Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

phát triển kinh tế biển ở các tỉnh vùng duyên hải nam trung bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.42 KB, 13 trang )

Trương Văn Quất , lớp D03

TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN

PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN Ở CÁC TỈNH VÙNG
DUYÊN HẢI NAM TRUNG BỘ
1. Giới thiệu chung về kinh tế biển vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ
1.1 . Khái quát lợi thế về phát triển kinh tế biển ở Việt Nam
1.1.1. Vị trí địa lý
Nước Việt Nam nằm bên bờ Tây của Biển Đông, một biển lớn, quan trọng của
khu vực và thế giới. Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 thì Việt
Nam hiện nay không chỉ có phần lục địa tương đối nhỏ hẹp “hình chữ S” mà còn có cả
vùng biển rộng lớn hơn 1 triệu km 2, gấp hơn ba lần diện tích đất liền. Bên cạnh đó,
vùng biển Việt Nam còn có nguồn tài nguyên phong phú và có tiềm năng lớn cho các
ngành kinh tế phát triển.
Dọc bờ biển có hơn 100 cảng biển, 48 vụng, vịnh và trên 112 cửa sông, cửa lạch
đổ ra biển. Vùng biển Việt Nam có hơn 3.000 đảo lớn, nhỏ với diện tích phần đất nổi
khoảng 1.636 km2, được phân bố chủ yếu ở vùng biển Đông Bắc và Tây Nam với
những đảo nổi tiếng giàu, đẹp và vị trí chiến lược như Bạch Long Vĩ, Phú quốc, Thổ
Chu, Côn Sơn, Cồn Cỏ, Phú Quý, Cát Bà, Hoàng Sa, Trường Sa...
Tuyến biển có 29 tỉnh, thành phố gồm: 124 huyện, thị xã với 612 xã, phường
(trong đó có 12 huyện đảo, 53 xã đảo) với khoảng 20 triệu người sống ở ven bờ và 17
vạn người sống ở các đảo.
Biển Việt Nam còn là vùng biển có vị trí chiến lược quan trọng bậc nhất Đông
Nam Á. Vùng biển nước ta nằm ở trung tâm vùng kinh tế Đông Á , có biên giới với 10
nước và vùng lãnh thổ và là vùng giao lưu thương mại quan trọng giữa Ấn Độ Dương
và Thái Bình Dương.
1.1.2. Kinh tế
Kinh tế biển của Việt Nam phát triển trên hai lợi thế quan trọng :
Thứ nhất là tiềm năng tự nhiên to lớn với bờ biển dài, diện tích biển thuộc chủ
quyền rộng. Khả năng tiếp cận dễ dàng đến các đại dương , có các nguồn tài nguyên


thiên nhiên giàu có như nguồn thủy sản , hệ sinh thái biển…
Thứ hai là vị thế kinh tế chiến lược đặc biệt. Biển Đông nằm trên các luồng giao
thương quốc tế biển chủ yếu của thế giới.
Tuy vậy lâu nay khi bàn đến lợi thế phát triển kinh tế biển ở Việt Nam , chúng ta
vẫn chủ yếu đề cập đến lợi thế thứ nhất nhiều hơn.
1.2.3. Chính trị
1


Trương Văn Quất , lớp D03
Một trong lợi thế lớn của việc nam đó là có một nền chính trị ổn định. Trong
thời đại hiện nay sự ổn định chính trị là một trong những yếu tố không thể thiếu , góp
phần giúp Việt Nam có thể kiên trì chính sách phát triển kinh tế.
1.2. Khái quát về vị trí địa lý và tiềm năng phát triển kinh tế vùng Duyên
Hải Nam Trung Bộ
1.2.1. Vị trí địa lý
Vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ bao gồm thành phố Đà Nẵng, các tỉnh Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận và Bình Thuận; có
diện tích tự nhiên gần 44,4 nghìn km2, số dân gần 8,9 triệu người, chiếm 13,4% diện
tích và 10,5% số dân của cả nước (năm 2006).
Thuộc về Duyên Hải Nam Trung Bộ còn có các quần đảo xa bờ là Hoàng Sa
(huyện đảo thuộc thành phố Đà Nẵng) và Trường Sa (huyện đảo thuộc tỉnh Khánh
Hoà).
Có nhiều đảo và quần đảo có tầm quan trọng về kinh tế và quốc phòng đối với
cả nước.Tài nguyên biển khá phong phú. Bờ biển khúc khuỷu dễ xây dựng các cảng
biển.
1.2.2. Tiềm năng phát triển kinh tế vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ
1.2.2.1. Tiềm năng phát triển du lịch biển đảo
Duyên Hải Nam Trung Bộ bao gồm 8 tỉnh, thành phố: Đà Nẵng, Quảng Nam,
Quảng Ngãi, B́ình Định, Phú Yên, Khánh Ḥòa, Ninh Thuận và B́ình Thuận được xác

định là vùng du lịch với đặc trưng cơ bản về du lịch biển, đảo trong Chiến lược phát
triển du lịch Việt Nam đến 2020 và tầm nh́ìn đến năm 2030. Đây là vùng có tiềm năng
to lớn về du lịch biển. Các bãi biển nơi đây có nước biển trong, xanh, sạch và ấm
quanh năm. Bãi biển dài, cát trắng, mịn và đẹp như Non Nước, Cửa Đại, Mỹ Khê, Sa
Huỳnh, Quy Nhơn, Đại Lãnh, Vân Phong, Nha Trang, Ninh Chữ, Cà Ná, Mũi Né... Với
khí hậu nhiệt đới, ôn ḥòa, nhiệt độ ấm áp quanh năm, bãi biển thoải, nền chắc và nước
trong. Những bãi biển đẹp trở thành địa chỉ lý tưởng cho loại h́ình du lịch ở đây, vì vậy
có giá trị đặc biệt đối với du lịch nghỉ dưỡng, giải trí và thể thao biển. Các đảo ven bờ
có diện tích đủ lớn và điều kiện có thể phát triển du lịch như bán đảo Sơn Trà (Đà
Nẵng), Cù Lao chàm (Quảng Nam), Lư Sơn (Quảng Ngãi), Ḥòn Tre, Ḥòn Tằm (Khánh
Ḥòa)... Gía trị cảnh quan môi trường, đa dạng sinh học và sự nguyên sơ tách biệt của
các đảo tạo sự hấp dẫn đặc biệt đối với du lịch. Mỗi ḥòn đảo đều có thể trở thành thiên
đường nghỉ dưỡng đối với khách du lịch.
Ngoài tiềm năng tự nhiên, các giá trị nhân văn gắn với văn hóa miền biển, văn
hóa Sa Huỳnh với bề dày lịch sử và truyền thống lâu đời tạo lên phong cách, lối sống
riêng của vùng này cũng tạo sức hấp dẫn diệu kỳ thu hút khách du lịch.
1.2.2.2. Tiềm năng khai thác khoáng sản ở thềm lục địa và sản xuất muối
2


Trương Văn Quất , lớp D03
Vùng thềm lục địa ở Duyên Hải Nam Trung Bộ đã được khẳng định là có dầu
khí. Hiện nay, đã tiến hành khai thác các mỏ dầu khí ở phía đông quần đảo Phú Quý
(tỉnh Bình Thuận) và với nhà máy lọc dầu Dung Quất ( Quảng Ngãi) được xây dựng
giúp cho việc phát triển kinh tế dầu khí ở Duyên Hải Nam Trung Bộ được đẩy mạnh
hơn. Việc sản xuất muối cũng rất thuận lợi. Các vùng sản xuất muối nổi tiếng là Cà Ná,
Sa Huỳnh…
1.2.2.3. Tiềm năng về vận tải biển và cảng biển
Với lợi thế địa lý, Duyên Hải Nam Trung Bộ có khả năng phát triển các cảng
biển quốc tế cũng như mở rộng giao thương đường biển.

Theo dự đoán của các chuyên gia sẽ có khoảng 2/3 số lượng hàng hóa xuất nhập
khẩu của thế giới phải đi qua cùng biển Đông trong 5-10 năm tới đây. Biển Đông sẽ thu
hút số lượng lớn các nhà kinh doanh và khách du lich di chuyển bằn tàu biển. Và với
lợi thế như thế sẽ hứa hẹn là một tiềm năng lớn cho việc phát triển vận tải biển cho
vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ.
Và không ở đâu trên đất nước ta có nhiều địa điểm thuận lợi để xây dựng cảng
nước sâu như Duyên Hải Nam Trung Bộ. Hiện tại, ở đây đã có các cảng tổng hợp lớn
do Trung ương quản lí như Đà Nắng, Quy Nhơn, Nha Trang và đang xây dựng các
cảng nước sâu như Dung Quất. Đặc biệt, ở vịnh Vân Phong sẽ hình thành cảng trung
chuyển quốc tế lớn nhất nước ta.
1.2.2.4. Tiềm năng về đánh bắt nuôi trồng và chế biển thủy hải sản
Về nguồn lợi hải sản và tài nguyên sinh vật biển, hiện nay, vùng biển Việt Nam
có khoảng 2.040 loài cá, trong đó có giá trị kinh tế cao khoảng 110 loài. Biển nước ta
có khoảng trên 1.500 loài nhiễm thể, riêng tôm có 100 loài. Rạn san hô với khoảng 350
loài thuộc 72 giống san hô. Có 15 loài cỏ biển sống trong các thảm cỏ có tổng diện tích
5.583ha.
Theo Tổng cục thống kê, sản lượng thuỷ sản năm 2013 ước tính đạt 5918,6
nghìn tấn, tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 4400 nghìn tấn, tôm đạt
704 nghìn tấn. Diện tích nuôi trồng thủy sản đạt 1037 nghìn ha. Sản lượng thuỷ sản
nuôi trồng cả năm ước tính đạt 3210 nghìn tấn, tăng 3,2% so với năm trước.
Biển miền Trung lắm tôm, cá và các hải sản khác. Tỉnh nào cũng có bãi tôm, bãi
cá, nhưng các bãi tôm, bãi cá lớn nhất là ở các tỉnh cực Nam Trung Bộ và ngư trường
Hoàng Sa - Trường Sa. Sản lượng thuỷ sản của vùng năm 2013 đã vượt 800 nghìn tấn.
Trong đó, riêng sản lượng cá biển đã là 560 nghìn tấn với nhiều loài cá quý như cá thu,
cá ngừ, cá trích, cá nục, cá hồng, cá phèn, nhiều loài tôm, mực… Bờ biển có nhiều
vụng, đầm phá thuận lợi cho nuôi trồng thuỷ sản. Việc nuôi tôm hùm, tôm sú đang
được phát triển ở nhiều tỉnh, nhát là ở Phú Yên, Khánh Hoà. Hoạt động chế biến hải
3



Trương Văn Quất , lớp D03
sản ngày càng đa dạng, phong phú, trong đó nước mắm Phan Thiết ngon nổi tiếng.
Trong tương lai, ngành thuỷ sản sẽ có vai trò lớn hơn trong việc giải quyết vấn để thực
phẩm của vùng và tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá. Tuy nhiên, vấn đề khai thác hợp lí
và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản có ý nghĩa rất cấp bách.
1.3. Thách thức phát triển kinh tế biển Duyên Hải Nam Trung Bộ
Không thể phủ nhận, Việt Nam có nhiều lợi thế hơn so với các nước trong khu
vực về kinh tế biển. Tuy thế, ngành kinh tế biển của Việt Nam vẫn còn non trẻ và phải
đối mặt với nhiều thách thức.
Một là, quy mô kinh tế biển chua tương xứng với tiềm năng, giá trị tổng sản
phẩm hàng năm còn chưa tương xứng với tiềm năng biển. So với các nước chỉ đạt bằng
1/20 Trung Quốc, 1/94 Nhật Bản, 1/7 Hàn Quốc, 1/20 Thế Giới.
Hai là, tình hình sử dụng biển và hải đảo còn thiếu bền vững do khai thác tự
phát , đa dạng sinh học biển và nguồn lợi thủy hải sản đang giảm sút khá nghiêm trọng.
Chỉ hơn 15 năm trở lại đây, diện tích các rạn san hô giảm đến gần 20%. Nguồn lợi hải
sản giảm nhanh, nhiều vùng biển ven bờ bị suy kiệt. Chất lượng nước biển có xu
hướng suy giảm, nhiều vùng ven biển bị ô nhiễm nặng.
Việc đẩy mạnh khai thác dầu khí chưa quan tâm đến việc bảo vệ môi trường nên
dễ gây nên hậu quả xấu, tác động nghiêm trọng đến nguồn tài nguyên biển.
Ba là, các ngành kinh tế liên quan trực tiếp đến kinh tế biển như chế biến
sản phẩm dầu khí, chế biến thủy hải sản, đóng và sửa chữa tàu biển, sản xuất muối biển
công nghiệp , các dịch vụ kinh tế biển và ven biển chủ yếu mới ở mức đang bắt đầu
xây dựng, hình thành và quy mô còn nhỏ.
Bốn là, chưa đảm bảo được cuộc sống cho cư dân ven biển. Đời sống của
một bộ phận dân cư ven biển, hải đảo thường xuyên gặp khó khăn, rủi ro thiên tai, mức
độ an sinh thấp.
Sự tham gia của cộng đồng địa phương vào quản lý vùng bờ còn thụ động, chưa
làm rõ vấn đề sở hữu, sử dụng đất ven biển và mặt nước biển ven bờ cho mọi người
dân.
Năm là, ngành du lịch biển vẫn chưa có những sản phẩm dịch vụ đặc sắc, có

tính cạnh tranh cao so với khu vực và quốc tế.
Sáu là, cơ sở hạ tầng cho kinh tế biển còn yếu kém. Việt Nam vẫn chưa có
đường bộ cao tốc chạy dọc theo bờ biển, nối liền các thành phố, khu kinh tế, khu công
nghiệp ven biển. Các sân bay vên biển và trên một số đảo còn bé. Khu kinh tế khu

4


Trương Văn Quất , lớp D03
công nghiệp ven biển còn đang bắt đầu xây dựng. Cơ sở nghiên cứu khoa học, quan
trắc, dự báo, cứu hộ còn thô sơ.
Bảy là, thiếu hụt nguồn nhân lực có chất lượng cao cho phát triển kinh tế
biển. Chất lượng nguồn nhân lực nhìn chung còn thấp về trình độ chuyên môn, trình độ
ngoại ngữ và kinh nghiệm quản lý khi nền kinh tế hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế
giới.
Những thách thứ nói trên của việc phát triển kinh tế biển của Việt Nam cũng
chính là những thách thức mà vùng biển duyên hai nam trung bộ phải đối mặt chứ
không còn riêng cho kinh tế biển Việt Nam nữa. Những thách thức đó sẽ tạo cho vùng
Duyên Hải Nam Trung Bộ có thêm động lực để thúc đẩy việc phát triển kinh tế biển
của vùng phát triển và phát triển kinh tế biển của vùng càng ngày lớn mạnh , góp phần
đống góp to lớn cho việc phát triển knh tế ở Việt Nam.
2. Thực trạng của các ngành kinh tế biển nổi trội của vùng biển duyên hai
nam trung bộ và mục tiêu phát triển kinh tế biển Việt Nam hiện nay
2.1. Thực trạng của các ngành kinh tế biển nổi trội của vùng biển duyên hai
nam trung bộ
2.1.1. Ngành du lịch biển đảo
2.1.1.1. Về lượng khách quốc tế và nội địa
Khách đến các tỉnh Duyên Hải Nam Trung Bộ tăng liên tục trong những năm
qua. Năm 2010 toàn vùng đón tiếp và phục vụ 2,3 triệu lượt khách quốc tế, tăng trưởng
b́nh quân 11,2% năm; 8,4 triệu lượt khách du lịch nội địa, tăng trưởng b́ình quân 18,3%

năm. Với tốc độ tăng trưởng về lượng khách trên 2 con số cho thấy sức hấp dẫn du lịch
mạnh mẽ của vùng và hoạt động du lịch đang trong giai đoạn tăng trưởng nhanh. Tuy
nhiên quy mô khách so với cả nước (16,1% khách quốc tế và 11,5% khách nội địa) cho
thấy du lịch biển, đảo vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ vẫn c̣òn khiếm tốn và trong giai
đoạn đầu tăng trưởng.
Đặc biệt, phân tích sâu hơn một bước cho thấy, độ dài lưu trú trung b́ình
(LTTB) tại mỗi tỉnh đối với khách quốc tế là 1,6 ngày, đối với khách nội địa là 1,8 ngày
và chung cho cả vùng từ 4-4,5 ngày (khách quốc tế) và 3-3,2 ngày (khách nội địa) như
vậy c̣òn thấp. Điều này cho thấy hoạt động du lịch c̣òn đơn sơ chưa đa dạng thu hút
khách lưu lại dài ngày; hệ thống dịch vụ du lịch và dịch vụ đi kèm chưa phát triển.
2.1.1.2. Về doanh thu du lịch
Năm 2010 doanh thu du lịch toàn vùng đạt trên 6,8 ngàn tỷ đồng trong đó tập
trung chủ yếu ở 3 cổng thu hút khách đường không và đường bộ (Đà Nẵng-Quảng
Nam, Khánh ḥòa, B́ình Thuận). Quảng Ngãii cũng như các tỉnh khác do vị trí xen giữa
các điểm đến lớn nên lượng khách đến c̣òn ít, doanh thu chiếm tỷ trọng nhỏ. Tuy vậy,
5


Trương Văn Quất , lớp D03
tốc độ tăng doanh thu trung b́ình 24,9%/năm trong cả giai đoạn 2005-2010 (cá biệt có
tỉnh như B́ình Thuận tỷ lệ tới 62%/năm, Quảng Nam 31,1%/năm) cho thấy sức vươn
lên mạnh mẽ và tăng trưởng nhanh của ngành kinh tế du lịch biển của vùng.
2.1.1.3. Về cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch
Thể hiện qua cơ sở lưu trú du lịch cho thấy số lượng cơ sở và buồng lưu trú
tăng nhanh trong thời gian qua 10,1% và 13,8%/năm tương ứng với tỷ lệ tăng trưởng
về khách du lịch. So với quy mô cả nước, tỷ trọng số buồng ngủ cao hơn tỷ trọng cơ sở
lưu trú cho thấy quy mô của mỗi cơ sở lưu trú lơn hơn mặt bằng chung của cả nước,
đặc biệt tỷ trọng các cơ sở cao cấp (4 và 5 sao) cao hơn hẳn mặt bằng chung. Điều này
khẳng định vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ có cơ sở vật chất có khả năng đón và phục
vụ khách du lịch cao cấp.

2.1.2. Đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản
Trong những năm qua, ngành Thủy sản đã thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
các tỉnh/thành phố trong Vùng. Tính đến hết năm 2012, giá trị sản xuất thủy sản của
Vùng đạt trên 27.337 tỷ đồng (chiếm 34% giá trị sản xuất ngành nông, lâm, thủy sản);
Tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập, góp phần xóa đói giảm nghèo; Phát triển hạ
tầng kinh tế - xã hội; Thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ; Tăng cường bảo vệ chủ
quyền biển đảo.
2.1.2.1 Đánh bắt thủy hải sản
Đánh bắt hải sản là nghề biển truyền thống có thế mạnh của vùng Duyên Hải
Nam Trung Bộ, là lực lượng nòng cốt trong việc thực hiện ba mục tiêu chiến lược phát
triển ngành thủy sản vùng, đó là: khai thác tiềm năng nguồn lợi hải sản tạo sản phẩm
cung cấp cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; tạo công ăn việc làm, thu nhập, cải
thiện đời sống ngư dân các tỉnh ven biển; đảm bảo sự hiện diện, bảo vệ chủ quyền quốc
gia trên các vùng biển.
Từ năm 1993, sau khi thuỷ sản được coi là ngành kinh tế mũi nhọn, nghề đánh
bắt thuỷ sản đã có những bước phát triển đáng kể. Tính đến hết năm 2013, toàn Vùng
có hơn 20000 tàu thuyền với tổng công suất trên 2.5 triệu CV. Trong đó, tàu đánh bắt
xa bờ (trên 90 CV) gần 8540 chiếc. Cơ cấu nghề khai thác đã thay đổi, tăng tỷ trọng
nghề lưới rê (là nghề đánh bắt các loài có giá trị kinh tế cao), giảm tỷ trọng nghề lưới
kéo (là nghề gây tổn hại nguồn lợi thủy sản). Vùng đã xây dựng các mô hình sản xuất
trên biển: lập trên 500 tổ đội đoàn kết, hơn 15 hợp tác xã nghề cá và hơn 5 nghiệp
đoàn nghề cá. Do số lượng và công suất tàu thuyền tăng, cùng với sự thay đổi cơ cấu
nghề khai thác, đặc biệt là việc xây dựng các mô hình sản xuất trên biển nên năng suất
và sản lượng khai thác của Vùng đã tăng lên, đạt xấp xỉ 450 nghìn tấn .
Sự dễ dãi tiếp cận khai thác nguồn lợi hải sản, những bất cập trong quản lý,
kiểm soát khai thác và những hạn chế về tài chính, đội tàu cá Việt Nam được đầu tư
6


Trương Văn Quất , lớp D03

phát triển theo phong trào, thiếu quy hoạch, tập trung tăng về công suất máy đẩy và
tăng về số lượng dẫn đến, sau gần vài thập kỷ tập trung khai thác, nguồn lợi hải sản đã
có những biến động đáng kể về mật độ sản lượng, chủng loài, kích thước… đặc biệt
vùng biển ven bờ, tập trung trên 70% tổng số phương tiện nghề cá, sản lượng khai thác
hằng năm chiếm từ 70 -80% tổng sản lượng hải sản của vùng. Ngư trường trọng điểm
là Ninh Thuận-Bình Thuận, những khu vực tập trung trên 25% tổng số phương tiện
nghề cá tham gia đánh bắt hàng năm, qua kết quả khảo sát, mật độ sản lượng đều giảm.
Cùng với những thay đổi về sản lượng, chủng loài hải sản cũng biến động đáng kể về
mật độ, kích cỡ và ngày càng có nhiều loài trở thành quý hiếm, có nguy cơ tuyệt
chủng. Sự thay đổi trên là nguyên nhân giảm năng suất, sản lượng khai thác của nhiều
nhóm nghề (khai thác cá nổi nhỏ ven bờ, cá đáy, câu cá rạn…), đồng thời tăng thời
gian khai thác thực tế trên biển, thời gian tìm kiếm ngư trường, chi phí, giá thành sản
phẩm…
Nghề cá biển thuộc nhóm nghề vất vả, tai nạn luôn rình rập, đặc biệt đối với
những quốc gia nằm trong khu vực thường chịu tác động của các hiện tượng thời tiết
bất thường như Việt Nam. Môi trường hoạt động khai thác hải sản rất khắc nghiệt, song
đội tàu cá lại chưa được đầu tư tương thích.
2.1.2.2. Nuôi trồng thủy hải sản
Bên cạnh đánh bắt hải sản, nuôi trồng hải sản cũng có nhiều tiềm năng và lợi
thế. Có nhiều vũng vịnh thuận lợi cho việc phát triển nuôi trồng thủy sản. Giống loài
thủy sản nuôi phong phú, đối tượng nuôi chủ yếu là tôm hùm, cá song, cá giò, cá cam,
cá hồng, cá đù đỏ, cua, ghẹ, hải sâm, bào ngư, nuôi trai lấy ngọc, nuôi ngao, nghêu,
hầu, trồng rong sụn, nuôi sứa đỏ và san hô...
Trước tình trạng nguồn lợi hải sản đang suy kiệt, ngư dân đã chuyển từ khai thác
sang nuôi trồng thủy sản ở biển với nhiều hình thức đa dạng. Nhà nước đã ban hành
các chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân thuộc các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực nuôi
trồng hải sản trên biển và hải đảo. Nhà nước phân cấp cho UBND các tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương giao, cho thuê đất và mặt nước biển cho tổ chức, cá nhân, hộ gia
đình có nhu cầu sử dụng mặt nước biển, đất trên đảo để nuôi trồng hải sản, tạo điều

kiện để nhà đầu tư tự quản lý đất mặt nước, yên tâm đầu tư phát triển sản xuất. Nhà
nước đã đầu tư và hỗ trợ đầu tư cho quy hoạch nuôi hải sản trên biển, hải đảo; cho
nhập khẩu giống gốc một số loài đặc sản sạch bệnh có giá trị kinh tế cao, quý hiếm và
kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo đòi hỏi công nghệ sản xuất cao và nuôi thương phẩm
hải sản trên biển và hải đảo; đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật; ưu tiên bố trí
kinh phí cho công tác khuyến ngư nuôi hải sản; hỗ trợ các dự án xây dựng cơ sở hạ
tầng thiết yếu của các vùng nuôi hải sản biển. Ngân hàng chính sách, các tổ chức tín
7


Trương Văn Quất , lớp D03
dụng đã đáp ứng kịp thời nhu cầu vay vốn của các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình có đủ
điều kiện vay vốn nuôi trồng hải sản trên biển và hải đảo. Các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương có nhiều biện pháp hỗ trợ lãi suất vốn vay, ưu tiên bố trí nguồn vốn
cho vay của Quỹ quốc gia về việc làm cho các dự án nuôi trồng hải sản khả thi.
Kết quả là, trong những năm qua, nuôi trồng hải sản đã phát triển khá mạnh ở
nhiều địa phương trên cả nước. Thí dụ, chỉ tính riêng hình thức nuôi lồng bè, trong giai
đoạn 2008-2012, tổng số lồng bè nuôi hải sản trên biển đã tăng lên hơn 1.9 lần. Năm
2008, tổng số lồng bè nuôi trên biển là 25.989 chiếc, trong đó số lồng nuôi tôm hùm là
21.912 chiếc, nuôi cá biển là 4077 chiếc. Năm 2013 tổng số lồng bè nuôi tôm, cá trên
biển đã tăng đến 42.300 lồng, trong đó số lồng nuôi tôm hùm là 35.020 lồng, nuôi cá là
7.280 lồng. Thủy sản nuôi trên biển có chất lượng và giá trị hàng hóa cao, có thị trường
tiêu thụ rộng mở, được khách hàng thế giới ưa thích. Vì vậy, hải sản nuôi trên biển có
đóng góp quan trọng cho xuất khẩu của nước ta. Bên cạnh nuôi trồng hải sản tiêu thụ
trong nước và xuất khẩu, nước ta cũng đã sản xuất được giống một số loài như cá giò,
cá song chấm nâu, cá sú chấm (cá Hồng Mỹ), cá vược, bào ngư, ốc hương, cua... và
chuyển giao công nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm cho nhiều địa phương phát
triển sản xuất.
Tuy nhiên, nuôi trồng hải sản hiện nay mới tập trung vào một số doanh nghiệp,
xí nghiệp liên doanh và các hộ có vốn lớn, sản xuất mang tính tự phát ở một số vùng

ven biển; còn đại bộ phận người dân ven biển chưa có sự hiểu biết và điều kiện tham
gia nuôi trồng hải sản trên biển. Việc sử dụng diện tích mặt nước biển để nuôi hải sản
chưa đáng kể, việc giao, cho thuê mặt nước biển còn nhiều bất cập, sản lượng nuôi
chưa nhiều, giống loài thủy sản tham gia sản xuất còn ít, giá trị kim ngạch xuất khẩu so
với tiềm năng hiện có còn thấp. Chính sách khuyến khích đầu tư, phát triển công nghệ
và xây dựng cơ sở hạ tầng hầu như chưa có gì đáng kể để phục vụ yêu cầu sản xuất, đã
làm hạn chế phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển và hải đảo.
2.2. Mục tiêu phát triển kinh tế biển Việt Nam hiện nay
Theo sát quan điểm về Chiến lược biển đến năm 2020, Đảng và Nhà nước ta đã
đưa ra một số mục tiêu cụ thể về phát triển kinh tế biển trong thời kỳ hiện nay như sau.
Thứ nhất, mở rộng phạm vi khai thác biển, nhằm góp phần đẩy nhanh tốc độ
tăng trưởng kinh tế biển và vùng ven biển. Mở rộng quy mô và nâng cao hơn tỷ trọng
GDP của kinh tế biển và ven biển, qua đó đưa Việt Nam trở thành nền kinh tế vững
mạnh về biển với tỷ trọng kinh tế biển đạt từ 53%-55% GDP. Xây dựng cơ cấu ngành
nghề hiện đại, phát triển công nghiệp và dịch vụ, tạo sự chuyển biến cơ bản và toàn
diện cơ cấu kinh tế biển và vùng ven biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

8


Trương Văn Quất , lớp D03
Thứ hai, nâng tỷ trọng xuất khẩu của kinh tế biển và vùng ven biển trong tổng
kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Hình thành một số ngành và sản phẩm mũi nhọn, tạo
nguồn tích lũy lớn cho nền kinh tế quốc dân, đồng thời có giá trị xuât khẩu cao và ổn
định.
Thứ ba, phát triển nhanh kinh tế - xã hội ở một số trung tâm đô thị ven biển và
hải đảo, làm căn cứ hậu cần đủ mạnh để khai thác các vùng biển khơi. Trên cơ sở đó
nâng cao mọi mặt đời sống kinh tế, văn hóa của cư dân vùng biển, giảm nhanh tỷ lệ đói
nghèo.
Theo quy hoạch, đến năm 2020 kinh tế hàng hải sẽ đứng thứ hai và sau năm

2020, sẽ đứng đầu trong 5 lĩnh vực phát triển kinh tế biển và góp phần củng cố quốc
phòng, an ninh. Riêng khu kinh tế ven biển đóng góp vào tổng GDP của cả nước
khoảng 15%-20% và tạo ra việc làm phi nông nghiệp cho khoảng 1,3 – 1,5 triệu người.
3. Một số định hướng và giải pháp thực hiện chiến lược phát triển kinh tế
biển vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ
3.1. Định hướng
3.1.1. Phát triển kinh tế biển tương xứng với vị thế và tiềm năng biển, gắn
phát triển kinh tế biển với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền biển
Việc xây dựng và phát triển kinh tế biển phải phát huy được thế mạnh đặc thù
của lợi thế về biển.
Công tác điều tra cơ bản về tài nguyên biển cần được đẩy mạnh. Phát triển kinh
tế biển phải gắn với bảo vệ môi trường biển. Phát triển khoa học - công nghệ biển; xây
dựng kết cấu hạ tầng biển gắn với việc phát triển mạnh các ngành dịch vụ; xây dựng
tuyến đường ven biển, trong đó có một số đoạn cao tốc và các tuyến vận tải cao tốc
trên biển. Hình thành một số lĩnh vực kinh tế mạnh gắn với xây dựng các trung tâm
kinh tế để ra biển, làm động lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước
Kết hợp kinh tế với quốc phòng là một yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta cần phát huy sức mạnh tổng hợp để giữ vững độc
lập, chủ quyền, quyền tài phán, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, vùng trời Tổ quốc. Kết hợp
chặt chẽ các hình thức, biện pháp đấu tranh chính trị, ngoại giao, pháp lý, kinh tế, quốc
phòng trong quản lý vùng trời, bảo vệ biển, đảo của Tổ quốc gắn với thế trận an ninh
nhân dân.
Việc xây dựng lực lượng vũ trang, nòng cốt là hải quân, không quân, cảnh sát
biển, biên phòng, dân quân tự vệ biển mạnh phải làm chỗ dựa vững chắc cho ngư dân
và các thành phần kinh tế sản xuất và khai thác tài nguyên biển.
3.1.2. Phát triển nhanh một số khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển
9


Trương Văn Quất , lớp D03

Khu kinh tế nổi bật cần tập trung phát triển của nước ta là khu kinh tế Chu Lai –
Dung Quất
Đến năm 2020, cần phải phát triển thành công, có bước đột phá về kinh tế biển,
ven biển gồm: khai thác, chế biến dầu khí; kinh tế hàng hải; khai thác và chế biến hải
sản; phát triển du lịch biển và kinh tế hải đảo; xây dựng các khu kinh tế, các khu công
nghiệp tập trung và khu chế xuất ven biển gắn với phát triển các khu đô thị ven biển.
Phát triển khu kinh tế phải gắn với quy hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa
phương và của vùng theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Lấy hiệu quả kinh tế xã hội, bảo đảm phát triển môi trường bền vững làm thước đo cao nhất, vừa hướng tới
hiện đại vừa bảo đảm sử dụng hiệu quả cả quỹ đất, mặt nước và không gian khu kinh
tế.
Tùy từng giai đoạn khác nhau mà ưu tiên phát triển các ngành kinh tế biển khác
nhau. Các nhiệm vụ quan trọng như xây dựng kế hoạch đầu tư phải có định hướng. Các
dự án, công trình nòng cốt và có tính chiến lược phải có kế hoạch rõ ràng.
3.1.3. Đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, tạo thành các trung tâm kinh tế biển
mạnh, tạo thế tiến ra biển, gắn với phát triển đa dạng các ngành dịch vụ biển
Phát triển tổng hợp kinh tế biển và ven biển, khai thác lợi thế của các khu vực
biển, hải cảng để tạo thành vùng phát triển cao, thúc đẩy các vùng khác. Xây dựng căn
cứ hậu cần ở một số đảo để tiến ra biển khơi…
3.1.4. Phát triển cảng biển, dịch vụ cảng và vận tải biển, sông biển. Phát
triển kinh tế đảo phù hợp với vị trí, tiềm năng và lợi thế của từng đảo
Tập trung cải tạo hệ thống cảng biển, trùng tu luồng tàu đảm bảo điều kiện khai
thác đồng bộ và hiệu quả cùng các cảng biển; phát triển đồng bộ mạng giao thông
đường sắt, đường bộ, đường thủy nội địa để đảm bảo kết nối cảng với các cảng cạn,
trung tâm phân phối hàng hóa, khu kinh tế, khu công nghiệp, các cảng, bến thủy nội
địa…, tạo điều kiện hàng đi, đến cảng thuận lợi, nâng cao hiệu quả khai thác cảng
Phát triển bến cảng tại các huyện đảo với quy mô phù hợp với điều kiện tự
nhiên, kinh tế - xã hội để vận tải hàng hóa, hàng khách phục vụ phát triển kinh tế - xã
hội, an ninh, quốc phòng.
Phát triển đội tàu biển Việt Nam theo hướng hiện đại, chú trọng phát triển các
loại tàu chuyên dùng (tàu container, hàng rời, dầu…) và tàu trọng tải lớn. Từng bước

trẻ hóa đội tàu biển Việt Nam đến năm 2020 đạt độ tuổi bình quân 12 năm.
3.2. Giải pháp

10


Trương Văn Quất , lớp D03
3.2.1. Tuyên truyền, giáo dục , nâng cao nhận thức toàn dân tầm quan
trọng kinh tế biển đặc biệt là trong điều kiện vừa hội nhập, vừa hợp tác, vừa cạnh
tranh như hiện nay
Nâng cao nhận thức cho toàn xã hội về chiến lược phát triển kinh tế biển gắn
với phòng ngừa, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ chủ quyền biển đảo, xem đây
là ba mặt của một vấn đề có quan hệ mật thiết với nhau.
Phương pháp, hình thức tuyên truyền, giáo dục phải đa dạng, phong phú; kết
hợp chặt chẽ giữa tiến hành thường xuyên với tuyên truyền theo chuyên đề, sự kiện,
phù hợp với từng thời điểm và sát với đối tượng tuyên truyền, giáo dục.
3.2.2. Kết hợp phát triển kinh tế với an ninh quốc phòng, bảo vệ vững chắc
chủ quyền và an ninh trên biển
Nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho lực lượng vũ trang, nhất là các đơn vị Bộ
đội Hải quân, Cảnh sát biển, Bộ đội Biên phòng, Dân quân tự vệ biển ‒ những lực
lượng đóng vai trò nòng cốt thực thi pháp luật, quản lý, bảo vệ biển, đảo. Trong đó, chú
trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ ý thức, trách nhiệm,
tình yêu quê hương, biển, đảo.
Xây dựng và phát triển kinh tế biển phải gắn chặt với nhiệm vụ quốc phòng, an
ninh bảo vệ biển; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân gắn với
phát triển kinh tế biển. Mục tiêu kết hợp kinh tế xã hội với quốc phòng an ninh nhằm
khẳng định chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ trên biển của tổ quốc; khai thác, sử dụng
nguồn lợi của quốc gia có hiệu quả để thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và
bảo vệ tổ quốc.
Tích cực khơi dậy truyền thống yêu nước của các tầng lớp nhân dân, làm cơ sở

để phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc nói
chung và bảo vệ chủ quyền biển, đảo nói riêng
3.2.3. Phát triển khoa học – công nghệ biển
Tiềm lực khoa học - công nghệ biển cần đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới,
phục vụ hiệu quả quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đẩy mạnh nghiên
cứu và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ứng dụng khoa học - công nghệ, phục vụ công
tác điều tra cơ bản, dự báo thiên tai và khai thác tài nguyên biển; nhanh chóng nâng
cao tiềm lực khoa học - công nghệ cho nghiên cứu và khai thác tài nguyên biển, đáp
ứng được yêu cầu giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Bên cạnh việc nhập khẩu các sản phẩm công nghệ từ nước ngoài hay mua bản
quyền các sản phẩm kỹ thuật đắt tiền, Việt Nam cần ủng hộ để phát triển nhiều hơn các
11


Trương Văn Quất , lớp D03
đề tài nghiên cứu khoa học kỹ thuật và hỗ trợ để ứng dụng các đề tài nghiên cứu ấy vào
trong thực tiễn tại các vùng ven biển ở nước ta. Trong đó có vùng Duyên Hải Nam
Trung Bộ.
Ngoài ra, để phát triển kinh tế biển tối ưu, các nhà nghiên cứu các đề tài khoa
học kỹ thuật cũng cần hỗ trợ vốn nhiều hơn để ứng dụng công nghệ mới hiện đại vào
các lĩnh vực khai thác khoáng sản, dầu khí, băng cháy, đóng tàu và chế biến các sản
phẩm của biển.
3.2.4. Nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của nhà nước về biển và kinh
tế biển
Chú trọng và tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý tổng
hợp biển, đảo. Hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật nhằm phục vụ quản lý tổng hợp
dải ven bờ biển, tạo nền tảng về pháp lý và tổ chức nhằm xây dựng cơ chế điều phối
hợp tác đa ngành để giải quyết đồng bộ các quan hệ khác nhau trong khai thác, sử dụng
biển, đảo cũng như triển khai có hiệu quả quản lý tổng hợp dải ven biển.
Thúc đẩy hợp tác song phương và đa phương để tăng cường năng lực quản lý

tổng hợp biển và hải đảo; tiếp tục duy trì và phát triển quan hệ với các nước và các tổ
chức quốc tế.
3.2.5. Xây dựng chiến lược bảo vệ môi trường và nguồn tài nguyên biển
Chính phủ cần có hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý và bảo vệ
môi trường biển tạo điều kiện và cơ sở pháp lý cho việc tăng cường quản lý nhà nước
về biển và hải đảo nói chung và môi trường biển nói riêng; tạo điều kiện cho việc phát
triển các ngành kinh tế biển hiệu quả và bền vững; thúc đẩy bảo vệ môi trường và sinh
thái biển.
Tăng cường quản lý và xử lý hiệu quả các chất thải, chất gây ô nhiễm trước khi
đổ ra biển từ các lưu vực sông ven biển và từ các hoạt động kinh tế biển. Tăng cường
kiểm soát và sẵn sàng ứng phó các sự cố môi trường biển, các vụ tràn dầu không rõ
nguồn gốc.
3.2.6. Đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho các
ngành kinh tế biển
Đẩy mạnh công tác thống kê, dự báo về nhu cầu nguồn nhân lực.
Tổ chức đào tạo theo ngành nghề phù hợp.
Xác định rõ tiêu chuẩn đào tạo.
Đa dạng hóa phương thức đào tạo
12


Trương Văn Quất , lớp D03

Tài liệu tham khảo :
Sách giáo khoa Địa Lí lớp 9
Sách giáo khoa Địa Lí Lớp 12
/> /> /> /> /> /> /> />
13




×