NHỮNG RÀNG BUỘC VỀ KINH TẾ, THỂ CHẾ VÀ XÃ HỘI
CHƯƠNG II
NHỮNG RÀNG BUỘC VỀ KINH TẾ,
THỂ CHẾ VÀ XÃ HỘI
161
162
KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
NHỮNG RÀNG BUỘC VỀ KINH TẾ, THỂ CHẾ VÀ XÃ HỘI
2.1
HIỆU QUẢ CỦA CÁC CƠ SỞ SẢN XUẤT
THUỘC KHU VỰC KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC:
PHƯƠNG PHÁP HỒI QUY THEO PHÂN VỊ.
NGHIÊN CỨU VỀ KHU VỰC KINH TẾ PHI CHÍNH
THỨC TẠI ANTANANARIVO
- MADAGASCAR
Faly Hery Rakotomanana
Giới thiệu
Hiệu quả của các cơ sở sản xuất đóng vai trò cơ bản trong sự phát triển
của một quốc gia, nhất là trong việc tạo ra của cải mới cũng như quản lí tài
nguyên và các yếu tố sản xuất. Ngoài việc giảm thiểu sự lãng phí các yếu tố
của sản xuất, việc cải thiện hiệu quả có thể phá vỡ vòng luẩn quẩn hạn chế
khả năng tiếp cận các nguồn lực và sự năng động trong hoạt động của các
chủ thể sản xuất bởi vì tính không hiệu quả của một cơ sở sản xuất làm tăng
chi phí sản xuất, giảm lợi nhuận và sức cạnh tranh, hạn chế tăng trưởng kinh
doanh và các lợi thế của quy mô, và điều này làm giảm cơ hội tiếp cận vốn
hoặc tài chính.
Ở các nước đang phát triển như Madagascar, nghiên cứu về hiệu quả
của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đặc biệt quan trọng trong bối cảnh các
chính sách giảm nghèo. Thứ nhất, sự thành công của chính sách khuyến
khích các hoạt động tạo thu nhập, và sự phát triển của tài chính vi mô chắc
chắn phụ thuộc vào hiệu quả của các cơ sở sản xuất trong lĩnh vực này.
163
164
KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Thứ hai, loại hoạt động này có một tầm quan trọng tương đối cao về kinh
tế1, và ảnh hưởng đến đại đa số người dân2, đặc biệt là người nghèo. Cải
thiện hiệu quả có tác dụng tích cực đến điều kiện sống của các hộ gia đình
mà không cần dùng cơ chế phân phối lại thu nhập. Một mặt, các cơ sở sản
xuất nhiều càng hiệu quả thì hộ gia đình tham gia quản lí càng có lợi ích
tài chính trực tiếp. Mặt khác, người tiêu dùng có thể mua hàng hóa dịch vụ
với giá thấp hơn do giảm chi phí sản xuất, hoặc tăng nguồn cung do việc
cải thiện hiệu quả của hệ thống sản xuất.
Nghiên cứu này nhằm phân tích hiệu quả kĩ thuật của các cơ sở sản xuất
phi chính thức tại Antananarivo. Đây là nghiên cứu đầu tiên về đề tại này tại
Madagascar. Trước tiên, phân tích tập trung vào việc đánh giá mức độ hiệu
quả kĩ thuật của các dạng hoạt động khác nhau. Mục đích là để đánh giá sự
khác biệt giữa các cơ sở sản xuất thuộc khu vực kinh tế phi chính thức và tìm
ra các mắt xích yếu và kém hiệu quả trong lĩnh vực phi chính thức để đề ra
các can thiệp mục tiêu và hỗ trợ tốt hơn. Sau đó, phân tích xác định các yếu
tố quyết định hiệu quả kĩ thuật của các cơ sở sản xuất. Điều này sẽ cho phép
xác định các đòn bẩy chính có thể tác động và đặc biệt, vai trò của tài chính
vi mô trong việc cải thiện hiệu suất của các hoạt động kinh tế phi chính thức.
Nghiên cứu này sử dụng khái niệm hiệu quả kĩ thuật, được xác định như là
năng lực của các cơ sở sản xuất để giảm thiểu số lượng đầu vào được sử dụng để
sản xuất một số lượng nhất định đầu ra nhất định với một kĩ thuật sản xuất cho
trước. Nói cách khác, một cơ sở sản xuất được coi là hiệu quả nếu thực tế xem
xét về mặt kĩ thuật thì trình độ sản xuất của cơ sở sản xuất nằm trên đường giới
hạn năng lực sản xuất. Theo định nghĩa này, mức độ kém hiệu quả kĩ thuật của
một cơ sở sản xuất được định nghĩa là tỉ lệ giữa mức sản xuất thực tế đạt được
và mức tiềm năng có thể đạt được. Do đó, nghiên cứu không thể xác định hiệu
quả của sự phân bổ là thành phần khác của hiệu quả (Farrell, 1957) có tác dụng
chỉ ra năng lực của cơ sở sản xuất trong việc kết hợp các yếu tố đầu vào theo tỉ
lệ tối ưu dựa trên giá tương đối của các yếu tố này và trên các kĩ thuật sản xuất
được sử dụng để đạt được một mức độ đầu ra nhất định.
1
Năm 2004, lĩnh vực này chiếm hơn 17% của Tổng sản phẩm quốc nội chính thức và 25% Tổng sản phẩm
quốc nội chính thức thương mại phi nông nghiệp tại Madagascar.
2
Năm 2004, hơn 58% nhân công có việc làm tại Antananarivo làm việc trong lĩnh vực này và hơn 2/3 số hộ
quản lí một sơ cở sản xuất phi nông nghiệp.
NHỮNG RÀNG BUỘC VỀ KINH TẾ, THỂ CHẾ VÀ XÃ HỘI
Phương pháp hồi quy phân vị (Koenker và Basset, 1978) được sử dụng cho
việc đánh giá hiệu quả kĩ thuật của cơ sở sản xuất chính thức. Mục đích là để đo
tính không hiệu quả của một cơ sở sản xuất dựa trên tỉ lệ giữa năng suất quan
sát được và năng suất ước tính cho các phân vị cao (trên 0,8 hoặc 0,9) với các
đặc tính giống hệt nhau và các năng suất này được coi như là năng suất tiềm
năng có thể đạt được. Nằm trong nhóm các kĩ thuật được phát triển gần đây
để đo lường hiệu quả, phương pháp này cố gắng xử lí các vấn đề gặp phải khi
sử dụng các phương pháp thông thường như phương pháp phân tích biên giới
nhiễu (Stochastic Frontier Analysis - SFA)3 và phân tích dữ liệu bao bọc (DEA)4.
Tuy nhiên, để đánh giá độ tin cậy và vì đây là nghiên cứu đầu tiên trong lĩnh vực
này nên kết quả sẽ được so sánh với những các kết quả của phương pháp thông
thường. Liên quan đến việc xác định các yếu tố quyết định, biến cho thấy mức
độ hiệu quả trên một cơ sở sản xuất là biến chính trong các mô hình hồi quy.
Nghiên cứu này bao gồm năm phần. Sau phần giới thiệu, phần thứ nhất
trình bày các khái niệm và phương pháp luận. Cơ sở dữ liệu và các biến được
trình bày trong phần hai. Các yếu tố quyết định hiệu quả sẽ được trình bày
trong phần ba và bốn. Phần thứ năm là kết luận.
1. Khái niệm và phương pháp luận
1.1 Khái niệm về hiệu quả của một cơ sở sản xuất
Khái niệm hiệu quả của cơ sở sản xuất xuất hiện sau sự phát triển của các lí
thuyết về chức năng của đường giới hạn sản xuất. Các đường giới hạn sản xuất
là mức tối đa mà sản xuất đạt được bằng cách áp dụng một kĩ thuật sản xuất
nhất định và sử dụng mức mức độ đầu vào nhất định. Vì các lí do khác nhau, các
cơ sở sản xuất không thực sự có thể đạt đến đường giới hạn sản xuất.
Khái niệm về hiệu quả sản xuất đã phát triển qua thời gian. Theo
Koopmans (1951), một quá trình sản xuất được coi là hiệu quả kĩ thuật khi
và chỉ khi chỉ có thể tăng mức độ đầu ra nhất định hoặc giảm mức độ đầu vào
Phương pháp khởi xướng bởi Meusen, Broeke (1977); Aigner, Lovel và Schmidt (1977), Battese G.,
Coelli T. (1988-1992).
3
4
Phương pháp khởi xướng bởi Farrell (1957); xem thêm Charnes, Cooper và Rhodes (1978).
165
166
KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
bằng cách giảm mức độ đầu ra khác hoặc tăng mức đầu vào khác. Lí thuyết
kinh tế cổ điển, kể từ nghiên cứu của Debreu (1951) đã chính thức hóa các
khái niệm của Koopmans, khi đề cập đến các khái niệm về tối ưu Pareto: một
kĩ thuật sản xuất chưa phải là tối ưu Pareto nếu vẫn còn khả năng tăng mức
đầu ra hoặc giảm mức đầu vào.
Các định nghĩa chính thức được nêu như sau:
Một cơ sở sản xuất áp dụng kĩ thuật sản xuất (X, Y) ϵ T có hiệu quả nếu
không tồn tại kĩ thuật sản xuất (X’, Y’) ϵ T theo đó (X’, Y’) ≠ (X, Y) (X’≤ X
và Y’ ≥ Y)
trong đó T là tập hợp các sản phẩm có thể, X là vector đầu vào và Y là
vector đầu ra.
Farell (1957) mở rộng nghiên cứu của Koopmans và Debreu bằng cách
đưa vào một khía cạnh khác của hiệu quả gắn với thành phần tối ưu của đầu
vào và giảm thiểu chi phí có tính đến giá tương đối của đầu ra và đầu vào.
Như vậy, hiệu quả của một cơ sở sản xuất có thể được định nghĩa là khả
năng giảm chi phí và lãng phí ở mức thấp nhất để đạt được kết quả sản xuất
và lợi nhuận tối đa, dựa trên công nghệ sản xuất tốt nhất có thể. Khái niệm
về hiệu quả có thể được phân tách ra thành hai thành phần: hiệu quả kĩ thuật
và phân bổ (Farrell, 1957). Hiệu quả kĩ thuật dùng để chỉ năng lực của các
cơ sở sản xuất có thể đạt được mức tối đa của kết quả sản xuất nằm trên giới
hạn sản xuất sau khi lựa chọn một công nghệ sản xuất dựa trên một mức độ
các yếu tố đầu vào hoặc các yếu tố sản xuất được huy động, hoặc sử dụng các
nguồn tài nguyên ít nhất có thể để sản xuất tại một mức sản lượng cố định có
tính đến các dạng khác nhau của công nghệ sản xuất có sẵn. Hiệu quả phân
bổ là khả năng của cơ sở sản xuất để điều chỉnh các mức đầu vào theo các tỉ
lệ tối ưu có tính đến giá tương đối của các yếu tố này. Một quá trình sản xuất
có hiệu quả về mặt “phân bổ” nếu tỉ lệ thay thế biên giữa mỗi cặp đầu vào
bằng với tỉ lệ của giá tương ứng.
Để đánh giá hiệu quả của một cơ sở sản xuất, các chỉ số được sử dụng
phụ thuộc vào quan hệ giữa mức sản lượng thực sự quan sát được và mức tối
đa có thể đã đạt đến nếu các cơ sở sản xuất đạt hiệu quả hoạt động tối đa.
Sơ đồ sau đây tóm tắt các chỉ số đo lường hiệu quả của một cơ sở sản xuất
(Farell, 1957).
NHỮNG RÀNG BUỘC VỀ KINH TẾ, THỂ CHẾ VÀ XÃ HỘI
Phối hợp các chỉ số và hiệu quả sản xuất
Nguồn: Tác giả.
Hãy xem xét một cơ sở sản xuất có sử dụng hai đầu vào (x, y) và có một
đầu ra. Điểm P là mức sản lượng thực tế mà cơ sở sản xuất đạt được. Các đường
cong SS ‘là đường giới hạn khả năng sản xuất ước tính với một kĩ thuật sản
xuất nhất định. Các điểm Q nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất cho
thấy hiệu quả của cơ sở sản xuất. Hiệu quả kĩ thuật của cơ sở sản xuất được
đo bằng tỉ lệ TE = OQ / OP = 1 - (QB / OQ). Tỉ lệ này nằm giữa 0 và 1 và chỉ
ra mức độ không hiệu quả của các cơ sở sản xuất. Nếu tỉ lệ này tương đương
với 1(tức là điểm P và Q được kết hợp), cơ sở có hiệu quả về mặt kĩ thuật. Q là
điểm có hiệu quả kĩ thuật vì nó nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất.
Với tỉ lệ giá tương đối của hai đầu vào được đại diện bởi đường thẳng AA’,
hiệu quả “phân bổ” của cơ sở sản xuất được đo bằng tỉ lệ AE = OR / OQ. Đoạn
RQ cho thấy khả năng giảm chi phí sản xuất để sản xuất tại mức Q’ trên cùng
một đường giới hạn khả năng sản xuất. Điểm này thể hiện mức sản lượng đạt
hiệu quả của đơn vị cả về mặt kĩ thuật và phân bổ, không giống như điểm Q
có hiệu quả kĩ thuật nhưng không có hiệu quả “phân bổ”. Tổng số hiệu quả
kinh tế được đo bằng tỉ lệ EE = OR/OP.
1.2 Các phương pháp đo lường hiệu quả
Hai phương pháp tiếp cận thường được dùng để đo lường hiệu quả của
một cơ sở sản xuất: các phương pháp kinh tế lượng và các phương pháp
nonparametric.
167
168
KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Các phương pháp kinh tế lượng, trong đó được biết đến và được sử dụng
nhiều nhất là SFA được dựa trên nguyên tắc là sự không hiệu quả là dư
lượng hoặc phần nhiễu, tức là sự khác biệt giữa mức độ sản xuất thực tế
và đường giới hạn sản xuất ước tính. Khi kĩ thuật sản xuất cho một đầu ra
duy nhất và có nhiều đầu vào, phương pháp này ước tính đầu ra theo hàm:
yi = f(xi,β) + ɛi trong đó yi và xi lần lượt biểu thị đầu ra và các vector đầu vào
của các cơ sở sản xuất i và β là vector của các tham số ước tính.
Số dư ɛi được giả định là bao gồm một sai số ngẫu nhiên và tính không
hiệu quả μi: yi = f(xi,β) + vi - μi, trong đó μi được giả định là không âm và tuân
theo một số quy luật phân phối nhất định như nửa chuẩn, mũ hoặc gamma.
Các nhược điểm chính của phương pháp này là sự thiên vị do lỗi kĩ thuật đối
với hàm sản xuất và độ nhạy cao của kết quả đối với phân phối được chọn để
biểu thị tính không hiệu quả (Behr, 2010).
Các phương pháp Nonparametric phi tham số do Charnes, Cooper và
Rhodes (1978) đưa ra được dựa trên kĩ thuật phân tích vỏ bọc dữ liệu (DEA)
được xây dựng cho các kĩ thuật sản xuất có nhiều đầu ra và đầu vào. Phương
pháp này xây dựng đường giới hạn sản xuất tuyến tính. Hiệu quả của một cơ
sở sản xuất được xác định bằng khoảng cách giữa cơ sở sản xuất và đường
giới hạn. Ưu điểm của phương pháp này là không đòi hỏi nêu rõ các dạng
hàm sản xuất. Tuy nhiên, phương pháp này rất nhạy cảm với các giá trị ngoại
lai vốn được dùng làm tham chiếu để xây dựng đường giới hạn. Ngoài ra,
phương pháp này coi mọi khoảng cách tới đường giới hạn là hoàn toàn do sự
kém hiệu quả mà không tính đến sai số lấy mẫu và đo lường (Liu, Laporte và
Ferguson, 2007).
Phương pháp hồi quy theo phân vị
Phương pháp hồi quy theo phân vị do Koenker và Basset (1978) đề xuất.
Phương pháp này khái quát kĩ thuật mô hình hóa thực hiện đối với giá trị
trung bình có điều kiện của biến phụ thuộc để diễn tả các phân vị của phân
phối có điều kiện của biến phụ thuộc tùy theo các biến giải thích. Về mặt tối
ưu hóa, vì giá trị trung bình và trung vị được định nghĩa lần lượt là các giải
pháp giảm thiểu tổng bình phương của phần dư và giảm thiểu tổng không có
trọng số của các giá trị tuyệt đối của phần dư, nên các phân vị có thể được
định nghĩa là các giải pháp giảm thiểu tổng các giá trị tuyệt đối của phần dư,
NHỮNG RÀNG BUỘC VỀ KINH TẾ, THỂ CHẾ VÀ XÃ HỘI
bằng cách phân bổ tỉ trọng thích hợp cho các giá trị dương và âm của phần
dư. Chúng ta biểu thị các ý tưởng này như sau:
Hồi quy tuyến tính đơn giản là tìm lời giải cho hàm sau đây:
min ∑i =1ρq(yi – f(xi, βq))2 (1)
n
trong đó i là số lượng các quan sát, yi là giá trị của biến phụ thuộc và xi là các
biến giải thích cho cá nhân i và β là vector của các tham số cần được ước tính.
Đối với hồi quy phân vị, cần khái quát công thức (1) ở trên và tìm lời giải
cho chương trình:
min ∑i =1ρq(yi – f(xi, βq)) (2)
n
trong đó ρq là hàm chỉnh bình tương ứng với phân vị q và βq là vector của các
tham số cần được ước tính sẽ thay đổi tùy theo phân vị được xem xét.
Các bước phân tích
Phương pháp luận này gồm các giai đoạn như sau:
1) Giai đoạn đầu tiên là để đánh giá mức độ hiệu quả thông qua việc áp
dụng các phương pháp hồi quy phân vị như sau. Ban đầu, sử dụng phương
pháp hồi quy phân vị để ước tính hàm sản xuất cho các phân vị khác nhau
dựa trên hiệu quả hoạt động kinh tế. Sau khi thực hiện các ước tính này,
chúng tôi sẽ phân tích sự biến thiên tùy thuộc vào phân vị của các hệ số
liên quan đến các yếu tố sản xuất khác nhau (chủ yếu là vốn và lao động),
là các hệ số cho thấy năng suất cận biên của các yếu tố này. Sau đó, để xây
dựng một mức độ hiệu quả tham chiếu của đường giới hạn sản xuất (nghĩa
là, khi cơ sở sản xuất hoạt động hoàn toàn hiệu quả), chúng tôi sẽ dự đoán
các mức hiệu quả thông qua hàm sản xuất được ước tính cho một phân vị
có mức độ cao cần thiết. Vì số lượng các quan sát trong mẫu không đủ lớn
nên để đạt mức hiệu suất tham khảo, chúng tôi đã lựa chọn mức độ phân vị
0,9 thay vì 0,95 như thường được chấp nhận trong nghiên cứu. Cuối cùng,
đối với mỗi cơ sở sản xuất, hiệu quả được đo bằng tương quan giữa mức độ
hiệu suất thực tế đạt được hoặc quan sát được và mức độ hiệu suất tham
khảo dự đoán.
2) Trong giai đoạn thứ hai, để làm nổi bật tầm quan trọng của ưu điểm
của các phương pháp hồi quy phân vị trong việc đánh giá hiệu quả của một
cơ sở sản xuất, các dạng phân tích khác nhau được thực hiện. Phân tích mô
169
170
KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
tả được thực hiện trên các biến được xây dựng trước đó cho thấy mức độ hiệu
quả để kiểm định giả thuyết nghiên cứu và đưa ra một số yếu tố phân biệt
ban đầu. Các phân tích khác như kiểm định độ chắc chắn là để nghiên cứu
mối tương quan giữa các biến cho thấy mức độ hiệu quả thu được và các mối
tương quan thu được từ phương pháp SFA thường được sử dụng. Ở cấp độ
này, hai biến về mức độ hiệu quả được tạo ra: một biến từ phương pháp SFA
theo phân phối “nửa chuẩn” của tính hiệu quả và biến kia của phương pháp
SFA, theo phân phối “mũ”.
3) Bước cuối cùng là xác định các yếu tố quyết định tính hiệu quả thông
qua việc sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính đơn giản. Các biến được xem xét
là các biến chưa được đưa vào mô hình để ước lượng hàm sản xuất và có liên
quan đến đặc điểm cá nhân của người quản lí cơ sở sản xuất, với đặc điểm
kinh tế của các đơn vị và môi trường của các đơn vị này.
Mô hình
Hàm Cobb-Douglas đã được lựa chọn cho các hàm sản xuất bởi vì nó tương
đối đơn giản, dễ xử lí và được tất cả các tác giả khác nghiên cứu đề tài này sử
dụng, khiến cho việc phân tích so sánh kết quả trở nên thuận tiện hơn (Piesse
2000; Movshuk, 2004; Behr, 2010). Để đơn giản hóa việc phân tích, hàm sản
xuất là một hàm có một đầu ra duy nhất và nhiều đầu vào.
yi = ao∏ j =1xja (3)
k
trong đó i là số lượng các cơ sở sản xuất được quan sát và xji với j = 1 tới k
là các đầu vào k được sử dụng để tạo ra các đầu ra yi
Đối với việc xác định các yếu tố quyết định mức độ hiệu quả, các mô hình
hồi quy tuyến tính được lựa chọn. Để phân tích tính không đồng nhất về
ngành, ba mô hình khác nhau được xây dựng cho các ngành “công nghiệp”,
“thương mại” và “dịch vụ”.
Các ưu điểm chính của phương pháp luận
Việc sử dụng hồi quy phân vị có nhiều ưu điểm. Thứ nhất, sự không
đồng nhất của khu vực phi chính thức, được quan tâm đặc biệt trong nghiên
cứu này, về hiệu suất kinh tế (doanh thu, lợi nhuận, năng suất của các yếu
tố, v.v...) lớn đến mức nếu chỉ sử dụng giá trị trung bình (do một OLS đơn
giản tạo ra) để ước tính hàm sản xuất là rất phiến diện. Phân phối của các
NHỮNG RÀNG BUỘC VỀ KINH TẾ, THỂ CHẾ VÀ XÃ HỘI
sai số từ các ước tính có thể biến thiên tùy thuộc không chỉ vào các đặc
tính (biến giải thích), mà còn phụ thuộc vào hiệu suất kinh tế của các cơ
sở sản xuất (biến phụ thuộc). Để minh họa, mức độ phân tán của sản xuất
hoặc của giá trị gia tăng có xu hướng giảm dần khi quy mô của các cơ sở
sản xuất tăng: hệ số biến thiên của giá trị gia tăng giảm từ 1,8 đối với các
đơn vị một người xuống khoảng 1,0 đối với các đơn vị có ba nhân viên hoặc
nhiều hơn.
Phương pháp này cũng thích hợp hơn với mục tiêu của chúng tôi để đề
xuất các khuyến nghị chính sách kinh tế và các can thiệp có trọng điểm hơn
nhằm hỗ trợ các hoạt động của khu vực phi chính thức, trong đó có tài chính
vi mô. Trên thực tế, năng suất của nhân tố sản xuất khác nhay tùy theo quy
mô của UPI là tương đối nhỏ, trung bình hoặc lớn. Việc áp dụng hồi quy phân
vị cho phép phân tích đầy đủ hơn bằng cách ước tính các hàm sản xuất với hệ
số khác nhau cho mỗi phân vị sản lượng, điều này giúp cung cấp thông tin
định lượng và chi tiết về tác động dự kiến của các can thiệp tới các phân khúc
khác nhau của khu vực phi chính thức.
Về mặt kĩ thuật, phương pháp hồi quy phân vị có nhiều ưu điểm: không
giống các phương pháp khác như DEA, hồi quy phân vị ít nhạy cảm với các
giá trị ngoại lai, không phụ thuộc vào giả thiết về lựa chọn loại phân phối cho
tính không hiệu quả và nhiễu (bruits) của phương pháp SFA (nửa chuẩn hoặc
mũ), và giảm thiểu thiên vị trong một số trường hợp. Khác với SFA, việc sử
dụng phương pháp hồi quy phân vị có thể tránh các giả định quá mức về tính
độc lập của các biến thể hiện sự kém hiệu quả (thành phần thứ hai của sai
số). Giả định này là rất quan trọng đối với SFA và chỉ cho phép phương pháp
này thực hiện thủ tục trong một bước để xác định các yếu tố quyết định tính
hiệu quả. Việc xác định các yếu tố về tính hiệu quả với một mô hình khác ở
giai đoạn thứ hai mâu thuẫn với giả định rằng các biến về tính thiếu hiệu quả
thu được trong giai đoạn đầu tiên là độc lập. Hơn nữa, với các thủ tục trong
một bước, các hệ số liên quan đến các yếu tố sản xuất trong các hàm sản xuất
có thể bị ảnh hưởng bởi việc đưa vào các biến ngoại sinh có thể quyết định
tính hiệu quả. Tuy nhiên, do các tiêu chuẩn hiệu quả được lựa chọn dựa trên
hiệu quả kinh tế thực tế đạt được của các cơ sở sản xuất, hiệu quả thu được
là hiệu quả tương đối, không phải tuyệt đối và rằng chúng phụ thuộc và nhạy
cảm với hoàn cảnh.
171
172
KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
2. Cơ sở dữ liệu và các biến được sử dụng
2.1 Cơ sở dữ liệu
Các dữ liệu sử dụng cho nghiên cứu này dựa trên một loạt các cuộc điều
tra về khu vực phi chính thức gọi là “cuộc điều tra 1-2-3” do DIAL/IRD khởi
xướng và thực hiện tại Antananarivo, thủ đô của Madagascar, vào năm 2001
và 2004 (Rakotomanana, 2004). Đây là một cuộc khảo sát hỗn hợp thực hiện
trong nhiều giai đoạn.
Giai đoạn đầu tiên là khảo sát việc làm tại 3.000 hộ. Giai đoạn này nhằm
mục đích trước hết là để tìm hiểu các điều kiện hoạt động và vận hành của
thị trường lao động và cũng để xác định cá nhân quản lí cơ sở sản xuất trong
khu vực phi chính thức.
Giai đoạn thứ hai khảo sát 1.000 cơ sở sản xuất phi chính thức được xác
định trong giai đoạn đầu của cuộc điều tra. Giai đoạn này tập trung một cách
toàn diện về các đặc điểm và hiệu suất của các cơ sở sản xuất, như dân số,
đặc điểm chi tiết của lực lượng lao động, sản xuất (ngành, nguyên liệu, chi
phí), các yếu tố của sản xuất (lao động, vốn), đầu tư và tài chính, hội nhập
vào nền kinh tế, các vấn đề và triển vọng của các cơ sở sản xuất.
Các cơ sở dữ liệu cho phép hình dung về nhiều khía cạnh của các cơ sở
sản xuất và xác định các chỉ số hoạt động chính như giá trị gia tăng và tổng
thặng dư. Ngoài ra, các mô-đun định lượng về môi trường kinh tế như cơ chế
hỗ trợ cho các doanh nghiệp vi mô, tài chính vi mô và mối quan hệ với nhà
nước nằm trong bảng các câu hỏi của giai đoạn thứ hai.
2.2 Các biến được sử dụng
Biến phụ thuộc của hàm sản xuất được chọn là giá trị gia tăng hàng
tháng chứ không phải là sản lượng hoặc lợi nhuận.
Đối với các biến giải thích được đưa vào các hàm sản xuất, ba loại đầu
vào được xem xét là: vốn, lao động và vốn con người.
Vốn: Biến này bằng giá trị tổng ước tính của vốn vật chất của các cơ sở
sản xuất. Đây là giá trị ước tính của chi phí thay thế của nhà xưởng, đất
đai, máy móc, xe ô tô, công cụ và dụng cụ.
Lao động: biến này bao gồm các tổng số giờ làm việc thực tế hàng tháng
của tất cả nhân viên trong cơ sở sản xuất (giám đốc hoặc người phụ trách
NHỮNG RÀNG BUỘC VỀ KINH TẾ, THỂ CHẾ VÀ XÃ HỘI
đơn vị, nhân viên, người giúp việc gia đình, cộng sự và những người khác)
Vốn con người: nhiều biến được đưa vào mô hình để phản ánh yếu tố
này. Chúng tôi phân biệt các đặc điểm của các quản lí của cơ sở sản xuất
với các đặc điểm của các lao động phụ thuộc. Năng suất của hai loại công
việc được coi là rất khác nhau nếu tính đến phần lớn các công việc không
được trả lương đặc biệt là giúp việc gia đình thuộc nhóm lao động phụ
thuộc và sự tham gia sâu của các quản lí vào tất cả công việc của quá
trình sản xuất.
• Số trung bình các năm học của nhân công phụ thuộc. Giá trị trung bình
phù hợp hơn so với tổng số năm học vì trong các cơ sở sản xuất nhỏ phi
chính thức, các công việc không thực sự được chuyên môn hóa. Mỗi nhân
viên đều tham gia vào mọi việc và tính đa năng này thể hiện qua việc trao
đổi kinh nghiệm và kĩ năng thường xuyên giữa các nhân viên5.
• Số trung bình các năm đi học của nhân công phụ thuộc.
• Số năm đi học của người đứng đầu các cơ sở sản xuất.
• Số năm kinh nghiệm của người đứng đầu cơ sở sản xuất.
Giả định rằng tất cả các biến này có tác động tích cực tới mức độ giá
trị gia tăng của cơ sở sản xuất. Các biến về ngành hoạt động (công nghiệp,
thương mại) được đưa vào các mô hình như là biến kiểm chứng. Các biến về
tiêu thụ trung gian không được đưa vào mô hình vì giá trị gia tăng bằng sản
lượng trừ đi tiêu thụ trung gian và các chi phí gián tiếp khác. (Söderbom và
Teal, 2003).
Đối với việc xác định các yếu tố quyết định hiệu quả, các biến sau đây
được chọn trong các mô hình hồi quy về hiệu quả:
Đặc điểm của cơ sở sản xuất
• Tương quan giữa vốn/số giờ làm việc đo lường mức độ sử dụng vốn;
• Biến cho thấy sự hiện diện của nhân công trong cơ sở sản xuất;
• Biến cho thấy tình trạng đăng kí kinh doanh của các cơ sở sản xuất;
• Biến cho thấy liệu các đơn vị có gặp phải các vấn đề liên quan đến nhu
cầu thị trường, tiếp cận với tín dụng, nhà xưởng, hoặc các vấn đề khác;
• Tuổi của cơ sở sản xuất và một số đặc điểm liên quan.
5
Giá trị trung bình được sử dụng thay cho tổng số năm học trong một số nghiên cứu như công trình của
Soderbom và Teal (2003).
173
174
KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Đặc điểm của người lãnh đạo của cơ sở sản xuất
• Biến cho thấy người đứng đầu cơ sở sản xuất đã hoàn thành đào tạo
chuyên môn liên quan đến công việc của mình;
• Biến cho thấy người quản lí là nam;
• Tuổi của người quản lí và một số đặc điểm liên quan;
• Biến cho thấy người quản lí có tiếp cận được các phương tiện truyền
thông hoặc có một cảm nhận tích cực về chính quyền;
• Biến cho thấy liệu quan sát có thuộc về năm 2004.
3. Ước tính mức độ hiệu quả
Một số thống kê mô tả
Bảng 1 cho thấy các cơ sở sản xuất trong khu vực phi chính thức trong
thành phố Antananarivo được đặc trưng bởi các nhà quản lí có số năm kinh
nghiệm tương đối cao (gần 10 năm kinh nghiệm chuyên môn), nhưng ít khi
tham dự đào tạo nghề (ít hơn 2% trong số họ), lao động phụ thuộc có trình
độ học vấn thấp (ít hơn hai năm học), tỉ lệ lao động hưởng lương rất thấp
(ít hơn 16% cơ sở sản xuất có lao động hưởng lương), tỉ lệ tiếp cận được tín dụng
để cấp vốn rất thấp (chỉ có 4%) và tỉ lệ tiếp cận thông tin rất cao (trên 87%).
Mặt khác, phân tích chi tiết hơn cho thấy các cơ sở sản xuất là rất không
đồng nhất. Bảng 1 cho thấy rõ ràng rằng quy mô của các cơ sở sản xuất khác
nhau đáng kể với mức độ doãng điển hình tương đối cao, cả về mức độ hiệu
suất kinh tế (đầu ra) về mức độ của các yếu tố sản xuất (đầu vào). Ngay cả
trong các ngành chính của hoạt động (công nghiệp, thương mại và dịch vụ),
vẫn còn sự chênh lệch đáng kể. Nhìn chung, các cơ sở sản xuất “dịch vụ” có
hiệu quả hơn nhiều. Các cơ sở này tạo ra giá trị trung bình khoảng 15% nhiều
hơn so với các cơ sở “thương mại” và “công nghiệp”. Sự ảnh hưởng của vốn
có thể có tác động nhất định. Thật vậy, trong ngành “dịch vụ”, mức độ trung
bình ước tính vốn vật chất cao gần gấp ba lần vốn của các cơ sở “thương mại”
hay “công nghiệp”. Điều này có thể bù đắp cho số năm kinh nghiệm chuyên
môn thấp hơn của nhân viên phụ thuộc trong ngành “dịch vụ”, trung bình
chỉ bằng hơn một nửa so với các đồng nghiệp của họ trong hai ngành kia.
NHỮNG RÀNG BUỘC VỀ KINH TẾ, THỂ CHẾ VÀ XÃ HỘI
Ngoài ra, trong các cơ sở sản xuất trong “ngành” công nghiệp các nhà qunả
lí có mức độ kinh nghiệm chuyên môn tương đối cao: năm 2004, con số này
là hơn 11 năm so với chỉ chín năm trong ngành “dịch vụ” và tám năm trong
ngành “thương mại”. Các cơ sở sản xuất trong ngành “thương mại” ít tiếp
cận các dịch vụ công cộng cơ bản tại nơi làm việc so với hai ngành kia. Nếu
chúng ta so sánh tình hình giữa năm 2004 và 2001, không có thay đổi lớn
nào được ghi nhận.
Bảng 1: Thống kê mô tả về các đặc điểm và hiệu suất kinh tế của các cơ
sở sản xuất phi chính thức tại Antananarivo vào năm 2004 và 2001
Năm
Ngành
2004
2001
Trung
bình
Khoảng
cách
Số
quan
sát
Trung
bình
Khoảng
cách
Số
quan
sát
1065
2705,57
426
759
1541,40
315
304
332,56
426
296
258,19
315
2958
10375,96
426
2166
3827,58
315
Trình độ học vấn trung bình của
nhân viên (năm)
1,7
2,96
426
2,7
3,87
315
Kinh nghiệm trung bình của nhân
viên (năm)
1,2
2,77
426
1,4
3,39
315
Trình độ học vấn của quản lí (năm)
7,1
3,44
426
7,6
3,74
315
Kinh nghiệm của quản lí (năm)
11,3
9,58
426
9,5
8,69
315
Nghề chuyên môn của quản lí
(trong công nghiệp)
0,18
0,39
426
0,17
0,38
315
Hiện diện của nhân viên (trong
công nghiệp)
0,18
0,38
426
0,23
0,42
315
Tiếp cận dịch vụ công (trong công
nghiệp)
0,45
0,50
426
0,57
0,50
315
Tiếp cận tín dụng vốn (trong công
nghiệp)
0,05
0,22
426
0,13
0,33
315
Tiếp cận thông tin (trong công
nghiệp)
0,88
0,32
426
0,82
0,38
315
Nạn nhân của tham nhũng (trong
công nghiệp)
0,03
0,18
426
0,07
0,25
315
Biến
Công
Giá trị gia tăng tháng (1000 Ariary)
nghiệp
Số giờ lao động tháng
Vốn (1000 Ariary)
175
176
KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Thương Giá trị gia tăng tháng (1000 Ariary)
mại
Số giờ lao động tháng
1038
2931,35
210
902
2012,61
248
286
199,62
210
310
216,37
248
2957
6149,40
210
2406
8530,81
248
Trình độ học vấn trung bình của
nhân viên (năm)
1,9
3,14
210
2,6
3,72
248
Kinh nghiệm trung bình của nhân
viên (năm)
1,6
4,55
210
1,5
3,05
248
Trình độ học vấn của quản lí (năm)
7,5
4,14
210
7,0
3,54
248
Kinh nghiệm của quản lí (năm)
7,7
9,58
210
5,7
6,20
248
Nghề chuyên môn của quản lí
(trong công nghiệp)
0,03
0,18
210
0,01
0,09
248
Hiện diện của nhân viên (trong
công nghiệp)
0,13
0,34
210
0,11
0,32
248
Tiếp cận dịch vụ công (trong công
nghiệp)
0,27
0,45
210
0,30
0,46
248
Tiếp cận tín dụng vốn (trong công
nghiệp)
0,02
0,14
210
0,16
0,37
248
Tiếp cận thông tin (trong công
nghiệp)
0,85
0,36
210
0,74
0,44
248
Nạn nhân của tham nhũng (trong
công nghiệp)
0,05
0,21
210
0,04
0,19
248
1204
2740,99
418
965
2608,33
361
Số giờ lao động tháng
291
349,57
418
302
335,17
361
Vốn (1000 Ariary)
8252
18861,87
418
8881
20820,98
361
Trình độ học vấn trung bình của
nhân viên (năm)
1,7
3,41
418
2,1
3,61
361
Kinh nghiệm trung bình của nhân
viên (năm)
0,8
2,11
418
0,9
2,31
361
Trình độ học vấn của quản lí (năm)
7,7
4,30
418
7,7
3,85
361
Kinh nghiệm của quản lí (năm)
8,8
8,60
418
8,1
8,46
361
Nghề chuyên môn của quản lí
(trong công nghiệp)
0,19
0,40
418
0,18
0,38
361
Hiện diện của nhân viên (trong
công nghiệp)
0,17
0,38
418
0,21
0,41
361
Tiếp cận dịch vụ công (trong công
nghiệp)
0,40
0,49
418
0,46
0,50
361
Tiếp cận tín dụng vốn (trong công
nghiệp)
0,05
0,21
418
0,18
0,38
361
Vốn (1000 Ariary)
Dịch vụ Giá trị gia tăng tháng (1000 Ariary)
NHỮNG RÀNG BUỘC VỀ KINH TẾ, THỂ CHẾ VÀ XÃ HỘI
Chung
Tiếp cận thông tin (trong công
nghiệp)
0,88
0,32
418
0,80
0,40
361
Nạn nhân của tham nhũng (trong
công nghiệp)
0,04
0,19
418
0,04
0,20
361
Giá trị gia tăng tháng (1000 Ariary)
1115
2764,15
1054
878
2133,94
924
Số giờ lao động tháng
295
317,79
1054
302
281,16
924
Vốn (1000 Ariary)
5057
14091,12
1054
4854
14281,48
924
Trình độ học vấn trung bình của
nhân viên (năm)
1,8
3,18
1054
2,4
3,73
924
Kinh nghiệm trung bình của nhân
viên (năm)
1,1
3,01
1054
1,2
2,92
924
Trình độ học vấn của quản lí (năm)
7,4
3,95
1054
7,5
3,74
924
Kinh nghiệm của quản lí (năm)
9,6
9,31
1054
7,9
8,12
924
Nghề chuyên môn của quản lí
(trong công nghiệp)
0,16
0,36
1054
0,13
0,34
924
Hiện diện của nhân viên (trong
công nghiệp)
0,16
0,37
1054
0,19
0,39
924
Tiếp cận dịch vụ công (trong công
nghiệp)
0,40
0,49
1054
0,45
0,50
924
Tiếp cận tín dụng vốn (trong công
nghiệp)
0,04
0,20
1054
0,16
0,36
924
Tiếp cận thông tin (trong công
nghiệp)
0,87
0,33
1054
0,79
0,41
924
Nạn nhân của tham nhũng (trong
công nghiệp)
0,04
0,19
1054
0,05
0,22
924
Nguồn: INSTAT-IRD/DSM/EE2001-2004, tính toán của tác giả.
Mô tả mối quan hệ giữa các yếu tố sản xuất và giá trị gia tăng
Hình 1 và 2 mô tả mối quan hệ giữa giá trị gia tăng (logarit) được tạo ra
bởi các cơ sở sản xuất phi chính thức và các yếu tố chính của sản xuất như
là số giờ làm việc (log) và số tiền ước tính của vốn vật chất (log). Chúng tôi
phân tích độ co giãn của giá trị gia tăng trong quan hệ với các yếu tố sản
xuất. Phân tích ở cấp độ này, chúng tôi sẽ tập trung nhận xét về mức độ co
giãn và hình thức của mối quan hệ giữa đầu ra và đầu vào. Chúng tôi xem
xét ba loại đơn vị theo các ngành: công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Các
đồ thị bên phải giới thiệu tình hình của năm 2004 và đồ thị bên trái của
năm 2001.
177
KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Có một số điểm nổi bật đáng chú ý. Thứ nhất, giá trị gia tăng tăng lên
khi tăng số giờ làm việc và số vốn vật chất. Thứ hai, ảnh hưởng của lao động
liên quan đến các biến giá trị gia tăng thường lớn hơn nhiều so với ảnh hưởng
của yếu tố vốn liên quan đến biến số giờ làm việc. Thứ ba, các mối quan hệ
cấp độ thứ hai (phi tuyến tính) là tương đối thấp, ngoại trừ đối với các giá trị
gia tăng và giờ làm việc vào năm 2004. Giữa giá trị gia tăng và số lượng vốn
vật chất, tồn tại mối quan hệ gần như tuyến tính. Cuối cùng, các tình huống
này không thay đổi nhiều từ năm 2001 đến năm 2004. Sự thiếu vắng hiệu
ứng về mặt thời gian này có thể gây ngạc nhiên vì trong gian đoạn này đã có
những thay đổi cơ bản trong nền kinh tế, tuy nhiên nó thể hiện chất lượng và
độ chắc chắn của dữ liệu.
Tuy nhiên, nếu chúng ta xem xét các mối quan hệ ở cấp độ các ngành
khác nhau, có thể thấy một số khác biệt đáng kể. Trong trường hợp của ngành
“công nghiệp”, độ co giãn của giá trị gia tăng đối với lượng vốn vật chất rất
thấp trong năm 2001, đã tăng nhẹ trong năm 2004 và các tác động cấp độ
thứ hai đã đảo ngược giữa hai năm: âm nhẹ trong năm 2001 và dương nhẹ
trong năm 2004. Hơn nữa, trong ngành “thương mại”, độ co giãn của giá trị
gia tăng đối với số giờ làm việc đã cao hơn vào năm 2004 so với năm 2001 và
mối quan hệ này kèm theo hiệu ứng cấp độ thứ hai lớn hơn nhiều.
Đồ thị 1: Quan hệ giữa số giờ làm (log) và giá trị gia tăng (log)
Tổng thể năm 2004
Log (giá trị gia tăng)
178
Log (giờ)
Nguồn: Tác giả.
NHỮNG RÀNG BUỘC VỀ KINH TẾ, THỂ CHẾ VÀ XÃ HỘI
Đồ thị 2: Quan hệ giữa giá trị vốn vật chất (log) và giá trị gia tăng (log)
Log (giá trị gia tăng)
Tổng thể năm 2004
Log (vốn)
Nguồn: Tác giả.
Kết quả của ước tính của các hàm sản xuất theo phương pháp hồi quy
phân vị
Bảng 2 và 3 cho thấy kết quả ước lượng hàm sản xuất theo phương pháp
hồi quy phân vị xem xét trong 10 thập phân vị từ 0,1 đến 0,9. Trong cột đầu
tiên, một mô hình tuyến tính đơn giản thông thường (OLS) ở dạng CobbDouglas được ước tính để xác định thông qua mức độ ý nghĩa thống kê của
các thông số, các biến phù hợp, và đặc biệt chứng minh lợi ích của việc tiến
hành hồi quy phân vị thông qua cung cấp sự biến thiên của các thông số dọc
theo phân phối của các cơ sở sản xuất phi chính thức, điều mà các mô hình
tuyến tính đơn giản không cho phép thực hiện.
Việc ước tính mô hình tuyến tính đơn giản (OLS) biện minh cho sự lựa
chọn của các yếu tố được đưa vào hàm sản xuất nếu chúng ta xem xét hiệu
quả bình quân của các cơ sở sản xuất phi chính thức. Nhìn chung, các hệ số
về lao động, vốn vật chất và vốn con người là có ý nghĩa thống kê và có các
dấu được dự kiến và đều có tác động tích cực đối với giá trị gia tăng. Chỉ có
biến cho thấy số năm kinh nghiệm của các công nhân phụ thuộc là không có
ý nghĩa thống kê trong việc tạo ra giá trị gia tăng. Các kết quả xác nhận một
thực tế quan sát thấy trước đây trong phân tích mô tả rằng ảnh hưởng của lao
động là quan trọng hơn nhiều so với vốn vật chất. Tuy nhiên, sự đóng góp của
vốn vật chất là đáng kể. Thật vậy, các hệ số lần lượt đạt mức 0,54 và 0,11 cho
179
180
KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
các biến “số giờ làm việc” và “lượng vốn vật chất”. Về vốn con người, chúng
ta có thể lưu ý ba điểm. Đầu tiên, các tác động là có ý nghĩa thống kê nhưng
tương đối thấp với hệ số thấp hơn 0,09. Thứ hai, chất lượng của các nhà quản
lí các cơ sở sản xuất là rất quan trọng so với chất lượng của các nhân công
phụ thuộc. Cuối cùng, kinh nghiệm chuyên môn và thực tiễn quan trọng hơn
nghiên cứu học thuật.
Các kết quả ước lượng hồi quy theo phân vị cho thấy sự biến thiên tương
đối lớn của các hệ số đối với các loại cơ sở sản xuất khác nhau tùy theo mức
độ giá trị gia tăng. Các thông số rất khác nhau giữa các loại khác nhau của
các cơ sở sản xuất tùy theo mức độ hiệu quả hiện tại. Điều này chứng tỏ
sự bất cập của các phương pháp phân tích dựa trên các mô hình tập trung
hoàn toàn vào các cơ sở sản xuất trung bình hoặc mô hình tuyến tính đơn
giản SFA. Các thay đổi trong giá trị tham số của giá trị gia tăng tính theo
giá trị thập phân vị được thể hiện trong hình 10. Tính đàn hồi của giờ làm
việc có một mức giảm tương đối lớn khi xem xét cơ sở sản xuất trong thập
phân vị giá trị gia tăng cao hơn. Con số này giảm từ 0,7 trong thập phân vị
0,1 xuống dưới 0,4 trong thập phân vị 0,9. Các giá trị của các hệ số thậm
chí nằm ngoài khoảng tin cậy (95%) của hệ số tạo ra từ mô hình tuyến tính
đơn giản cho các thập phân vị ở hai cực. Ngược lại, đối với vốn vật chất, độ
co giãn tăng lên trong các thập phân vị cao hơn nhưng xu hướng ít rõ ràng
hơn (0,07 đối với thập phân vị từ 0,1 tới 0,12 đối với thập phân vị 0,9) và
các giá trị các hệ số không vượt ra ngoài khoảng tin cậy tạo ra từ các mô
hình tuyến tính đơn giản. Hệ số có các thay đổi nhưng độ lớn tương đối nhỏ
so với các hệ số liên quan đến lao động và vốn vật chất là hệ số liên quan
đến số năm học của người đứng đầu các cơ sở sản xuất. Nó có xu hướng đi
xuống nếu chúng ta chuyển từ thập phân vị thấp nhất đến thập phân vị cao
hơn. Tuy nhiên, các giá trị của tham số ước tính vẫn còn nằm trong khoảng
tin cậy của giá trị thu được từ mô hình tuyến tính đơn giản. Đối với các biến
về vốn con người khác, các hệ số còn lại hầu như không đổi cho thập phân
vị bất kỳ và không vượt ra ngoài khoảng tin cậy của các hệ số của mô hình
tuyến tính đơn giản.
2.612***
Xây dựng
1048
0.665
-1.103***
-0.460***
0.077***
0.040
0.150***
0.020
0.071***
0.717***
0,1
1048
0.729
-0.588***
-0.246*
0.097***
-0.011
0.090**
0.044
0.084***
0.740***
0,2
0,3
1048
1.136***
-0.428***
-0.141
0.067***
0.003
0.051*
0.037
0.108***
0.716***
Nguồn: INSTAT-IRD/DSM/EE2004, tính toán của tác giả.
Ghi chú: Ý nghĩa thống kê *** ở 1%, ** ở 5% và * ở 10%
1048
-0.236**
Thương mại
Số quan sát.
-0.130
0.056***
Công nghiệp
Ngành hoạt động
Kinh nghiệm lãnh đạo (log)
0.009
0.090***
Học vấn của lãnh đạo (log)
Kinh nghiệm trung bình sử dụng
(log)
0.048**
0.105***
0.539***
OLS
Học vấn trung bình sử dụng (log)
Vốn con người
Vốn (log)
Vốn vật chất
Giờ làm việc (log)
Lao động
Biến
1048
1.640***
-0.297**
-0.083
0.058***
-0.002
0.059*
0.045*
0.112***
0.669***
0,4
Bảng 2: Ước tính hồi quy phân vị của hàm sản xuất trong năm 2004
1048
2.179***
-0.214***
-0.102
0.047***
0.001
0.058***
0.045***
0.111***
0.617***
0,5
Thập phân vị
1048
2.514***
-0.170
-0.046
0.056***
-0.009
0.057*
0.050**
0.110***
0.589***
0,6
1048
3.475***
0.060
0.006
0.038**
0.006
0.058*
0.046**
0.129***
0.453***
0,7
1048
3.835***
0.073
0.031
0.030*
0.030
0.039
0.028
0.135***
0.447***
0,8
1048
4.840***
0.114
-0.058
0.037
0.057*
0.085*
0.032
0.123***
0.378***
0,9
NHỮNG RÀNG BUỘC VỀ KINH TẾ, THỂ CHẾ VÀ XÃ HỘI
181
0.014
Kinh nghiệm trung bình sử dụng (log)
0.097
3.111***
907
Thương mại
Xây dựng
Số quan sát
907
0.384
-0.302*
-0.418***
0.102***
-0.031
0.046
0.061*
0.158***
0.619***
0,1
907
1.479***
-0.218
-0.209
0.044
-0.000
0.030
0.054*
0.115***
0.579***
0,2
Nguồn: INSTAT-IRD/DSM/EE2001, tính toán của tác giả.
Ghi chú: Mức ý nghĩa thống kê *** 1%, ** 5% et * 10%.
-0.188**
Công nghiệp
Ngành
0.059***
0.073**
Học vấn của lãnh đạo (log)
Kinh nghiệm lãnh đạo (log)
0.052**
0.135***
0.378***
OLS
Học vấn trung bình sử dụng (log)
Vốn con người
Vốn (log)
Vốn vật chất
Số giờ làm việc (log)
Lao động
Biến
907
1.916***
-0.151
-0.204*
0.060***
-0.035
0.041
0.080***
0.116***
0.534***
0,3
907
2.061***
-0.070
-0.157
0.059***
-0.029
0.069**
0.070***
0.112***
0.540***
0,4
0,5
907
2.547***
0.026
-0.147
0.051***
0.003
0.051
0.051**
0.119***
0.501***
Phân vị
Bảng 3: Ước tính bằng hồi quy phân vị đối với hàm sản xuất năm 2001
907
2.722***
0.156
-0.136
0.052***
0.007
0.076**
0.045**
0.116***
0.497***
0,6
907
3.274***
0.135
-0.134
0.039**
0.035
0.102***
0.026
0.115***
0.450***
0,7
907
4.230***
0.447***
-0.043
0.051*
0.039
0.075
0.048
0.139***
0.321***
0,8
907
5.214***
0.677***
-0.174
0.050**
0.081**
0.115*
0.029
0.153***
0.221***
0,9
182
KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
NHỮNG RÀNG BUỘC VỀ KINH TẾ, THỂ CHẾ VÀ XÃ HỘI
Hình 3: Biến thiên của các hệ số của hàm sản xuất năm 2004 và 2001
Năm 2004
1
giờ làm việc (log)
0.5
0
Năm 2001
0
0.1 0.2 0.3
0.4
0.5 0.6 0.7 0.8
0.9
1
Nguồn: Tác giả.
Mô tả hiệu quả của các cơ sở sản xuất
Mức độ hiệu quả của một cơ sở sản xuất được định nghĩa là tương quan
giữa giá trị gia tăng tính bằng tiền thực sự quan sát được và số tiền dự đoán
thông qua mô hình cho phân vị 0,9, được coi là giá trị tham chiếu của mức
hiệu quả tối đa mà một cơ sở sản xuất có cùng đặc điểm đạt được.
Hình 4 cho thấy sự phân bố của mức độ hiệu quả của các cơ sở sản xuất
phi chính thức. Sự phân bố này trải về bên trái và trông giống như hình dạng
của phân phối gamma. Kết quả cho thấy các cơ sở sản xuất phi chính thức nói
chung rất thiếu hiệu quả. Mức hiệu quả trung bình chỉ đạt 33%. Con số này có
nghĩa là tính trung bình, các cơ sở sản xuất phi chính thức chỉ sản xuất hơn
33% mức sản lượng tiềm năng, ở một mức đầu vào nhất định. Nói cách khác,
có thể cải thiện hai phần ba mức giá trị gia tăng hiện tại bằng cách áp dụng
kĩ thuật sản xuất hiệu quả hơn. Cứ bốn cơ sở sản xuất thì có chưa tới một đơn
vị đạt hiệu suất trên 50%. Đa số các cơ sở sản xuất phi chính thức đạt dưới
mức 25% mức sản lượng tiềm năng.
Các cơ sở sản xuất phi chính thức không có cải thiện hiệu quả trong ngắn
hạn. Các kết quả thu được trong năm 2001 và 2004 cho thấy không có sự
thay đổi nào trong thời gian này. Một mặt, xét về mức tuyệt đối, hiệu quả
là 33,5% vào năm 2004 và 33,8% vào năm 2001. Theo Bảng 3, các mức hiệu
quả của từng loại cơ sở sản xuất không có nhiều thay đổi đáng kể trong thời
gian này. Mặt khác, về mặt phân phối, hai đường cong của mức độ hiệu quả
183
184
KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
có hình thức gần giống nhau với các thông số giống nhau: độ lệch (skewness)
0,91 trong năm 2004 và 0,98 vào năm 2001, 2,64 năm 2004 và Kurtosis 2,75
vào năm 2001. Sự ổn định này cho thấy chất lượng của cơ sở dữ liệu được sử
dụng. Thật vậy, về nguyên tắc, hiệu quả không thay đổi nhiều trong ngắn hạn
vì nó phụ thuộc nhiều vào công nghệ sản xuất và hành vi của lực lượng lao
động và đặc biệt của lãnh đạo.
Hình 4: Phân bố các mức độ kém hiệu quả của các cơ sở sản xuất trong
năm 2004 và 2001
Năm 2004
Ước tính mật độ Kernel
2.5
2
1.5
Density
1
.5
0
0
.2
.4
.6
efficquantreg_va04
kernel = epanechnikov, bandwidth = .05
1
.8
Năm 2001
Nguồn: INSTAT-IRD/DSM/EE2001-2004, tính toán của tác giả.
Phân tích mô tả mức độ hiệu quả (Bảng 3) nhấn mạnh một số yếu tố quan
trọng có khả năng phân định sự khác biệt. Trước tiên, mức độ hiệu quả có
tương quan chặt chẽ với hiệu năng hiện tại của cơ sở sản xuất. Các cơ sở sản
xuất càng thuộc nhóm ở phía trên, thì hiệu quả càng cao. Mức độ hiệu quả tăng
từ 11% tại các đơn vị thuộc nhóm quartile (25%) thứ nhất (về giá trị gia tăng)
đến hơn 70% tại các đơn vị trong nhóm quartile thứ tư. Từ góc độ ngành công
nghiệp, tính trung bình, các cơ sở sản xuất trong ngành “thương mại” không
hiệu quả bằng các ngành “công nghiệp”, hoặc ngành “dịch vụ”. Hiệu quả trung
NHỮNG RÀNG BUỘC VỀ KINH TẾ, THỂ CHẾ VÀ XÃ HỘI
bình của hai ngành công nghiệp và dịch vụ là 34%, và chỉ đạt dưới 30% trong
ngành “thương mại”. Việc duy trì một nhân viên trong cơ sở sản xuất có mối
quan hệ dương với mức độ hiệu quả: khoảng cách về mức hiệu quả trung bình
của các cơ sở sản xuất có nhân viên được trả lương và không có nhân viên là 10
điểm. Việc lãnh đạo của cơ sở sản xuất được đào tạo nghề chính thức tạo nên
mức hiệu quả cao hơn: tăng 10% mức hiệu quả trung bình. Việc đăng kí kinh
doanh có tác động đến mức độ hiệu quả: 35% tại các cơ sở sản xuất có đăng kí
và 30% tại các cơ sở không đăng kí. Khó khăn trong tiếp cận tín dụng và mặt
bằng làm giảm hiệu quả. Các cơ sở tự nhận là có các khó khăn này có mức độ
hiệu quả thấp hơn 6 điểm. Những vấn đề liên quan đến nhu cầu hoặc khách
hàng không tác động tới mức độ hiệu quả kĩ thuật của các cơ sở sản xuất. Cuối
cùng, các cơ sở sản xuất do phụ nữ điều hành, tính trung bình, ít hiệu quả hơn
so với các cơ sở do nam giới điều hành.
Bảng 4: Mô tả về hiệu quả của các cơ sở sản xuất phi chính thức trong
năm 2004
Mức độ phi chính thức trung bình (%)
Năm
2004
2001
Công nghiệp
35,9
37,5
Thương mại
29,5
27,0
Dịch vụ
34,9
38,2
Không
30,5
31,0
Có
35,1
35,6
Không
34,2
35,1
Có
33,4
33,6
Không
32,6
33,4
Có
42,1
37,0
Không
32,5
33,4
Có
41,2
37,7
Ngành
Đăng kí
Họat động tại Antananarivo
Cơ sở có lao động trả lương
Lãnh đạo được đào tạo chính thức
185