Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Thực trạng và giải pháp xóa đói giảm nghèo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.9 KB, 30 trang )

1

MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Vấn đề đói nghèo xuất hiện và tồn tại như một thách thức lớn đối với sự phát
triển bền vững của mỗi quốc gia cũng như của nhân loại. Xoá đói, giảm nghèo trở
thành vấn đề toàn cầu, là một trong tám mục tiêu của thiên niên kỷ. Thế giới đã
lấy ngày 17 tháng 10 hàng năm là “Ngày Thế giới xoá đói, giảm nghèo”. Có thể
nói nghèo đói đang là vấn đề nhức nhối, thách thức đối với sự phát triển hay tụt
hậu của một quốc gia.
Ở nước ta, ngay từ những ngày đầu khi Cách mạng tháng Tám năm 1945
vừa thành công, Chính phủ Cách mạng lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng
đầu vừa được thành lập, phải lo đối phó với thù trong, giặc ngoài, nhưng vẫn
dành sự quan tâm sâu sắc đến việc chăm lo cuộc sống cho nhân dân vừa thoát
khỏi cảnh nô lệ, bị áp bức, bóc lột. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Chính
sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân
dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ
có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi”; và “Dân đủ ăn đủ mặc thì
những chính sách của Đảng và Chính phủ sẽ dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, rét,
dốt, bệnh thì chính sách của ta dù có hay mấy thì cũng không thực hiện được".
Từ sau giải phóng năm 1975 đến nay, đói nghèo vẫn đang là vấn đề kinh tế xã hội bức xúc. Xóa đói, giảm nghèo toàn diện, bền vững luôn luôn được Đảng,
Nhà nước ta hết sức quan tâm và xác định là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội và là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần
phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhiều chương trình, chính
sách hỗ trợ giảm nghèo đã được thực hiện trong phạm vi cả nước và đã mang lại
nhiều chuyển biến tích cực. Tỷ lệ hộ nghèo trong cả nước giảm từ 14,2% cuối
năm 2010 xuống dưới 4,5% năm 2015, đời sống vật chất, tinh thần của người
nghèo đang từng bước được nâng lên đáng kể
Thành phố trong những năm qua cùng với quá trình đô thị hóa của đất nước,


quá trình đô thị hóa của thành phố đã góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã
hội của địa phương, nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt
tích cực, quá trình đô thị hóa cũng đã phát sinh nhiều vấn đề như việc làm cho


2

nông dân mất đất, phương pháp đền bù khi giải phóng mặt bằng, cách thức di
dân, dãn dân, … điều này đã làm cho tỷ lệ hộ nghèo hộ cận nghèo, hộ khó khăn
vẫn còn nhiều, đặc biệt là hộ nghèo thuộc nhóm già cả neo đơn không người thân
thích, hộ nghèo thuộc nhóm ốm đau, mắc các bệnh xã hội...hộ nghèo thiếu kiến
thức, kinh nghiệm trong sản xuất, thiếu vốn, thiếu đất sản xuất, hộ không có lao
động…; và hộ có tư tưởng trông chờ, dựa dẫm vào nhà nước chưa muốn thoát
nghèo...Xuất phát từ thực tiễn đó, lãnh đạo và nhân dân nơi đây đã đề ra nhiều
biện pháp để giúp người nghèo trên địa bàn khắc phục khó khăn, đẩy lùi nghèo
đói. Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ nhưng hiệu quả giảm nghèo
tại địa phương chưa thực sự bền vững, nguy cơ tái nghèo vẫn diễn ra, một bộ
phận nhân dân và cán bộ chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của công tác
giảm nghèo.
Với lí do trên và qua tìm hiểu thực tế về các chủ trương chính sách của Đảng
và Nhà nước về công tác giảm nghèo. Kết hợp với việc nghiên cứu các số liệu về
giảm nghèo hằng năm, tôi nhận thấy vấn đề giảm nghèo trong quá trình đô thị hóa
của thành phố là việc rất cần thiết, cần phải có những giải pháp hợp lý thì công tác
giảm nghèo mới có thể mang lại hiệu quả. Chính vì vậy tôi đã chọn đề tài “Vấn đề
giảm nghèo đô thị tại thành phô. Thực trạng và giải pháp” làm tiểu luận chuyên
đề tự chọn.
2. Mục đích:
Đề tài nghiên cứu đề xuất các giải pháp góp phần giảm nghèo trong quá trình
đô thị hóa trên địa bàn thành phố
3. Kết cấu đề tài:

Ngoài các phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung chính của tiểu luận được trình bày trong ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về nghèo, giảm nghèo đô thị
Chương 2: Thực trạng giảm nghèo đô thị tại thành phố
Chương 3: Giải pháp giảm nghèo đô thị bền vững tại thành phố trong thời
gian đến.


3

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGHÈO, GIẢM NGHÈO ĐÔ THỊ
1.1 Quan niệm về nghèo, nghèo đô thị
1.1.1. Quan niệm về nghèo
Quan niệm về nghèo nói chung rất đa dạng, tùy thuộc vào sự phát triển kinh
tế, thực tiễn và nhận thức ở mỗi quốc gia. Quan niệm này cũng có sự thay đổi theo
thời gian. Theo định nghĩa của Ngân hàng thế giới thì cá nhân hay hộ gia đình
được coi là nghèo khổ khi “không có khả năng để đạt được một mức sống tối thiểu
được đo bằng nhu cầu tiêu dùng cơ bản hoặc thu nhập cần thiết để thỏa mãn các
nhu cầu đó” (Bernstein, 1992). Tại hội nghị về chống nghèo cho khu vực Châu ÁThái Bình Dương tổ chức tại Băng Cốc, Thái Lan tháng 9/1993 do ESCAP
(Economic and Social Commission for Asia and the Pacific), hội đồng kinh tế và
xã hội Châu Á và Thái Bình Dương của Liên Hợp Quốc tài trợ các chuyên gia đưa
ra định nghĩa về nghèo như sau: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không
được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu
này đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế-xã hội và phong
tục, tập quán của địa phương”1 .
Bản thân khái niệm nghèo đói cũng bao hàm các mức độ khác nhau, vì trong
các nhóm dân cư có người thuộc nhóm nghèo nhưng chưa phải nghèo nhất trong
xã hội mà bị rơi vào tình trạng đói kém. Do đó, với cách tiếp cận khác nhau về tình
trạng thiếu thốn sẽ phân biệt ngưỡng nghèo khác nhau. Về cơ bản người ta chia

nghèo ra làm 2 loại:
- Nghèo tuyệt đối (Absolute poverty): là tình trạng một bộ phận dân cư không
được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, tối thiểu của cuộc sống như: ăn,
mặc, nhà ở thích hợp, nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường, chăm sóc y tế và giáo
dục.
- Nghèo tương đối (Relative poverty): là sự nghèo khổ thể hiện ở sự bất bình
đẳng trong quan hệ phân phối của cải xã hội giữa các nhóm xã hội, các tầng lớp
dân cư, vùng địa lý. Trong những xã hội khác nhau, nghèo được định nghĩa dựa
1


4

vào hoàn cảnh xã hội của cá nhân. Nghèo tương đối có thể được xem như là việc
cung cấp không đầy đủ các tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những người
thuộc về một số tầng lớp xã hội nhất định so với sự sung túc của xã hội đó. Nghèo
tương đối có thể là khách quan, tức là sự hiện hữu không phụ thuộc vào cảm nhận
của những người trong cuộc. Người ta gọi là nghèo tương đối chủ quan khi những
người trong cuộc cảm thấy nghèo không phụ thuộc vào sự xác định khách quan.
Bên cạnh việc thiếu sự cung cấp vật chất (tương đối), việc thiếu thốn tài nguyên
phi vật chất ngày càng có tầm quan trọng hơn. Việc nghèo đi về văn hóa-xã hội,
thiếu tham gia vào cuộc sống xã hội do thiếu hụt tài chính một phần được các nhà
xã hội học xem như là một thách thức xã hội nghiêm trọng.
Trong quan niệm truyền thống phổ biến ở nước ta những năm qua chủ yếu
xem xét nghèo dưới góc độ kinh tế: thu nhập và chi tiêu. Với quan niệm hẹp như
vậy, thì thành tựu giảm nghèo có vẻ ấn tượng nhưng chúng ta chưa thấy hết được
mức độ trầm trọng của bức tranh nghèo nước ta. Và đo đó, các giải pháp đưa ra
chưa thực sự hiệu quả, bền vững, các vấn đề xã hội của nghèo đói ngày càng nhức
nhối. Trong báo cáo Phát triển con người (HDR) năm 2010 của Liên Hợp Quốc lần
đầu tiên sử dụng cách tiếp cận mới về đói nghèo, ngoài yếu tố kinh tế: chỉ số nghèo

đa chiều (MPI). Chỉ số nghèo khổ đa chiều (MPI) được phát triển, ứng dụng bởi
OPHI (Oxford Poverty and Human Development Initiative) trực thuộc trường đại
học Oxford và được UNDP ủng hộ. Chỉ số này được mô tả cụ thể chi tiết trong
Báo báo phát triển con người 2010. Chỉ số này thay thể chỉ số nghèo khổ tổng hợp
(HPI) đã được nêu trong các báo cáo phát triển con người thường niên từ 1997.
Chỉ số nghèo khổ đa chiều phản ảnh tất cả phạm vi tác động của nghèo đói. Chỉ số
này được tính toán bằng việc nhân phạm vi ảnh hưởng của đói nghèo (Incidence of
Poverty) và cường độ trung bình tác động lên người nghèo (Average Intensity
Across the Poor). Một người được xác định là nghèo nếu anh hoặc chị ta thiếu ít
nhất 30% các chỉ báo đã được nêu ra. Chỉ số nghèo khổ đa chiều đánh giá được
một loạt các yếu tố quyết định hay những thiếu thốn, túng quẫn ở cấp độ gia đình:
từ giáo dục đến những tác động về sức khỏe, đến tài sản và các dịch vụ. Theo
OPHI và UNDP, những chỉ số này cung cấp đẩy đủ hơn bức tranh về sự nghèo khổ
sâu sắc so với các thang đo về thu nhập giản đơn. Thang đo này biểu lộ cả tính tự


5

nhiên và quy mô của sự nghèo khổ ở các cấp độ khác nhau: từ cấp độ gia đình đến
cấp độ khu vực, cấp độ quốc gia và cấp độ quốc tế. Cách tiếp cận đa chiều mới
trong việc đánh giá mức độ nghèo khổ được điều chỉnh để sử dụng ở cấp quốc gia
ở Mexico và hiện nay đang được xem xét áp dụng ở Chile và Colombia.
1.1.2. Nghèo đô thị
Nghèo đô thị là gì và đâu là đặc điểm riêng mang tính đặc thù của nghèo đô
thị quả là một câu hỏi lớn đối với những người nghiên cứu về nghèo đói nói chung,
nghèo đô thị nói riêng. Điều này khiến nhà nghiên cứu phải chỉ ra những đặc điểm,
dấu hiệu hết sức riêng tiêu biểu cho nghèo đói đô thị không giống như đặc điểm
thường thấy ở nghèo nông thôn. Sự đa dạng và phức tạp của nghèo đô thị chính là
do cơ cấu kinh tế - xã hội, mô típ văn hóa - xã hội, lối sống của cộng đồng cư dân
trong môi trường đô thị. Việc phân tích và chỉ rõ các đặc trưng, bản chất của nghèo

đô thị giúp chúng ta thiết kế các công cụ chính sách hiệu quả hơn để giải quyết vấn
đề đô thị nan giải này.
Theo World Bank thì nghèo đô thị là một hiện tượng đa chiều cạnh. Người
nghèo đô thị sống với rất nhiều sự túng thiếu. Các thách thức hàng ngày có thể bao
gồm2:
- Sự tiếp cận hạn chế các cơ hội việc làm và thu nhập
- Điều kiện nhà ở và các dịch vụ thiếu thốn và thiếu an toàn, bấp bênh
- Môi trường bạo lực, không có lợi cho sức khỏe
- Không có hoặc ít các cơ chế bảo vệ về mặt xã hội
- Sự tiếp cận hạn chế các cơ hội giáo dục và chăm sóc sức khỏe đầy đủ
Nhưng nghèo đô thị không chỉ là một sự tập hợp các đặc điểm, nó còn biểu
hiện ở tính dễ tổn thương hay sự nhạy cảm của người nghèo trước các rủi ro. Đặc
điểm của nghèo đô thị xuất phát từ đặc thù của xã hội đô thị. Nơi đây cung cấp cơ
hội cho rất nhiều người như cơ hội việc làm, học tập, các dịch vụ đa dạng,…đồng
thời các vấn đề mặt trái của nó là cuộc sống đông đúc, chật chội; tắc đường; thất
nghiệp; thiếu các mạng lưới cộng đồng xã hội như ở nông thôn, bất bình đẳng và
2


6

phân hóa giàu nghèo sâu sắc; các vấn đề xã hội nổi cộm như tội phạm, bạo lực.
Trong khi rất nhiều người hưởng lợi từ xã hội đô thị thì một số khác kỹ năng kém,
thiếu thông tin và các mạng lưới xã hội, những người già, tàn tật thì bị bỏ lại phía
sau và dần bị gạt ra bên lề của sự phát triển và với sự khốc liệt của cuộc mưu sinh
nơi đô thị họ mất dần đi cơ hội vươn lên trong cuộc sống, nhiều người rơi vào
vòng xoáy không lối thoát. Tính khốc liệt của xã hội đô thị với những người dễ bị
tổn thương và yếu thế gây ra nhức nhối không chỉ cho người nghèo mà cho cộng
đồng xã hội nói chung. Do đó, vấn đề nghèo đô thị đang ngày càng nhận được sự
quan tâm của các nhà nghiên cứu và những người làm chính sách.

1.1.2.1. Một số chiều cạnh của nghèo đô thị
Deniz Baharoglu và Christine Kessides chỉ ra 5 chiều cạnh của nghèo đô thị:
thu nhập/chi tiêu, sức khỏe, giáo dục, an ninh và trao quyền. Trong tính đặc thù
của đô thị các chiều cạnh này thể hiện như sau:
- Thu nhập: người nghèo tại các đô thị cần tiền mặt để mua các dịch vụ và
hàng hóa thiết yếu (không như ở nông thôn các mặt hàng thiết yếu có thể tự cung
tự cấp). Nguồn thu nhập không ổn định do công việc bấp bênh, lương thấp (do
thiếu hoặc không có kỹ năng, bằng cấp của người nghèo) khiến họ đối mặt với
nguy cơ thiếu hụt hoặc không đáp ứng được các nhu cầu cơ bản trong cuộc sống;
không có khả năng đảm nhận công việc ổn định do sức khỏe kém; thiếu cơ hội tiếp
cận việc làm (người nghèo đô thị thường phải cân nhắc giữa thuê nhà xa cho rẻ và
do đó cũng phải đi làm xa).
- Sức khỏe: Người nghèo đô thị phải sống trong điều kiện sống mất vệ sinh và
chật chội, tại nhiều thành phố cũ thường có khu công nghiệp xen kẽ trong khu dân
cư dẫn đến vấn đề ô nhiễm công nghiệp và ô nhiễm khói bụi, tiếng ồn từ giao
thông. Người nghèo thường phải sống ở các khu ngoài rìa, dễ bị ảnh hưởng bởi các
vấn đề môi trường như lở đất và lụt lội; các nguy cơ bệnh tật do chất lượng nguồn
nước và không khí kém, thiếu vê sinh; nguy cơ chấn thương và tử vong do giao
thông; các rủi ro nghề nghiệp như điều kiện làm việc không an toàn ở những khu
vực không chính thức.


7

- Giáo dục: tại các đô thị, do lượng người nhập cư nhiều và quá trình tăng dân
số diễn ra nhanh dẫn đến tình trạng thiếu trường lớp cho học sinh và con em những
gia đình nghèo là những người dễ bị ảnh hưởng nhất, cộng với việc khó khăn trong
việc chi trả học phí và các khoản đóng góp khác cũng dễ dẫn đến việc các em bỏ
học sớm,…các nguy cơ về an toàn cá nhân như học về khuya cũng ngăn cản các
em tiếp cận các cơ hội giáo dục.

- An ninh: Nhà cửa xây dựng không đảm bảo an toàn và khả năng chống chọi
thiên tai kém cũng là một nguy cơ mất an ninh; vấn đề bạo lực gia đình, lạm dụng
bia rượu, chất kích thích của thành viên trong gia đình, gia đình tan vỡ do ly dị và
các nguyên nhân khác làm giảm sự hỗ trợ cho trẻ em, môi trường xã hội đa dạng,
bất bình đẳng thu nhập tăng dễ dẫn các em đến con đường phạm tội.
- Trao quyền: Tính không chính đáng của nơi cư trú và việc làm (nhà ở chưa
có giấy tờ hợp lệ hay vấn đề hộ khẩu) ảnh hưởng đến việc học hành, khám chữa
bệnh và các quyền lợi cơ bản khác của con em hộ nghèo; sự cô lập của người
nghèo với cộng đồng (người nghèo thường sống ở các xóm nhỏ cách biệt hay tự xa
cách với cộng đồng do không có đủ chi phí cho các khoản đóng góp và các chi phí
cho quan hệ xã hội khác như ma chay, cưới hỏi, giỗ chạp,…dẫn đến việc khó kết
nối với các cơ hội việc làm, các dịch vụ thiết yếu khác; thiếu các kênh thông tin để
tìm việc, hiểu biết các quyền lợi chính đáng như tiêm chủng, học hành, hỗ trợ của
nhà nước thậm chí một số người rơi vào tình trạng mất quyền lợi và nghĩa vụ của
một công dân.
Nghèo đô thị mang tính chất tích tụ, sự thiếu hụt của một hoặc một vài chiều
cạnh này có thể dẫn tới làm trầm trọng hơn các vấn đề khác, ví dụ như học vấn
thấp làm ảnh hưởng đến khả năng xin việc, thu nhập của cá nhân và các nguy cơ
sức khỏe, an ninh do nhà ở không an toàn,…Do đó trong nhiều trường hợp khó
nhận định nhân quả của các chiều cạnh này. Đây gọi là bẫy nghèo mà người nghèo
đô thị khó thoát ra được. Theo Moser, Gatehouse, và Garcia (1996b) trong bối
cảnh đô thị thì nghèo đói và tính dễ bị tổn thương có thể liên quan đến ba nét đặc
trưng của đời sống đô thị: tiêu dùng hóa (dựa vào kinh tế tiền mặt), rủi ro môi
trường (mật độ dân cư đông đúc với nhiều nguồn ô nhiễm) và phân đoạn xã hội


8

(thiếu cộng đồng, tình xóm giềng cho an sinh xã hội, trong so sánh với nông thôn).
Tính dễ bị tổn thương có liên quan gần gũi với việc sở hữu tài sản, hay nói cách

khác càng sở hữu ít tài sản tính rủi ro càng cao, càng dễ bị tổn thương. Các loại tài
sản ở đây là lao động; vốn con người-sức khỏe, đào tạo và kỹ năng; nhà ở; vốn xã
hội. Cả hai cách tiếp cận phân tích nghèo đô thị (tiếp cận đa chiều cạnh và tiếp cận
dựa trên tính dễ bị tổn thương và sở hữu tài sản) thực tế có sự bổ sung cho nhau.
1.1.2.2. Đánh giá nghèo đô thị:
Tiêu chí đầu tiên để đánh giá về nghèo dựa trên thu nhập (hoặc chi tiêu) mà
các nhà khoa học thường dựa trên rổ hàng hóa thiết yếu. Tiêu chí này cũng giúp
nhà nghiên cứu dễ dàng định lượng được. Các tiêu chí xã hội khác như tuổi thọ
trung bình và tử vong trẻ sơ sinh cũng rất quan trọng trong đánh giá. Đánh giá
nghèo đô thị chúng ta cần xem xét trên phạm vi rộng, cần có so sánh giữa các đô
thị lớn, đô thị tầm trung, đo thị nhỏ hơn.
Người nghèo đô thị có thể là nghèo kinh niên hay nghèo tạm thời. Nhóm
người nghèo kinh niên có thể là những người già cả, không nơi nương tựa, người
tàn tật, nạn nhân chất độc da cam, người mất khả năng lao động, thiếu các phương
kế sinh sống cơ bản nhất,…là những người cần sự trợ giúp thường xuyên của nhà
nước, xã hội. Nhóm nghèo tạm thời do nhiều nguyên nhân như thiếu vốn, kỹ năng,
thông tin hoặc do các biến cố từ thay đổi chính sách vĩ mô, rủi ro thị trường,…
nhưng họ còn sức lao động và có khả năng thoát nghèo. Các nghiên cứu giảm
nghèo cần tập trung vào đối tượng này để tìm hiểu nguyên nhân, đặc điểm và nhu
cầu thực tế của họ để giúp họ vươn lên thoát nghèo bền vững.
1.2 Chuẩn nghèo và các tiêu chí đánh giá hiệu quả giảm nghèo
1.2.1. Chuẩn nghèo
Việc xác định chuẩn nghèo phù hợp với đặc điểm và tính chất của người
nghèo có vai trò quan trọng trong việc đánh giá thực tiễn và đưa ra các giải pháp
chính sách phù hợp nhằm giải quyết vấn đề này. Đây là tiêu chí cơ bản để xác định
một hộ gia đình đưa và diện xóa đói, giảm nghèo của thành phố. Tiêu chí này phải
phản ánh thực chất nghèo của dân cư đặc thù nông thôn hay đô thị, trong đó có tính
đến nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu (đủ ăn và đủ chất), đủ mặc, tình trạng nhà ở



9

không dột nát, không gian sinh sống tối thiểu, ốm đau được chữa bệnh, trẻ em
được đi học, các quan hệ xã hội khác, vệ sinh môi trường đảm bảo, tiếp cận các
dịch vụ xã hội cơ bản và nhu cầu vui chơi giải trí,…Điều đó phản ánh tính đa chiều
trong tiếp cận nghèo đô thị chứ không chỉ dừng lại ở yếu tố thu nhập/chi tiêu. Căn
cứ trên chuẩn này thì số lượng nghèo đô thị có thể cao hơn so với con số các cơ
quan chức năng công bố.
Trong thực tiễn xác định chuẩn nghèo của Việt Nam, với các tiêu chí đưa ra
chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn về tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo
trong hai thập kỷ qua. Nếu sử dụng chuẩn nghèo “dựa theo nhu cầu cơ bản” như
thống nhất từ đầu vào đầu thập kỷ 1990, tỷ lệ nghèo tính theo đầu người giảm từ
58% vào đầu thập kỷ 1990 xuống 14,5% năm 2008 và khoảng dưới 10% năm
2010. Tuy nhiên Việt Nam hiện nay sử dụng hai cách tiếp cận rất khác nhau để đo
lường tình trạng nghèo và theo dõi tiến trình giảm nghèo theo thời gian. Cách tiếp
cận thứ nhất do Bộ Lao động, thương binh và xã hội xây dựng, sử dụng phương
thức “đi từ dưới lên trên” gồm các cuộc khảo sát tại địa phương và các cuộc tham
vấn tại làng, xã để xác định số người nghèo tại cấp xã. Các số liệu xác định về số
người nghèo tại cấp địa phương này sau đó được tổng hợp lại để ước tính tỷ lệ
nghèo cho cấp tỉnh và cấp quốc gia. Các chuẩn nghèo của bộ này ban đầu được
quy đổi ra thóc nhưng từ năm 2005 được tính theo phương pháp tiếp cận dựa vào
chi phí cho những nhu cầu cơ bản. Các chuẩn nghèo chính thức không được điều
chỉnh theo mức lạm phát nhưng được xác định lại giá trị thực năm năm một lần
(mức thời gian tương đối dài so với những biến động của giá cả và nhiều yếu tố chi
phối khác). Bộ LĐ-TB-XH sử dụng chuẩn này để xác định việc phân bổ ngân sách
và đề ra điều kiện áp dụng cho các chương trình giảm nghèo mục tiêu. Cách tiếp
cận thứ hai do Tổng cục thống kê chủ trì xây dựng, thực hiện việc đo lường nghèo
đói và giám sát tiến trình giảm nghèo trên cơ sở các cuộc khảo sát hộ gia đình làm
đại diện cho toàn quốc. TCTK sử dụng 2 phương pháp khác nhau để đo lường
nghèo đói, một phương pháp dựa trên các chuẩn nghèo chính thức (điều chỉnh theo

lạm phát) áp dụng cho thu nhập bình quân đầu người và một phương pháp sử dụng
cách tiếp cận do Tổng cục thống kê và Ngân hàng thế giới xây dựng vào cuối thập
kỷ 1990: 2.100 kcal/người/ngày cộng với một phần phân bổ của nhu cầu hàng phi


10

lương thực thiết yếu dựa trên xu hướng tiêu dùng của người nghèo. Việc sử dụng
hai hệ thống riêng biệt trong đánh giá và đo lường chuẩn nghèo tạo ra những đánh
giá khác nhau về nghèo đói, đôi khi gây phức tạp cho nhà tại trợ và các nhà nghiên
cứu.
Năm 2010, Tổng cục thống kê và Ngân hàng thế giới cập nhật chuẩn nghèo
mới, phản ánh tốt hơn điều kiện sống của người nghèo. Dựa trên chuẩn nghèo mới
này (tương đương 653.000 đồng/người/tháng hoặc 2,25 USD/người/ngày, PPP
2005) và hệ thống theo dõi nghèo cập nhật, tỷ lệ nghèo của cả nước năm 2010 là
20,7% so với tỷ lệ chính thức là 14,2% sử dụng chuẩn nghèo của Bộ Lao động,
thương binh và xã hội (500.000 đồng/người/tháng cho thành thị và 400.000
đồng/người/tháng cho nông thôn).
Thủ tướng chính phủ ký ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo giai đoạn
2011-2015 như sau: ở nông thôn hộ nghèo là hộ có mức thu nhập bình quân từ
400.000 đồng/người/tháng (từ 4,8 triệu đồng/người/năm) trở xuống. Hộ nghèo
thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000 đồng/người/tháng (từ 6 triệu
đồng/người/năm) trở xuống. Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình
quân từ 401.000 đồng đến 520.000 đồng/người/tháng. Hộ cận nghèo thành thị là hộ
có mức thu nhập bình quân từ 501.000 đồng đến 650.000 đồng/người/tháng 3. Tuy
nhiên, cách tiếp cận chuẩn nghèo này chúng ta mới chỉ thấy rõ yếu tố thu nhập mà
chưa xác định được các chiều cạnh khác của nghèo đô thị.
1.2.2 Các tiêu chí đánh giá hiệu quả giảm nghèo
Do hiện nay chúng ta đánh giá nghèo đói theo cách tiếp cận đa chiều nên việc
xem xét hiệu quả giảm nghèo cũng cần mang tính đa chiều, tính đến cả yếu tố kinh

tế (thu nhập/chi tiêu) và các chiều cạnh phi kinh tế4:
Thứ nhất, dựa trên tiêu chí thu nhập, bao gồm các nguồn thu chính, phụ; tính
ổn định của nguồn thu đó.
Thứ hai, tình trạng, tính hợp pháp và ổn định của nhà ở. Thường thì người
nghèo sống trong những căn nhà không kiên cố, bán kiên cố nóng về mùa hè, lạnh
3
4


11

vào mùa đông và mất an toàn khi xảy ra bão lụt và các thiên tai khác. Diện tích nhà
ở của họ cũng thường chật hẹp, bất tiện cho sinh hoạt của các thành viên trong gia
đình. Một số hộ thì sống tại các khu giải tỏa đền bù, không ổn định và có nguy cơ
mất nơi cư trú bất cứ lúc nào bởi đây là các khu nhà tạm bợ, bất hợp pháp. Điều
này ảnh hưởng đến việc tiếp cận các sự trợ giúp từ chính quyền đối với các khoản
vay ưu đãi và các dịch vụ công khác.
Thứ ba, các tiêu chí vệ sinh môi trường, kết cấu hạ tầng. Các chỉ số ô nhiễm
tại các khu vực hộ nghèo thường cao, không chỉ có vấn đề ô nhiễm nguồn nước,
không khí, đất mà còn cả ô nhiễm tiếng ồn (do giao thông, hàng xóm mở nhạc to,
các xưởng cơ khí gây ồn, cãi vã,…) rất phổ biến ở các khu nhà thu nhập thấp, khu
nghèo. Mật độ cư trú tại cao cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng cuộc
sống và ô nhiễm môi trường tại khu dân cư. Kết cấu hạ tầng tại các nơi này thường
kém dẫn đến nguy cơ lụt vào mùa mưa, nguy cơ cháy nổ cao, và thiếu các khu vui
chơi giải trí cho trẻ em và người lớn.
Thứ tư, tiếp cận các dịch vụ, cơ sở chăm sóc sức khỏe. Người nghèo có
được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản không? Họ dành bao nhiêu
tiền cho chăm sóc sức khỏe định kỳ hay các khoản do ốm đau đột xuất? Các hộ
nghèo bản xứ nhận được thẻ bảo hiểm y tế miễn phí còn các hộ nghèo di cư, không
có bảo hiểm y tế xoay sở chi trả các chi phí này như thế nào?

Thứ năm, tiếp cận giáo dục, trước hết là bậc tiểu học và bậc phổ thông dành
cho các em học sinh theo tiêu chuẩn phổ cập giáo dục quốc gia.
Thứ sáu, trình độ học vấn và chuyên môn của người trong độ tuổi lao động.
Đây là một trong các yếu tố quan trọng giúp các cá nhân bứt ra khỏi bẫy nghèo,
tăng cơ hội tìm kiếm việc làm ổn định, thu nhập khá.
Thứ bảy, qui mô hộ gia đình. Các nhà nghiên cứu nghèo đô thị tại thành phố
Hồ Chí Minh và Hà Nội chỉ ra rằng qui mô hộ gia đình có một mối tương quan
nhất định với mức độ nghèo của các hộ gia đình, theo đó thì qui mô hộ gia đình
càng lớn, số người phụ thuộc càng đông thì hộ gia đình đó càng nghèo và khó thoát
nghèo.


12

Thứ tám, nhu cầu vui chơi, giải trí. Đây được coi là một kênh tái tạo sức lao
động và làm tăng khả năng sáng tạo cho người dân thường bị lãng quên hay đánh
giá thấp ở nơi cư trú của các khu dân cư nghèo.
Thứ chín, tiếp nhận thông tin pháp luật và các kênh thông tin đại chúng
khác. Sống trong thời đại phát triển công nghệ thông tin mạnh mẽ, và đặc biệt là tại
các đô thị, nơi thông tin phổ biến và phổ cập rộng rãi thì việc không tiếp cận hay
tiếp cận hạn chế thông tin là một thiệt thòi lớn của người nghèo.
Thứ mười, vốn xã hội. Vốn xã hội được hiểu như các quan hệ xã hội, các
mạng lưới xã hội có thể trợ giúp người nghèo trong những lúc khó khăn, giúp họ
các cơ hội việc làm, nâng cao tri thức, kinh nghiệm cả trong công việc và cuộc
sống hay có thể mang tính chất giải trí, tiêu khiển để tái tạo sức lao động. Người
nghèo đô thị thường tham gia các mối quan hệ xã hội nào? Khả năng duy trì và
phát triển các mối quan hệ xã hội của họ?
Thứ mười một, mức độ lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của các cấp chính
quyền. Ở khía cạnh này chúng ta cần lưu ý một số vấn đề là liệu tiếng nói, tâm tư,
nguyện vọng của người nghèo có đến được những người có trách nhiệm? Liệu

những người này có lắng nghe và quan tâm đến những ý nguyện đó? Trong thực tế,
người nghèo tại các đô thị thường là những người có trình độ học vấn thấp, họ
không biết diễn giải các vấn đề của mình, hoặc trình bày không cách rõ ý dẫn đến
nhiều nhu cầu chính đáng của họ bị bỏ qua. Hơn nữa khả năng kinh tế hạn chế
cộng với các lo toan mưu sinh khiến họ không còn quan tâm đến những thông tin
về chính sách hay nhiều thủ tục hành chính rắc rối có thể ngăn cẩn họ nhận được
các quyền lợi của mình.
Đây là một số các tiêu chí đánh giá hiệu quả giảm nghèo mà trong các
nghiên cứu về nghèo đô thị người ta đã tổng kết được. Có thể còn nhiều tiêu chí
khác để đo lường tùy thuộc vào điều kiện cụ thể, sự phát triển kinh tế xã hội của
từng đô thị và trình độ dân trí của các nhóm dân cư tại đô thị đó. Trong từng tiêu
chí nêu trên người ta cũng xem xét để đưa ra các ngưỡng cao thấp khác nhau để đo
lường, căn cứ vào điều kiện thực tế và khả năng giải quyết vấn đề của chính quyền
đô thị. Và cũng tùy tình hình thực tế mà chúng ta quyết định chọn các tiêu chí nào


13

làm thước đo hiệu quả giảm nghèo, nhưng về cơ bản phải bám lấy các tiêu chí cơ
bản như thu nhập, giáo dục, y tế, tiếp cận các dịch vụ cơ bản.
1.3. Nguyên nhân và tính đặc thù của nghèo đô thị
1.3.1 Nguyên nhân
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự trầm trọng trong vấn đề nghèo đô thị, có
thể nêu ra đây một số nguyên nhân cơ bản như sau:
Thứ nhất, chính sách của cả Chính phủ trung ương và địa phương còn một số
bất cập, qui hoạch và quản lý phát triển đô thị yếu kém.
Thứ hai, các nguồn lực và khả năng còn hạn chế. Ở nước ta mặc dù Đảng và
Chính phủ rất quan tâm giải quyết vấn đề nghèo đói, trong đó có người nghèo đô
thị nhưng với nguồn lực tài chính còn hạn hẹp, số lượng các đối tượng chính sách
đông nên nguồn ngân sách dành cho giảm nghèo thường bị dàn trải, chưa đáp ứng

được yêu cầu. Hơn nữa, nghèo đô thị còn là vấn đề tương đối mới, chỉ xuất hiện rõ
nét trong những năm sau đổi mới nên kiến thức và kinh nghiệm của đội ngũ nghiên
cứu và thực hành còn có hạn chế. Với sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế như
World bank, UNDP,…cả về kinh nghiệm và tài chính hy vọng chúng ta sẽ đạt
được kết quả khả quan trong những năm tiếp theo.
Thứ ba, kỹ năng, tay nghề của đa số người nghèo đô thị còn chưa cao, ít qua
các lớp đào tạo bài bản. Điều đó làm giảm khả năng kiếm việc làm với thu nhập
cao tại các khu vực lao động chính thức. Người nghèo đô thị chủ yếu lao động tại
các khu vực phi chính thức với thu nhập thấp, không ổn định, nhiều rủi ro và thiếu
đi các quyền lợi chính đáng được qui định trong Bộ luật lao động.
Thú tư, tiếp cận thông tin, vốn của người nghèo còn nhiều hạn chế. Việc hạn
chế tiếp cận thông tin làm giảm tính nhạy bén thị trường, giảm kiến thức và cơ hội
vươn lên của người nghèo. Các thông tin có thể bao gồm thông tin trong lĩnh vực
thị trường, luật pháp, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, môi trường, vui chơi giải trí,…
Tiếp cận nguồn vốn cũng là một vấn đề nan giải với họ khi người nghèo không có
hoặc có ít tài sản thế chấp, trong nhiều trường hợp có thể vay mượn bằng hình thức
tín chấp thì cũng vướng phải các thủ tục giải ngân rườm rà, phức tạp, thậm chí
nhiều người phải lót tay mới mong vay được vốn làm ăn.


14

Thứ năm, một số người nghèo còn tâm lý trông chờ, ỷ lại vào nhà nước và
cộng đồng. Đây là một thực tế khi mà trong thời gian đầu thực hiện chính sách xóa
đói giảm nghèo chúng ta quá chú trọng đến sự hỗ trợ của nhà nước mà chưa quan
tâm nhiều đến việc tác động tâm lý, khuyến khích tính chủ động, sáng tạo vươn lên
của người nghèo. Lâu dần những người này quen với việc nhận trợ cấp từ nhà
nước và các tổ chức xã hội mà quên đi trách nhiệm của bản thân trong việc tự vươn
lên thoát nghèo. Vấn đề này chỉ có thể giải quyết bằng các giải pháp chính sách
như cắt giảm trợ cấp nếu trong thời hạn 6 tháng đến 1 năm nhà nước đã hỗ trợ học

nghề mà không chịu nỗ lực tìm việc làm, thực hiện tuyên truyền thông qua các
hoạt động thực tế như các hội thi, các gương điển hình trong thoát nghèo,…
1.3.2. Tính đặc thù của nghèo đô thị
Nghèo khổ đô thị luôn gắn với khả năng tiếp cận đến một thị trường lao
động đô thị, trong đó người nghèo thường không có khả năng tiếp cận đến hoặc có
vị trí rất thấp và không ổn định trong thị trường này (nói cách khác họ thường lao
động ở khu vực không chính thức, nơi có thu nhập thấp, bấp bênh, mất an toàn lao
động, không được hưởng đầy đủ các quyền lợi được qui định trong Luật lao động,
…). Trong khi đó ở nông thôn nghèo khổ liên quan đến việc tiếp cận quyền sử
dụng đất, phương tiện chính tạo ra thu nhập cho hộ gia đình. Trong tương quan so
sánh với người nghèo nông thôn, người nghèo đô thị có một số đặc thù sau:
Thứ nhất, người nghèo đô thị thường phải chi trả nhiều hơn so với người
nghèo nông thôn trong nhiều khoản phí cơ bản, từ ăn uống, phí sinh hoạt, nước
sạch, giao thông, vui chơi giải trí, thu gom rác,…trong khi ở nông thôn người ta có
thể giải quyết các vấn đề này tự cung, tự cấp, hay nói cách khác họ sống trong xã
hội chi tiêu tiền mặt trong khi các khoản thu nhập thấp, bấp bênh dẫn đến tính dễ
bị tổn thương của người nghèo đô thị. Họ đặc biệt dễ bị tổn thương với các biến
động từ thị trường và các bất ổn kinh tế vĩ mô như hiện tượng lạm phát, giảm phát
hay phí nguyên, nhiên liệu tăng cao.
Thứ hai, người nghèo đô thị thường phải gánh chịu các rủi ro về mặt sức khỏe
do sống trong môi trường chật chội, đông đúc, mất vệ sinh ô nhiễm môi trường tự
nhiên: không khí, tiếng ồn, ô nhiễm nguồn nước, ánh sáng,…;ô nhiễm môi trường


15

xã hội: tệ nạn xã hội, bạo lực, dễ tiêm nhiễm văn hóa phẩm độc hại vốn rất phổ
biến ở các đô thị… và các vấn đề khác của xã hội đô thị như tai nạn giao thông, sự
phức tạp trong các mối quan hệ xã hội,….
Thứ ba, khó tham gia vào các mạng lưới xã hội, làm giảm ‘vốn xã hội’. Đặc

thù của xã hội đô thị thể hiện ở lối sống tương đối tách biệt giữa các cá nhân, gia
đình, hơn nữa người nghèo không có điều kiện về công việc và tài chính để thiết
lập và duy trì các mối xã hội lâu dài, họ dần bị dồn về các khu vực riêng rẽ, biệt
lập. Các mối quan hệ xã hội, mạng lưới xã hội đôi khi đem lại cho cá nhân các cơ
hội lớn lao không thể đong đếm bằng tiền, từ tri thức, kinh nghiệm đến cơ hội làm
ăn, giúp đỡ nhau lúc khó khăn, hoạn nạn,…Điều đó dẫn đến việc giảm cơ hội thoát
nghèo cho nhóm xã hội này5.

5

Nguyễn Duy Thắng. Nghèo khổ đô thị: các nguyên nhân và yếu tố tác động. Xã hội học số 1(81). 2003


16

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG GIẢM NGHÈO ĐÔ THỊ TRÊN TẠI
THÀNH PHỐ GIAI ĐOẠN 2011-2015
2.1 Khái quát chung về tình hình thành phố
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
2.1.2. Kinh tế

2.1.3. Xã hội
2.2. Thực trạng công tác giảm nghèo đô thị tại thành phố giai đoạn
2011-2015
2.2.1. Kết quả thực hiện các chương trình, chính sách hỗ trợ giảm nghèo
đô thị
2.2.1.1 Các cơ chế, chính sách dự án, giảm nghèo của Trung ương
- Chính sách hỗ trợ tiền điện thắp sáng cho hộ nghèo: bắt đầu triển khai từ
tháng 3 năm 2011, đến nay đã hỗ trợ cho 6.832 hộ nghèo với số tiền 2.444,39 triệu

đồng.
- Chính sách tín dụng ưu đãi cho vay hộ nghèo và đối tượng chính sách khác:
Từ năm 2011- 2015, đã tiến hành cho vay ưu đãi cho hộ nghèo, HSSV nghèo, có
hoàn cảnh khó khăn, cho vay sản xuất kinh doanh vùng khó khăn, vay xuất khẩu
lao động, cho vay đầu tư công trình nước sạch vệ sinh môi trường, hỗ trợ hộ nghèo
về nhà ở theo Quyết định 167/2008/QĐ-TTg với tổng số tiền trên 61 tỷ đồng với
tổng số 6.529 hộ được vay.
- Chính sách Khuyến nông, lâm, ngư: Từ năm 2011 – 2015, Trung tâm ứng
dụng chuyển giao kỹ thuật nông nghiệp, Phòng Kinh tế và các Phòng, Ban, ngành
liên quan đã xây dựng Chương trình lồng ghép để hỗ trợ, chuyển giao các tiến bộ
khoa học kỹ thuật trong sản xuất tiểu thủ công nghiệp, nông ngư, chuyển đổi cơ
cấu cây trồng, con vật nuôi. Tổ chức tập huấn nhiều lớp khuyến nông (thủy sản,
chăn nuôi, trồng trọt); tập huấn, tuyên truyền ở 49 điểm về áp dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật vào sản xuất, tập huấn kiến thức nuôi trồng thuỷ sản, nuôi heo hướng
ngoại, nuôi bồ câu lai, sản xuất nấm bào ngư, trồng hoa cây cảnh…có 3.013 lượt
đối tượng tham dự. Qua tập huấn, xây dựng 01 mô hình điểm trồng nấm bào ngư


17

và triển khai 5 ha rau sạch ; đẩy mạnh phát triển các làng nghề truyền thống như
đóng sửa tàu thuyền, chế biến trà hương, dệt chiếu cói.
- Xã hội hóa công tác giảm nghèo được nhân rộng, nhiều mô hình đã thu hút
sự tham gia của toàn xã hội. Vai trò UBMTTQVN thành phố và các tổ chức hội,
đoàn thể được phát huy, các phong trào thi đua, những cách làm sáng tạo hỗ trợ
cho các hội viên về phương pháp và kiến thức làm ăn để phát triển kinh tế. Phong
trào nhận đỡ đầu, trao phương tiện sản xuất, giúp đỡ hội viên thoát nghèo bằng
nhiều hình thức. Nhiều mô hình giảm nghèo phát huy có hiệu quả như: duy trì và
xây dựng mới trên 341 nhóm góp vồn quay vòng, tiết kiệm - tín dụng, tín dụng –
tiết kiệm trên 6.776 chị tham gia, phong trào vận động giúp nhau phát triển kinh tế

để thoát nghèo (hỗ trợ vốn, con giống, phương tiện sản xuất như xe nước mía, máy
trộn bê tông, máy gặt,... ) đã được quan tâm vận động thực hiện, đã có trên 1.562
lượt hộ được trợ giúp với tổng số tiền trên 3 tỷ đồng. Các ban, ngành, đoàn thể và
địa phương đã tiến hành đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức đối
với người dân về ý nghĩa, mục tiêu và chủ trương của Đảng, Nhà nước về giảm
nghèo. Từ đó đề cao trách nhiệm và dần xóa bỏ sự ỷ lại, trông chờ và sự hỗ trợ của
Nhà nước, qua đó nhiều hộ tự vươn lên thoát nghèo.
- Quỹ “Ngày vì người nghèo”: Từ năm 2011 - 2015 đã vận động:
12.685,41898 triệu đồng.
2.2.1.2. Các cơ chế, chính sách dự án, giảm nghèo đặc thù của tỉnh
(Quyết định 832/QĐ-UBND ngày 16/3/2012 của UBND tỉnh)
- Thực hiện cấp bù 50% học phí cho sinh viên nghèo theo Quyết định
832/QĐ-UBND: Từ năm 2012 đến 2015 đã hỗ trợ cho trên sinh viên với số tiền
trên: 60 triệu đồng.
- Thực hiện Quyết định 2813/QĐ-UBND: Trong năm 2015 đã hỗ trợ cho
186 hộ đăng ký thoát nghèo (5 triệu đồng/ hộ) với số tiền 930 triệu đồng. Ngoài ra,
còn bảo lưu các chính sách về ưu đãi trong giáo dục, cấp thẻ bảo hiểm y tế, hố trợ
lãi suất vay vốn.
- Số người cận nghèo đã được hỗ trợ 30% tiền mua thẻ BHYT trong 2 năm 2012
và 2013 là 14.785 người.
2.2.1.3. Ngoài cơ chế, chính sách chung của Trung ương và của tỉnh


18

Thành phố vận động từ nhiều nguồn, hỗ trợ cho 115/139 đối tượng già cả
neo đơn, khuyết tật, ốm đau nặng thuộc diện hộ nghèo mỗi tháng 300.000 đồng/
đối tượng.
2.3. Đánh giá chung kết quả giảm nghèo đô thị tại thành phố
2.3.1. Kết quả đạt được và nguyên nhân

2.3.1.1. Kết quả thực hiện mục tiêu giảm nghèo đô thị từ năm 2011-2015
Bảng kết quả thực hiện mục tiêu giảm nghèo từ năm 2011 -2015
So
sánh
S
T

Đơn

Chỉ tiêu

vị

chung

T

2011

2012

2013

tính

201
4

Kế
hoạch

2015

tăng,
giảm
trong 5
năm
(20112015)

1
2
3

Tổng

số

xã,



13

13

13

13

13


0

thôn

109

109

109

109

109

0

Hộ

27.442

28.18

28.62

29.09

29.09

Tổng số hộ nghèo


Hộ

1.736

1.352

Tỷ lệ hộ nghèo

%

6,33

Hộ
%

phường
Tổng số thôn
Tổng số hộ trên
địa bàn

0

4

1.653

5

5


1.021

589

430

- 1.306

4,8

3,57

2,02

1,48

- 4,85

2.507

2.229

1.795

1.253

906

- 1.601


9,14

7,91

6,27

4,31

3,11

- 6,03

4
Tổng số hộ cận
5

nghèo
Tỷ lệ
nghèo

hộ

cận

(Nguồn: Phòng Lao động- thương binh Xã hội TP

)

Bên cạnh thực hiện có hiệu quả các chính sách xã hội của Trung ương, Tỉnh,
Thành phố, việc thực hiện chương trình mục tiêu việc làm của thành phố đã giải

quyết việc làm cho hơn 4.600 lao động mỗi năm, góp phần thực hiện xoá đói giảm
nghèo một cách bền vững, trong đó giải quyết việc làm tại chỗ đạt trên 50%. Tỷ lệ
lao động qua đào tạo từ 42% năm 2010 tăng lên 59% năm 2014, dự kiến năm 2015
đạt 65%. Giải quyết việc làm thông qua vay vốn hàng năm trên 350 lao động với
tổng số tiền trên 6,9 tỷ đồng. Công tác quản lý nguồn vốn chặt chẽ, các dự án sử


19

dụng vốn có hiệu quả, phát huy tác dụng; tập trung cho vay các dự án quy mô vốn
lớn, tổ hợp sản xuất thu hút nhiều lao động, cho vay tập trung ở các vùng bị thu hồi
đất sản xuất, cần chuyển đổi ngành nghề
Công tác đào tạo nghề bước đầu đã gắn với việc giải quyết việc làm. Ngoài
việc áp dụng các kỹ thuật được đào tạo vào sản xuất nông nghiệp, trên lĩnh vực phi
nông nghiệp đã có một số doanh nghiệp tiếp nhận lao động được đào tạo tại địa
phương. Chính từ việc đẩy mạnh công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm đã
góp phần làm chuyển dịch cơ cấu lao động trên địa bàn thành phố theo hướng tích
cực.
Như vậy trong vòng 5 năm từ 2011 – 2015 số hộ nghèo trên địa bàn thành
phố đã giảm mạnh, từ 1.736 hộ nghèo năm 2011 đến năm 2015 đã giảm xuống
còn 430 hộ, giảm 1306 hộ; trung bình giảm 1,21% năm.
Chất lượng cuộc sống của hộ nghèo được nâng lên, các hộ nghèo đã có điện
sinh hoạt, nước sạch và nhiều hộ có hố xí hợp vệ sinh, một số hộ đã có thể mua
sắm các vật dụng thiết yếu cho cuộc sống và sản xuất.
Nhìn chung, tỷ lệ hộ nghèo của thành phố giảm dần qua các năm. Đó là một
tín hiệu rất đáng mừng, nó cũng là kết quả của sự cố gắng, nỗ lực không ngừng
của toàn thể nhân dân và chính quyền thành phố trong suốt thời gian qua góp
phần thực hiện thành công nghị Quyết HĐND thành phố.
2.3.1.2. Nguyên nhân kết quả đạt được
Đạt được những kết quả nêu trên là nhờ sự lãnh, chỉ đạo kịp thời của Ban

thường vụ Thành ủy, Ủy ban nhân dân Thành phố, sự theo dõi giúp đỡ của các
Ban xây dựng Đảng Thành ủy, sự vận dụng sáng tạo chủ trương đường lối, Nghị
quyết, Chỉ thị các cấp phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương, đặt biệt là
biết phát huy tinh thần đoàn kết, năng động sáng tạo, tự lực tự cường, dám nghĩ,
dám làm, phát huy nội lực của Đảng bộ và nhân dân tạo nên sức mạnh tổng hợp
trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết. Từ đó, các mục tiêu, nhiệm vụ
chủ yếu mà Đại hội đề ra được các Chi ủy, Chi bộ tập trung lănh đạo, chỉ đạo
thực hiện đạt hiệu quả cao, góp phần thành công việc thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Đại hội.


20

Lãnh đạo và nhân dân địa phương có tinh thần đoàn kết thống nhất cao,
người dân lao động cần cù, chịu khó, sáng tạo đặc biệt nhân dân tin tưởng tuyệt
đối vào đường lối lãnh đạo của Đảng, có sự đồng thuận giữa Đảng và nhân dân,
đã tổ chức thực hiện hoàn thành và vượt nhiều chỉ tiêu quan trọng trên các lĩnh
vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, mà Nghị quyết Đại hội lần thứ X đã đề
ra.
Sự hỗ trợ từ các chương trình, chính sách, dự án giảm nghèo của trung ương
và địa phương trong nhiều năm qua. Các chính sách, giải pháp giảm nghèo đã
được triển khai thực hiện và đi vào cuộc sống người dân đến tận các thôn, khối
phố, từng hộ gia đình, mở ra cơ hội cho nhiều người nghèo có vốn sản xuất, có
việc làm để tăng thu nhập, từng bước cải thiện đời sống vật chất cũng như tinh
thần cho nhân dân, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội của địa
phương.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế
2.3.2.1. Những hạn chế

- Việc chỉ đạo, điều hành ở một số địa phương còn thiếu tập trung, chưa có

biện pháp cụ thể hướng dẫn các hộ nghèo cách thức làm ăn để thoát nghèo, chủ
yếu chỉ mới quan tâm đến việc xem xét cho vay vốn; chưa chủ động đề ra các giải
pháp thiết thực phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của địa phương để tạo điều
kiện phát triển, tạo việc làm ổn định cho hộ nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo
giảm chậm, nhận thức về công tác giảm nghèo và các vấn đề xã hội trong một bộ
phận cán bộ, nhân dân còn hạn chế;
- Một số chính sách về hỗ trợ trong chương trình thực hiện theo một thời
điểm (hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo), trong khi đó đối tượng này thường xuyên phát
sinh, thay đổi;
- Cơ sở hạ tầng còn khó khăn, nhất là khu vực vùng ven, thời tiết khí hậu
khắc nghiệt, tiềm lực kinh tế của địa phương còn khó khăn trong khi phải tập trung
giải quyết nhiều vấn đề bức thiết như phòng chống thiên tai, giáp hạt,...;
- Công tác theo dõi, giám sát, sơ kết, tổng kết, đánh giá chương trình ở một
số ngành, địa phương chưa được tổ chức thực hiện nghiêm túc theo quy định và
thiếu sự đồng bộ.


21

2.3.2.2. Nguyên nhân hạn chế
Từ những tồn tại nêu trên, có nhiều nguyên nhân, do khách quan, chủ quan,
những nguyên nhân tồn tại chủ yếu của các chương trình được đánh giá khái quát
như sau:
- Nguồn lực đầu tư cho chương trình giải quyết việc làm, giảm nghèo còn
hạn chế, chủ yếu là vốn ngân sách Trung ương, của tỉnh, vốn lồng ghép vận
động.... nhiều chính sách chủ yếu mang tính hỗ trợ, trong khi đó chính sách đầu tư
tạo việc làm, tạo sinh kế cho người nghèo, người lao động hạn chế, chưa tạo sự đột
phá trong thực hiện chương trình.
- Công tác tuyên truyền vận động nâng cao nhận thức cho người dân trong
việc học nghề, tự tạo việc làm để tự thoát nghèo chưa lan tỏa rộng khắp, tư tưởng

trông chờ ỷ lại, thiếu ý chí vươn lên vẫn còn.
- Công tác chỉ đạo chưa quyết liệt, thiếu sâu sát, chưa mang tính chủ động.
Việc triển khai xây dựng Kế hoạch các giải pháp thực hiện Chương trình hằng năm
còn chậm. Về Chương trình mục tiêu việc làm, chỉ có 4/13 địa phương ban hành
- Hiệu quả các chính sách đầu tư, nhất là Chương trình giải quyết việc làm,
đào tạo nghề, giảm nghèo chưa cao... chưa dự báo công tác đào tạo nghề, giải
quyết việc làm hằng năm để xây dựng Chương trình dài hạn, chưa gắn kết giữa
doanh nghiệp với địa phương và người dân trong học nghề, giải quyết việc làm.
Đối tượng nghèo được được vay vốn phủ kín, tuy nhiên số hộ thoát nghèo vẫn
thấp.
- Trong tổ chức thực hiện, Ban Chỉ đạo chưa duy trì hoạt động thường
xuyên, chưa xây dựng kế hoạch cụ thể gắn với nhiệm vụ của từng ngành. Việc bố
trí kinh phí cho thực hiện các Chương trình hằng năm không đảm bảo.


22

CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP GIẢM NGHÈO ĐÔ THỊ BỀN VỮNG TRÊN TẠI THÀNH
PHỐ THỜI GIAN ĐẾN
3.1. Mục tiêu giảm nghèo đô thị tại thành phố
3.1.1. Mục tiêu tổng quát
- Đẩy nhanh tốc độ giảm nghèo bền vững, chống tái nghèo; nâng cao chất
lượng cuộc sống của nhóm hộ nghèo, đảm bảo người nghèo, cận nghèo thụ hưởng
đầy đủ các chính sách trợ cấp, trợ giúp.
- Xã hội hoá công tác giảm nghèo, huy động toàn xã hội tích cực tham gia.
3.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Phấn đấu mỗi năm giảm từ 1,5 đến 2%, đến cuối năm 2020 không còn hộ
nghèo (thuộc đối tượng chính sách giảm nghèo theo tiêu chí mới).
- Tập trung đầu tư hỗ trợ, giúp đỡ các nhóm đối tượng giảm nghèo có hiệu

quả, chống tái nghèo; khẩu nghèo có khả năng lao động được hỗ trợ học nghề
miễn phí và tiếp cận với các phương pháp làm ăn hiệu quả để vươn lên thoát
nghèo.
- Gắn các mục tiêu giảm nghèo với tiêu chí xây dựng nông thôn mới, các
chính sách an sinh xã hội và chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn,
đảm bảo cuộc sống của hộ nghèo, hộ cận nghèo được ổn định và từng bước nâng
lên cả về vật chất lẫn tinh thần; là cơ sở vững chắc cho việc xây dựng xã hội công
bằng dân chủ văn minh.
- Đẩy mạnh công tác giải quyết việc làm hàng năm trên 4.600 lao động
thông qua các hình thức tuyển dụng, đào tạo, xuất khẩu lao động. Dự kiến đến năm
2020, giải quyết việc làm bình quân cho 5.000 lao động mỗi năm. Tỷ lệ lao động
qua đào tạo dự kiến đến 2020 đạt trên 75%. Tập trung phát triển nhanh, bền vững
gắn với thực hiện các chính sách an sinh xã hội, phấn đấu nâng cao mức sống của
người dân đến 2020 thu nhập bình quân đầu người đạt trên 60 triệu
đồng/người/năm.
3.2. Một số giải pháp chủ yếu để thực hiện mục tiêu giảm nghèo đô thị
tại thành phố trong thời gian đến
3.2.1. Nhóm giải pháp hỗ trợ người nghèo tăng thu nhập


23

3.2.1.1. Chính sách ưu đãi tín dụng cho người nghèo
Mục tiêu: cung cấp tín dụng ưu đãi cho các hộ nghèo có nhu cầu vay vốn
sản xuất kinh doanh với lãi suất thấp, không phải thế chấp cho ngân hàng.
Nội dung: duy trì nguồn vốn Ngân hàng chính sách xã hội để phục vụ nhu
cầu vay vốn của người nghèo, đảm bảo vốn vay đúng đối tượng, sử dụng đúng mục
đích, hiệu quả và tài chính lành mạnh, nhằm giúp hộ nghèo có điều kiện vươn lên
thoát nghèo ổn định kinh tế gia đình.
3.2.1.2. Chính sách hỗ trợ người nghèo về y tế

Mục tiêu: trợ giúp người nghèo trong khám chữa bệnh bằng các hình thức
nhu mua thẻ BHYT, cấp thẻ và giấy chứng nhận khám chữa bệnh miễn phí, khám
chữa bệnh từ thiện nhân đạo... Chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho người nghèo.
Nội dung: Cung cấp trang thiết bị, cung ứng thuốc cho tuyến y tế cơ sở ở
các xã vùng ven, khuyến khích và tăng cường cán bộ Bác sỹ về cơ sở để nâng cao
chất lượng phục vụ.
- Huy động cộng đồng trong việc xây dựng quỹ khám chữa bệnh cho người
nghèo, quỹ bảo trợ người nghèo, bữa ăn nhân đạo, khám chữa bệnh nhân đạo, xác
định trách nhiệm của người nghèo trong phòng bệnh, tự bảo vệ chăm lo sức khoẻ
và chia sẻ một phần kinh phí trong khám chữa bệnh.
3.2.1.3. Chính sách hỗ trợ người nghèo về giáo dục
Mục tiêu: Bảo đảm 100% cho con em trong độ tuổi đi học đều được đến
trường và có các điều kiện cần thiết trong học tập. Giảm sự chênh lệch về môi
trường trong học tập và sinh hoạt trong các nhà trường ở thành thị và nông thôn,
giữa vùng khó khăn với vùng có điều kiện phát triển.
Nội dung: - Miễn giảm học phí và các khoản đóng góp xây dựng trường,
lớp, hỗ trợ vở viết, sách giáo khoa, cấp học bổng , xe đạp cho học sinh nghèo vượt
khó học khá, giỏi.
3.2.1.4. Chính sách hỗ trợ pháp lý cho người nghèo
Mục tiêu: Tạo điều kiện cho người nghèo nắm được những kiến thức phổ
thông về pháp luật để phát huy được vai trò của mình trong đời sống kinh tế -xã
hội. Nhận thức được đầy đủ trách nhiệm và quyền lợi của mình trong gia đình và
xã hội.


24

Nội dung: Ban hành các văn bản chỉ đạo UBND các xã, phường, Ban Văn
hóa - Xã hội tiếp tục phát huy chương trình truyền thông trên tuyến thôn, xã để
cung cấp thông tin cụ thể đến nhân dân.

- Tổ chức các buổi tuyên truyền đến tận thôn, khối phố để mọi người dân
nắm bặt về pháp luật.
3.2.1.5. Chính sách an sinh xã hội, trợ giúp các đôi tượng yếu thế
Mục tiêu: Hỗ trợ trực tiếp cho những người bị rủi ro do thiên tai, bão lụt, để
ổn định cuộc sống. Hỗ trợ nhận đỡ đầu các đối tượng yếu thế (người già cô đơn
không nơi nương tựa, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người tàn tật...) ổn
định cuộc sống, từng bước hoà nhập xã hội .
Nội dung: - Trợ giúp các đối tượng yếu thế (có khả năng làm việc) về học
nghề, toạ việc làm, tự đảm bảo cuộc sống.
- Tiếp tục hỗ trợ nhà, hỗ trợ điều kiện sản xuất để người nghèo sớm ổn định
cuộc sống.
- Thực hiện tốt các chính sách xã hội thường xuyên cho các đối tượng thuộc
diện trợ cấp xã hội có hoàn cảnh khó khăn, nuôi dưỡng các đối tượng đặc biệt khó
khăn.
3.2.1.6.Giải pháp về phía bản thân người nghèo
Bản thân các hộ nghèo cần chủ động tiếp cận thông tin về thị trường việc
làm, các chương trình, dự án hỗ trợ cho người nghèo của nhà nước đặc biệt là
thông tin về tín dụng có thể từ nhiều nguồn như: bạn bè, người thân, hay cán bộ ở
địa phương…
Bản thân người nghèo phải nhận thức được tầm quan trọng của công tác
giảm nghèo cùng với sự hỗ trợ của địa phương để khắc phục tâm lý trông chờ, ỷ
lại vào sự hổ trợ của Nhà nước. Để từ đó tận dụng có hiệu quả sự hổ trợ để tự
vươn lên thoát nghèo, cũng như học hỏi được cách tự lực trong việc giải quyết
các vấn đề của mình.
Tích cực, chủ động tham gia các buổi tập huấn, hướng dẫn cách thức canh
tác đạt hiệu quả, cũng như việc ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, sử dụng
nguồn vốn hợp lí. Việc tham gia như vậy có ý nghĩa rất quan trọng đối với người
nghèo, họ có thể học hỏi cách làm ăn hiệu quả, rút kinh nghiệm từ những lần đầu



25

tư không đúng của mình, trao đổi kinh nghiệm với những người cùng tham gia
buổi tập huấn này.
Bên cạnh đó người nghèo cũng nên tích cực tham gia các hoạt động đoàn
thể để có thể tiếp cận các nguồn thông tin bổ ích như: pháp luật, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước… học hỏi kỹ thuật sản xuất, tăng tình đoàn
kết.
Đối với các nguồn vốn mà người nghèo được hỗ trợ cần lên kế hoạch sử
dụng đúng mục đích, đạt hiệu quả như mong muốn.
Ngoài ra người nghèo tự rèn cho mình cách tự học hỏi, trang bị cho mình kiến
thức về cải tiến kĩ thuật, tình hình thời tiết… trên các phương tiện thông tin đại
chúng như: ti vi, báo, đài… áp dụng phù hợp với kinh tế của gia đình. Động viên,
khuyến khích nhau cùng nổ lực, tích cực trong việc thoát nghèo.
Trên đây là một số biện pháp nhằm giúp người nghèo tại phường Hòa Hương
thoát nghèo bền vững. Để thực hiện được cần có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ
giữa nhà nước, các đơn vị tổ chức nhận ủy thác, ngân hàng Chính sách xã hội,
chính quyền địa phương và người dân.
3.2.2. Giải pháp về công tác tổ chức thực hiện
3.2.2.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các cấp,
các ngành, nhất là nhân dân bằng nhiều hình thức để tạo sự chuyển biến về nhận
thức, tránh tình trạng trông chờ ỷ lại không muốn thoát nghèo. Đặc biệt là việc nêu
gương những nỗ lực quyết tâm làm ăn thoát nghèo, gương người tốt việc tốt, nông
dân sản xuất giỏi, mô hình điểm, tiên tiến,… Giúp cho hộ nghèo có thêm nhiều
thông tin, kiến thức mới để học tập kinh nghiệm phấn đấu tự vươn lên thoát nghèo.
Cần tuyên truyền nâng cao tinh thần đoàn kết tương thân, tương ái, tình làng nghĩa
xóm giúp nhau trong khó khăn hoạn nạn, thực hiện xây dựng thành công nông thôn
mới.
3.2.2.2. Công tác điều tra hộ nghèo phải thật sự minh bạch, chính xác, phải
có sự tham gia của toàn thể nhân dân. Nắm chắc nguyên nhân của từng hộ nghèo,

hộ cận nghèo để có chính sách phù hợp với hoàn cảnh thực tế của từng hộ. Khuyến
khích người nghèo bày tỏ tiếng nói, tích cực, sáng tạo, chủ động vương lên tự cứu
mình thoát nghèo, trao quyền để họ tự tìm ra cách thức giảm nghèo.


×