làm.
Sử dụng từ ngữ rất quan trọng trong kỹ thuật “nói, trình diễn, làm”.Khi
thực hiện, nha sĩ cần phải dùng một số từ ngữ thích hợp, dễ hiểu để trẻ có thể
hiểu và chấp nhận thủ thuật.

1


Hình 6.1: Kỹ thuật nói-trình diễn-làm
Phần lớn trẻ em trên 3 tuổi có tình trạng cảm xúc và xã hội bình thường có
thể đáp ứng tố với kỹ thuật “nói, trình diễn, làm”.
1.3.

Kiểm soát giọng (voice control)
2


Đòi hỏi nha sĩ phải chứng tỏ uy quyền khi giao tiếp với trẻ.Âm điệu giọng
nói rất quan trọng.Giọng nói phải chứng tỏ mình là người có trách nhiệm tại
phòng nha.Biểu hiện vẻ mặt của nha sĩ cũng phản ánh thái độ tự tin này.
Phương pháp này rất thích hợp để xử trí cho những trẻ em trước tuổi đến
trường (3 – 6 tuổi).Nó rất hiệu quả để ngăn chặn những phản ứng bất lợi khi
chúng bắt đầu xảy ra và đạt mức trung bình khi trẻ đã phản ứng.
1.4.

Kỹ thuật tay che miệng
Nha sĩ đặt tay lên miệng trẻ đang la khóc hay kích động. Kỹ thuật này dùng

để chặn lại những cơn giận dữ. Nó phải đi đôi với biện pháp đổi giọng.Có hiệu
quả với nhiều dạng nhân cách trẻ em khác nhau.
Kỹ thuật này không có ý làm cho trẻ sợ hãi mà gây cho trẻ sự chú ý và yên
lặng nghe nha sĩ giải thích.
Kỹ thuật này có thể làm ảnh hưởng đến tâm lý trẻ.Tuy nhiên, vẫn được
dùng nhiều vì nó đơn giản và có hiệu quả.Là biện pháp thay thế cho việc xử trí
bằng thuốc, nhập viện hoặc đợi sự trưởng thành về mặt tâm lý và xã hội để có
thể chấp nhận được điều trị.

Hình 6.2: Kỹ thuật tay che miệng trẻ
1.5.

Kìm giư
Dùng để áp chế những cử động không thích hợp của trẻ trong lúc thực hiện
những thủ thuật nha khoa.Kỹ thuật này có thể áp dụng với dây lưng, tấm trải
3


giường hoặc trợ thủ và bố mẹ phối hợp giữu. Chỉ dành cho những trẻ không thể
xử trí thông thường được.
Thường áp dụng cho trẻ nhỏ (dưới 30 tháng) cần điều trị cấp cứu một chấn
thương răng hoặc cần tháo trống một răng biến chứng cuống cấp hoặc những trẻ
em chậm phát triển tâm thần.
Sự khen ngợi và giao tiếp

1.6.

Mọi người kể cả người lớn và trẻ em đều thích được khen ngợi. Hơn nữa
việc giao tiếp tốt giữa nha sĩ và trẻ em sẽ làm cho việc điều trị nha khoa cho trẻ
diễn ra thuận lợi hơn và ngược lại. Sự khen ngợi và giao tiếp có hiệu quả kết

hợp với “nói, trình bày, làm” sẽ giúp cho điều trị nha khoa có hiệu quả ở hầu hết
trẻ em trên 3 tuổi.
Các phương pháp khác

1.7.

Một số phương pháp xử trí khác:
-

Làm giảm sự lo âu của người mẹ.
Cho một trẻ sợ hãi đi kèm một trẻ can đảm.
Kỹ thuật thư giãn và thôi miên: Dùng nitrous oxide phối hợp với oxygen được
sử dụng rộng rãi tại Mỹ để xử trí trẻ em trên ghế nha khoa. Kỹ thuật này rất hữu
dụng để xử lý một số trẻ, nhưng đối với những trẻ có hành vi không tốt, thì

-

không có tác dụng, đôi khi còn làm kích động hành vi của trẻ thêm.
Một số loại thuốc được dùng để tạo thư giãn và êm dịu cho trẻ. Tuy nhiên, điều
quan trọng là thuốc càng hữu dụng để xử lý những trẻ hành vi không tốt thì càng
nguy hiểm vì tác dụng phụ của chúng và trẻ càng nhỏ thì nguy cơ quá liều càng

-

cao.
Gây mê: Kỹ thuật này hiệu quả nhưng đắt tiền và cũng có nguy cơ tử vong.

4



2. NHỮNG BƯỚC QUYẾT ĐỊNH TRONG ĐIỀU TRỊ
2.1.

Cách ly khỏi cha me
Không phải lúc nào cũng cần phải cách lý trẻ khỏi cha mẹ.Dưới 36 – 40
tháng, trẻ thường cư xử tốt hơn khi có mặt cha mẹ.Trẻ thêm 3 tuổi phần lớn
không cần cha mẹ đi kèm.
Với trẻ trên 3 tuổi, nên cho cha mẹ rời khỏi phòng điều trị nếu trẻ có phản
ứng bất lợi. Cha mẹ, nha sĩ và trẻ thỏa thuận về điều này trước khi trẻ lên ghế.

2.2.

Lên ghế nha
Điều này tuy đơn giản nhưng có một số trẻ khó mà đưa được lên ghế nha,
điều này có thể do sự sợ hãi tự nhiên. Một vài trẻ cần được đỡ lên ghế.Tuy
nhiên, những bệnh nhân trẻ em ngoan thường tự đi lên ghế.Đây là dịp tốt để
khen ngợi trẻ ngoan.

2.3.

Nha sĩ ngồi vào ghế
Nha sĩ ngồi vào ghế chứng tỏ việc điều trị sắp bắt đầu. Trẻ được chuẩn bị
tốt sẽ nhận ra điều này. Trẻ sẽ trả lời tên, trả lời các câu hỏi, chấp nhận và đáp
lại lời khen ngợi. Nha sĩ cũng tượng trưng cho nhân vật uy quyền nhất phòng
nha, bệnh nhân trẻ em ngoan sẽ nhận ra rằng cần phải thi hành mệnh lệnh của
nha sĩ và trẻ sẽ nhanh chóng thực hiện mệnh lệnh.

2.4.

Mũi tiêm

Là một thủ thuật đáng sợ nhất trong nha khoa trẻ em, tuy nhiên nó không
phải là trở ngại chính với hầu hết trẻ.Phần lớn trẻ em không có phản ứng gì với
việc tiêm.Thường dùng thuốc tê tại chỗ có vị dễ chịu, nhưng không chỉ định cho
trẻ có phản ứng kích động rõ rệt vì có thể làm cho trẻ phản ứng xấu hơn.
Một số trẻ biết được rằng chúng sẽ bị tiêm vầ nghe những môt tả đáng sợ
về kim tiêm trước đó từ cha mẹ, anh em, bạn bè, chúng chờ đợi sự đau đơn. Tuy
nhiên nhiều trẻ vẫn chấp nhận thủ thuật với vài giọt nước mắt và hầu như không
né tránh.Những trẻ này sẽ thấy rằng tiêm không đau lắm, và chỉ hơi “nhói”.Nếu
trẻ hỏi tiêm có đau không, thì phải trả lời là “bé sẽ cảm thấy hơi nhói như con
kiên đốt thôi”.

5


Nếu trẻ bắt đầu có thái độ né tránh, cần phải dùng giọng nói kiên quyết.
Việc hoãn tiêm sẽ không làm cho trẻ cư xử tốt hơn. Trẻ có thể khóc và giãy
giụa, cần kìm giữ tay chân lúc tiêm. Tuy vây, chúng vẫn là những đứa trẻ ngoan.
Thực tế cho thấy trẻ sẽ hết la khóc, giãy giụa khi rút kim ra. Đối với trẻ giãy
giụa, việc sử dụng kim phải hết sức thận trọng.
2.5.

Thủ thuật nha khoa
Đa số thủ thuật nha khoa là điều trị phục hồi hoặc nhổ răng. So với thủ
thuật tiêm, thì các thủ thuật khác đơn giản hơn.Với các bệnh nhân trẻ em ngoan,
trẻ thường chấp nhận dễ dàng thủ thuật điều trị chính.

2.6.

Kết thúc điều tri
Một bệnh nhân trẻ em ngoan sẽ kết thúc điều trị một cách tốt đẹp. Bé hăm

hở ra về và được khen ngợi bởi thái độ tốt trên ghế.

2.7.

Trở lại với cha me
Một vài trẻ sẽ muốn cha mẹ chúng cảm thấy tội lỗi vì đã bắt chúng phải
đến nha sĩ.Vì vậy, chúng sẽ mô tả các thủ thuật nha khoa như một cực hình và
chúng như một nạn nhân, điều này sễ không xảy ra nếu có mặt nha sĩ hoặc trợ
thủ.Bệnh nhân trẻ em ngoan sẽ trở lại trong niềm kiêu hãnh với cha mẹ.Chúng
biết mình đã làm tốt và làm cha mẹ vui lòng.Đây là dịp để nha sĩ khen ngợi
chúng với cha mẹ.
Tóm lại, đa số trẻ em là bệnh nhân nha khoa ngoan.Tuy nhiên, cũng có
những ngoại lệ, và những ngoại lệ này phải được hiểu biết rõ ràng.

3. NHỮNG TRƯỜNG HỢP CÁ BIỆT
Có một số trẻ em không chịu đựng được với những kích thích và những thủ
thuật nha khoa, bao gồm những dạng sau:
3.1.

Trẻ tổn thương tình cảm
Biểu hiện rõ ràng về tình trạng rồi loạn cảm xúc là sự lo âu. Khi sự lo âu
của tình trạng này kết hợp với nỗi lo của một cuộc hẹn điều trị thì thường gây
bột phát cơn giận dữ đột ngột. Trẻ em bị tổn thương tình cảm nói chung thường
là những bệnh nhân nha khoa khó chịu. Trong hoàn cảnh điều trị tốt nhât, chúng
vẫn không thấy vui.
6


Vấn đề của những bệnh nhân này thường không có chẩn đoán xác
định.Ngay cả cha mẹ chúng cũng không thấy có sự bất thường. Ho đã bỏ qua

những cư xử bất thường của trẻ và thường giair thích các hành động đó theo ý
họ. Việc xác định những rối loạn này càng sớm thì việc điều trị càng có hiệu
quả.
Rối loạn cảm xúc thường gặp ở những trẻ có gia đình đổ vỡ hoặc những trẻ
có tình trạng gia đình kém may mắn khác: bố mẹ thường xuyên cãi vã, đánh
nhau… Trẻ em nghèo, thiếu thốn… có thể chịu đựng những tổn thương tình cảm
tốt hơn những trẻ em ở tầng lớp cao. Những trẻ bị bỏ bê, lạm dụng thường bị tổn
thương tình cảm cao hơn. Cần phải dành cho trẻ sự chăm sóc tốt nhất.
3.2.

Trẻ khép kín, nhút nhát.
Trẻ nhút nhát sẽ bị căng thẳng thần kinh về việc điều trị nha khoa.Căng
thẳng thần kinh sẽ khiến trẻ có thái độ né tránh như khóc, nhưng hiếm khi trẻ
bột phát cơn giận dữ.Trẻ nhút nhát thường khó thích ứng với những đòi hỏi của
một cuộc hẹn điều trị nha khoa.Đầu tiên, nha sĩ phải thiết lập mối quan hệ tin
cậy đối với trẻ, cần phải hết sức kiên nhẫn.
Kỹ thuật nói chuyện với trẻ ở trình độ của chúng và áp dụng phương pháp
“tell, show, do” nhiều lần sẽ ngấm từ từ vào nhân cách chúng và phá vỡ vỏ bộc
quanh chúng. Khi trẻ chấp nhận, chúng sẽ trở thành những bệnh nhân rất hợp
tác. Cuộc hẹn nha khoa có ý nghĩa với chúng về mặt xã hội, ở đó chúng thấy
mình được quan tâm, được coi trọng, được mọi người biết tên chúng và nói
chuyện với chúng.

3.3.

Trẻ sợ hãi
Là một khó khăn lớn đối với nha sĩ trong điều trị răng trẻ em. Sự sợ hãi có
thể là sợ đau, sợ chảy máu… nhưng cũng có thể là một nỗi sợ hãi chung chung
không biết rõ.
Vấn đề là làm thế nào để biết trẻ phản ứng không thuận lợi trong điều kiện

nha khoa là do nỗi sợ hay còn do một nguyên nhân nào khác. Tuy nhiên, việc
thu thập thông tin cần thiết và cùng với kinh nghiệm sẽ giúp nha sĩ xác định
được điều gì khiến trẻ không hợp tác.
7


Một số lý do có thể giúp nha sĩ xác định được trẻ sợ nha khoa là:
-

Ngay cả khi được giải thích bởi cha mẹ và nha sĩ, trẻ vẫn không ngừng sợ cuộc
hẹn nha khoa. Điều này có thể do trẻ còn quá nhỏ (dưới 3 tuổi) hoặc chậm phát

-

triển tâm thần.
Trẻ có những phản ứng quá độ với sợ hãi do những xáo trộn về tình cảm khác

-

(cha mẹ sắp bỏ nhau, trẻ bị lạm dụng, trẻ đang ốm).
Trẻ bị làm cho sợ bởi người thân.
Trẻ không được điều trị thích ứng ở các lần điều trị trước, vì vậy đã để lại một

-

ấn tượng xấu trong tâm trí trẻ.
Trẻ bị rối loạn cảm xúc.
Nếu phản ứng không tốt là do sự sợ hãi quá độ, bắt buộc cha mẹ và nha sĩ
không được làm cho trẻ sợ hãi thêm. Có thể hoãn lại cuộc điều trị nha khoa để
làm cho trẻ bớt căng thẳng hoặc điều trị nha khoa dưới tác dụng của khí gây thư

giãn hoặc gây mê.
Có thể nhận ra dạng trẻ sợ hãi trước khi bắt đầu điều trị nha khoa.Chỉ có
trường hượp trẻ bị rối loạn cam rxucs là khó xác định nhất. Nếu có nghi ngờ
(không người nào xác định được tại sao trẻ lại sợ như vậy) nên đưa trẻ đi khám
chuyên khoa tâm lý.
Trẻ không thích uy quyền.

3.4.

Đây là những trẻ khó chịu vì chúng không tuân theo mệnh lệnh của người
lơn. Chúng được xem là những trẻ hư, ngỗ nghịch, bướng bỉnh và không thể sửa
đổi được.
Chúng có thể có những dạng sau:
-

Cố gây chú ý: để thỏa mãn cảm giác tự tôn của mình, trẻ cố thực hiện các động
tác để cha mẹ phải chú ý đến chúng bất kể khi nào chúng muốn và chúng muốn

-

được chú ý quá mức cần thiết biểu hiện: quấy phá, chọc tức, trêu ghẹo, đạp phá.
Đối đầu: trẻ tìm cách biểu lộ sự đối đầu với cha mẹ để được chú ý: chúng tìm
cách tranh cãi, làm ngược điều được chỉ dẫn, giận dữ đột ngột, làm cho người

-

khác tức giận.
Phản ứng quyết liệt mang tính hung bạo: trẻ sẽ tìm cách gây khó chịu với cha
mẹ nếu không thảo mãn đòi hỏi của chúng. Tình chất của hành vi: tính hung
bạo, nói những điều tổn thương người khác, theo đuổi sự trả thù.

8


-

Không thích nghi: để thỏa mãn cảm giác tự tôn mạnh mẽ, trẻ tự cho mình tính
cách xấu nhất: hoàn toàn không thể trưởng thành, không thể thành đạt được. Trẻ
không muốn làm gì cho chính mình, cho cha mẹ và cho mọi người. Tính chất
của thái độ: dễ dàng từ bỏ, thụ động, biểu lộ sự không thích nghi.
Với các dạng thể hiện trên ta thấy:

-

Trẻ muốn được chú ý có thể nhận được ấn tượng tốt về nha khoa.
Nhóm đối đầu có thái độ du côn và có lẽ không ngần ngại cãi nhau và thách thức

-

nha sĩ.
Trẻ kích động tiềm ẩn sự nguy hiểm, trẻ có thể cắn. Trẻ này không nhiệt tình,

-

không vui vẻ và có thể không đáp ứng với lời khen ngợi.
Trẻ không thích nghi tự nghĩ mình có cá tính thất bại, không thích ứng sẽ biểu lộ
sự không hợp tác. Tuy nhiên hầu hết trẻ này sẽ bỏ được sai lầm khi lớn lên.
Kết luận: các dạng trẻ em cá biệt trên có ảnh hưởng tương đối đến người
điều trị nha khoa và thường có sự trộn lẫn của bốn loại nhân cách trên với nhau.
Hiểu rõ các loại trẻ trên sẽ giúp nha sĩ có những biện pháp phù hợp để giải quyết
đối với trẻ.

TỰ LƯỢNG GIÁ
Điền từ hoặc cụm từ thích hợp vào chỗ trống trong các câu hỏi sau:

1.

Kể tên những phương pháp căn bản xử trí trẻ em trong nha khoa:

2.

………………………………………………………………………. .
Phương pháp đổi giọng rất thích hợp để xử trí cho những trẻ em ở độ
tuổi…………………. . Nó rất hiệu quả để ngăn chặn những phản ứng bất lợi khi

3.

chúng bắt đầu xảy ra và đạt mức trung bình khi trẻ đã phản ứng.
Kỹ thuật “tay che miệng” dùng để chặn lại………………………. Nó phải đi đôi
với biện pháp……………………………… Có hiệu quả với nhiều dạng nhân

4.

cách trẻ em khác nhau.
Biện pháp …………………………thường áp dụng cho trẻ nhỏ (dưới 30 tháng)

5.

hoặc những trẻ em chậm phát triển tâm thần điều trị một cấp cứu răng miệng.
Kể tê một số biện pháp xử trí khác áp dụng trong nha khoa trẻ em:
…………………………………………..
TÀI LIỆU THAM KHẢO

9


1.

Pinkham J.R (1999), Pediatric dentistry: infancy through Adolescence, 3th

2.

edition, Mosby.
Ralph E. McDonald.

3.

Nonpharmacologic Management of Children’s Behaviors; pp 34 – 50.
Trần Thúy Nga, Phan Thị Thanh Yên, Phạm Ái Hùng, Đặng Thị Nhân Hòa. Nha

4.

khoa trẻ em (2001). NXB Y học, Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh.
Richard R. Welbury, Monty S. Duggal, Marie Thé rè se Hosey, 3 rd editon,

Dentistry

for

child

and


Adolescent.

(2004):

OXford. Paediatric Dentistry (2005): *eriodontal disease in children; pp 231 –
256.

10



×