Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Vai trò của nông dân tỉnh nam định trong xây dựng nông thôn mới hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

VŨ THỊ KIM DUNG

VAI TRß CñA N¤NG D¢N TØNH NAM §ÞNH
TRONG X¢Y DùNG N¤NG TH¤N MíI HIÖN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

VŨ THỊ KIM DUNG

VAI TRß CñA N¤NG D¢N TØNH NAM §ÞNH
TRONG X¢Y DùNG N¤NG TH¤N MíI HIÖN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên nghành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60 22 85

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Phan Thanh Khôi

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn của PGS. TS. Phan Thanh Khôi.
Các số liệu, kết quả nêu ra trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách
quan, khoa học. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.

Hà Nội, ngày 02 tháng 03 năm 2016
Tác giả luận văn

Vũ Thị Kim Dung


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ NÔNG DÂN VÀ XÂY DỰNG NÔNG
THÔN MỚI Ở VIỆT NAM ................................................................................... 8
1.1. CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ QUAN
ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ NÔNG DÂN.......................................................... 8
1.1.1 Chủ nghĩa Mác - Lênin về nông dân ..................................................... 8
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về nông dân...... 12
1.2. XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM .................................... 17
1.2.1. Quan niệm về nông thôn mới ............................................................. 17
1.2.2. Tầm quan trọng của xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam .............. 20
1.2.3. Vai trò của nông dân trong xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay ... 23
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................... 29
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NÔNG DÂN TỈNH
NAM ĐỊNH TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI HIỆN NAY .............. 30
2.1. KHÁI QUÁT VỀ TỈNH NAM ĐỊNH ....................................................... 30
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội .................................... 30

2.1.2. Đặc điểm nông dân tỉnh Nam Định.................................................... 34
2.2. THÀNH TỰU PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NÔNG DÂN TỈNH NAM
ĐỊNH TRONG XÂY DỰNG NTM HIỆN NAY ............................................. 39
2.2.1. Nông dân tỉnh Nam Định là người trực tiếp tham gia phát triển kinh
tế, tổ chức sản xuất, thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ......... 40
2.2.2. Nông dân tỉnh Nam Định tham gia đóng góp sức người, sức của, góp
phần xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phục vụ sự nghiệp xây
dựng NTM .................................................................................................... 49
2.2.3. Nông dân tỉnh Nam Định trực tiếp tiếp thu, ứng dụng thành tựu khoa học
- kỹ thuật để thực hiện chủ trương cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp ...... 52


2.2.4. Nông dân tỉnh Nam Định đi đầu trong phong trào toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa mới, giữ gìn và bảo vệ môi trường sinh thái ở
nông thôn ....................................................................................................... 54
2.2.5. Nông dân tỉnh Nam Định tham gia xây dựng hệ thống chính trị ở
nông thôn, góp phần làm cho hệ thống chính trị cơ sở được củng cố và
tăng cường, vị thế chính trị của nông dân tỉnh Nam Định ngày càng được
nâng cao ........................................................................................................ 57
2.3. HẠN CHẾ TRONG VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NÔNG DÂN
TỈNH NAM ĐỊNH TRONG XÂY DỰNG NTM HIỆN NAY ........................ 58
2.3.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở Nam Định diễn ra còn
chậm, phát triển chưa vững chắc, chưa theo kịp sự biến động của thị
trường trong và ngoài nước ......................................................................... 58
2.3.2. Mô hình liên kết bốn nhà trong sản xuất nông nghiệp ở tỉnh Nam
Định chưa mang lại hiệu quả thiết thực cho người nông dân .................... 60
2.3.3. Trình độ dân trí và trình độ tay nghề của nông dân tỉnh Nam Định
chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình xây dựng NTM ................................. 61
2.3.4. Sự phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng về kinh tế ở tỉnh Nam Định
có xu hướng gia tăng .................................................................................... 62

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................... 68
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
NÔNG DÂN TỈNH NAM ĐỊNH TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
HIỆN NAY ........................................................................................................... 69
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NÔNG DÂN TỈNH
NAM ĐỊNH TRONG XÂY DỰNG NTM HIỆN NAY ................................... 69
3.1.1. Phát huy vai trò của nông dân là trách nhiệm chung của toàn xã hội
mà trước hết là sự nỗ lực của bản thân người nông dân ............................ 69
3.1.2. Phát huy vai trò của nông dân gắn với việc thực hiện những nhiệm
vụ kinh tế - xã hội của địa phương, đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH nông
nghiệp, xây dựng NTM ................................................................................ 70


3.1.3. Phát huy vai trò của nông dân gắn với phát triển khoa học công
nghệ, nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng NTM ................................................................................. 72
3.1.4. Phát huy vai trò của nông dân trong xây dựng NTM cần quan tâm
thích đáng tới lợi ích của người nông dân ................................................... 73
3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NÔNG DÂN TỈNH
NAM ĐỊNH TRONG XÂY DỰNG NTM HIỆN NAY ................................... 76
3.2.1. Nhóm giải pháp về nhận thức ............................................................ 76
3.2.2. Nhóm giải pháp về kinh tế .................................................................. 78
3.2.3. Nhóm giải pháp về những vấn đề xã hội ............................................ 84
3.2.4. Nhóm giải pháp về văn hóa ................................................................ 87
3.2.5. Nhóm giải pháp về xây dựng hệ thống chính trị cơ sở và phát huy
dân chủ ở nông thôn ..................................................................................... 89
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .................................................................................... 94
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 97
PHỤ LỤC .......................................................................................................... 102


6


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNH

:

Công nghiệp hóa

CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội

HĐH

:

Hiện đại hóa

HĐND

:

Hội đồng nhân dân


NTM

:

Nông thôn mới

UBND

:

Ủy ban nhân dân

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa

KHCN

:

Khoa học công nghệ


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1. Số lượng nông dân tỉnh Nam Định 2001 - 2010 .................................... 43
Bảng 2.2. Tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu tổng sản phẩm của tỉnh Nam Định ............. 43
Bảng 2.3. Giá trị sản xuất toàn ngành nông nghiệp từ năm 2005 - 2014 ................. 46

Bảng 2.4. Cơ cấu công nhân, nông dân trong tổng số lao động của tỉnh ................ 59


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Trước xu thế hội nhập và phát triển mạnh mẽ của thế giới, Việt Nam cũng
đang nỗ lực hết mình đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước với mục tiêu:
"Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp
tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn
sau"[24; tr. 103].
Là một quốc gia có số lượng nông dân chiếm phần lớn trong dân cư như Việt
Nam, nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn là mối quan tâm hàng đầu trong các
chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước: "Nông nghiệp, nông dân, nông thôn
có vị trí chiến lược trong sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ
sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định
chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc
và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước"[7; tr. 123-124].
Hiện nay, nghành nông nghiệp nước ta đã có bước phát triển vượt bậc, bộ
mặt nông thôn Việt Nam có sự chuyển biến tích cực, kinh tế liên tục tăng trưởng và
phát triển, đời sống của nông dân ngày càng cải thiện. Tuy nhiên, nông thôn Việt
Nam đang đứng trước những khó khăn: thiếu việc làm, lao động dư thừa, kinh tế
nông thôn chưa phát triển vững chắc, thu nhập thấp... Xuất phát từ thực tiễn đó,
trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã và đang nỗ lực đẩy mạnh sự nghiệp
CNH, HĐH nông nghiệp, xây dựng NTM, nhằm đưa nông nghiêp, nông thôn Việt
Nam lên một tầm cao mới, phục vụ đắc lực cho tiến trình đổi mới nước nhà.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, gần 30 năm qua, nông
nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được những thành tựu khá toàn diện và

to lớn. Trong giai đoạn hiện nay, xây dựng NTM được coi là nhiệm vụ chiến lược,
đặt ra nhiều vấn đề cần tập trung nỗ lực của Nhà nước và nhân dân, giải quyết

1


những vấn đề cấp bách, đồng thời tạo tiền đề cho những giai đoạn tiếp theo. Trong
toàn bộ sự nghiệp xây dựng NTM hiện nay, nông dân giữ vai trò là “chủ thể”, đây là
sự khẳng định đúng đắn, cần thiết, nhằm phát huy nhân tố con người, khơi dậy và
phát huy mọi tiềm năng của nông dân vào công cuộc xây dựng nông thôn cả về kinh
tế, văn hóa và xã hội đồng thời bảo đảm những quyền lợi chính đáng của họ.
Nam Định là một tỉnh nông nghiệp, nằm trong khu vực đồng bằng sông Hồng.
Do có sự thuận lợi về điều kiện tự nhiên và khí hậu nên nông nghiệp được xem là thế
mạnh của tỉnh. Được sự quan tâm, đầu tư của Đảng và Nhà nước, sự nỗ lực của Đảng
bộ và nhân dân địa phương, trong thời gian qua, nền kinh tế tỉnh nhà đã có sự chuyển
biến tích cực và mau lẹ. Nông nghiệp, nông dân, nông thôn tỉnh Nam Định cũng
mang màu sắc mới, đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung của
tỉnh. Hòa mình với xu thế chung của cả nước, trong những năm qua, Nam Định cũng
đã và đang tiến hành đẩy mạnh chương trình xây dựng NTM và bước đầu đạt được
những kết quả đáng ghi nhận trên các mặt của đời sống xã hội. Tuy nhiên việc phát
huy vai trò của nông dân trong xây dựng NTM ở địa phương đang đặt ra những vấn
đề thời sự cần giải quyết như: công tác vận động, tuyên truyền về chủ trương xây
dựng NTM cho người dân địa phương của các cấp chính quyền chưa được phát huy
một cách hiệu quả, nhận thức của người dân, đặc biệt là nông dân về xây dựng NTM
còn thấp, trình độ và năng lực lãnh đạo của một bộ phận cán bộ cơ sở còn hạn chế,
việc xây dựng kế hoạch, xây dựng mô hình NTM giữa các cấp, các ngành chưa thật
sự gắn kết... do đó chưa huy động được các nguồn lực đầu tư vào phát triển nông
thôn, nhất là xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn.
Xây dựng NTM là nhiệm vụ chiến lược lâu dài của cả nước, trong đó có
tỉnh Nam Định. Có thể thấy đây là một nhiệm vụ khó khăn, đòi hỏi sự chung sức,

chung lòng của toàn Đảng, toàn dân ta. Để có thể thay đổi bộ mặt nông thôn, nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho dân cư nông thôn, Nam Định cần khai thác
và phát huy tốt các tiềm năng vốn có của mình, đặc biệt là việc sử dụng các nguồn
lực con người, trong đó nông dân được coi là nguồn lực chính. Chính vì vậy: "Vai
trò của nông dân tỉnh Nam Định trong xây dựng nông thôn mới hiện nay" là
một trong những vấn đề cấp thiết đang được đặt ra, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
hết sức to lớn.

2


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Trong những năm qua, ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan
trực tiếp đến các vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông nông thôn. Mỗi công trình
nghiên cứu dưới một góc độ khác nhau, tiêu biểu như:
- Một số công trình nghiên cứu về nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt
Nam như: “Nông dân và nông thôn Việt Nam thời cận đại”, 2 tập, 1990 - 1993,
Viện khoa học – xã hội Việt Nam; “Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam 20 năm đổi
mới và phát triển”, 2006, của Đặng Kim Sơn; "Nông nghiệp, nông dân, nông thôn
Việt Nam - Hôm nay và mai sau", của Đặng Kim Sơn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2008. Những công trình trên đã làm rõ vai trò của nông nghiệp, nông dân,
nông thôn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của nước nhà qua các thời kỳ. Đồng
thời cũng chỉ ra xu hướng phát triển của tam nông trong thời kỳ phát triển mới.
- Nghiên cứu về nông nghiệp, nông thôn dưới góc độ kinh tế - xã hội có một
số công trình như: "Phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn, nông nghiệp
Việt Nam" của Chu Hữu Quý, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, "Quản lý xã
hội nông thôn nước ta hiện nay - một số vấn đề và giải pháp", của Giáo sư Phan Đại
Doãn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996; "Đổi mới kinh tế - xã hội nông thôn,
định hướng và những giải pháp thực tiễn", Tạp chí khoa học và dự báo, tháng
6/1993. Công trình "Hoạt động khuyến nông Việt Nam - Ý nghĩa chính trị xã hội",

PGS. TS Phan Thanh Khôi (chủ biên), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006. Thông
qua việc nghiên cứu hoạt động của tổ chức khuyến nông Việt Nam, tác giả đã chỉ ra
vai trò và tác động của hoạt động khuyến nông đến nông nghiệp, nông thôn và nông
dân trên cả lĩnh vực kinh tế, chính trị và văn hóa, xã hội.
- Nghiên cứu về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn có
các công trình như: "Nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện
đại hóa", PTS Đặng Thọ Xương (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997;
"Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam - Con đường
và bước đi" của Nguyễn Kế Tuấn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006; " Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với phát triển du lịch bền
vững" của tác giả Nguyễn Thế Toàn, Tạp Chí cộng sản, tháng 6/ 2007; Con đường
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn VIệt Nam, Ban Tư tưởng –

3


Văn hóa TW – Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Nxb Chính trị quốc gia,
hà Nội, 2002. Các công trình nêu trên đã đánh giá thực trạng của vấn đề tam nông ở
nước ta hiện nay. Đồng thời chỉ ra tính tất yếu khách quan và những vấn đề đặt ra
cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam.
- Một số công trình và bài báo đề cập tới các biện pháp, cơ chế chính sách
nhằm phát huy vai trò của nông dân trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn như: “Công tác vận động nông dân trong thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá” (1999) của Hội Nông dân Việt Nam; “Một số
vấn đề về công tác vận động nông dân ở nước ta hiện nay” (2000) của Ban dân vận
Trung ương.
- Một số công trình lại đi sâu vào nghiên cứu đặc điểm, tâm lý, ý thức, xu
hướng biến đổi của giai cấp nông dân như: “Tâm lý nông dân đồng bằng Bắc bộ
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn hiện nay”
(1999) của Lê Hữu Xanh; "Đặc điểm tâm lý nông dân đồng bằng Bắc Bộ và sự tác

động của nó đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ nước ta" của tác giả Lê Kim Việt - Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1998; " Quan hệ cộng đồng và cá nhân trong tâm lý nông dân"
của tác giả Đỗ Long - Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000.
- Một số công trình khoa học của tập thể:
+ ‘Vấn đề phát triển công nghiệp nông thôn ở nước ta”, Viện nghiên cứu
chiến lược và Chính sách khoa học - công nghệ - Trung tâm hỗ trợ khoa học và
công nghệ phát triển nông thôn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997.
- Tài liệu tập huấn: “Phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (tập I và tập II), Hội khoa học kinh tế Việt Nam
– Ban đào tạo và phổ biến kiến thức, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998.
- Một số luận án tiến sĩ, thạc sĩ:
+ Luận án tiến sĩ triết học: “Đặc điểm và xu hướng biến đổi của giai cấp
nông dân nước ta trong giai đoạn hiện nay” của Bùi Thị Thanh Hương, hà Nội,
2000. Luận án nghiên cứu xu hướng vận động, biến đổi của nông dân, phân tích
những đặc điểm của giai cấp nông dân nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.

4


+ Luận văn thạc sĩ Triết học: "Vai trò của nông dân tỉnh Thái Bình trong
công cuộc đổi mới đất nước hiện nay" của Mai Thị Mến, Hµ Néi, 2010. Tác giả
đã phân tích quan điểm của Đảng ta về vai trò của nông dân và nghiên cứu đánh
giá thực trạng vai trò của nông dân Thái Bình trong công cuộc đổi mới đất nước.
Tren cơ sở đó đưa ra một số quan điểm, giải pháp nâng cao vai trò của người
nông dân Thái Bình.
+ Luận văn thạc sĩ triết học: “Phát huy tiềm năng của nông dân tỉnh An
Giang trong việc xây dựng nông thôn mới hiện nay”, Trần Hùng Điệp, Hà Nội,
1997; "Vai trò của nông dân Bạc Liêu trong xây dựng nông thôn mới hiện nay"

của Diệp Kiều Trang, Hà Nội, 2011. Các công trình này đã phân tích những tiềm
năng và vai trò của người nông dân tỉnh mình từ đó đề xuất những giải pháp
nhằm phát huy vai trò của họ trong xây dựng nông thôn mới nói riêng và trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung.
+ Nghiên cứu về nông dân Nam Định có công trình: "Liên minh giữa công
nhân với nông dân và trí thức ở tỉnh Nam Định trong thời kỳ hội nhập", Luận
văn thạc sĩ của Phan Thị Diễm, Hà Nội, 2010.
Các công trình nghiên cứu dù đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau, góp
phần làm sáng tỏ thực trạng và giải pháp nhằm phát huy vai trò của nông dân, thay
đổi bộ mặt nông thôn Việt Nam… Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu cụ
thể về vai trò của người nông dân tỉnh Nam Định trong xây dựng NTM hiện nay.
Những sách, báo, tài liệu viết về người nông dân Nam Định cũng như vai trò của họ
thì rất ít. Vì vậy, công trình nghiên cứu này là sự cố gắng của tác giả nhằm đem sự
hiểu biết về mặt lý luận của mình vào nghiên cứu thực tiễn với mong muốn đóng
góp một phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp kiến thiết tỉnh nhà.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu, đánh giá thực trạng, làm sáng tỏ vai trò, đóng góp của
nông dân tỉnh Nam Định trong xây dựng NTM hiện nay, từ đó đề xuất một số giải
pháp cơ bản nhằm tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò của nông dân Nam Định trong
xây dựng NTM ở tỉnh hiện nay

5


* Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là, nghiên cứu, làm rõ các quan niệm về NTM, về vai trò của nông dân
trong xây dựng NTM hiện nay ở nước ta.
Hai là, nghiên cứu những đặc điểm và vai trò của nông dân tỉnh Nam Định
với tư cách là chủ thể trong xây dựng NTM ở Nam Định hiện nay; chỉ rõ những

thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của nó.
Ba là, đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai
trò của nông dân tỉnh Nam Định trong xây dựng NTM hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
* Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên những quan điểm, lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam để
nghiên cứu những vấn đề lý luận và luận giải những vấn đề thực tiễn có liên quan
của đề tài. Bên cạnh đó, luận văn còn kế thừa những kết quả nghiên cứu của các
công trình khoa học có liên quan đến đề tài trong những năm gần đây.
* Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp chủ yếu được sử dụng trong luận văn là phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với phương
pháp phân tích và tổng hợp, logíc và lịch sử.
Trong quá trình nghiên cứu luận văn còn sử dụng một số phương pháp như
khái quát hoá, so sánh, thống kê để làm rõ những luận điểm của đề tài.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu vai trò và những đóng góp về vật chất lẫn tinh
thần của nông dân tỉnh Nam Định trong xây dựng NTM ở tỉnh hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu:
Về thời gian, luận văn chỉ đi sâu nghiên cứu vai trò của nông dân tỉnh Nam
Định trong xây dựng NTM từ 2001 đến nay. Về không gian, luận văn nghiên cứu ở
cấp độ tỉnh (địa bàn tỉnh Nam Định).

6


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
* Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần nâng cao nhận thức của Đảng Bộ, chính quyền và

nhân dân tỉnh Nam Định về vai trò của nông dân. Từ đó góp phần gợi mở cho
Đảng Bộ và chính quyền tỉnh Nam Định trong việc hoàn thiện các chủ trương
chính sách về vấn đề nông dân, về quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, xây dựng
NTM trên địa bàn tỉnh Nam Định.
* Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể làm luận cứ khoa học cho các chủ trương, chính sách
của Đảng Đảng bộ, Chính quyền tỉnh Nam Định nhằm phát huy tốt hơn nũa vai
trò của người nông trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện thắng lợi
sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, xây dựng NTM ở tỉnh. Luận văn còn có thể
dùng làm tài liệu tham khảo trong công tác giảng dạy và nghiên cứu các vấn đề
về nông dân, nông nghiệp, nông thôn và các vấn đề liên quan.
7. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn chỉ ra một cách hệ thống những đặc điểm cơ bản và vai trò của
nông dân tỉnh Nam Định trong xây dựng NTM ở tỉnh hiện nay. Qua đó đề xuất một
số phương hướng và giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của nông dân tỉnh
Nam Định trong xây dựng NTM hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn gồm
3 chương, với 7 tiết.

7


Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ NÔNG DÂN
VÀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM
1.1. CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ NÔNG DÂN
1.1.1 Chủ nghĩa Mác - Lênin về nông dân
Trong lịch sử nhân loại, nông dân là giai cấp được hình thành từ rất sớm và tồn

tại cùng với sự phát triển của nhiều chế độ xã hội khác nhau. Ở mỗi giai đoạn lịch sử
nhất định, bản chất xã hội và địa vị của nông dân là do phương thức sản xuất thống trị
xã hội quy định. Từ thời cổ đại cho tời ngày nay đã có rất nhiều quan niệm về nông dân
được đưa ra, song lý luận về nông dân chỉ thực sự hình thành và mang tính cách mạng
từ những năm 40 của thế kỷ XIX trong học thuyết Mác và sau này được bổ sung, phát
triển bằng những đóng góp quan trọng của V.I.Lênin. Trên cơ sở kế thừa quan điểm
của các nhà tư tưởng trong lịch sử và quá trình nghiên cứu, tổng kết thực tiễn phong
trào cách mạng thế giới, C.Mác, Ph.Ănghen và V.I.Lênin đã xây dựng một hệ thống
các quan điểm khoa học về giai cấp nông dân.
* Về định nghĩa nông dân
"Nông dân là giai cấp những người tiểu nông"[38; tr.149-150]. "Tiểu nông
mà chúng ta nói tới ở đây là chỉ người chủ ruộng đất hoặc người tá điền và nhất là
người chủ một mảnh ruộng không lớn hơn mảnh ruộng cần thiết để nuôi gia đình
họ... người tiểu nông này là người lao động, anh ta khác với người lao động vô sản
hiện đại ở chỗ anh ta còn có tư liệu lao động, như vậy, anh ta là tàn dư của một
phương thức sản xuất lỗi thời"[38; tr.11,12). "Tiểu nông là một khối quần chúng
rộng lớn mà tất cả các thành viên đều sống trong một hoàn cảnh như nhau. Phương
thức sản xuất của họ không làm cho họ liên hệ với nhau mà lại làm cho họ tách rời
nhau"[38, tr.527-528].
Như vậy, nông dân là giai cấp những người lao động sống ở nông thôn, tham
gia lao động sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, trực tiếp
sử dụng các tư liệu sản xuất cơ bản và đặc thù, gắn với thiên nhiên là đất, rừng,

8


biển, để sản xuất ra nông sản; bản chất xã hội và địa vị của nông dân là do phương
thức sản xuất thống trị quy định và được thay đổi cùng với sự thay đổi của hình thái
kinh tế - xã hội.
* Về nguồn gốc của nông dân

Nông dân là một giai cấp xã hội đặc biệt, hình thành trong quá trình tan rã
của chế độ công xã nguyên thủy và quá trình phát triển của chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất, tồn tại cho tới khi xây dựng xong chủ nghĩa cộng sản[36; tr.227].
Trong các hình thái kinh tế - xã hội tiền tư bản chủ nghĩa, nông dân bao gồm
những người sản xuất nông nghiệp phân tán và chủ yếu là những người sản xuất
nhỏ. Trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản, nông dân với tính cách là một tầng lớp
tiểu tư hữu - sản xuất hàng hóa, một bộ phận của tiểu tư sản, tất yếu ngày càng bị
phân hóa. Nông dân phân hóa thành ba nhóm khác nhau xét theo địa vị giai cấp của
họ: tiểu nông (bần nông, cố nông); trung nông và tư sản nông nghiệp. Việc tích tụ
sản xuất tư bản chủ nghĩa và việc tăng cường tước đoạt dẫn tới chỗ làm xói mòn
tầng lớp trung nông. Do địa vị kinh tế - xã hội của mình, nông dân phải đi theo hoặc
là công nhân, hoặc là tư sản. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, do lợi ích của nông dân
và những người công nhân về cơ bản là giống nhau nên tạo điều kiện để thực hiện
liên minh giữa hai giai cấp này.
Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, khi nông dân bị khổ cực vì sự bóc lột ngày
càng tăng của các tổ chức độc quyền, vì sưu thuế ngày càng cao, vì món nợ nô dịch
đối với các ngân hàng, nông dân trở thành đồng minh của giai cấp công nhân trong
cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản độc quyền. Ở những nước mà phong trào giải
phóng dân tộc đang phát triển thì nông dân là động lực có tính quần chúng nhất
trong phong trào đó[36; tr.228].
* Về đặc điểm của nông dân
Một là, nông dân vừa là những người lao động, vừa là những người tư hữu
nhỏ. Mặc dù khác nhau về trình độ, địa vị kinh tế và lợi ích, nhưng giữa họ có một
điểm chung là đều sinh sống bằng cách làm thuê cho các giai cấp bóc lột ở nông
thôn hoặc là tồn tại bằng chính lao động của bản thân mình với những điều kiện sẵn
có về tư liệu sản xuất chứ không sống bằng việc bóc lột lao động của người khác.

9



Lao động đó có thể đủ nuôi sống gia đình và đáp ứng nhu cầu sản xuất của họ; thậm
chí với trung nông thì lao động đó có thể tạo ra sản phẩm dư thừa để tích lũy. "Giai
cấp đó, một mặt là người tư hữu, mặt khác lại là người lao động. Nó không bóc lột
những người lao động khác".
Hai là, nông dân không có hệ tư tưởng độc lập. Tư tưởng của họ luôn dao
động, đầy tính thực tế và phụ thuộc rất lớn vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị.
Nông dân sẵn sàng tin và đi theo giai cấp nào mang lại lợi ích cho họ. Đây được
xem là một đặc điểm quan trọng của nông dân trong bất kỳ giai đoạn nào. Với bản
chất tư hữu và thái độ dao động, ngả nghiêng, người nông dân không dễ dàng và
ngay tức khắc tin theo, ủng hộ giai cấp vô sản được. Lênin viết: " Nông dân sẽ
không tin bất cứ một lời nói nào, bất cứ một cương lĩnh nào... nông dân chỉ tin vào
hành động, vào kinh nghiệm thực tiễn"[39; tr.443]. Chính vì đặc điểm này của nông
dân mà V.I.Lênin yêu cầu những người cộng sản, bất luận thế nào cũng không thể
dùng bạo lực để ép những người nông dân đi theo mình mà phải cương quyết xây
dựng mối quan hệ hòa thuận với họ.
Ba là, cơ cấu giai cấp nông dân luôn có sự biến đổi mạnh mẽ cùng với sự
biến đổi của cơ cấu kinh tế. Trước cách mạng XHCN, do sự tác động của cơ chế
kinh tế hàng hóa và nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, cơ cấu giai cấp nông dân có sự
biến đổi mạnh mẽ. Một phần trong số họ gia nhập vào giai cấp bóc lột ở nông thôn,
một phần lớn trở thành những người lao động làm thuê. Điển hình trong đó là tầng
lớp trung nông. Tầng lớp này có thể do điều kiện vốn có của mình mà phát triển trở
thành những người bóc lột sức lao động của người khác, nhưng cũng có không ít
trung nông không chịu nổi sự cạnh tranh, bị phá sản và phải tham gia vào đội quân
lao động làm thuê.
Cách mạng vô sản thành công đã xóa bỏ sự áp bức, bóc lột giai cấp, xóa
bỏ sự thống trị của bọn địa chủ đối với nông dân nhưng cũng chính điều kiện
đó lại giúp người nông dân thiết lập cơ sở để trở thành tiểu chủ. Chính vì lẽ đó
mà nông dân còn có cơ sở tồn tại lâu dài, cho dù cách mạng vô sản đã thành
công. Lênin cho rằng: nếu ai đó nghĩ tới việc có thể nhanh chóng xóa bỏ được
giai cấp nông dân trong một thời gian ngắn thì người đó là những người viển

vông, không tưởng.

10


Bốn là, nông dân tất yếu sẽ đi theo giai cấp vô sản, ủng hộ giai cấp vô sản
tiến hành thắng lợi cách mạng XHCN. Trong xã hội có áp bức, bóc lột, nông dân là
giai cấp bị áp bức, bóc lột một cách nặng nề, bị giam hãm và phải sống trong những
điều kiện thấp kém. Vì vậy, để thay đổi cuộc sống của mình, nông dân chỉ có thể
ủng hộ và đi theo con đường cách mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo nhằm xóa bỏ
tầng lớp địa chủ và giai cấp tư sản. V.I.Lênin khẳng định: "Do địa vị kinh tế của
mình trong xã hội tư sản, nông dân nhất định phải đi theo hoặc công nhân, hoặc giai
cấp tư sản. Không có con đường Trung gian"[39; tr.438]. Một khi nông dân đã hoàn
toàn tin tưởng vào giai cấp vô sản thì họ sẽ hết lòng đi theo và phục vụ cho sứ mệnh
lịch sử của giai cấp vô sản và khi đó, cách mạng nhất định thành công.
* Về vai trò của nông dân trong cách mạng XHCN
Thứ nhất, nông dân là lực lượng cách mạng cơ bản trong đấu tranh giành
chính quyền nhà nước
V.I.Lênin đã chỉ rõ một trong những điều kiện để giai cấp công nhân giữ
vững được vai trò lãnh đạo và hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình là giai cấp công
nhân phải được sự ủng hộ của nông dân. Chỉ có sức mạnh của sự liên minh giai cấp
giữa công nhân và nông dân, giai cấp công nhân mới có cơ sở để thực hiện thắng lợi
cuộc đấu tranh cách mạng nhằm lật đổ giai cấp tư sản thống trị và các thế lực phản
động khác, giành lấy chính quyền về tay giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân
dân lao động.
Thứ hai, cùng với giai cấp công nhân, nông dân có vai trò quan trọng trong
sự nghiệp xây dựng xã hội mới
Vai trò của người nông dân không chỉ ở giai đoạn giành chính quyền mà còn
có ý nghĩa hết sức to lớn trong quá trình gìn giữ chính quyền và xây dựng xã hội
mới. Cách mạng XHCN muốn thắng lợi, theo V.I.Lênin cần có hai điều kiện: Một

là điều kiện bên ngoài - sự ủng hộ kịp thời của một cuộc cách mạng XHCN ở một
hay nhiều nước tiên tiến; Hai là điều kiện bên trong - liên minh công - nông. Trong
đó, điều kiện bên trong là bắt buộc, có ý nghĩa quyết định sự thắng lợi của cách
mạng. Giai cấp công nhân phải liên minh với nông dân, kéo nông dân ra khỏi ảnh
hưởng của giai cấp tư sản, giải phóng họ khỏi ách áp bức, bóc lột của giai cấp tư

11


sản, làm cho họ đứng về phía mình để cùng nhau chiến thắng bọn bóc lột, có như
vậy mới giữ được chính quyền. V.I.Lênin đã luận chứng tính tất yếu của liên minh
công - nông mà trước hết là liên minh về kinh tế, coi đó là nhân tố quyết định thắng
lợi của cuộc cách mạng XHCN ở nước Nga.
Thứ ba, nông dân cung cấp sản phẩm nông nghiệp để đảm bảo nhu cầu của
xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, đồng thời góp phần khôi phục và phát triển nền
đại công nghiệp, tạo cơ sở vững chắc để giai cấp công nhân từng bước xây dựng và
phát triển nền kinh tế mới cũng như các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về nông dân
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nông dân
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề nông dân chiếm một vị trí đặc
biệt. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những kiến giải sáng tạo, đặc sắc, có tác dụng chỉ
đạo lâu dài đối với cách mạng Việt Nam. Ở một đất nước mà nông dân chiếm hơn
90% trong cộng đồng dân tộc như nước ta, theo Người, giải phóng dân tộc khỏi ách
thực dân đế quốc thực chất là giải phóng nông dân. Chỉ khi giai cấp nông dân được
giác ngộ, đi theo Đảng thì sự nghiệp giải phóng dân tộc mới thực sự có lực lượng,
mới có điều kiện thành công. Theo Hồ Chí Minh, nông dân Việt Nam không chỉ là
đối tượng giải phóng mà còn là động lực, là gốc của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí
Minh tin tưởng nông dân đã anh dũng trong cách mạng, trong kháng chiến thì trong
thời kỳ quá độ lên CNXH họ sẽ vẫn tiếp tục phát huy truyền thống đó.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã xác

định cần phải thu hút đại bộ phận giai cấp nông dân vào sự nghiệp đấu tranh cách
mạng do Đảng lãnh đạo. Tại Hội nghị Quốc tế Nông dân lần thứ nhất (1923), Người
nói rõ: “Tôi phải nhắc lại với các đồng chí rằng Quốc tế của các đồng chí chỉ trở
thành một quốc tế thật sự khi mà không những nông dân phương Tây, mà cả nông
dân ở phương Đông, nhất là nông dân ở các thuộc địa là những người bị bóc lột và
bị áp bức nhiều hơn các đồng chí, đều tham gia Quốc tế"[42; tr.212]. Năm 1927,
Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người còn nêu ra: “Bây giờ tư bản lại đi áp bức
công nông, cho nên công nông là người chủ cách mệnh. 1. Là vì công nông bị áp
bức nặng hơn. 2. Là vì công nông là đông nhất cho nên sức mạnh hơn hết. 3. Là vì

12


công nông là người tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu
được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc”. Vì những cớ ấy, nên công nông là
gốc cách mệnh”[43; tr.266].
Hồ Chí Minh xem giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất của phong
trào dân tộc, là cơ sở cho các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, gắn bó máu thịt với
giai cấp công nhân, chịu áp bức bởi thực dân Pháp và tay sai, sẵn sàng đứng lên
cùng công nhân trong cuộc cách mạng vô sản đang phát triển. Trong Sách lược cách
mạng của Đảng, Người viết: "Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và
phải dựa vào dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng, đánh trúc bọn đại địa chủ và
phong kiến. Đảng phải làm cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày (công hội, hợp
tác xã) khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia. Đảng phải hết
sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông".
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề nông dân trong cách mạng, đồng thời
Người cũng rất coi trọng nông nghiệp. Người viết: “Việt Nam là một nước sống về
nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng
nước nhà, Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một
phần lớn. Nông dân ta giàu thì ta nước giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta

thịnh”[44; tr.215]. Tổng kết quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh đã khẳng
định: "Trải qua các thời kỳ, Đảng ta đã nắm vững và giải quyết đúng đắn vấn đề
nông dân, củng cố được liên minh công nông. Đảng ta đấu tranh chống những xu
hướng "hữu khuynh" và "tả khuynh" đánh giá thấp vai trò của nông dân là quân chủ
lực của cách mạng, là bạn đồng minh chủ yếu và tin cậy nhất của giai cấp công
nhân, là lực lượng cơ bản cùng với giai cấp công nhân xây dựng CNXH".
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, nông dân là cộng đồng những người lao động,
sản xuất nhỏ trong nông nghiệp gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp, đều có đặc điểm
chung là người lao động - nhân tố chủ yếu của lực lượng sản xuất và là người tư
hữu nhỏ. Từ những đặc điểm chung của nông dân, Hồ Chí Minh đã đứng trên lập
trường mácxít để nhấn mạnh hơn tính cách mạng, tính tích cực của người nông dân
Việt Nam. Hồ Chí Minh không quan niệm sức mạnh chung chung của nông dân mà
thấy rõ sức mạnh đó khi đặt nó trong hệ thống tổ chức của cách mạng. Hồ Chí Minh

13


đánh giá rất cao nông dân với tư cách là lực lượng cách mạng khi được tổ chức lại.
Đây là quan điểm thống nhất với những nguyên lý mácxít về vai trò của quần chúng
trong cách mạng. Vấn đề giải phóng dân tộc, theo Hố Chí Minh, thực chất là vấn đề
giải phóng nông dân, vì nông dân chiếm đại đa số trong dân cư, nông dân gắn bó
với cội nguồn dân tộc, có ý thức dân tộc sâu sắc. Các truyền thống dân tộc in dấu
đậm nét trong nông dân và cũng được bộc lộ qua nông dân như tinh thần yêu nước
nồng nàn, đức tính cần cù, chăm chỉ, đoàn kết, hiệp tác trong lao động sản xuất. Hệ
thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và về vấn đề nông dân, nông nghiệp
nói riêng mãi mãi là ngọn đèn soi sáng con đường cách mạng Việt Nam.
* Quan điểm của Đảng ta về vấn đề nông dân
Dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định nông dân là một

lực lượng có vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp cách mạng. Lịch sử 85 năm
qua dưới sự lãnh đạo của Đảng đã khẳng định những đóng góp to lớn của nông dân
Việt Nam đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Nắm vững và giải quyết đúng đắn vấn đề nông dân, đáp ứng nhiệm vụ cách
mạng của từng giai đoạn lịch sử là một trong những nguyên nhân quan trọng làm
nên những thắng lợi vẻ vang của cách mạng Việt Nam.
Đảng ta nhận định rằng, nếu trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, liên
minh công nông có nhiệm vụ lịch sử là đánh thắng đế quốc xâm lược và giai cấp địa
chủ phong kiến, thì trong cách mạng XHCN có nhiệm vụ lịch sử mới là chiến thắng
nghèo nàn và lạc hậu, đưa đất nước tiến lên con đường XHCN. Có nắm vững mục
đích ấy mới giải quyết đúng đắn vấn đề nông dân. Quá độ lên CNXH từ một nước
nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là con đường mới mẻ chưa có
tiền lệ trong lịch sử. Muốn hoàn thành nhiệm vụ lịch sử đó, Đảng phải biết phát huy
những nhân tố quyết định nhất cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn mới, trong đó vấn đề nông dân có tầm quan trọng đặc biệt.
Ngay từ khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ đi lên CNXH, Đảng và Nhà
nước ta hết sức quan tâm đến kinh tế nông nghiệp, lấy nông nghiệp làm điểm xuất
phát. Bởi “nước ta là nước nông nghiệp…, muốn phát triển công nghiệp, phát triển

14


kinh tế nói chung, phải lấy việc phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính” [45;
tr.205]. Đại hội lần thứ III của Đảng (9-1960) khẳng định: “Trong nền kinh tế quốc
dân miền Bắc, nông nghiệp chiếm bộ phận rất quan trọng; nông dân lao động là một
lực lượng sản xuất to lớn. Muốn đưa miền Bắc tiến lên CNXH, chúng ta phải đi từ
nông nghiệp, phải dựa vững vào lực lượng của nông dân lao động và phát huy tính
tích cực cách mạng của họ” [26; tr.537]. Đến Đại hội lần thứ V của Đảng (3-1982),
Đảng tiếp tục đề ra chủ trương: “Tập trung phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông
nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ

nghĩa" [31; tr.62]. Đại hội coi việc phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ là tạo
tiền đề, điều kiện cho công nghiệp hóa. Để tạo động lực cho người nông dân trong
quá trình sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, Đảng ta đã có những bước đột
phá trong đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp - nông thôn. Đặc biệt,
“Khoán 100” (theo chỉ thị 100 của Ban Bí thư, 1981) và “Khoán 10” (theo Nghị
quyết 10 của Bộ Chính trị, 1988) đã động viên giai cấp nông dân hăng hái thi đua
sản xuất kinh doanh, đưa năng suất, sản lượng lương thực lên cao chưa từng có.
Khoán đã tạo ra bước chuyển biến quan trọng không chỉ trong nông nghiệp, mà còn
có tác động tích cực đến các lĩnh vực khác của đời sống xã hội nước ta.
Nắm vững đặc điểm nông dân nước ta, Đảng và Nhà nước ta tiến hành từng
bước CNH, coi đó là con đường tăng cường liên minh công nông, điều quan trọng
hơn là chăm lo cải thiện đời sống vật chất và văn hoá cho nông dân, tăng cường
giáo dục ý thức làm chủ, nâng cao trình độ chính trị, khoa học - kỹ thuật cho nông
dân. Nước ta là nước nông nghiệp, muốn trở thành nước công nghiệp thì khâu đột
phá trước hết phải trên lĩnh vực nông nghiệp, phải là địa bàn nông thôn, nơi có gần
70% dân cư sinh sống, chiếm 65% lực lượng lao động xã hội. Chính vì thế, tiếp
theo Đại hội VI và Đại hội VII, Đại hội VIII của Đảng nhấn mạnh phải rất quan tâm
đến CNH, HĐH nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Đây là quá trình chuyển đổi căn
bản, toàn diện các hoạt động sản xuất trong nông nghiệp và bộ mặt kinh tế - xã hội
nông thôn, biến lao động thủ công thành lao động cơ giới, đưa sản xuất nhỏ lên
thành sản xuất lớn hàng hoá, là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp nhằm

15


khai thác mọi tiềm năng tạo ra năng suất lao động, hiệu quả kinh tế - xã hội cao
trong nông nghiệp, từ đó biến đổi bộ mặt kinh tế - xã hội nông thôn tiến gần với
thành thị: “Có chính sách khuyến khích và trợ giúp nông dân trong xây dựng kết
cấu hạ tầng, chuyển giao công nghệ, giải quyết các khó khăn về vốn, về giá cả vật

tư nông nghiệp và hàng nông sản, về thị trường tiêu thụ sản phẩm"[21; tr.87-88].
Để quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thành công, cần phải thực hiện
hàng loạt các biện pháp về kinh tế - kỹ thuật; tạo ra sự chuyển biến mới thực sự
trong tư duy của người nông dân và những người sống ở nông thôn; những biện
pháp về năng suất lao động và đất đai để tạo ra lượng hàng hoá nông sản lớn, bảo
đảm chất lượng, mẫu mã, giá thành… mà thị trường trong nước và thế giới có thể
chấp nhận được.
Từ nội dung, yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện
nay, công tác vận động nông dân của Đảng chiếm vị trí rất quan trọng. Đó là quá
trình Đảng phải tiếp tục nâng cao sự giác ngộ cho nông dân, luôn gắn với độc lập
dân tộc và CNXH, liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; là quá trình tổ chức, đoàn kết nông dân
chặt chẽ, khăng khít dưới nhiều hình thức mà Hội Nông dân là nòng cốt; là phát
huy truyền thống yêu nước và cách mạng của nông dân; chăm lo đời sống vật
chất, tinh thần của nông dân đi đôi với việc phát huy tinh hoa văn hóa dân tộc,
xây dựng NTM giàu đẹp, văn minh, tiến bộ; là quá trình làm cho nông dân hiểu
biết ngày càng sâu sắc về khoa học - kỹ thuật, không ngừng nâng cao kỹ năng
nghề nghiệp để thực hiện nền sản xuất nông nghiệp hàng hoá toàn diện, văn
minh, có hiệu quả trong cơ chế thị trường định hướng XHCN. Văn kiện Hội nghị
Trung ương lần thứ Bảy (khoá X) của Đảng (7-2008) nêu rõ quan điểm: “Nông
nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp CNH, HĐH,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh
tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng;
giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất
nước” [30; tr.123-124]. Đảng ta luôn chú trọng việc "xây dựng, phát huy vai trò
của giai cấp nông dân, chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp, xây dựng

16



NTM. Hỗ trợ, khuyến khích nông dân học nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động,
tiếp nhận và ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để
nông dân chuyển sang làm công nghiệp, dịch vụ". [25, tr.161]
Nhìn lại lịch sử 85 năm lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta có
thể khẳng định rằng nắm vững và giải quyết đúng đắn vấn đề nông dân, đáp ứng
nhiệm vụ cách mạng của từng giai đoạn lịch sử nhất định là một trong những
nguyên nhân quan trọng làm nên những thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
1.2. XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM
1.2.1. Quan niệm về nông thôn mới
Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị
xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là UBND xã. Nông thôn cũ gắn
liền với mô hình làng xã khép kín, tự cung, tự cấp. Mặc dù có nhiều điểm tích cực
và mang yếu tố truyền thống tốt đẹp song tổ chức làng xã ấy, xét về phương diện
kinh tế - xã hội, chỉ phù hợp với nền kinh tế tự nhiên, với nền sản xuất nhỏ có trình
độ thấp. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, nông thôn phải được xây
dựng theo định hướng XHCN - NTM, nông thôn được xây dựng trên cơ sở khắc
phục những mặt tiêu cực, hạn chế, chọn lọc và phát huy những điểm tích cực của
nông thôn truyền thống. Nông thôn Việt Nam mới phải là nông thôn hiện đại, phù
hợp với yêu cầu của CNH, HĐH đất nước. NTM có sự biến đổi toàn diện về kinh tế
- văn hóa - xã hội, về đời sống vật chất và đời sống tinh thần của người dân, về mối
quan hệ giao lưu giữa thành thị và nông thôn...
NTM giai đoạn 2010 - 2020 bao gồm các đặc trưng sau: Kinh tế phát triển, đời
sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn được nâng cao; nông thôn phát triển
theo quy hoạch, cơ cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, môi trường sinh thái được bảo
vệ; dân trí được nâng cao, bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát huy; an ninh
tốt, quản lý dân chủ; chất lượng hệ thống chính trị được nâng cao.
Hội nghị lần Bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X đã ban hành
Nghị quyết về nông nghiệp, nông dân, nông thôn với mục tiêu xây dựng NTM có
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản
xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo


17


×