Tải bản đầy đủ (.pdf) (185 trang)

Luận văn phát triển bền vững các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.7 MB, 185 trang )

Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

phan mạnh cường

Phát triển bền vững các khu công nghiệp
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
Chuyên ngành : Quản lý kinh tế
Mã số

: 62 34 01 01

luận án tiến sĩ kinh tế

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Trần Thị Minh Châu

H NI - 2015


MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN

1.1. Những nghiên cứu lý thuyết về quá trình hình thành và phát triển các
khu công nghiệp
1.2. Những nghiên cứu về phát triển bền vững các khu công nghiệp ở các


nước và Việt Nam
1.3. Định hướng nghiên cứu trong luận án

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP

2.1. Khái niệm phát triển bền vững khu công nghiệp và các tiêu chí đánh giá
2.2. Nội dung, các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển bền vững các khu công nghiệp
2.3. Kinh nghiệm phát triển bền vững các khu công nghiệp của một số quốc
gia và địa phương

Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÁC KHU CÔNG
NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN

3.1. Thuận lợi và khó khăn về môi trường đầu tư kinh doanh tỉnh Thái Nguyên
3.2. Thực trạng phát triển bền vững khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
3.3. Thực trạng tổ chức bộ máy của ban quản lý các khu công nghiệp Thái Nguyên
3.4. Đánh giá mức độ phát triển bền vững các khu công nghiệp trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên

9
9
18
22
24
24
43
56
71
71

74
93
96

Chương 4: QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI
PHÁP TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÁC KHU
CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN

4.1. Dự báo những thuận lợi, khó khăn để phát triển bền vững các khu công
nghiệp giai đoạn 2015-2020
4.2. Quan điểm, mục tiêu, phương hướng phát triển bền vững các khu công
nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên thời gian tới
4.3. Giải pháp tiếp tục phát triển bền vững các khu công nghiệp trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên đến năm 2020
4.4. Kiến nghị đề xuất với Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng chính phủ, các
Bộ, ngành Trung ương, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân tỉnh
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

119
119
120
124
139
144
146
147



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
BQL các KCN

: Ban quản lý các Khu công nghiệp

BVMT

: Bảo vệ môi trường

CNH, HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CN

: Công nghiệp

ĐTNN

: Đầu tư nước ngoài

GTSX

: Giá trị sản xuất

HĐND

: Hội đồng nhân dân


KCN

: Khu công nghiệp

KCX

: Khu chế xuất

KKT

: Khu kinh tế

KTXH

: Kinh tế - xã hội

NSLĐ

: Năng suất lao động

Nxb

: Nhà xuất bản

PTBV

: Phát triển bền vững

UBND


: Ủy ban nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HÌNH TRONG LUẬN ÁN
Trang
Bảng 3.1:

Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm của Thái Nguyên

72

Bảng 3.2:

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Thái Nguyên

73

Bảng 3.3:

Vị trí của các KCN trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên

97

Bảng 3.4:


Tình hình GPMB của KCN trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên

98

Bảng 3.5:

Tỷ lệ lấp đầy các KCN Thái Nguyên

99

Bảng 3.6:

Đánh giá kết quả thu hút vốn đầu tư và sản xuất kinh doanh
của các DN trong các KCN trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên

Bảng 3.7:

Giá thuê đất có cơ sở hạ tầng/m2/50 năm tại một vài
KCN trên địa bàn tỉnh năm 2013

Bảng 3.8:

100
103

Thu nhập và việc làm trong các KCN trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên

Biểu đồ 3.1: GDP trên đầu người của tỉnh Thái Nguyên năm 2010-2013


107

73

Biểu đồ 3.2: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công
nghiệp tỉnh Thái Nguyên

78

Biểu đồ 3.3: Đánh giá doanh thu xuất khẩu trên một ha đất công
nghiệp trong giai đoạn 2011-2014

101

Biểu đồ 3.4: Tổng giá trị sản xuất công nghiệp tính theo giá hiện
hành tại các KCN tỉnh Thái Nguyên từ năm 2011-2014

104

Biểu đồ 3.5: Mức đóng nộp ngân sách từ các khu công nghiệp trên

Hình 3.1:

địa bàn tỉnh trong các năm 2011-2014

105

Các khu công nghiệp tỉnh Thái Nguyên

75



1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình hình thành, xây dựng các Khu công nghiệp, Khu kinh tế, Khu
chế xuất (KCN, KKT, KCX) là động lực quan trọng đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH), thu hút đầu tư nói chung và đầu tư nước
ngoài nói riêng. Nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới đã gặt hái được
những thành công trong phát triển kinh tế nhờ phát triển các KCN.
Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương phát triển ngành
công nghiệp khá sớm. Trước khi thực hiện công cuộc đổi mới nước ta đã có
một số điểm công nghiệp (CN) tập trung như khu Gang - thép Thái Nguyên,
Điểm công nghiệp tập trung ở Biên Hòa... Tuy nhiên, chỉ từ thập niên 90 trở
lại đây, cùng với quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, ở nước ta mới thực sự xuất
hiện các KCN. Ngay trong Nghị quyết Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII
(năm 1994) Đảng ta đã nhấn mạnh: cần quy hoạch các vùng, trước hết là các
địa bàn trọng điểm, các khu chế xuất (KCX), khu kinh tế (KKT) đặc biệt,
KCN tập trung [1]. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2005 do Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ IX thông qua, đã tiếp tục khẳng định: cần quy
hoạch phân bổ hợp lý CN trên cả nước. Phát triển có hiệu quả các KCN,
KCX, xây dựng một số khu công nghệ cao (KCNC), hình thành các cụm công
nghiệp lớn (CCN) và khu kinh tế mở (KKTM).
Thực hiện đường lối của Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế
chính sách liên quan đến phát triển các KCN. Đầu tiên là Nghị định số
36/1997/NĐ-CP, sau đó là Luật đầu tư năm 2005, Luật doanh nghiệp năm
2005, Nghị định số 108/2006/NĐ-CP, Nghị định số 29/2008/NĐ-CP của
Chính phủ quy định về KCN, KCX và KKT, Nghị định số 164/2013/NĐ-CP
ngày 12/11/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 29/2008/NĐ-



2
CP của Chính phủ. Cơ chế quản lý theo tinh thần Nghị định 29/2008/NĐ-CP
đã phân cấp và ủy quyền nhiều chức năng quản lý nhà nước cho BQL các
KCN(BQL KCN) để tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các DN
trong KCN, tích cực cải cách hành chính theo cơ chế "một cửa, một dấu, tại
chỗ" [23; 24].
Nhờ các chính sách đổi mới thích hợp, các KCN ở Việt Nam đã phát
triển nhanh chóng và từng bước khẳng định vị trí, vai trò của chúng trong sự
nghiệp phát triển kinh tế quốc dân nói chung, phát triển kinh tế - xã hội tại các
địa phương nói riêng. Tính đến 2014, cả nước đã có 289 KCN, KCX và KKT
được thành lập tại 63 tỉnh, thành phố trên cả nước với tổng diện tích đất tự
nhiên 81.000ha (diện tích đất công nghiệp 52.838ha, chiếm 65,17%/tổng diện
tích đất tự nhiên), trong đó có 191 KCN (đạt 66,09%) đã đi vào hoạt động với
diện tích đất đã cho thuê 23.770ha, tỷ lệ lấp đầy đất công nghiệp đạt 45% và
98 KCN đang trong giai đoạn bồi thường giải phóng mặt bằng và xây dựng hạ
tầng; tổng số dự án đã thu hút, bao gồm: 5.463 dự án đầu tư trong nước với
tổng số vốn đăng ký 524.213 tỷ đồng và 5.075 dự án có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài với vốn đăng ký 75,87 tỷ USD. Tổng doanh thu xuất khẩu và
doanh thu tiêu thụ nội địa quy đổi 90,76 tỷ USD, giá trị nhập khẩu 44,89 tỷ
USD, giá trị xuất khẩu 50,32 tỷ USD, giải quyết việc làm cho trên 2 triệu
người, nộp ngân sách 35.427 tỷ đồng [15; 16].
Trong xu thế chung đó, là một tỉnh trung du, miền núi giáp với Thủ đô
Hà Nội, Thái Nguyên có nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển các KCN.
Nhằm phát huy thế mạnh này, tỉnh Thái Nguyên đã thành lập một số KCN để
thu hút đầu tư nói chung, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) nói riêng, coi
đó là nguồn lực tốt để thực hiện thắng lợi mục tiêu đưa Thái Nguyên trở thành
tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại trước năm 2020 như Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII đã đề ra. Nhằm tạo điều kiện cho Thái Nguyên



3
phát huy các thế mạnh của mình, Nghị quyết số 37/NQ-TW ngày 01/7/2004
của Bộ Chính trị đã xác định: "Phát triển Thái Nguyên thành một trong những
trung tâm kinh tế của vùng Trung du miền núi Bắc Bộ".
Trong những năm qua, được sự quan tâm đầu tư của Chính phủ, kinh tế
Thái Nguyên có mức tăng trưởng khá cao, tốc độ tăng giá trị sản xuất trên địa
bàn tỉnh tăng liên tục ở mức 12-13%/năm, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo
hướng tích cực: tăng tỷ trọng các ngành CN, xây dựng, dịch vụ và giảm tỷ
trọng ngành nông nghiệp. Trong thành quả chung đó có sự đóng góp tích cực
của các KCN.
Tính đến năm 2014, trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên đã có 06 KCN được
quy hoạch chi tiết với quy mô diện tích đất tự nhiên 1.420ha, bao gồm: KCN
Sông Công 1: 195ha, KCN Sông Công 2: 250ha, KCN Điềm Thụy: 350ha,
KCN Nam Phổ Yên: 120ha, KCN Yên Bình: 400ha và KCN Quyết Thắng:
105ha. Các KCN của tỉnh đã thu hút được 118 dự án đầu tư, trong đó: 47 dự
án FDI với vốn đầu tư đăng ký 7 tỷ USD, 72 dự án đầu tư trong nước với vốn
đăng ký 8.700 tỷ đồng; đến nay đã có 60 dự án đi vào hoạt động với một số
chỉ tiêu chính: vốn đầu tư đã giải ngân 3.6 tỷ USD và trên 4.000 tỷ đồng;
doanh thu xuất khẩu năm 2014 đạt 10 tỷ USD và doanh thu tiêu thụ nội địa
đạt trên 6.000 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho 30.000 lao động và đóng nộp
ngân sách trên 300 tỷ đồng; năm 2018 khi các dự án đi vào hoạt động ổn định
và giải ngân 100% vốn đầu tư đăng ký, sẽ giải quyết việc làm cho 150.000 lao
động, kim ngạch xuất khẩu đạt 45 tỷ USD, doanh thu tiêu thụ nội địa ước đạt
trên 10.000 tỷ đồng, nộp ngân sách trên 4.000 tỷ đồng [4; 7; 8].
Mặc dù các KCN trên địa bàn tỉnh đã mang lại những kết quả nhất định,
song quá trình xây dựng và phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
đã bộc lộ những hạn chế như: vị trí quy hoạch một vài KCN chưa hợp lý, tỷ lệ
lấp đầy đất công nghiệp tại một số KCN còn thấp, nhiều dự án thu hút đầu tư



4
ở giai đoạn đầu xây dựng KCN có chất lượng thấp (quy mô đầu tư nhỏ, công
nghệ lạc hậu, phương pháp quản lý đầu tư xây dựng và sản xuất kinh doanh
còn hạn chế dẫn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của một số doanh nghiệp
chưa đạt hiệu quả, còn lãng phí tài nguyên đất), một số dự án còn gây ô nhiễm
môi trường, kết cấu hạ tầng trong hàng rào và ngoài hàng rào một vài KCN
chưa được đầu tư đồng bộ, hiệu quả kinh tế - xã hội tạo ra từ một vài KCN
chưa tương xứng với mức độ sử dụng tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên đất,
02 KCN chưa có nhà máy xử lý nước thải tập trung, các Khu tái định cư phục
vụ cho bồi thường giải phóng mặt bằng KCN đầu tư chưa đồng bộ, nhiều
KCN chưa xây dựng được khu nhà ở cho công nhân lao động, đã phát sinh
nhiều vấn đề vấn đề xã hội xung quanh khu vực dư án KCN,...Những hạn chế
đã bộc lộ về kinh tế, xã hội và môi trường nói trên, đòi hỏi phải có giải pháp
khắc phục ngay.
Là người đã theo dõi các KCN trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên nhiều năm,
có sự am hiểu nhất định về lĩnh vực này, với mong muốn góp phần bé nhỏ của
mình vào sự nghiệp phát triển bền vững các KCN trên địa bàn, đưa Thái
Nguyên sớm trở thành trung tâm công nghiệp của vùng Trung du miền núi
Bắc bộ, nghiên cứu sinh đã lựa chọn đề tài: "Phát triển bền vững các khu
công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên" làm đối tượng nghiên cứu trong
luận án.
2. Mục đích nghiên cứu của luận án
Phát triển bền vững (PTBV) các KCN bao gồm nhiều nội dung phong
phú, trong khuôn khổ của luận án này, mục tiêu nghiên cứu chỉ giới hạn ở các
khía cạnh sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn PTBV các KCN
tại một số quốc gia, vùng lãnh thổ, các địa phương và rút ra bài học kinh
nghiệm cho PTBV các KCN trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.



5
- Phân tích thực trạng quá trình hình thành và phát triển các KCN trên
địa bàn tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn vừa qua theo các tiêu chí của PTBV
các KCN về kinh tế, về xã hội và môi trường.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp PTBV các KCN với ba nội dung
chính: PTBV các KCN về kinh tế, xã hội và môi trường trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên đến năm 2020.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu đề tài luận án là quá trình phát triển các KCN trên
địa bàn tỉnh Thái Nguyên theo quan điểm bền vững. Nội hàm của phát triển
bền vững các KCN trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên được xác định trên ba trụ
cột chính: bền vững về kinh tế, tức mức độ tăng trưởng kinh tế liên tục trong
các KCN và sử dụng hiệu quả các nguồn lực; bền vững về xã hội được xem
xét trên giác độ các KCN đã tạo việc làm, thu nhập và phân phối công bằng
cho công nhân lao động và cư dân trên địa bàn; bền vững về môi trường được
xem xét về mặt tác động của KCN đến môi trường sinh thái trong KCN và
các Khu vực liền kề KCN.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: KCN được xem xét như một chỉnh thể gồm vị trí,
diện tích, chức năng, vai trò trong phát triển kinh tế của tỉnh, các doanh
nghiệp (DN) hoạt động trong KCN, người lao động làm việc trong KCN,
BQL các KCN, hệ thống các chính sách về quản lý các KCN, các thành phần
kinh tế tham gia đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật trong hàng rào và
ngoài hàng rào các KCN, các nhà đầu tư thứ cấp có hoạt động đầu tư trong
KCN, sản xuất kinh doanh và cung ứng dịch vụ trong các KCN. Ngoài ra, các
lĩnh vực quản lý Nhà nước về quy hoạch, xây dựng, môi sinh, môi trường,
thương mại, xuất - nhập khẩu, lao động trong KCN và nhiều lĩnh vực khác
cũng được xem xét với từng khía cạnh quản lý.



6
Phạm vi thời gian: khảo sát thực trạng quá trình xây dựng, hình thành và
phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên từ năm 2010 đến nay.
Phạm vi về đánh giá tác động: giới hạn nghiên cứu sự tác động của phát
triển bền vững các KCN đối với phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Nguyên.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Quá trình nghiên cứu đề tài được tiến hành dựa trên các luận điểm và
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
đường lối quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam
liên quan đến PTBV các KCN kết hợp với các tri thức hiện đại của khoa học
quản lý và kinh tế học, có tính đến các điều kiện cụ thể của tỉnh Thái Nguyên.
4.2. Phương pháp tiếp cận
Phương pháp tiếp cận theo chuyên ngành quản lý kinh tế, tức coi PTBV
các KCN trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên vừa là đối tượng tác động của các cơ
quan quản lý kinh tế của Nhà nước và các chính sách phát triển KCN, quản lý
của Nhà nước đối với các KCN; PTBV các KCN Thái Nguyên vừa là kết quả
của những tác động đó. Đồng thời, PTBV các KCN cũng là kết quả nỗ lực của
các chủ thể trong KCN dưới sự quản lý của các cơ quan nhà nước, nhà nước
được hiểu chủ yếu là chính quyền địa phương tỉnh Thái Nguyên và BQL các
KCN, các Sở, Ngành và sự tham gia của các đối tượng có liên quan là các DN
KCN, nhân dân trong vùng dự án có KCN.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó chủ yếu là tổng
kết hoạt động thực tiễn thông qua kinh nghiệm cá nhân của nghiên cứu sinh,
qua phân tích, tổng hợp và đánh giá các công trình nghiên cứu, tài liệu, tư liệu
đã có kết hợp với phân tích các số liệu thống kê, các báo cáo tổng kết thực tiễn
của Bộ, Ngành Trung ương, UBND tỉnh, BQL các KCN trên địa bàn tỉnh Thái

Nguyên, báo cáo của các cơ quan ban ngành thuộc tỉnh Thái Nguyên.


7
5. Những đóng góp khoa học của luận án
Tổng quan, phân tích, đánh giá làm rõ thêm một số vấn đề về lý thuyết
phân tích PTBV các KCN trên địa bàn tỉnh, trong đó nhấn mạnh nội dung
PTBV và tiêu chí đánh giá PTBV.
Đánh giá được thực trạng PTBV các KCN trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
theo các tiêu chí và nội dung PTBV các KCN và chỉ rõ những yếu tố, nguyên
nhân đã đạt và chưa đạt trong phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh theo mục
tiêu PTBV các KCN.
Luận án xây dựng được khái niệm về PTBV các KCN, khái niệm về
quản lý nhà nước KCN. Từ đánh giá thực trạng PTBV các KCN trên địa bàn
tỉnh, Luận án đã đề xuất được quan điểm, mục tiêu, phuơng hướng, các nhóm
giải pháp và các đề xuất kiến nghị để tiếp tục PTBV các KCN trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn đến năm 2020, trên các giác độ: kinh tế
trong các KCN tăng trưởng liên tục và ổn định, hiệu quả huy động và sử dụng
các nguồn lực về vốn, công nghệ, đất đai và lực lượng lao động; xây dựng
mối quan hệ lợi ích hài hòa giữa Nhà nước, các doanh nghiệp trong KCN và
người dân trong vùng dự án các KCN, mức độ phổ biến về tiếp cận và sử
dụng các dịch vụ tiện ích xã hội của người lao động và nhân dân trong vùng
dự án các KCN; môi sinh, môi trường sống, môi trường làm việc của công
nhân và nhân dân trong vùng dự án được cải thiện rõ rệt.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Bổ sung thêm khung lý thuyết phân tích các KCN trên địa bàn Tỉnh theo
quan điểm PTBV, xây dựng khái niệm quản lý Nhà nước đối với KCN.
Những lý luận được làm rõ, bổ sung thêm có thể sử dụng để nghiên cứu các
KCN ở các tỉnh khác.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề xuất các phương hướng, giải pháp sau có thể áp dụng ở tỉnh Thái Nguyên.


8
- Bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực cho các KCN, đồng thời có định
hướng và giải pháp gắn kết giữa cơ sở đào tạo với người sử dụng lao động.
- Cơ chế cho phép BQL các KCN được phép vận động, sử dụng, khấu
trừ kinh phí ứng trước tiền thuê đất có hạ tầng nộp một lần 50 năm cho BQL
các KCN để bồi thường giải phóng mặt bằng và đầu tư xây dựng kết cấu hạ
tầng đồng bộ tại KCN để thu hút đầu tư, đặc biệt là thu hút FDI.
- Tiêu chuẩn hóa hoạt động quản lý hành chính nhà nước đối với KCN,
nhất là về tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động của BQL các KCN, có cơ
chế phân công, phân cấp và phối hợp thống nhất từ cơ quan quản lý ở Trung
ương đến các cơ quan quản lý ở địa phương, nhất là giữa BQL các KCN với các
cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh và các huyện, thành phố, thị xã có KCN.
- Nghiên cứu xây dựng cơ chế chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư để
tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư vào KCN, kết hợp với cơ chế lựa chọn
nhà đầu tư gắn với bảo lãnh hoặc ký quỹ thực hiện dự án đầu tư để triển khai
thực hiện dự án đầu tư một cách hiệu quả.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận án gồm 4 chương, 14 tiết.


9
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN

1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU LÝ THUYẾT VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP

Quá trình hình thành và tác động của các KCN đến phát triển kinh tế - xã
hội của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ là chủ đề đã được nhiều nhà khoa học
nghiên cứu và công bố trong nhiều công trình khác nhau. Để có thể làm rõ hệ
thống tri thức khoa học đã có liên quan đến đề tài “Phát triển bền vững các
Khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên”, nghiên cứu sinh xin được
trình bày thành quả nghiên cứu trong lĩnh vực này theo các vấn đề sau đây:
1.1.1. Các lý thuyết về phát triển công nghiệp
1.1.1.1. Lý thuyết định vị công nghiệp
Lý thuyết định vị công nghiệp (lựa chọn vị trí phân bố công nghiệp) lý
giải sự hình thành các KCN dựa trên nguyên tắc tiết kiệm chi phí vận chuyển.
Lý thuyết này do nhà kinh tế Alfred Weber xây dựng với nội dung cơ bản là mô
hình không gian về phân bố công nghiệp trên cơ sở nguyên tắc tối thiểu hóa chi
phí và tối đa hóa lợi nhuận. Mục tiêu của lý thuyết này là giảm tối đa chi phí vận
chuyển trong tổng chi phí giá thành sản xuất toàn bộ để thực hiện mục tiêu tối đa
hóa lợi nhuận của các nhà đầu tư. Cơ sở của lý thuyết này là: chi phí vận chuyển
chiếm phần khá lớn trong cấu thành chi phí sản xuất vì liên quan đến vận chuyển
đầu vào, đầu ra của nhà sản xuất. Vì thế, cần lựa chọn vị trí xây dựng cơ sở sản
xuất sao cho tiết kiệm chi phí vận chuyển ở mức cao nhất.
Ngoài việc đưa ra mô hình bố trí tập trung các cơ sở sản xuất có mối
quan hệ gần gũi với nhau về không gian và gần với thị trường tiêu thụ, Afred


10
Weber còn đề cập tới những ưu điểm và hạn chế của việc tập trung CN tại
một vị trí.
Về ưu điểm, ông cho rằng, tập trung phát triển CN theo vị trí sẽ tăng
cường nguồn lực cho những vùng được hội tụ nhiều yếu tố thuận lợi cho sự

phát triển. Sự tập trung nhiều DN tại một địa bàn có giới hạn hẹp về không
gian sẽ tạo điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư chia sẻ chi phí do sử dụng
kết cấu hạ tầng chung, thúc đẩy giảm giá thành sản phẩm do gia tăng khả
năng cạnh tranh, tăng cường sự phân công chuyên môn hóa sản xuất theo cơ
cấu ngành và kiến tạo các liên kết sản xuất.
Song Theo Alfred Weber [95], hạn chế là tập trung quá nhiều DNCN vào
một không gian hẹp cũng gây lên những vấn đề khó khăn cho xử lý môi
trường, tạo lên áp lực lớn đối với hệ thống kết cấu hạ tầng chung kết nối với
khu vực liền kề, gây ra nạn khan hiếm về nguồn nhân lực trong một địa bàn
hẹp, gia tăng chi phí vận chuyển khi phải đáp ứng khối lượng lớn các yếu tố
đầu vào cho các đối tượng DN trong khu vực có tốc độ tăng trưởng cao [95].
Nhìn chung, lý thuyết định vị CN đã làm sáng tỏ lý do hình thành và
phát triển các KCN dựa trên các lập luận về tập trung hóa sản xuất CN theo
lãnh thổ, coi quá trình hình thành các KCN là một quá trình tích tụ sản xuất,
thúc đẩy quá trình tập trung các cơ sở sản xuất CN vào khu vực nhất định.
Tuy nhiên, lý thuyết này chưa chỉ ra được những ảnh hưởng của hệ thống cơ
chế, chính sách đến PTBV các KCN, ảnh hưởng của các cơ quan quản lý Nhà
nước trực tiếp đối với PTBV các KCN.
1.1.1.2. Lý thuyết về phát triển công nghiệp theo lợi thế
Lý thuyết về cạnh tranh vùng hay quốc gia là một trong những lý thuyết
quan trọng được sử dụng làm luận cứ chứng minh sự hợp lý cho việc hình
thành các KCN tập trung.
Chính Adam Smith trong “Nguồn gốc của cải của các dân tộc” [94] đã
đưa ra quan điểm lợi thế giao thông góp phần tạo nên các khu kinh tế đô thị


11
tập trung, trong đó CN và thương mại là ngành chính. Ông viết: “bờ biển
và các bờ sông cho phép giao thông thủy thuận lợi là nơi các ngành sản
xuất khác nhau bắt đầu chia nhỏ một cách tự nhiên và tự cải tiến, dần dà

không bao lâu sau chính những cải tiến đó đã tự lan rộng vào những vùng
đất liền của đất nước”. Theo quan điểm này, sự phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia trong giai đoạn đầu có xu hướng đi theo những vùng miền có tiềm
năng tiếp cận thị trường lớn nhất và nhờ đó tạo điều kiện tiếp cận đến
những nơi có mật độ dân cư cao. Adam Smith tin rằng, lợi thế cạnh tranh
của vùng trong một quốc gia xuất phát từ điều kiện lợi thế về khả năng tiếp
cận thị trường thế giới (trong giai đoạn này là hệ thống giao thông đường
thủy, đường sông). Những vùng có lợi thế này là những vùng có điều kiện
tăng trưởng mạnh mẽ. Các cơ sở sản xuất CN không dừng ở sức bật về tăng
trưởng cho chính vùng, mà còn có tác động lan tỏa từ vùng này sang các
vùng khác trong cả nước. Cũng theo quan điểm của Adam Smith, trong giai
đoạn đầu của sự phát triển, để tạo ra những điều kiện thuận lợi cho nền
kinh tế phát triển, cần khai thác triệt để lợi thế, tiềm năng của những vùng
thuận lợi [94].
M. Porter [105] đưa ra quan điểm hình thành các vùng kinh tế dựa trên
lợi thế cạnh tranh. Theo M. Porter, khả năng cạnh tranh của một quốc gia phụ
thuộc vào khả năng sáng tạo và sự năng động của quốc gia đó. Khi xu hướng
kinh tế mang tính toàn cầu hóa thì cạnh tranh cũng mang tính chất toàn cầu
hóa và những lợi thế cạnh tranh tuyệt đối hay lợi thế so sánh mang tính tự
nhiên nhường chỗ cho những lợi thế cạnh tranh quốc gia được tạo ra do sự
sáng tạo và sự năng động của DN trên trường quốc tế. Khi nền tảng cạnh
tranh chuyển dịch sang sự sáng tạo, năng động và tri thức mới thì vị thế và vai
trò của quốc gia tăng lên. Lợi thế cạnh tranh quốc gia được tạo ra và thông
qua quá trình đô thị hóa cao độ.


12
Sự khác biệt giữa các quốc gia về giá trị, văn hóa, cấu trúc kinh tế, thiết
chế và lịch sự sẽ tạo lên ưu thế quyết định cho sự thành công của quốc gia đó.
Nhiều quốc gia thành công ở một số ngành kinh tế trên thị trường thế giới bởi

vì thị trường trong nước năng động, đi tiên phong và phải chịu nhiều sức ép
cạnh tranh thị trường. Các công ty của những quốc gia thành công này có
được lợi thế so với các đối thủ quốc tế nhờ có động lực là các đối thủ mạnh
trong nước với sự liên kết chặt chẽ về kinh tế và thị trường khách hàng tiềm
năng kết hợp với các nhà cung cấp trong nước mạnh.
Theo M. Porter, lợi thế cạnh tranh được hiểu là những nguồn lực, lợi thế
ngành, quốc gia mà nhờ đó những DN kinh doanh trên thị trường thế giới sẽ
tạo ra một số ưu thế vượt trội hơn, ưu việt hơn so với những đối thủ cạnh
tranh trực tiếp khác. Lợi thế cạnh tranh quốc gia bắt nguồn từ lợi thế so sánh
chứ không chỉ là lợi thế so sánh thuần túy. Lợi thế so sánh chỉ là những điều
kiện đặc thù của một quốc gia, ngành tạo ra như điều kiện tự nhiên, tài
nguyên khoáng sản, nguồn nhân lực,. Những điều kiện này chỉ là cơ sở để tạo
ra một lợi thế cạnh tranh tốt chứ chưa phải là một lợi thế cạnh tranh mà cần có
sự sáng tạo và năng động mới tạo ra lợi thế cạnh tranh để thành công trên thị
trường quốc tế. Bản chất của lợi thế cạnh tranh quốc gia hay cạnh tranh DN là
phải cung cấp giá trị gia tăng cho các đối tượng có liên quan như: quốc gia
khác, nhà đầu tư, khách hàng, các đối tác và tác động tạo giá trị gia tăng cho
các đối tác này.
Lý thuyết cạnh tranh của M.Porter cung cấp các luận cứ để giải thích tại
sao các quốc gia lại tập trung phát triển một số ngành nào đó và tại sao các
DN lại có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành các trung tâm CN có
tính cạnh tranh toàn cầu. Lý thuyết này cũng gợi mở những ý tưởng về thu hút
đầu tư vào KCN dựa trên lợi thế cạnh tranh của DN chứ không phải chỉ là lợi
thế cạnh tranh của bản thân KCN [105].


13
1.1.1.3. Lý thuyết định vị trung tâm
Lý thuyết Định vị trung tâm được các nhà khoa học người Đức là
W.Christaller và A.Losch đưa ra vào năm 1933. Sự ra đời của lý thuyết này

đã góp phần quan trọng vào việc tìm kiếm những quy luật về bố trí không
gian cho sự phát triển lực lượng sản xuất.
Lý thuyết Định vị trung tâm thừa nhận những ưu thế của tập trung hóa
theo lãnh thổ với các lợi ích ngoại ứng, tạo cho các DN sản xuất sự gắn kết
phù hợp với quy mô thị trường tương ứng với sự tập trung khiến các DN phân
bổ gần nhau tại trung tâm thị trường. Sự tập trung này, giúp các DN có thể
chia sẻ những gánh nặng về chi phí sử dụng hạ tầng chung (trong đó đặc biệt
là hệ thống giao thông, cấp điện, cấp nước, thông tin liên lạc,…), từ đó các
DN có thể liên kết, hỗ trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất kinh doanh, góp
phần tăng năng suất lao động, thực hiện phân công chuyên môn hóa, hợp tác
hóa nhằm giảm giá thành sản phẩm, sử dụng hợp lý và tiết kiệm nguồn
nguyên liệu, năng lượng và các yếu tố đầu vào khác.
Sự phân chia các địa điểm không gian cho các nhà sản xuất khác nhau sẽ
tạo lên một trật tự thứ bậc của các vị trí trung tâm. Lý thuyết định vị trung tâm
có điểm đáng lưu ý là xác định quy luật phân bố không gian tương quan giữa
các điểm dân cư, để có thể quy hoạch các điểm cân cư và các vùng mới khai
thác một cách hợp lý. Lý thuyết này mang ý nghĩa thực tiễn và là cơ sở cho bố
trí và xây dựng KCN, tạo nền tảng hạt nhân hình thành các khu dân cư, khu
đô thị mới tại các khu đất còn trống liền kề KCN.
1.1.1.4. Lý thuyết Cực phát triển
Lý thuyết Cực phát triển do nhà kinh tế học người pháp Francois Peroux
đưa ra vào năm 1950 và sau đó được Albert Hirshman, Myrdal, Fridman và
Harry Richardson [104] tiếp tục nghiên cứu và phát triển.
Lý thuyết cực phát triển cho rằng, một vùng không thể phát triển kinh tế
đồng đều ở tất cả các khu vực trên lãnh thổ của nó theo cùng một không gian


14
kinh tế, đồng đều ở tất cả các khu vực trên lãnh thổ theo cùng một thời gian,
mà luôn có xu hướng phát triển mạnh nhất ở một vài khu vực trong khi các

vùng khác lại phát triển chậm hoặc kém phát triển hơn.
Lý thuyết kinh tế này cũng cho rằng vai trò của CN và dịch vụ có vai trò
lớn đối với sự tăng trưởng của vùng. Sự tập trung CN và dịch vụ tại các đô thị
tạo ra hạt nhân phát triển của vùng. Đi kèm với cực phát triển là “hạt nhân”
CN. Hạt nhân CN được hiểu là sự phát triển của một tập hợp các ngành CN
có khả năng tạo ra động lực tăng trưởng kinh tế và có quan hệ tương tác, gắn
bó chặt chẽ với nhau thông qua mối liên hệ đầu vào - đầu ra xung quanh
ngành CN mũi nhọn. Ngành CN mũi nhọn, nhờ ưu thế về công nghệ hiện đại,
tốc độ đổi mới cao, sản phẩm có độ co giãn theo thu nhập cao và có phạm vi
thị trường rộng lớn, sẽ phát triển nhanh và tác động kéo theo các ngành có
liên quan đến nó phát triển, tạo ra tác động lan tỏa đối với các bộ phận khác
của vùng kinh tế. Sự phát triển của một ngành CN mũi nhọn như vậy sẽ làm
cho lãnh thổ nơi đó phân bổ sự phát triển và theo đó số lượng việc làm mới
tăng lên, thu nhập tăng, dẫn đến chi tiêu tăng. Nhờ đó, các ngành CN mới gắn
với các hoạt động dịch vụ và các loại hình đầu tư mới được thu hút vào nơi đó
ngày một nhiều hơn. Sự tập trung phát triển CN trên một khu vực lãnh thổ,
khi đạt đến mức độ nhất định, sẽ tạo hiệu ứng lan tỏa có tác dụng như “đầu
tàu” lôi kéo theo sự phát triển của các vùng khác, tạo ra điều kiện cho nền
kinh tế các nước phát triển mạnh mẽ.
Tiếp tục lý thuyết này, Myrdal (1957), Hirshman (1958), Salvatore
(1972), Harry Richardson (1976,1979) [104] đã đưa ra tác động của sự phát
triển tại một điểm cực được xác định bởi cả những hiệu ứng lan tỏa và hiệu
ứng thu hút hay hiệu ứng phân cực tới tăng trưởng kinh tế, gia tăng thu nhập
bình quân đầu người và tạo ra cơ hội phát triển kinh tế của vùng xung quanh
nó. Theo những tác giả này, kết quả tác động lan tỏa của một cực bao gồm


15
một diện rộng như sau: tạo nên một môi trường trao đổi hàng hóa sôi động
với tư cách là nguồn cung cấp lớn hay thị trường tiêu thụ lớn; chuyển giao và

đổi mới công nghệ, nâng cấp cơ sở vật chất và thúc đẩy nghiên cứu phát triển
khoa học công nghệ và ứng dụng khoa hoạc công nghệ; tạo ra sự thay đổi về
nhận thức, về sinh hoạt văn hóa, về giáo dục đào tạo, về xây dựng thể chế và
những đổi mới khác về tâm lý của người sản xuất và người tiêu dùng; tạo môi
trường hấp dẫn thu hút đầu tư thông qua thiết lập những hoạt động mới trên
cơ sở đó thúc đẩy đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đầu tư
phát triển đô thị, …
Như vậy, lý thuyết cực phát triển là lý thuyết phục vụ trực tiếp cho việc
lựa chọn lãnh thổ trọng điểm để phát triển. Sự hình thành lãnh thổ phát triển
như là các cực phát triển sẽ tạo động lực cho toàn bộ nền kinh tế phát triển và
là phương thức lựa chọn phát triển phù hợp với điều kiện và nguồn lực của
các nước đang phát triển. Nhưng hạn chế của lý thuyết này là nó kéo theo sự
chênh lệch GDP bình quân đầu người của những vùng lãnh thổ phát triển so
với những vùng còn lại và chưa chỉ ra được giải pháp bảo đảm cho PTBV về
xã hội [104].
1.1.2. Những nghiên cứu về điều kiện phát triển bền vững các khu
công nghiệp
1.1.2.1. Những nghiên cứu phát triển bền vững các khu công nghiệp
về kinh tế, xã hội và môi trường
Đến nay, đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về các tác động hai
chiều của KCN kể cả trong nước và nước ngoài. Điển hình là một số công
trình như Báo cáo nghiên cứu với chủ đề “Chinese Science And Technology
Industrial Parks” của Susan M. Walcott [107], sách: "Một số giải pháp nhằm
phát triển bền vững nông thôn vùng đồng bằng Bắc bộ trong quá trình xây
dựng, phát triển các KCN" của Đỗ Đức Quân [59].


16
Trong các công trình này các tác giả đã bàn đến tác động có lợi của các
KCN trên các mặt sau đây: KCN có vai trò quan trọng trong thu hút các nhà

đầu tư có vốn lớn, công nghệ hiện đại, tiên tiến để sản xuất hàng hóa chất
lượng cao đưa ra thị trường trong nước và quốc tế; các KCN đóng góp phần
lớn vào tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại,
tạo việc làm và tăng nguồn thu ngân sách nhà nước (NSNN); các DN trong
KCN, nhất là DN FDI tạo điều kiện để người lao động tiếp cận phương pháp
quản lý tiên tiến, hiện đại, thúc đẩy chuyển giao công nghệ và đầu tư đổi mới
công nghệ sản xuất; xây dựng KCN sẽ tạo điều kiện thúc đẩy đầu tư sản xuất
trong các KCN và thông qua đó có tác động lan toả đến sự phát triển các khu
vực lân cận và toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Các nhà khoa học cũng chỉ rõ tác động tiêu cực của các KCN đến các
vấn đề xã hội và môi trường như sau: tăng nhanh số lượng các chất thải ra
môi trường, trong đó có nhiều chất thải gây hại cho sức khỏe và môi trường
nếu không được xử lý tốt; các KCN cạnh tranh với ngành nông nghiệp trong
lĩnh vực đất đai khiến một bộ phận nông dân bị mất đất, không có việc làm,
làm phát sinh các vấn đề xã hội phức tạp ở nông thôn; các KCN không đảm
đương tốt các công trình dịch vụ xã hội như nhà ở, bệnh viện, trường học, khu
văn hóa, giải trí khiến điều kiện sống của những người làm việc trong các
KCN gặp khá nhiều khó khăn… Song những công trình này cũng chưa đưa ra
được những giải pháp cụ thể để khắc phục những hạn chế, đặc biệt là các giải
pháp huy động nguồn lực cho đầu tư xây dựng các hạ tầng thiết yếu ngoài
hàng rào KCN như nhà ở cho công nhân KCN, trường học, nhà trẻ, trung tâm
chăm sóc sức khỏe,... và các công trình này cũng chưa chỉ ra được các giải
pháp huy động nguồn lực để thực hiện các biện pháp khắc phục các ảnh
hưởng về môi trường như rác thải công nghiệp và rác thải sinh hoạt của KCN
cũng như khu vực dân cư liền kề.


17
1.1.2.2. Những nghiên cứu về điều kiện, xu hướng và các yếu tố phát
triển bền vững khu công nghiệp

Vấn đề phát triển các KCN tập trung để thu hút đầu tư và quản lý hoạt
động đầu tư sản xuất của các nhà đầu tư trong một không gian chung được
xem như một xu hướng vận động mang tính qui luật và phù hợp với mục tiêu
phát triển kinh tế nhanh gắn với quá trình CNH của nhiều nước trên thế giới.
Một số công trình khoa học đã bàn luận về các điều kiện phát triển triển KCN
một cách bền vững "dẫn theo" nghiên cứu của World Bank (2005) đã bàn
luận về nhu cầu tài chính phát triển hạ tầng thông tin và truyền thông gắn với
vai trò của Chính phủ và khu vực tư nhân trong các KCN.
Lý thuyết về cụm tương hỗ (Cluster) của Andy Field, Mechael Porter,
Torget Reve [105] ủng hộ sự phát triển theo hướng liên kết, theo đó cụm
tương hỗ được hiểu là sự hòa hợp của các đối tác, đó chính là các thích ứng
của các công ty, hãng về những tài năng và cơ chế hỗ trợ khi có vị trí liền kề
để đầu tư sản xuất kinh doanh và sử dụng hiệu quả các nguồn lực nhằm tạo ra
hiệu suất cao cho tất cả các bên [105].
Một dạng KCN thân thiện với môi trường đang được nhiều người quan
tâm là KCN sinh thái của B.H, Roberts Elsevier [97], công trình này đã bàn
luận về KCN sinh thái với tiêu chí cụ thể như sau: KCN được thiết kế theo
chủ đề bảo vệ môi trường; KCN có hạ tầng kỹ thuật và các công trình bảo vệ
môi trường; KCN bao gồm các DN sử dụng các phế phẩm và phụ phẩm của
nhau, các DN tái chế, các DN sản xuất sản phẩm sạch và có công nghệ bảo vệ
môi trường, trao đổi, học tập kinh nghiệm lẫn nhau về tổ chức quản lý phát
triển bền vững các KCN và định hướng hợp tác trong tương lai của các bên có
liên quan như Châu Á, Châu Phi và Châu Âu. Các vấn đề như khái niệm,
pháp lý, chính sách liên quan đến phát triển các KCN sinh thái cũng được
quan tâm bàn luận.


18
Mặc dù đã được bàn luận khá nhiều, trên thực tế KCN sinh thái vẫn còn
là khái niệm mới mẻ đối với cộng đồng DN và các cấp chính quyền của các

nước nên mô hình này mới được vận dụng và áp dụng mang tính thử nghiệm,
thăm dò. Các tác giả cho rằng, các KCN sinh thái nên được thiết kế tương tự
như mô hình KCN truyền thống để cho phép các DN dùng chung cơ sở hạ
tầng nhằm thúc đẩy sản xuất và giảm giá thành sản xuất, đi đôi với những tiêu
chuẩn gắn sản xuất với bảo vệ môi trường và trách nhiệm xã hội. Hạn chế của
công trình nghiên cứu KCN sinh thái là mới chỉ nghiên cứu PTBV KCN dưới
góc độ về kinh tế và môi trường mà chưa xem xét đến các vấn đề xã hội một
cách thỏa đáng.
1.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÁC KHU CÔNG
NGHIỆP Ở CÁC NƯỚC VÀ VIỆT NAM

Trên thế giới và Việt Nam đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về
phát triển bền vững các KCN, điển hình như các công trình:
Công trình nghiên cứu Implementing industrial ecology? Plaining for
eco-industrial in the USA của D.Gibbs và P.Deutz. Nxb Elsevier cho rằng,
mặc dù quan điểm PTBV nhận được sự đồng thuận rộng rãi trong nhiều diễn
đàn quốc tế nhưng trên thực tế, việc đạt mục tiêu “win-win-win” (cùng chiến
thắng) về các mặt phát triển kinh tế, môi trường và xã hội vẫn còn là một vấn
đề nan giải [100]. Những quan điểm ủng hộ phát triển CN sinh thái cho rằng
việc dịch chuyển trong chuỗi sản xuất CN từ một đường thẳng đến hệ thống
khép kín là điều kiện để giúp đạt mục tiêu PTBV. Trong những năm gần đây,
các tiếp cận từ khái niệm CN sinh thái được sử dụng chủ yếu để đầu tư phát
triển các KCN, để thu hút đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN
trong KCN, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tạo việc làm và cải thiện điều
kiện lao động. Tác giả công trình nhấn mạnh vào các vấn đề nan giải nảy sinh
trong giai đoạn phát triển KCN theo hướng bền vững ở Mỹ. Công trình này
chưa bàn luận thỏa đáng đến tác động của các KCN ở Mỹ đến xã hội.


19

Ở Việt Nam đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về khía cạnh hình
thành và phát triển các KCN. Ví dụ như công trình của Vũ Ngọc Thu [65],
công trình này tác giả đã phân tích, đánh giá thực trạng công tác bảo vệ môi
trường KCN và đề xuất giải pháp để tăng cường quản lý môi trường trong
KCN gắn với định hướng phát triển các KCN, thu hút đầu tư đi đôi với bảo vệ
môi trường.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong "Báo cáo tổng kết 20 năm xây dựng và
phát triển các KCN, KCX và KKT ở Việt Nam" [11] đã tập trung vào đánh
giá quá trình hình thành, xây dựng và phát triển KCN trên cả nước sau hai
mươi năm, từ đó đề xuất một số quan điểm, định hướng và giải pháp về tiếp
tục phát triển mô hình KCN.
Một số nghiên cứu khác đã phân tích sự tác động của thể chế đến phát
triển và PTBV các KCN trên phạm vi cả nước. Điển hình là các công trình
của Vũ Đại Thắng [62] đã chỉ ra những tồn tại trong thực tiễn áp dụng các cơ
chế, chính sách vào mỗi địa phương như: hội chứng ồ ạt thành lập các KCN
khi chưa được chuẩn bị kỹ lưỡng; sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các
địa phương về thu hút đầu tư vào KCN, các vấn đề về ô nhiễm môi trường và
vấn đề quản lý,… Các nghiên cứu này cũng đã đề xuất thay đổi cơ chế, chính
sách nhằm bảo đảm cho PTBV các KCN trên phạm vi cả nước, đề cập đến
vấn đề lựa chọn quy hoạch xây dựng KCN và lựa chọn địa điểm xây dựng
KCN phù hợp với đặc thù ngành và phù hợp với đối tượng thu hút đầu tư theo
cơ cấu ngành vào KCN. Các tác giả cũng kiến nghị một số giải pháp cụ thể
như: cần đánh giá đúng thực trạng phát triển KCN Việt Nam; nâng cao chất
lượng quy hoạch xây dựng các KCN Việt Nam, nhất là lựa chọn KCN, đặc
biệt là vị trí đặt KCN; coi trọng quy hoạch các khu chức năng, khu nhà ở, khu
phục vụ công cộng trong việc xây dựng và phát triển các KCN ở các địa
phương; thu hút chủ đầu tư hạ tầng, thu hút các nhà đầu tư thứ cấp với các


20

chính sách ưu đãi riêng, cơ chế quản lý đặc thù tạo thuận lợi thúc đẩy sản xuất
của DN trong KCN.
Một số nghiên cứu đã phân tích, đánh giá sự phát triển của các KCN ở
Việt Nam và nêu bật các đặc trưng cũng như những tồn tại trong quá trình
phát triển KCN ở Việt Nam nói chung và mỗi địa phương nói riêng, cụ thể
như: công trình của Bùi Thế Cử, công trình của Ngô Sỹ Bích [20; 35] đều đề
cập đến vai trò của phát triển công nghiệp, các KCN đối với sự nghiệp CNH,
HĐH và cũng nêu được những bất cập về hoạt động quản lý Nhà nước đối với
KCN, KKT nhưng những công trình này chưa có những giải pháp thỏa đáng
để PTBV các KCN về kinh tế, xã hội, môi trường và thể chế.
- Công trình của Việt Đức, của Phan Tuấn Giang [41; 42] đã chứng minh
sư phát triển các KCN Việt Nam chưa bền vững trên các mặt hiệu quả hoạt
động chưa cao, chưa bảo đảm các tiêu chí bền vững về môi trường và xã hội,
chưa có tính dài hạn, nhân lực sử dụng có trình độ thấp... và đề xuất một số
giải pháp như quy hoạch lại các KCN dựa trên lợi thế so sánh, hạn chế xây
dựng KCN trên đất lúa, kiểm soát để các KCN đáp ứng tiêu chí bền vững về
môi trường và xã hội, khuyến khích thu hút vào các KCN các dự án công
nghệ cao, sạch thân thiện môi trường.
Một số công trình nghiên cứu khác đề cập tới một vài khía cạnh về
PTBV trong các KCN ở một số địa phương như: công trình Vũ Thành Hưởng,
công trình của Hoàng Hà và các cộng sự, công trình của Lê Thành Quân [43;
52; 60] đã phân tích, đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến PTBV KCN, về thực
trạng công tác bảo vệ môi trường, giải quyết việc làm, đặc thù quản lý các
KCN và đưa ra một số giải pháp để PTBV các KCN.
- Công trình của Hiệp hội Môi trường đô thị và KCN Việt Nam đã trình
bày thực trạng môi trường tại các KCN và đề xuất các giải pháp huy động
nguồn lực cho công tác bảo vệ môi trường KCN, đặc biệt là các công trình xử
lý nước thải tập trung [45].



21
- Công trình của Phạm Thanh Hà [44] đã đề cập tới vai trò động lực của
sự nghiệp CNH, HĐH của các KCN và đề cập đến một số bất cập như: ô
nhiễm môi trường, đào tạo nguồn nhân lực cho KCN, huy động nguồn vốn
cho phát triển hạ tầng KCN, cơ chế phân cấp và ủy quyền cho BQL các KCN
cấp tỉnh.
- Công trình của Vũ Quốc Huy [49] đã đề cập đến công tác xây dựng quy
hoạch phát triển các KCN, tình hình đầu tư xây dựng hạ tầng và thu hút đầu
tư vào KCN, định hướng và giải pháp quy hoạch phát triển các KCN .
- Tại Thái Nguyên, hiện đã có một số công trình nghiên cứu lẻ tẻ về các
KCN trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên như: “Nghiên cứu đánh giá sự phát triển
bền vững các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên” của Võ Thy
Trang [74]. Đề tài: "Sự phát triển bền vững của các KCN trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên" của tác giả Trần Chí Thiện [64]. Trên quan điểm đánh giá phát
triển bền vững các KCN và khảo sát mức độ phát triển bền vững của các
doanh nghiệp trong KCN, bài viết này đề xuất nhóm tiêu chí đánh giá sự
phát triển bền vững nội tại các KCN và tác động lan tỏa của KCN đến sự
phát triển của các doanh nghiệp, các ngành kinh tế của tỉnh. Tác giả cũng
đề xuất một số giải pháp chủ yếu liên quan đến việc tăng cường tính bền
vững trong phát triển các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái nguyên.
Tuy nhiên, các vấn đề đặt ra trong nghiên cứu này còn sơ lược, chưa hệ
thống, các giải pháp cần được tiếp tục nghiên cứu sâu hơn như qui trình
đánh giá, hoàn thiện bộ tiêu chí đánh giá và cụ thể hóa các phương pháp
đánh giá phát triển bền vững các KCN, giác độ quản lý của chính quyền và
BQL các KCN đến sự phát triển bền vững của các KCN chưa được đề cập
thỏa đáng trong công trình này. Hơn nữa, công trình này mới dừng ở những
nghiên cứu có tính sơ khai, chưa đi sâu vào bản chất của PTBV các KCN ở
một tỉnh có đặc thù như Thái Nguyên.



×