Giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám 1945, ngoại giao của chính quyền
non trẻ nước Việt Nam dân chủ cộng hồ đã phải nỗ lực rất nhiều để
thốt khỏi sự bao vây của các thế lực thù địch.
Với bước ngoạt ngoại giao năm 1950, ta khẳng định chủ trương đường lối
của cách mạng nghiêng hẳn về phe xã hội chủ nghĩa, cách mạng nước,
và đã giành được sự công nhận, đồng tình và ủng hộ của các nước xã hội
chủ nghĩa, và các lực lượng dân chủ hồ bình thế giới.
Qua các giai đoạn, chúng ta đã chứng kiến sự trưởng thành của ngoại
giao Việt Nam, và Hiệp định Giơnevơ được ký kết đã là một minh chứng
rõ ràng nhất.
Lịch sử đã cho thấy đi đến được bàn đàm phán tại Giơnevơ là một nỗ lực,
một chiến thắng của ta, nó là kết quả của những thắng lợi quân sự, chính
trị, và quan trọng là mặt trận ngoại giao. "Kết quả của Hội nghị Giơ-nevơ chưa phản ánh đúng, đầy đủ thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong
kháng chiến, mà đã có những sự nhân nhượng. Nhưng đấu tranh ngoại
giao là thế. Việt Nam từ rừng núi đi thẳng tới Giơ-ne-vơ, rất thiếu kinh
nghiệm, mất quyền chủ động" (PGS Bùi Đình Thanh) chúng ta bỡ ngỡ
trước những nền ngoại giao lọc lõi của các nước đế quốc, chúng ta bị lệ
thuộc một phần nào, ở góc độ nào chúng ta cũng đã thừa nhận hạn chế
của mình, do khơng đánh giá hết ý đồ của các nước lớn, nhưng khơng
phải vì thế mà chúng ta chuếnh chống mất tự chủ hồn tồn, và vai trị
to lớn của ngoại giao trong đàm phán và ký kết hiệp định là không thể
phủ nhận.
LỜI MỞ ĐẦU
Để đi đến ký kết Hiệp định Giơnevơ mà như chúng ta đã nhìn nhận đánh
giá ở trên, đó là một q trình đấu tranh khơng biết mệt mỏi của cả dân
tộc ta, đó khơng chỉ là cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao mà đó
cịn là cuộc đấu trí căng thẳng trên mặt trận ngoại giao - một bài học
ngoại giao “giành thắng lợi từng bước” tiến lên giành thắng lợi tồn
phần, đó là những nỗ lực từ những ngày đầu tiên khai sinh ra nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hoà sau cách mạng tháng Tám 1945, đó là những
bước tiến xây dựng thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước láng giềng
và bạn bè quốc tế mà trong đó đặc biệt là phải kể đến bước chuyển
ngoặt ngoại giao 1950, và đó là một q trình triển khai chính sách
đường lối ngoại giao sáng suốt tài tình của Đảng ta dưới sự chỉ đạo trực
tiếp của chủ tịch Hồ Chí Minh trên cơ sở vận dụng những thắng lợi trên
các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao tạo nên sức mạnh tổng hợp
đem lại thế chủ động cho ta trên bàn đàm phán. Và trước khi đi đến phân
tích cụ thể vai trị của chính sách đối ngoại trong ký kết Hiệp định
Giơnevơ 1954 chúng tôi sẽ điểm qua những bước triển khai chính sách
đối ngoại trước mà theo chúng tơi đã góp phần tạo nền tảng cho ngoại
giao trong quá trình đàm phán, và cuối cùng chúng tôi xin dành một
phần nhỏ để chia sẻ những ý kiến bàn luận của nhóm chúng tôi về
“thắng lợi” ngoại giao trong ký kết Hiệp định Giơnevơ, những gì mà
chính sách đối ngoại đã làm được và chưa làm được tại Hiệp định này?
Hiệp định Giơ-ne-vơ có phản ánh đúng thắng lợi của nhân dân Việt Nam
trên chiến trường và xu thế của cuộc chiến tranh hay không?
Nhân đây, chúng tôi xin bày tỏ sự cảm ơn chân thành tới những thày cô
giáo phụ trách bộ mơn Chính Sách đối ngoại đã hướng dẫn và cung cấp
cho chúng tơi những tài liệu bổ ích, và cảm ơn thư viện trường đã tạo
điều kiện cho chúng tôi tiếp xúc được với những nguồn tài liệu cần thiết,
và chúng tôi gửi lời cảm ơn tới các tác giả mà chúng tôi đã tham khảo ý
kiến, đặc biệt các tác giả biên soạn trong “Tạp chí cộng sản”.Theo đó,
chúng tơi sẽ trình bày phần nội dung bao gồm những phần sau:
I. Ngoại giao giai đoạn tiền Hiệp định.
1. Ngoại giao giai đoạn 1945-1950
2. Ngoại giao giai đoạn năm 1950
II. Toàn cảnh Hội nghị Giơnevơ
1. Bối cảnh dẫn đến Hiệp định
2. Các bên tham gia Hội nghị
3. Chủ trương chính sách đối ngoại của ta:
3.1 Mục tiêu và chủ trương của ta
3.2 Triển khai chính sách đối ngoại trong đàm phán
3.3 Kết quả đạt được
III. Đánh giá
1. Sự nhìn nhận kết quả Hội nghị
2. Những bài học ngoại giao.
PHẦN NỘI DUNG
I Ngoại giao giai đoạn tiền Hiệp định
1.1. Ngoại giao giai đoạn 1945-1950
Sau thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945, ngày 2/9/1945 Hồ Chí
Minh đọc bản tun ngơn độclập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ
cộng hồ, chính quyền cách mạng non trẻ chịu sự bao vây, cô lập của các
nước đế quốc, tình hình đất nước “ngàn cân treo sợi tóc”, thù trong giặc
ngồi, tình hình kinh tế xã hội cực kỳ rối ren. Trong bối cảnh đó, ngoại
giao là một cơng tác hết sức trọng yếu, là vũ khí của cách mạng để chèo
lái con thuyền Việt Nam vượt qua cơn thử thách.
Trong bối cảnh chưa được công nhận về mặt pháp lý,Việt Nam dân chủ
cộng hoà đã kịp thời chuyển hướng hoạt động ngoại giao và định ra
đường lối ,chính sách và hệ thống chủ trương sách lược thích hợp,linh
hoạt,có ngun tắc để từng bước phá vây quốc tế ,gắn sự nghiệp cách
mạng dân tộc vào xu thế chung của thế giới. Với chính sách “thêm bè
bạn bớt kẻ thù” kết hợp với các hoạt động ngoại giao đa phương ,song
phương ,ngoại giao nhân dân ,ta đã tranh thủ được sự ủng hộ của bạn bè
quốc tế , đắc biệt là các nước xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân dân.Ta
đã từng bước xây dựng được cơ sở pháp lý cho chính phủ non trẻ của
mình.
Tuy nhiên,vì là một nền ngoại giao non trẻ,nên ta vẫn gặp phải khơng ít
khó khăn và có nhiều mặt hạn chế.Ta chưa có nhiều kinh nghiệm trong
vận dụng tư tưởng độc lập,tự chủ trên mặt trận đối ngoại song phương
và đa phương. Ngoài ra ,do sự thiếu hụt về thông tin, đội ngũ cán bộ đối
ngoại còn hạn chế về nhiều mặt ,nhận thức của ta về các nước lớn chưa
sâu sắc nên chúng ta vẫn còn tồn tại nhiều yếu điểm khi bước vào các
cuộc đàm phán quốc tế.
Nói gì thì nói,chúng ta khơng thể phủ nhận những gì ngoại giao Việt Nam
đã làm được trong những năm tháng đầu tiên của một quốc gia non trẻ
ấy.Xét về cơ bản,chúng ta đã có những đường lối sách lược đúng đắn
theo từng giai đoạn từng thời kì, đấu tranh ngoại giao kiên trì để giành
thắng lợi từng bước.
Có thể nói rằng,từ bản Tun ngơn độc lập đến chính sách Hoa-Việt thân
thiên,chính sách hồ để tiến với Pháp, mà đỉnh cao là hiệp định Sơ Bộ
6/3/1946 vẫn thường được lịch sử nhắc lại như đỉnh cao của nghệ thuật
thoả hiệp, một sự thoả hiệp rất có nguyên tắc, với hiệp định ấy, ta đã
“phá vịng vây” thốt hiểm, và những bước giải vây tình trạng bị cơ
lập,tạo một mơi trường hồ bình, ngoại giao Việt Nam đã thể hiện tiếng
nói dân tộc mạnh mẽ của mình.Những chính sách đối ngoại ấy phù hợp
trong từng giai đoạn thời kỳ nhỏ và đã phần nào thành công trong ngắn
hạn.Tuy nhiên,mục tiêu chính của ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ này
là tạo lập cơ sở pháp lý cho Việt Nam dânc hủ cộng hồ thì vẫn chưa đi
đến thắng lợi. Đây là bước đi khởi đầu và là bài học quý giá cho nền
ngoại giao Việt Nam đương đại và sau này.
1.2.Ngoại giao giai đoạn 1950
Tại đại hội Đảng lần thứ 2 diễn ra từ 11/2 đến 19/3/1951 bàn về đối
ngoại Đảng ta đã chỉ ra cán cân lực lượng giữa hai phe có lợi cho phe dân
chủ tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào giải phóng dân tộc được phát
triển mạnh mẽ. Khi đó, phong trào hồ bình phát triển mạnh mẽ khẳng
định hơn nữa nhiệm vụ của giai cấp công nhân và nhân dân thế giới là
bảo vệ hồ bình. Do đó, xét thấy cách mạng Việt Nam là 1 bộ phận của
phong trào cách mạng thế giới, phong trào giải phóng dân tộc bảo vệ
hồ bình trên thế giới.
Trên cơ sở phân tích tình hình đó, Đại hội đã triển khai các nhiệm vụ
đồn kết chặt chẽ và giúp đỡ hai dân tộc Miên Lào kháng chiến giành độc
lập, cùng Việt Nam hoàn toàn giải phóng Đơng Dương;đồn kết chặt chẽ
với Liên Xơ, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân khác;liên hiệp
mật thiết với nhân dân Pháp và nhân dân các thuộc địa Pháp đang góp
phần vào cơng cuộc chống đế quốc, gìn giữ hồ bình và dân chủ thế
giới.Và dùng điều chỉnh khu vực đến đóng qn đi đến hồ bình, dùng
tồn quốc tổng tuyển cử để đi đến thống nhất.
Điều đó được thể hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia cùng nhau bảo vệ hồ bình; mở rộng
ngoại giao nhân dân và thực hiện chính sách ngoại giao thân thiện tranh
thủ đại đoàn kết dân tộc; đẩy mạnh hoạt động quốc tế phối hợp chặt chẽ
với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, nhân dân nước Pháp và nhân dân
u chuộng hồ bình thế giới.
Và chúng ta đã đạt được những kết quả ngoại giao như sau:
15.1.1950 chính phủ ta cơng nhận chính phủ nước CHND Trung Hoa.
18.1.1950 chính phủ nước CHND Trung Hoa cơng nhận chính phủ nước
Việt Nam DCCH là chính phủ hợp pháp và sẵn sàng xác lập ngoại giao
cấp đại sứ với nước ta.
31.1.1950 chính phủ Liên Xơ cơng nhận chính phủ ta và quyết định kiến
lập quan hệ ngoại giao với nước ta.
Sau đó chính phủ ta dần được các nước dân chủ khác lần lượt công nhận.
Mặt trận liên minh Việt – Miên – Lào chính thức thành lập 3.1951.
Trong giai đoạn này, phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam phát
triển mạnh mẽ và đạt được thắng lợi đáng kể.Việt Nam đã có được sự
cơng nhận chính thức và đặt quan hệ ngoại giao chính thức của các nước
XHCN, giành thắng lợi trong chiến dịch Điện Biên giới , giải phóng tỉnh
Hồ Bình. 2.1952 phá tan kế hoạch của qn Pháp hịng giành lại thế chủ
động
II.Tồn cảnh hiệp định Giơnevơ
2.1. Bối cảnh đưa đến Hội Nghị giơ – ne – vơ.
2.1.1. Bối cảnh thế giới.
Trên thế giới khi này đang diễn ra Chiến tranh Lạnh, sự đối đầu giữa hai
hệ thống xã hội chủ nghĩa – tư bản chủ nghĩa, đang trong giai đoạn gay
gắt. Chủ nghĩa đế quốc do Đế quốc Mỹ cầm đầu đang mở rộng chiến
tranh xâm lược ở nhiều nơi, chúng cố bám lấy Triều Tiên, quyết chiến ở
Đài Loan và tích cực giúp đỡ Pháp tiếp tục xâm lược Đơng Dương, chúng
đang nhanh chóng đẩy mạnh triển khai chiến lược toàn cầu phản cách
mạng, áp dụng chiến lược quân sự “trả đũa ồ ạt”, ngăn chặn sự phát
triển của phong trào cộng sản. Phe xã hội chủ nghĩa với nịng cốt là liên
minh Xơ – Trung đang phát triển ngày càng vững mạnh. Cách mạng nhân
dân Trung Hoa thắng lợi, đặc biệt là sau chiến tranh Triều Tiên Trung
Quốc đã trở thành một nước có sức mạnh qn sự mạnh nhất Châu Á.
Chính phủ nhân dân thành lập ở Đông Đức cùng với việc Liên Xơ có bom
ngun tử đã tạo ra thế cân bằng trong so sánh lực lượng của hai phe.
Năm 1953 là năm "thay đổi" chính trị ở Mát-xcơ-va cùng với sự kiện Xtalin qua đời; là năm Tổng thống Ai-xen-hao bước vào Nhà Trắng; sự căng
thẳng Đông - Tây lần đầu tiên được "hạ nhiệt". Tại Hội nghị Béc-lin được
nhóm họp vào ngày 15-1-1954, có đầy đủ cả bốn nước lớn, ý tưởng chủ
đạo được nêu ra là việc tổ chức một hội nghị hịa bình, tập hợp các tác
nhân liên quan chính - sau này đó chính là Hội nghị Giơ-ne-vơ.
Cũng trong thời gian này phong trào giải phóng dân tộc thuộc địa và nửa
thuộc địa đang diễn ra sôi nổi, đặc biệt là khu vực Nam Á, Trung Cận
Đơng, Đơng Nam Á, Châu Phi.
Xu hướng trung lập tích cực, không tham gia liên minh quân sự với các
nước phương Tây, phát triển trong lòng các nước mới giành được độc lập
như: Ấn Độ, Miến Điện, Pakixtan, Indônêxia, Ai Cập.....
Có thể nói hai phe đang đấu tranh quyết liệt, tranh thủ tập hợp lực
lượng, song do so sánh lực lượng khá cân bằng nên trong thời gian này
đã có một sự hồ hỗn thấp giữa hai phe.
Tiền lệ giải quyết vấn đề chiến tranh Triều Tiên, tại Hội nghị Bàn Môn
Điếm 27/7/1954 chỉ đưa ra một giải pháp quân sự, chấp nhận đình chiến
tại Triều Tiên 1953 gần như nguyên trạng của hai bên ở vĩ tuyến 38, mà
không đưa ra được một giải pháp chính trị. Đó là biểu hiện của hồ dịu
Đơng – Tây, mở ra triển vọng giải quyết hồ bình các cuộc xung đột qn
sự, đáp ứng nguyện vọng hồ bình của nhân dân các nước tham chiến và
nhân dân u chuộng hồ bình thế giới.
Tình hình nước Pháp: Khi phát động cuộc chiến tranh nhằm lấy lại Đông
Dương, thay vì chiến thắng như tướng De Gaulle tuyên bố, quân đội viễn
chinh Pháp ngày càng thất bại hơn nữa và nước Pháp ngày càng sa lầy
trong các cuộc chiến tranh và các chính phủ Paris thay nhau sụp đổ.
Đặc biệt, chính phủ Pháp vấp phải sự phản đối kịch liệt của dân chúng
Pháp vì cuộc chiến hao người tốn của và cũng bởi vì dân chúng Pháp
chưa bao giờ ủng hộ chính phủ Pháp trong bất kỳ cuộc chiến tranh nào.
Đây sẽ là một tiền đề quan trọng và tạo điều kiện tốt để nhân dân Đông
Dương, nhất là nhân dân Việt Nam tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của
phong trào hồ bình tiến bộ trên thế giới, tạo sức ép buộc Pháp phải ngồi
vào bàn đàm phán lập lại hồ bình.
Trong quốc hội Pháp cũng có nhiều ý kiến khác nhau, nhiều nghị sỹ đòi
phải đàm phán ngay với phía Việt Minh. Phe chủ chiến như thủ tướng
Laniel, Bộ trưởng Quốc Phòng Pleven, Bộ trưởng ngoại giao Bidault vẫn
ngoan cố vì họ hy vọng rằng Mỹ tăng cường viện trợ (điều này được Phó
tổng thống Mỹ Nick – xơn tuyên bố năm 1953) có thể cứu Pháp giành
chiến thắng để đàm phán với Việt Minh trên thế mạnh.
2.1.2.Trong nước
Sau 8 năm kháng chiến lực lượng của chúng ta đã thực sự lớn mạnh,
chuyển từ phòng ngự sang phản công, trong khi Pháp ngày càng sa lầy
và khó có khả năng cứu vãn được đội quân viễn chinh của mình. Quân ta
đã giành được thắng lợi quân sự trên khắp các chiến trường, như chiến
dịch Biên Giới 1950, Chiến dịch Đông Xuân 1953 – 1954 và đặc biệt với
chiến thắng vang dội Điện Biên Phủ đã khiến cho thực dân Pháp không
thể chần chừ mà ngồi vào bàn đàm phán, thương lượng ký kết hiệp định
Giơ - ne – vơ.
Việt nam cũng bị cuốn vào vịng xốy của Chiến tranh lạnh, và đồng thời
sự can thiệp của Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ vào nước ta ngày càng nhiều.
2.2.Các bên tham gia
Ngày 7-5-1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi.
Ngày 8-5-1954, Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương khai mạc.
Nếu tại Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946 giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hồ
với Pháp, ta có tính tự chủ cao, vai trị của các cá nhân lãnh đạo nổi lên
rất rõ thì ở Hiệp định Giơnevơ có sự tham gia của các đồn đàm phán của
các nước lớn với tính chất chuyên nghiệp (mặc dù đối với đồn của ta
ngoại giao cịn khá non trẻ); lúc này tính tự chủ của Việt Nam hầu như
khơng có, vai trò của các cá nhân lãnh đạo cũng khá mờ nhạt. Đứng đầu
các đoàn đàm phán là các bộ trưởng ngoại giao: Phái đoàn Anh, do
Anthony Eden làm trưởng đoàn; Phái đoàn Mỹ, do Bedell Smith làm
trưởng đoàn; Phái đồn Liên Xơ, do Viacheslav Molotov làm trưởng đồn;
Phái đồn Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, do Chu Ân Lai làm trưởng
đoàn; Phái đoàn Pháp, do Georges Bidault làm trưởng đồn; Phái đồn
Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, do Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn; Phái
đoàn Quốc gia Việt Nam, do Nguyễn Quốc Định làm trưởng đoàn sau
Trần Văn Đỗ thay thế; Phái đoàn Lào, do Phumi Sananikone làm trưởng
đoàn; Phái đoàn Campuchia, do Tep Than, làm trưởng đoàn.
Xét về phía đế quốc Pháp : Sau những thất bại và sự lệ thuộc vào Mỹ
ngày càng lớn ở Đông Dương, Pháp rất lúng túng. Vấn đề cứu vãn quân
viễn chinh Pháp ở Đông Dương trở thành cấp bách đối với Pháp khơng
những để duy trì quyền lợi của chúng ở Đơng Dương mà cịn đối với cả
quyền lợi của Pháp ở Châu Âu và Bắc Phi. Trong thời điểm đó Pháp cũng
chịu sức ép mạnh mẽ của dư luận trong nước địi kết thúc chiến tranh
Đơng Dương. Trước tình hình đó chủ trương của Pháp là vừa tiến hành
chiến tranh, vừa tìm kiếm thương lượng để cứu vãn quân đội viễn chinh
Pháp. Pháp đồng ý tham gia Hội nghi Geneva. Tuy nhiên mặc dù phải
thương lượng với ta ở Geneva nhưng chính quyền Pháp vẫn bám vào Mỹ
để Mỹ can thiệp vào Đông Dương cứu vãn quân đội viễn chinh Pháp và
tạo thế mạnh cho Pháp tại bàn hội nghị. Trường hợp Hội nghị Geneva
thất bại, Pháp còn tiếp tục chiến tranh với sụ viện trợ của Mỹ. Vì vậy tại
Hội nghị, Pháp chỉ muốn giải quyết vấn đề quân sự, ngừng bắn theo kiểu
Triều Tiên, khơng đề cập đến qn sự.
Về phía đế quốc Mỹ: Chính sách của Mỹ lúc đầu là trực tiếp can thiệp
qn sự và Đơng Dương, sau đó là quốc tế hố cuộc chiến tranh thơng
qua một liên minh qn sự ở Đông Nam Á, nhưng tất cả đều thất bại. Mỹ
buộc phải chấp nhận một hội nghị quốc tế Geneva về Đông Dương và đến
Hội nghị với thái độ chống đối việc giải quyết hồ bình vấn đề Đơng
Dương. Mục tiêu chính của Mỹ lúc này là vấn đề “hành động thống nhất”
và vấn đề “Liên minh quân sự Đông Nam Á”. Mỹ âm mưu kéo dài và mở
rộng chiến tranh ở Đông Dương, hất cẳng Pháp và chiếm Đông Dương
Vế phía Anh: Chống lại sự can thiệp của Mỹ vào Đơng Dương và ủng hộ
Pháp vì nếu Mỹ tăng cường can thiệp vào Đông Dương, bành trướng và
hất cẳng Anh ra khỏi khu vực này thì sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của
Anh. Chủ trương của Anh muốn ổn định tình hình Đơng Dương trên cơ sỏ
chia cắt Việt Nam. Anh làm đồng chủ tịch cùng Liên Xơ có quan hệ mật
thiết với Liên Xô chủ động đưa ra một số sáng kiến, thúc đẩy Hội nghị
kết thúc càng sớm càng tốt.
Nhìn chung bước vào Hội nghị các nước thuộc phe đế quốc có chung mục
đích là chống cộng, ngăn chặn thắng lợi của cách mạng Đông Dương
nhưng vẫn chưa thống nhất được với nhau về chủ trương, biện pháp và
một giải pháp cho Việt Nam và Đông Dương. Mỹ muốn phá Hội nghị,
Pháp thì vừa muốn Mỹ can thiệp để cứu vãn nguy cơ đội quân viễn chinh
Pháp vừa muốn Hội nghị đạt được một hiệp định đình chiến để cứu vãn
quyền lực của mình. Anh thì muốn đạt được được kết quả trên cơ sở chia
căt Việt Nam.
Trước tình hình và động thái của các nước đế quốc thì các nước trong
Phe Xã hội Chủ Nghĩa có mục đích và ý đồ như thế nào:
Đầu tiên xét về Liên Xô, anh cả của phe chủ nghĩa xã hội: Liên Xô muốn
chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương vì lo sợ sự can thiệp của Mỹ sẽ mở
rộng chiến tranh Đông Dương sẽ ảnh hưởng đến Liên Xô. Liên Xô cũng
muốn tạo điều kiện thuận lợi tranh thủ Pháp trong việc bác bỏ khối cộng
đồng phòng thủ châu Âu. Lúc này Khơ-rut-sốp lên nắm chính quyền chủ
trương chung sống hồ bình, hồ hỗn với phương Tây. Vị vậy chấm dứt
chiến tranh Đông Dương là cần thiết để thực hiện đường lối đó.
Liên Xơ lúc này cũng đang cần tranh thủ Pháp một phần là để đối trọng
với Mỹ, một phần là tranh thủ Pháp trong việc bác bỏ thành lập khối
cộng đồng phòng thủ Châu Âu CED.
Tiếp theo là Trung Quốc, nước xã hội chủ nghĩa mới nổi lên nhưng cũng
có những ảnh hưởng nhất định: Đơng Dương, nhất là Việt Nam là nước
láng giềng có quan hệ lâu đời và liên quan trực tiếp đên nền an ninh của
Trung Quốc. Sự can thiệp của Mỹ lúc này làm cho nền an ninh và vận
mệnh của Trung Quốc trong tình thế nguy hiểm. Vấn đề chấm dứt chiến
tranh Đông Dương trở thành nhu cầu cấp bách của Trung Quốc nhằm
thực hiện chủ trương mở rộng một khu vực đệm, một vùng trung lập ở
Nam Á và Đơng Nam Á để thúc đẩy hồ hỗn quốc tế
Nhìn chung, trong phe xã hội chủ nghĩa cả Liên Xô và Trung Quốc khi
này đều không muốn đối đầu trực tiếp với các nước đế quốc mà đứng đầu
là Mỹ
2.3. Chính sách đối ngoại của ta
2.3.1.Mục tiêu và chủ trương chính sách đối ngoại
Việt Nam lúc này có vai trò quan trọng trong việc đi đến quyết định mở
cuộc đàm phán Giơ-ne-vơ vì ở mặt trận Đơng Dương chiến thắng Đông
Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ. Vâỵ mục tiêu
của Việt Nam lúc này là gì:
Với thái độ thiện chí cho đàm phán tại Hội nghị, chúng ta chủ trương
tham gia đàm phán Hội nghị Geneva để giải quyết hồ bình vấn đề Việt
Nam và Đông Dương, ta xác định phải giải quyết triệt để được bốn vấn đề
chính: 1, vấn đề đình chiến; 2, Vấn đề hồ bình, độc lập, dân chủ; 3, Vấn
đề quan hệ với Pháp; 4, Vấn đề quan hệ giữa Việt – Miên – Lào. Việt Nam
chủ trương giữ vững những nguyên tắc cơ bản là độc lập,chủ
quyền,thống nhất,toàn vẹn lãnh thổ,hồ bình và dân chủ, phối hợp chặt
chẽ với các đoàn thuộc phe XHCN là Trung Quốc và Liên Xô.
Ta chủ trương đẩy mạnh kháng chiến đi đôi với thương lượng lập lại hồ
bình trên cơ sở độc lập và thống nhất, giương cao ngọn cờ hồ bình. Nhờ
có đường lối chủ trương chính sách đối ngoại đúng đắn đó chúng ta đã
tranh thủ được sự ủng hộ của các lực lượng dân chủ tiến bộ yêu chuộng
hoà bình và dư luận thế giới. Ngày 26/11/1953, trả lời phỏng vấn của
báo Thuỵ Điển “EXPRESSEN” về vấn đề chấm dứt chiến tranh Đơng
Dương, chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ lập trường: kiên quyết kháng chiến
đến thắng lợi cuối cùng song ta cũng sẵn sàng thương lượng nhằm mục
đích giải quyết hồ bình về vấn đề Việt Nam. Tun bố đó của Hồ Chủ
Tịch là một bước đi ngoại giao rất sắc, đã được dư luận thế giới hoan
nghênh.
2.3.2.Quá trình triển khai chính sách đối ngoại.
Trong suốt q trình diến ra Hội nghị chúng ta vẫn liên tiếp chủ động tấn
cơng chính trị, ngoại giao, cơ lập và phân hố địch, đề cao thiện chí của
ta và đẩy mạnh khả năng giải quyết vấn đề Đông Dương và Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo nhạy bén sáng suốt của Đảng và sự chỉ đạo trực tiếp
của chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cơ sở phân tích tình hình thế giới, tương
quan so sánh lực lượng trong những giai đoạn khác nhau của hội nghị,
chúng ta đã kịp thời triệu tập các Hội nghị trung ương đề ra những giải
pháp đường lối kịp thời nhất.
Quá trình diễn biến tại Hội nghị gồm có 3 giai đoạn:
Giai đoạn I: từ 8/5 đến 19/06/1954, với 6 phiên họp toàn thể và 17
phiên hop hẹp cấp trưởng đoàn. Nội dung chủ yếu là các đoàn nêu lập
trường về kết thúc chiến tranh, lập lại hồ bình ở Đơng Dương. Ta đưa ra
giải pháp tồn diện cả về quân sự và chính trị và giải quyết vấn đề Lào,
Miên. Đồng chí Phạm Văn Đồng cũng đưa ra đề nghị 8 điểm, trước hết là
vấn đề Pháp phải cơng nhận độc lập chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ của
Việt Nam, giải pháp này của chúng ta đã được nhân dân thế giới ủng hộ.
Giai đoạn II:từ 20/6 đến 10/7/1954, là thời gian phần lớn các trưởng
đoàn vắng mặt tại Geneva, diễn ra 6 phiên họp hẹp. Hội nghị làm việc ở
cấp chuyên viên và đạt được kết quả kỹ thuật về vấn đề thương binh ở
Điện Biên Phủ. Chu Ân Lai sau khi gặp Măng đét Phơ răng, đi Ấn Độ, Miến
Điện, ký kết 5 ngun tắc chung sống hồ bình, thúc đẩy hồ hỗn quốc
tế và tạo điều kiện cho Hiệp định Giơnevơ
Giai đoạn III:diễn ra từ ngày 11/7 đến 20/7 năm 1954, diễn ra các cuộc
gặp gỡ, trao đổi ráo riết tay đơi, tay ba hoặc nhiều bên giữa các trưởng
đồn và một phiên họp hẹp cấp trưởng đoàn. Vấn đề trọng tâm của hội
nghị lần này là phân vùng tập kết, phân giới tuyến quân sự tạm thời, rút
quân đội nước ngồi ra khỏi Đơng Dương, thời hạn tổng tuyển cử,…Các
nước lớn phe đế quốc đã có sự chuyển biến, Anh, Pháp cố gằng vận động
Mỹ quay lại tiếp tục Hội nghị.
Về phía ta, tại Hội nghị Trung Ương lần thứ VI từ ngày 15 đến ngày
18/7/1954, ta đấu tranh tạo khả năng kết thúc chiến tranh bằng thương
lượng hoà bình, chỉ ra kẻ thù của ta là đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, là
hiếu chiến Pháp và bù nhìn, chúng ta chủ trương đấu tranh phân hố kẻ
thù, hàng ngũ địch, tranh thủ thời cơ phái chủ hồ lên nắm chính quyền
ở Pháp để nhanh chóng đạt đến một hiệp nghị đình chiến quyết tâm đi
theo con đường hồ bình.
2.3.3. Kết quả Hiệp định.
Đêm 20 rạng ngày21/7/1954, hiệp định giơnevơ về chấm dứt chiến
tranh, lập lại hoà bình ở Đơng Dương được kí kết, đồn Mỹ khơng tham
gia kí kết nhưng đã đưa ra một bản tuyên bố riêng cam kết tôn trọng
những điều khoản của Hiệp định.
Hiệp định giơnevơ gồm các văn bản với những nội dung chủ yếu , đáng
lưu ý sau đây:
• Ba Hiệp định chính đình chỉ chiến sự về Việt Nam , lào và campuchia
• Bản tuyên bố cuối cùng của hội nghị
• Bản tuyên bố riêng ngày 21/7/1954 của Mỹ tại Hội nghị Giơnevơ
• Các cơng hàm trao đổi giữa phó thủ tướng VIệT NAM DCCH Phạm Văn
Đồng và thủ tướng Pháp Măngđet Phrăng
Các hiệp định liên quan đến Việt Nam gồm 4 nội dung chính:
a. Những điều khoản về điều chỉnh chiến sự và lập lại hồ bình: ngừng
bắn, tập kết, chuyển quân, chuyển giao khu vực, trao trả tù binh và
thường dân bị giam giữ, đổi vùng, vấn đề mồ mả quân nhân hai bên
tham chiến.
b. Những điều khoản về duy trì và củng cố hồ bình ở Việt Nam: lập lại
giới tuyến quân sự tạm thới ở vĩ tuyến 17 và khu vực phi quân sự , cấm
tăng viện nhân viên quân sự, bộ đội , vũ khí và dụng cụ chiến tranh khác
vào Việt Nam, cấm xây dựng căn cứ quân sự mới, cấm hai miền không
được gia nhập 1 liên minh quân sự nào, cấm sử dụng mỗi miền để phục
vụ một chính sách quân sự nào.
c. Những điều khoản chính trị : vấn đề tổng tuyển cử để thống nhất đất
nước; trong khi chờ đợi, không khủng bố, trả thù hay phân biệt đối xử
với những người đã hợp tác với đối phương trong thời gian chiến tranh
d. Những điều khoản qui định việc tổ chức thi hành hiệp định : uỷ ban
kiểm sát liên hiệp, uỷ ban giám sát quốc tế trung lập.
III. Đánh giá về Hiệp định Giơnevơ
3.1.Sự nhìn nhận kết quả Hội nghị
Đánh giá về kết quả và ký kết Hiệp định Giơ ne vơ về lập lại hồ bình ở
Việt Nam đã có rất nhiều ý kiến khác nhau: câu hỏi đặt ra “Liệu có phải
chúng ta đã địi q non trong Hiệp định Giơnevơ hay không?”
Một ý kiến khác nhận định: Nhìn chung, Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 là
một thảm họa đối với Việt Nam. Đối với nhân dân Việt Nam, Hiệp định
Giơ-ne-vơ năm 1954 là một âm mưu ngoại giao nhằm chia cắt lâu dài đất
nước...
Ý kiến khác cho rằng, tại Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954, ta "chưa độc lập
tự chủ, ta cả tin bạn".
Theo nữ luật gia Pháp L.A. Be-le-xa, "Hiệp định Giơ-ne-vơ là kết quả của
sự thỏa thuận giữa các cường quốc".
Tại Hội nghị Giơ ne vơ chúng ta có thực sự thắng lợi, hay đây chỉ là một
sự dàn xếp của các nước lớn mà chúng ta phải thực hiện theo? Ai cũng
thầy Việt Nam bước vào đàm phán ở Hội nghị trên thế thắng, và kết quả
trong Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị không phản ánh đầy đủ lợi ích của
nhân dân ta trên chiến trường?
Tất cả các vấn đề đó hiện nay vẫn đang cịn rất nhiều tranh cãi nhưng có
thể nói, tại Hội nghị khi đó chúng ta đã làm hết mình, làm tất cả những
gì có thể, trong hồn cảnh như thế, tình hình như thế, chúng ta chỉ có
thể giành được như thế. Ngoại giao chúng ta lần đầu tiên tham dự một
Hội nghị quốc tế có sự “can thiệp” của nhiều nước lớn, chúng ta còn chưa
đánh giá được hết vai trò của các nước lớn, ý đồ của các nước lớn.
Tại Hội nghị có hai nước lớn “có vẻ” ủng hộ chúng ta, đó là Trung Quốc
và Liên Xô ( không phải các nước đều công nhận Trung Quốc là nước
lớn), nhưng họ chỉ làm vậy vì họ có những mục tiêu, toan tính của họ, và
phần nào đó chính là sự phản ánh của “chủ nghĩa dân tộc”: Liên Xô năm
1950 đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, Liên Xô đã đưa ra
kiến nghị về giải quyết vấn đề Đơng Dương một cách hịa bình, đề ngăn
Mỹ mở rộng chiến tranh ở Đơng Dương, và củng cố hồ hỗn ở Viễn
Đơng, Việt Nam bị chia cắt làm hai miền ở vĩ tuyến 17 nhưng nói chung
là vẫn “hồ bình” Liên Xơ cũng khơng muốn làm căng thẳng thêm, và
nếu chúng ta xem xét lại ý đồ của Liên Xô khi đưa ra đề xuất triệu tập
Hội nghị thì chúng ta sẽ thấy chúng ta đã “quá tin bạn”.
Trung Quốc, ủng hộ ta cũng chỉ vì muốn củng cố vị thế nước lớn, duy trì
đảm bảo an ninh biên giới Việt – Trung và có thể lấy Việt Nam ra đề đàm
phán với Mỹ, Anh, Pháp về Đông Dương. Hơn nữa khi này Trung Quốc
cũng khơng muốn đối đầu trực tiếp với Mỹ, đang có xu hướng hồ dịu
trong quan hệ Mỹ-Trung, và nếu khơng có chuyện Trung Quốc cố tình
giúp Pháp tại hội nghị thì sau này liệu có chuyện Pháp sẽ là nước tư bản
đầu tiên cơng nhận nước Cộng Hịa nhân dân Trung Hoa không?
Tổng thống Mỹ Nickson tăng cường viện trợ cho Pháp trong Chiến dịch
Điện Biên Phủ và âm mưu nhảy vào thay chân Pháp, chúng khơng muốn
duy trì hồ bình đặc biệt là sau khi chiến tranh lạnh lan rộng sang Châu
Á, Mỹ chủ trương thi hành chính sách chống Chủ nghĩa Cộng sản trên
toàn cầu,và trong Hội nghị Giơ - ne – vơ, Mỹ luôn chủ trương phá hoại
Hội nghị và không chấp nhận bất cứ một giải pháp nào về giải quyết vấn
đề Đông Dương.Tổng thống Mỹ Esienhower đã tuyên bố: “ Hoa Kỳ không
bị các điều khoản của Hiệp định Giơ - ne – vơ ràng buộc”.
Thái độ của các bên tham gia khơng mấy có lợi cho chúng ta, có lẽ chúng
ta dừng lại ở đó là đúng, chúng ta khơng thể địi được nhiều hơn. Do vậy,
đánh giá một cách tổng thể khách quan nhất thì ngoại giao Việt Nam,
chính phủ Việt Nam và nhân dân Việt Nam trong hoàn cảnh như vậy đã
làm hết những gì có thể, đã tận dụng hết những gì có thể tận dụng để
đạt được nhiều nhất trong những gì mà ta có thể đạt được. Cũng như
PGS Bùi Đình Thanh đánh giá: "Đấu tranh ngoại giao là nghệ thuật của
cái có thể và giúp ta bài học để tìm cách khắc phục"
3.2.Những bài học ngoại giao.
Đánh giá Hiệp định Giơnevơ, như chúng ta đã nói, tuy ở một khía cạnh
nào đó nó vẫn chưa hồn tồn đáp ứng được địi hỏi cao nhất của chúng
ta, đó là một hạn chế của ta, mà chính chúng ta đã thừa nhận là chúng ta
đã quá mơ hồ về các nước lớn, chúng ta chưa thực sự đánh giá hết vai trò
của các nước lớn. Có rất nhiều lý do khách quan và chủ quan, chúng ta
không thể bỏ qua những hạn chế khách quan như phương tiện truyền
thơng, báo chí chưa thực sự phát triển, nguồn thơng tin cịn hạn
chế....song vẫn đề chủ quan có lẽ vẫn là quan trọng nhất. Chúng ta còn
phụ thuộc nhiều và “quá tin” vào Liên Xô và Trung Quốc và đề mặc cho
các nước mặc cả trên lưng chúng ta mà không hề hay biết.
Hạn chế và tích cưc, đó có lẽ là tính chất hai mặt cố hữu của một vấn đề,
chúng ta không chối bỏ những thiếu sót và càng khơng thể qn những
gì mà ngoại giao chúng ta đã làm được và nhìn lại những thành cơng đó
chúng ta có thể thấy rõ những nhân tố đi đến thắng lợi.
Vai trò lãnh đạo:
Nếu có nhiều nhà phân tích khi đánh giá về các nhân tố thắng lợi đã đưa
yếu tố thời đại lên đầu tiên thì chúng tơi lại khơng ngần ngại đưa vai trò
lãnh đạo của Đảng và sự chỉ đạo trực tiếp của chủ tịch Hồ Chí Minh lên vị
trí ấy. Thời đại có những yếu tố tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào
cách mạng của chúng ta lúc đó cũng như là tạo thêm thuận lợi cho chúng
ta trên bàn đàm phán: phong trào giải phóng dân tộc đang phát triển
mạnh mẽ, gây thêm sức ép cho các nước đế quốc thực dân, và nhiều yếu
tố bối cảnh khác như chúng ta đã trình bày, nhưng chúng ta cũng thấy
thời đại không phải là không bao gồm những yếu tố gây bất lợi cho
chúng ta mà đáng kể nhất phải nói đến là xu thế hồ dịu Đơng – Tây bắt
đầu ở mức thấp. Thời đại vẫn là yếu tố khách quan, thời đại vẫn luôn
luôn vận động và biến đổi không ngừng xung quanh chúng ta, nhưng
thời đại sẽ khơng làm nên điều gì hết nếu chúng ta không biết tranh thủ
và nắm bắt những thời cơ thích hợp, hạn chế tác động của những yếu tố
bất lợi. Vai trị của Đảng chính là ở chỗ đó, chính nhờ sự phân tích đánh
giá tình hình chính xác, kịp thời, chúng ta đã biết nắm bắt những “thời
cơ cách mạng” và đưa ra những đường lối chủ trương chính sách đối
ngoại đúng đắn. Chính sách đúng đắn thì ta mới có những hành động
triển khai đúng đắn, và mới giành được thắng lợi. Một bước đi sai trong
đường lối cũng có thể dẫn đến một hậu quả nghiêm trọng cho vận mệnh
của dân tộc.
Chúng ta đã luôn luôn đề cao tinh thần độc lập tự chủ dân tộc, đó là mục
tiêu cuối cùng và cũng là mục tiêu cao nhất của cuộc cách mạng dân tộc.
Thể hiện ở nguyên tắc ngoại giao “dĩ bất biến ứng vạn biến” của dân tộc
ta, luôn luôn linh hoạt, khéo léo, nhân nhượng những gì có thể trên cơ sở
bảo đảm độc lập chủ quyền của dân tộc. Ta có nhân nhượng về vị trí địa
lý của ranh giới quân sự tạm thời, nhưng khơng nhân nhượng về tính
chất của nó. Đó không phải là đường biên giới chia Việt Nam thành hai
quốc gia.
Sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, chúng ta đã huy động được khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh quân sự, chính trị và sức mạnh
ngoại giao tạo nên sức mạnh tổng hợp và thế chủ động cho ta trên bàn
đàm phán.
Và quan trọng hơn chúng ta đã biến ngoại giao thành một mặt trận, mặt
trận ngoại giao bao gồm ngoại giao Đảng, ngoại giao Nhà nước, Ngoại
giao nhân dân. Chúng ta đã luôn ln giương cao ngọn cờ đấu tranh
chính nghĩa và nhờ đó chúng ta đã tranh thủ được sự ủng hộ của các lực
lượng hồ bình dân chủ trên thế giới. Có ý kiến đã nhận xét, chúng ta
thành cơng là vì ngoại giao của chúng ta lúc bấy giờ đã làm được một
việc mà cho tới nay ngoại giao chúng ta cũng khó mà làm được đó là vận
động được nhân dân thế giới và nhân dân Pháp ủng hộ chúng ta.
Đặt cuộc cách mạng giải phóng dân tộc của chúng ta là một bộ phận của
phong trào cách mạng thế giới, đưa nó vào trào lưu dịng chảy cách
mạng chung. Kết hợp lợi ích dân tộc phù hợp với xu thế của quan hệ
quốc tế lúc đó. Chúng ta tun bố chúng ta ủng hộ phong trào hồ bình
thế giới, ln sát cánh cùng phong trào giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa, và phong trào vô sản ở các nước đế quốc thực dân.
Bài học giành “thắng lợi từng phần” đi đến giành thắng lợi hoàn toàn,
vấn đề này được thể hiện xuyên suốt trong quá trình đấu tranh của dân
tộc ta từ những năm 1945 – 1954. Từ những bước đi ngoại giao đầu tiên
tạo nên bước “phá vây” ngoạn mục trong những năm 1945 – 1946.
Những hoạt động đối ngoại và những chủ trương đường lối đối ngoại
khéo léo tranh thủ sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa và phong
trào hồ bình thế giới. Và thành công hơn cả là thành công ở Hiệp định
Giơnevơ. Chúng ta biết nhân nhượng, nhân nhượng có nguyên tắc, thoả
hiệp một cách nghệ thuật giành thắng lợi ngoại giao từng bước và dần
dần củng cố thêm lực lượng cho mình, chớp thời cơ đi đến giành thắng
lợi quyết định.
Yếu tố con người, chúng ta không thể khơng kể đến vai trị của đội ngũ
cán bộ ngoại giao lúc bấy giờ, những cán bộ đã thực sự giác ngộ cao, ý
thức được lợi ích và mục tiêu của dân tộc, có hiểu biết sâu sắc và trình
độ học vấn uyên bác, linh hoạt, chủ động, sáng tạo, tự chủ trên bàn đàm
phán, biết phân tích đánh giá tình hình chính xác.
Tóm lại ta có thể nói, vai trò ngoại giao trong đàm phán và ký kết Hiệp
định Giơnevơ được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau, tích cực và hạn
chế song dù đó là tích cực hay hạn chế đi nữa chúng cũng là những bài
học kinh nghiệm quý báu cho ngoại giao Việt Nam tại Hiệp định Paris
1973 cũng như đối với ngoại giao nước nhà hôm nay và mai sau.
KẾT LUẬN
Năm tháng đã trôi qua và Hiệp định Giơnevơ đã đi vào lịch sử, cùng với
Hiệp định Sơ Bộ 6/3/1946, và Hiệp định Paris 1973 đã trở thành 3 văn
kiện ngoại giao quan trọng nhất trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp,
chống Mỹ của dân tộc ta. Ý nghĩa cũng như tầm quan trọng của nó khơng
những đã nhiều lần được khẳng định trong các văn kiện ngoại giao của
chúng ta, song điều chúng tôi muốn đề cập đến trong bài nghiên cứu này
chỉ dừng lại ở khía cạnh đánh giá vai trị của chính sách đối ngoại trong
đàm phán và ký kết hiệp định Giơnevơ. Vai trò tiền đề trực tiếp của
những thắng lợi quân sự, chính trị có ý nghĩa hết sức lớn lao để đi đến
được bàn đàm phán, nhưng nếu khơng có sự kết hợp của những thành
cơng của ngoại giao thì khơng thể có được một Hiệp định Giơnevơ - đưa
đến một giải pháp tồn diện cả về qn sự và chính trị cho Việt Nam, tuy
giải pháp ấy chưa thực sự có thể làm hài lòng tất cả mọi người. Chúng ta
đã không trối cãi những hạn chế mà chúng ta chưa làm được tại bàn đàm
phán, nhưng theo chúng tôi ngoại giao chúng ta đã làm hết những gì có
thể làm. Lợi ích dân tộc phải phù hợp với xu thế chung của quan hệ quốc
tế, chúng ta đã biết dừng lại trước khi bước vào “vạch đỏ”, địi “già” q
thì chính chúng ta sẽ là người làm hỏng Hiệp định, và địi “non” q thì
chúng ta sẽ là những người bị thiệt. Theo quan điểm của chúng tôi, Hiệp
định này của chúng ta thực sự là một thành cơng. Đó là "sự lựa chọn tốt
nhất”
Hiệp định Giơnevơ đã khép lại và để lại cho chúng ta những kinh nghiệm
quý báu trong quá trình đàm phán tiếp theo tại Hiệp định Paris và những
bài học ngoại giao mang tính thời sự nóng hổi cho cơng cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, thời kỳ mở cửa kinh tế, hội nhập quốc
tế hiện nay.
“Vai trị của chính sách đối ngoại Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà trong đàm
phán và ký kết hiệp định Giơnevơ” - chắc chắn chúng tôi không phải là
những người đầu tiên nghiên cứu về vấn đề này. Những vấn đề nghiên
cứu mà chúng tôi đặt ra có thể chưa hẳn là những gì mới mẻ, và những
kết quả nghiên cứu của chúng tôi chắc chắn cũng sẽ có những hạn chế.
Chúng tơi cũng hy vọng sẽ nhận được sự góp ý của các bạn, và kính
mong những thày cơ phụ trách của chúng tơi sẽ đưa ra cho chúng tôi
những nhận xét, đánh giá, để chúng tơi có thể tiếp tục thảo luận tốt hơn
và có một bài tiểu luận hồn chỉnh hơn về vấn đề này.