Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

NGHIÊN CỨU CẢI CÁCH GIÁO DỤC BẬC TIỂU HỌC THEO MÔ HÌNH VNEN.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.86 KB, 17 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA TÂM LÝ – GIÁO DỤC

BÀI TIỂU LUẬN
Môn: Giáo
Đề tài:

dục học đại cương

CẢI CÁCH GIÁO DỤC BẬC TIỂU HỌC
THEO MÔ HÌNH VNEN

GVHD: Bùi Văn Vân
SVTH: Giang Thị Mỹ Linh
Lớp: 13CTXH

Đà Nẵng, 06/2014

1


NỘI DUNG BÀI LÀM
• Khái niệm giáo dục
• Khái quát về chương trình VNEN
• Cơ sở lý luận
• Thực trạng
• Phương pháp tổ chức lớp học VNEN
• Thuận lợi và khó khăn gặp phải
• Đề xuất


2


LỜI MỞ ĐẦU
Muốn phát triển đất nước trước hết cần phải phát triển con người, con người là cái
gốc của xã hội.Hiện nay, trong thời kỳ hội nhập và phát triển kinh tế, bất kỳ nước nào
cũng đang chú trọng đầu tư cho đất nước, trang bị những điều kiện cấp thiết mà trong đó,
con người là yếu tố được đặt lên hàng đầu. Để đưa ra xã hội một đội ngũ nhân lực đử sức
đử tài thì việc đầu tiên là giáo dục. Từ đó cho thấy giáo dục có vai trò rất quan trọng đối
với mỗi cá nhân, với đất nước và mang ý nghĩa quốc gia. Mục đích giáo dục có quan hệ
trực tiếp đến việc phát huy sức mạnh của con người. Do đó giáo dục là vấn đề cơ bản của
chiến lược con người, là hệ thống những vấn đề then chốt trong chiến lược kinh tế - xã
hội của đất nước.
Chất lượng giáo dục là một vấn đề luôn được xã họi quan tâm vì tầm quan trọng
hàng đầu của nó đối với sự nghiệp phát triển đất nước nói chung, sự nghiệp phát triển
giáo dục nói riêng. Mọi hoạt động giáo dục được thực hiện đều nhằm mục đích góp phần
đảm bảo, nâng cao chất lượng giáo dục; và một nền giáo dục ở bất kì một quốc gia nào
bao giờ cũng phải phấn đấu để trở thành một nền giáo dục chất lượng cao. Đào tạo nên
những con người có trí tuệ, có đạo đức. Vì vậy, Những quốc gia đầu tư cho giáo dục tốt là
những nước phát triển mạnh.
Đặc biệt là đầu tư cho giáo dục bậc tiểu học. Và VNEN là một chương trình giáo
dục tiểu học đang được thử nghiệm trên phạm vi cả nước và đang cho thấy những kết quả
khả quan ban đầu, góp phần phát triển nền giáo dục nói riêng và phát triển đất nước nói
chung.

3


NỘI DUNG
I) Khái niệm giáo dục:

Giáo dục là hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội
kinh nghiệm lịch sử-Xã hội của các thế hệ loài người.
II) Chương trình VNEN: vai trò và mục đích
Nhằm đáp ứng được những yêu cầu về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục. Ngày
nay giáo dục Việt Nam đặc biệt là giáo dục ở tiểu học có sự đổi mới về phương pháp dạy
học. Một trong những định hướng của đổi mới phương pháp dạy học hiện nay là tạo điều
kiện giúp người học phát huy tính tích cực,độc lập; phát triển năng lực tự học, năng lực
tìm tòi, khám phá,sáng tạo. Mô hình trường học mới (VNEN ) là mô hình nhà trường
hướng tới việc đáp ứng yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học. Học sinh học theo tốc
độ phù hợp với trình độ nhận thức của cá nhân, nội dung học thiết thực, gắn với thực tiễn
hằng ngày của học sinh. Bộ giáo dục và đào tạo đã đưa mô hình trường học mới (VNEN)
vào giảng dạy tiểu học. đối với học sinh tiểu học các em còn nhỏ mà chương trình này rất
mới lạ. Đặc biệt là học sinh miền núi, các em ít giao lưu, ít tiếp xúc với môi trường bên
ngoài nên sau khi tiếp cận với chương trình VNEN không biết học sinh có học được
chương trình này không? Học sinh học theo chương trình này có hiệu quả không? Làm
thế nào để học sinh học tốt chương trình VNEN này?
III) Cơ sở lý luận
Đổi mới phương pháp dạy học cũng là một trong những trọng tâm của đổi mới căn
bản và toàn diện giáo dục theo Nghị quyết số 29 QĐ/TW ngày 4 tháng 11 năm 2013. Mà
hiện nay chúng ta đang thực hiện dạy học theo mô hình trường học mới tại Việt Nam
(VNEN) ở tiểu học. Dạy học theo mô hình VNEN là phát triển toàn diện con người “ Dạy
chữ - Dạy người ”
Theo tài liệu hướng dẫn giáo viên Toán 3. Một trong những định hướng của đổi mới
phương pháp dạy học hiện nay là tạo điều kiện giúp người học phát huy tính tích cực, độc
4


lập; phát huy năng lực tự học, năng lực tìm tòi, khám phá, sáng tạo. Mô hình trường học
là một trong những mô hình nhà trường hướng tới việc đáp ứng yêu cầu của đổi mới
phương pháp dạy học, thể hiện qua một số đặc điểm điểm cơ bản: học sinh học theo tốc

độ phù hợp với trình độ nhận thức của cá nhân; Nội dung học thiết thực , gắn kết với thực
tiễn đời sống hằng ngày của học sinh.
Mô hình trường học mới (VNEM ) này là nơi học sinh cùng nhau học tập để lĩnh hội
những kiến thức liên quan mật thiết đến cuộc sống của các em. Mọi hoạt động trong nhà
trường đều vì lợi ích của học sinh, do học sinh thực hiện. Do đó học sinh tham gia học tập
theo mô hình VNEN thì các em phải biết tự giác, tự quản, tự học, tự đánh giá, tự tin, tự
trọng.
IV) Thực trạng việc thực hiện chương trình VNEN ở nước ta hiện nay:
1) Những điều đã đạt được:
Đây là một mô hình học tập khá mới mẻ và chưa được áp dụng rộng rãi trên phạm vi
cả nước, mới thí điểm ở một vài trường học ở các tỉnh thành phố. Tuy nhiên, giáo viên và
học sinh đã tích cực tham gia và đem lại kết quae tốt.
Sau mỗi bài tập đọc có hệ thống câu hỏi trắc nghiệm giúp học sinh dễ dàng tìm hiểu
nội dung của bài học. Học tập mô hình VNEN giúp học sinh phát huy tính tự học, sáng
tạo, tính tự giác tự quản, sự tự tin, hứng thú trong học tập. Với phương pháp dạy học mới,
giúp các em phát huy tốt kỹ năng: Giao tiếp, hợp tác, kyc năng tự đánh giá lẫn nhau trong
học tập. Phát huy tính tích cực của học sinh thông qua kí hiệu của từng hoạt động: hoạt
động cá nhân, hoạt động cặp đôi, hoạt động nhóm, hoạt động chung cả lớp và hoạt động
với cộng đồng. Tăng khả năng thực hành, vận dụng, chú ý tích hợp với hoạt động phát
triển ngôn ngữ của học sinh thông qua các hoạt động học tập.
Đầu năm, học sinh chưa biết cách học này, chưa tự giác học tập còn rụt rè có những
em không biết cách hoạt động chỉ ngồi chơi khi nào giáo viên nhắc nhở thì các em mới
tập trung vào trong sách nhưng chẳng biết gì. Nhờ giáo viên áp dụng các phương pháp
sáng tạo mà qua một thời gian học sinh đã thực hiện khá thành thạo cách học của chương
trình VNEN. Tất cả các học sinh đều tích cực, hứng thú học tập. Đặc biệt là nhiều nhóm
trưởng có sự sáng tạo về cách điều hành nhóm, các thành viên trong nhóm biết tôn trọng,
5


giúp đỡ nhau và thực hiện các hoạt động theo chương trình VNEN có hiệu quả. Thậm chí

những em trước đây học chậm, rụt rè, không dám phát biểu trước lớp mà giờ đây các em
đã hòa nhập được với các bạn, hoạt động nhanh nhẹn hơn và còn có thể làm nhóm trưởng
nữa.
Qua kỳ họp phụ huynh thì có một số phụ nuynh nhận định rằng chương trình này rất
hay, các em biết tự giác học tập, không phải nhắc nhở nhiều, các em học tập đỡ vất vả
hơn, buổi tối về nhà không phải học nhiều mà các em vẫn hiểu bài và làm bài tập tốt.
Hiện nay việc thực hiện học tập theo mô hình trường học mới VNEN ở một số nơi
cơ bản đã đi vào nề nếp. Nếu trong lớp hôm nào đó mà chủ tịch hội đồng tự quản vắng
hoặc nhóm trưởng vắng thì bất cứ một học sinh nào cũng có thể đảm nhận nhiệm vụ thay
cho chủ tịch hội đồng tự quản hoặc nhóm trưởng để điều hành lớp học tập tốt. Chính vì
vậy mà việc học tập chương trình VNEN này của học sinh hiệu quả ngày càng được nâng
cao hơn.
2) Hạn chế:
Bên cạnh những thành tích đáng mừng thì vẫn còn một vài hạn chế đáng lưu tâm và
khắc phục.
Như đã nói ở trên, đây là một chương trình mới, nên học sinh vẫn chưa tiếp cận tốt,
nhiều học sinh vẫn chưa thực sự tự tin, tự giác học tập. Một số em học giỏi hoạt động rất
tốt, trái lại những em học chậm hơn thì lười hoạt động để mặc cho các bạn làm gì thì làm
còn mình cứ ngồi chơi hoặc nói chuyện nên việc học tập chưa có hiệu quả.
Bên cạnh đó phụ huynh còn mơ hồ về cách học này của con em mình, họ nói tôi không
biết con tôi học như thế nào? Học cái gì? …. Chính vì họ chưa hiểu được cách học theo
chương trình VNEN này nên một số phụ huynh chưa ủng hộ nhiệt tình.
V) Một số phương pháp thực hiện lớp học VNEN:
1. Tổ chức họp cha mẹ học sinh.
Tổ chức họp cha mẹ học sinh đầu năm nhằm tuyên truyền hình thức dạy học theo
mô hình VNEN này. Cho phụ huynh tiếp cận với tài liệu hướng dẫn học các môn, sau đó
mời phụ huynh tham dự một tiết học minh họa. Để phụ huynh thấy được con mình học
cái gì? Học như thế nào? Các em hoạt động ra sao? Thỉnh thoảng mời phụ huynh đến
6



tham dự một số tiết học ở lớp. Từ đó phụ huynh nhận ra rằng học tập theo chương trình
này con em họ mạnh dạn hơn, tự tin hơn, học tập tốt hơn và có nhiều mặt tích cực. Nên
phụ huynh rất hào hứng tham gia vào các hoạt động học tập của con em họ và hỗ trợ các
hoạt động ở lớp, ở trường như: trang trí lớp học, tham gia vào sơ đồ cộng đồng hoặc bầu
hội đồng tự quản của lớp.
2. Xây dựng hội đồng tự quản và thành lập nhóm, bầu nhóm trưởng.
a. Xây dựng hội đồng tự quản.
Khi tiếp cận với chương trình VNEN, về nhận lớp việc đầu tiên cần làm là phải
thành lập cho được hội đồng tự quản của lớp. Hội đồng tự quản của học sinh là cơ sở, là
nền tảng vững chắc tạo nên sự thành công về việc học tập theo mô hình VNEN. Đây cũng
là biện pháp giáo dục nhằm thúc đẩy sự phát triển đạo đức, tình cảm xã hội cho học sinh,
giúp các em phát triển lòng khoan dung, sự bình đẳng, tinh thần đoàn kết, kỹ năng hợp
tác, kỹ năng lãnh đạo….. Trong phiên họp phụ huynh giáo viên đề xuất ý kiến mời phụ
huynh tham gia cùng lớp để bầu hội đồng tự quản của học sinh lớp và phụ huynh tích cực
tham gia vào hoạt động này. Trước tiên giáo viên chủ nhiệm tuyên bố lý do cuộc họp của
lớp hôm nay là bầu hội đồng tự quản của lớp, tiếp đến tôi mời học sinh tự ứng cử chức
danh cho mình. Sau phần ứng cử, đề nghị phụ huynh và học sinh có thể đề cử thêm những
em khác vào hội đồng tự quản. Khi đã có danh sách các ứng cử viên giáo viên tổ chức cho
học sinh bầu phiếu. Học sinh cử hai bạn làm ban kiểm phiếu có sự giám sát của phụ
huynh.
Như vậy đã có được hội đồng tự quản của lớp. Giáo viên hướng các em cách giới
thiệu về bản thân, nêu những việc làm của mình để xây dựng lớp và đưa lớp đi vào nề nếp
học tập, nề nếp hoạt động tốt hơn.
b. Thành lập nhóm và bầu nhóm trưởng.
- Việc thành lập nhóm và bầu nhóm trưởng cũng là một trong những bước quan
trọng trong việc thực hiện dạy và học theo mô hình VNEN. Giáo viên tư vấn, hướng dẫn
cho hội đồng tự quản cách chia nhóm, có thể nhóm theo sở thích hoặc nhóm ngẫu nhiên,
cách bầu nhóm trưởng. Việc này giao cho hội đồng tự quản làm có sự trợ giúp của giáo
viên chủ nhiệm. Nhiều em rất hăng say, tích cực để trở thành một trong các nhóm trưởng

vì các em đã có kinh nghiệm qua tham gia bầu hội đồng tự quản.
7


Khi hoàn thiện bộ máy hội đồng tự quản và các nhóm trưởng, giáo viên hướng dẫn
cho hội đồng tự quản, các nhóm trưởng những kĩ năng cần thiết như lãnh đạo, cách điều
hành nhóm ra sao, hợp tác và lắng nghe các bạn như thế nào…… Ngoài ra giáo viên nên
thành lập câu lạc bộ “ Người lãnh đạo giỏi” để các em giao lưu, chia sẻ những kinh
nghiệm lẫn nhau.
3. Bồi dưỡng cách sử dụng tài liệu hướng dẫn học.
Đối với học sinh giáo viên nên thường xuyên chia sẻ, khuyến khích động viên
hướng dẫn tỉ mỉ cách sử dụng tài liệu hướng dẫn học. Trước tiên cho học sinh học thuộc
và nắm vững 10 bước học tập, tiếp đến chỉ cho học sinh biết các kí hiệu, lô gô trong tài
liệu hướng dẫn học. Hướng dẫn cụ thể cho học sinh cách làm việc cá nhân như thế nào,
làm việc nhóm đôi, cả nhóm hoặc hoạt động cả lớp ra sao. Từ đó các em nắm chắc chắn
các hoạt động theo lô gô. Trong lúc làm việc học sinh còn biết cách chia sẻ, hỗ trợ hoặc
lắng nghe bạn chia sẻ để cùng nhau nắm vững kiến thức của từng bài học.
4. Một số trò chơi tổ chức trong lớp.
Bên cạnh những phương pháp ở trên, khi dạy học theo chương trình VNEN, giáo
viên tìm tòi thêm những trò chơi phù hợp cho từng tiết học, môn học để gây hứng thú cho
học sinh.
+Ví dụ: môn Toán.
-Trò chơi tìm bạn:
Chuẩn bị một số thẻ số tự nhiên từ 1 đến 30 và thẻ số la mã từ 1 đến 30.
Chia lớp làm 2 nhóm, mỗi em tự chọn cho mình 1 thẻ số ( có thể chơi các số từ 1
đến 30 ,( giáo viên tùy chọn) nhưng mỗi nhóm đều mang số giống nhau).
+Người quản trò hô: tìm bạn tìm bạn.
+ Cả lớp nói: tìm bạn thế nào?
+ Người quản trò nói: tìm bạn có số bằng nhau. Như vậy là em có số tự nhiên 1 kết
đôi với bạn có số la mã I, tương tự 2 kết bạn với II….

+ Hoặc người quản trò hô: tìm bạn tìm bạn.
+ Cả lớp nêu: tìm bạn thế nào?

8


+ Người quản trò hô: tìm bạn hơn ( kém) 3 đơn vị thì em số 1 dòng số tự nhiên kết
hợp với em số IV (và ngược lại) hoặc em số 2 dòng tự nhiên kết hợp với em số V, tương
tự các em tự tính hơn kém 3 đơn vị
+ Cũng có thể em quản trò hô: tìm bạn tìm bạn.
+ Cả lớp: tìm bạn thế nào?
+ Người quản trò hô: tìm bạn có số gấp 2 lần nhau thì em có số tự nhiên là 1 và em
có số la mã là II (và ngược lại) hoặc em có số tự nhiên là 2 kết bạn với số la mã là IV…..
Tương tự như vậy có thể hơn kém nhiều ít đơn vị hay gấp mấy lần do người quản trò
điều khiển.
Bạn nào tìm bạn sai hoặc không không tìm được bạn phù hợp là thua cuộc.
Qua trò chơi nhằm giúp các em củng cố về số la mã, củng cố về bảng nhân hoặc
nhiều hơn, ít hơn.
+Ví dụ: môn Tiếng Việt.
-Trò chơi: Ai là gì? ( Ai làm gì? Ai thế nào?)
Cách chơi:
-Người quản trò hô Ai? (hoặc con gì? Cái gì? ) sau đó chỉ 1 bạn thì bạn đó trả lời
bạn Hồng ( hoặc con chó, cây bàng… ) bạn trả lời được câu hỏi đó thì hỏi bạn tiếp theo
bạn Hồng (hoặc con chó, cây bàng) là gì? Bạn được chỉ phải trả lời như Bạn Hồng là học
sinh giỏi nhất lớp.(hoặc Con chó là con vật giữ nhà.Cây bàng là cây che bóng mát)
.Tương tự như vậy đối với trò chơi Ai làm gì? Ai thế nào? Hoặc những trò chơi Ai nhân
hóa? Ai so sánh?…Bên cạnh đó tôi còn tìm tòi một số câu đố có liên quan đến môn Tiếng
Việt để củng cố kiến thức mà các em đã học.
+ Ví dụ: môn Tự nhiên xã hội.
- Tròchơi: Kể tên các bộ phận của cơ thể người.

Chia nhóm thành 2,3,4….. đội. Người quản trò nêu yêu cầu kể tên các bộ phận trong
cơ thể con người bắt đầu bằng chữ T. Các đội kể: ví dụ: tai, tay, tim…
Hoặc M, ví dụ: mắt, môi, miệng,….. giúp các em ôn lại kiến thức các bộ phận của
cơ thể người.
- Trò chơi: Kể tên các con vật, cây cối theo nhóm.

9


Ví dụ: con vật ( cây cối) có thanh huyền, thanh sắc. Hoặc kể tên con vật ( cây cối)
theo đặc điểm con 4 chân,2 chân ( cây rễ chùm, rễ cọc), nếu đội nào kể không được là
thua cuộc. Trò chơi này nhằm củng cố về động vật và cây cối….
Ngoài các trò chơi phù hợp với các tiết học, tôi còn tìm tòi một số trò chơi có tính
vui vẻ thoải mái hoặc có tính đoàn kết thân ái, nhanh nhẹn hài hước để gây hứng thú cho
học sinh.
+ Ví dụ: Trò chơi tôi thấy:
. Người quản trò hô: hôm qua tôi thấy.
. Cả lớp nói: thấy gì thấy gì?
. Quản trò nói tên của bạn nào đó và 1 sở thích hoặc 1 hành động của bạn đó
- Tôi thấy Lan ăn kẹo trong lớp.
- Lan nói không phải tôi
- Cả lớp: thế thì ai?
- Lan nói: oan cho tôi.
- Cả lớp: oan cái gì?
- Lan: khổ cho tôi.
- Cả lớp: khổ cái gì?
- Lan: vì tôi thấy Minh nói chuyện trong lớp.
Và cứ như vậy là bạn Minh tiếp tục nói hôm qua tôi thấy và cũng lặp lại như trên.
em nào nói sai không đảm bảo theo các câu trên là phạm luật.
Trong quá trình áp dụng các phương pháp trên giáo viên luôn luân phiên cho học

sinh bầu hội đồng tự quản, nhóm trưởng để em nào cũng được tham gia, trải nghiệm và
phát huy năng lực sở, trường của mình. Từ đó các em mạnh dạn hơn, thích học hơn. Đến
giờ học các em biết mình phải làm gì và bắt đầu từ đâu, biết tự giác học tập, biết hướng
dẫn, giúp đỡ bạn học và biết lắng nghe bạn trao đổi nên giờ học diễn ra sôi nổi và hiệu
quả hơn.

10


VI) Thuận lợi và khó khăn gặp phải:
* Thuận lợi:
• Thiết kế của bài học VNEN được xây dựng 3 trong 1, điều đó rất tiện cho giáo việc
và học sinh trong hoạt động dạy và học.
• Đa số kênh hình và kênh chữ roc ràng, dễ hiểu giúp học sinh tiếp cận bài học một
cách dễ dàng.
• Kiến thức giảng dạy gần với thực tế, học sinh tự do phát triển tư duy, không còn
phụ thuộc nhiều vào kiến thức sách giáo khoa.
• Chú trọng khai thác và sử dụng những kinh nghiệm của học sinh trong đời sống
hằng ngày. Gắn kết giữa nội dung dạy học với đời sống thực tiễn của học sinh, của
cộng đồng thông qua hoạt động ứng dụng của mỗi bài. Khuyến khích học sinh tích
lũy kiến thức qua gia đình, cộng đồng, rèn cho học sinh kỹ năng giải quyết các vấn
đề, các khó khăn của chính bản thân.
• Giáo viên đóng vai trò là người hướng dẫn.
• Thay đổi phương pháp dạy khiến cho học sinh hướng thú học tập làm động lực cho
giáo viên giảng dạy, tích cực hơn trong dạy học.
• Học sinh tự đánh giá được bản thân mình, giáo viên đánh giá được học sinh mình
và phụ huynh cũng có thể theo dõi tình hình học tập của con em theo từng tuần,
tháng, từng học kỳ thông qua phiếu đánh giá.
* Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi, khi dạy chương trình VNEN cũng gặp không ít khó khăn:

• Kinh phí thực hiện còn hạn chế, chưa được đầu tư kịp thời, rộng rãi. Trong cuộc
trao đổi với báo Dân Trí, Thứ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Vinh Hiển nhấn mạnh:
“Dự án của mô hình VNEN đã có kết hoạch là chỉ hỗ trợ cho 1.447 trường tiểu học
tham gia. Song do hiệu quả của mô hình này nên nhiều nơi muốn tự nhân rộng ra.
Tuy nhiên, trường nào muốn làm thêm thì phải tự lo kinh phí, dự án chỉ hỗ trợ
trong công tác tập huấn giáo viên. Có thể những trường không đủ điều kiện thực
hiện ngay các nội dung của trường học VNEN thì có thể thực hiện từng phần. Ví
dụ như có thể chỉ thực hiện phần tổ chức lớp học hoặc sử dụng bộ sách…”.
11


• Vì đây là chương trình thử nghiệm nên tài liệu vẫn còn một số điểm chưa hợp lý.
Ví dụ như: đối với môn Tiếng Việt cấu trúc (lớp 3), môn học chưa được loogic,
chương trình đi hết phân môn này tới phân môn khác còn sách thử nghiệm thì xen
kẽ nhau. Hay như trong sách, một số hình ảnh minh họa không phù hợp với nội
dung bài học.
• Yêu cầu của chương trình là học sinh lên lớp 2 phải biết đọc và viết thành thạo thì
mới tự học được, nhưng thực tế tỉ lệ học sinh yếu Tiếng Việt lại khá phổ biến ở địa
phương, chưa kể là học sinh học hòa nhập
• Học sinh vùng nông thôn giao tiếp còn hạn chế.
• Thời gian đầu không có phân phối chương trình cụ thể nên giáo viên còn lúng túng
khi dạy.
• Chuyển đổi từ phương pháp học truyền thống sang phương pháp học tích cực một
cách đột ngột, nên không khỏi gây cho giáo viên, học sinh và phụ huynh tâm lý
hoang mang, sợ học sinh không tiếp thu được kiến thức bài học, nhất là đối tượng
học sinh trung bình, yếu.
• Sách dự án không đủ cho mỗi em một bộ, lại chỉ được học trên lớp không được
mang về nhà nên học sinh không thể học bài cũ cũng như xem trước bài mới.
Không phát huy được tính cộng đồng như ý đồ của dự án.
• Kinh phí thực hiện chương trình chưa kịp thời, đồ dùng dạy học phục vụ cho

chương trình mới chưa có.
• Mô hình học nhóm suốt trong buổi học, tạo cho một bộ phận học sinh có cơ hội nói
chuyện riêng và ỷ lại vào người khác.
• Giáo viên ít có thời gian kèm cho các đối tượng học sinh yếu.
• Sách dự án chưa kịp thời đáp ứng, khiến việc học của học sinh bị gián đoạn, học
sinh học không kịp chương trình dẫn đến việc bồi dưỡng học sinh giỏi của trường,
của lớp cũng ảnh hưởng không nhỏ.

12


VII) Đề xuất:
Trên cơ sở thực trạng thực hiện chương trình giáo dục tiểu học mới (VNEN), đề
xuất một vài giải pháp khắc phục khó khăn và hoàn thiện hơn, đưa chương trình VNEN
ứng dụng rộng rãi trên phạm vi cả nước chứ không còn là chương trình thử nghiệm.
Đây là chương trình thử nghiệm, muốn có được thành công thì đề nghị bộ Giáo dục
và Đào tạo phải đầu tư ngay từ đầu về cơ sơ vật chất, hạ tầng, trang thiết bị và đồ dùng
dạy học, đâù tư tập huấn cho giáo viên tiếp cận sâu sát hơn với phương pháp dạy mới để
nắm rõ và áp dụng vào thực tiễn dạy học tốt hơn. Như hiện nay thì giáo viên cũng chưa
biết mình dạy như thế nào, còn học sinh không có sách học thì liệu dự án có thành công
không. Mặt khác trang thiết bị chưa có, giáo viên cúng chưa rút cho mình được những gì
trong kinh nghiệm thực thi dự án. Nếu năm sau đầu tư thì giáo viên cũng học lại từ đầu,
làm tốn rất nhiều công sức, thời gian và kinh phí mà vẫn không hiệu quả dẫn đến khó phổ
biến đại trà mà còn ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học.
Bên cạnh đó, kiến nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo điều chỉnh lại sách giáo khoa mới
cho hợp lý, phối hợp chặt chẽ giữa yêu cầu giảng dạy và phân môn trong sách giáo trình
cho phù hợp.
Muốn nâng cao chất lượng dạy và học đặc biệt là dạy học theo mô hình VNEN là
“Dạy chữ - Dạy người” thì đòi hỏi người giáo viên phải có lòng nhiệt tình và say mê với
công việc. Phải tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí của học sinh để biết trẻ muốn gì, trẻ cần gì

mới đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của trẻ. Từ đó các em mới tự tin, hứng thú học
tập.
Đối với chương trình này thì người giáo viên là người hướng dẫn, còn học sinh là
người thực hiện các hoạt động để tự chiếm lĩnh các kiến thức. Chính vì vậy nên người
giáo viên phải thực sự tích cực, chủ động, sáng tạo, luôn học hỏi, tìm tòi những kiến thức,
kĩ năng sống để hướng dẫn, giúp đỡ học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức và hoàn thiện bản
thân. Bên cạnh đó người giáo viên phải biết tế nhị khi nhận xét đánh giá học sinh một
hoạt dộng, một tiết học, một môn học, không được chê bai làm học sinh nhụt chí, chủ yếu
là tuyên dương, khen thưởng, động viên dù học sinh chi có một chút tiến bộ nhỏ. Có như
thế học sinh mới tự tin, ham học, hứng thú học tập chất lương ngày càng được nâng cao.

13


KẾT LUẬN
Đất nước đang trên đà phát triển, quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa ngày
càng diễn ra nhanh chóng. Đòi hỏi mỗi người trong xã hội phải thay đổi, tự hoàn thiện
bản thân để góp phần xây dựng xã hội tiến bộ, phát triển. Mà để thực hiện được điều đó
thì cần phải có giáo dục. Như vậy, một lần nữa khẳng định vai trò và tầm quan trọng của
giáo dục đối với cá nhân và đối với toàn xã hội. Do đó, nền giáo dục nước ta cần được
đầu tư hơn nữa để nâng cao chất lượng, hạn chế và tiến đến xóa bỏ những tiêu cực trong
giáo dục nước nhà. Và từ đó đưa ra xã hội một đội ngũ nhân lực đủ sức đủ tài để xây
dựng và bảo vệ tổ quốc.
Muốn đào tạo nên nhân tài phải giáo dục ngay từ thuở còn thơ, đặc biệt là khi ngồi
trên ghế nhà trường tiểu học. Vì bậc tiểu học là nền tảng cho những bậc học cao hơn về
sau. Làm nhà mà móng không vững thì nhà cao, to bao nhiêu rồi cũng sụp, con người
muốn học lên cao mà lúc tiểu học không xây cho mình một nền tảng vững chắc thì khó
học cao, khó thành tài được. Nhận định được vấn đề đó, Bộ giáo dục và đào tạo triển
khai chương trình giáo dục mới cho bập tiểu học. Chương trình VNEN đang chỉ là một
chương trình thử nghiệm nhưng bước đầu đã cho thấy những kết quả đáng mừng. Đã tạo

cho học sinh tiểu học được một môi trường học tập mới, phát huy được tính tích cực và
năng lực sáng tạo, giúp trẻ phát triển một cách toàn diện và ngày càng hoàn thiện nhân
cách. VNEN là một chương trình mang tính khả quan cao, nếu được chú trọng đầu tư hơn
chắc chắn sẽ thành công sớm hơn dự định, và đưa vào ứng dụng đại trà trên phạm vi cả
nước chứ không còn là một chương trình thử nghiệm.

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Tổ chức lớp học theo mô hình trường học mới tại Việt Nam, Nguyễn Ngọc BảoĐỗ Việt Cường, NXB Giáo dục Việt Nam, 2013.
2) Hướng dẫn sự tham gia của cộng đồng theo mô hình trường học mới tại Việt Nam,
Nguyễn Ngọc Bảo- Đỗ Việt Cường, NXB Giáo dục Việt Nam, 2013.
3) 150 trò chơi thiếu nhi, Nguyễn My Lê, NXB Giáo dục, 2005.
4) Hướng dẫn học Toán 3, Nguyễn Thị Bình, NXB Giáo dục, 2013.
5) Hướng dẫn học Tự nhiên xã hội, NXB Giáo dục, 2013.
6) Các quyết định về kiểm định chất lượng giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
7) Thông tin trao đổi của thứ trưởng Bộ Giáo dục – Nguyễn Vinh Hiển với báo Dân
trí về thực hiện mô hình trường tiểu học mới (VNEN) ở Việt Nam.

15


PHỤ LỤC
(Hình ảnh)

16


Điểm kết luận của bài thi


Chữ ký xác nhận của CB chấm thi

Bằng số

CB chấm thi 1

Bằng chữ

CB chấm thi 2

17



×