Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

ĐỀ CƯƠNG NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.01 KB, 51 trang )

ĐỀ CƯƠNG NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN
Câu 1:Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác – Lênin
Điều kiện Kinh tế Xã hội
-.Thế kỉ 18, CM CN Anh, bước chuyển biến: SX thủ công TBCN ->SX đại CN TBCN, XH h.thành g/cấp vô sản ->
những năm 40. TK 19 các nc Tây Âu có phương thức SX TBCN phát triển mạnh mẽ
- Trong xã hội tư bản, đã xuất hiện hai giai cấp cơ bản, đối lập nhau về lợi ích, đó là giai cấp tư sản >< giai cấp vô
sản. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ngày càng lan rộng, phát triển từ tự phát tới tự giác, từ đấu tranh
kinh tế tới đấu tranh chính trị.: cuộc kn công nhân Lyong (1831,1834), phog trào Hiến chương(1835 đến 1848)
-> Phong trào đó cần có lý luận khoa học và cách mạng dẫn dắt, soi đường. Chủ nghĩa xã hội khoa học do C. Mác và
Ph.Ăngghen sáng lập đã đáp ứng những yêu cầu cấp thiết đó. Đồng thời thực tiễn CM là tiền đề thực tiễn cho
h.thành và p.triển CN Mác
Tiên đề KH-TN
- Vào giữa thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, trong đó có ba phát minh quan trọng:
Thuyết tiến hóa; Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng; Thuyết tế bào. Các phương pháp nhận thức khoa học
như: quy nạp, phân tích, thực nghiệm, tổng hợp... đã thúc đẩy năng lực tư duy khoa học không ngừng phát triển
Tiền đề Lý luận
- Thế kỷ XIX cũng là thế kỷ chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của
+ triết học cổ điển Đức (tiêu biểu là Cantơ, Hêghen, Phoiơbắc) ảnh hưởng đến sự hình thành TG quan, p.p luận
cưa CN Mác, chuyển biến từ TG quan duy tâm sang duy vật
+ kinh tế chính trị cổ điển Anh (tiêu biểu là Ađam Xmít và Đavít Ricácđô)
Mác, A.ghen kế thừa y.tố KH về g.trị LĐ + tư tưởng tiến bộ. XD lí luận g.trị thặng dư. Nguồn gốc KT dẫn đến diệt
vong tất yếu của CNTB, ra đời XHCN
+ chủ nghĩa xã hội không tưởng (tiêu biểu là Xanh Ximông, Rôbớc Ôoen, Sáclơ Phuriê). Mang tinh thần nhân
đạo, vạch trần khốn cùng về V/C & tinh thần ng LĐ
Như vậy, chủ nghĩa Mác ra đời là thành tựu trí tuệ của loài người, phản ánh thực tiễn xã hội, nhất là cuộc đấu tranh
của giai cấp công nhân, đáp ứng yêu cầu phát triển của cách mạng thế giới, là một tất yếu khách quan trong tiến
trình phát triển lịch sử của tư tưởng nhân loại.
Câu 2: vật chất, ý thức : mqh VC & YT, ý nghĩa p.p luận
Vật chất:
Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, VI.Lenin định nghĩa: “Vật chất là một
phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của


chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Phân tích
- “Phạm trù triết học” là khái niệm chung nhất, rộng lớn nhất, để phân biệt vc trong triết học với vật chất trong khoa
học tự nhiên.


+Vật chất là một phạm trù rộng lớn nhất, khái quát nhất, không thể hiểu theo nghĩa hẹp như các khái niệm vật chất
thường dùng trong khoa học cụ thể hay trong đời sống hàng ngày.
+ Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học dùng để chỉ vật chất nói chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không
mất đi; còn các đối tượng, các dạng vật chất khoa học cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn, có sinh ra và mất đi để
chuyển hóa thành cái khác. Vì vậy, định nghĩa vật chất không thể đồng nhất với một vật thể nào đó hay một thuộc
tính nào đó của vật chất.
- Là “thực tại khách quan”, “tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” là thuộc tính cơ bản nhất của vật chất. “Khách
quan”, theo Lenin, là “cái đang tồn tại độc lập với loài người và với cảm giác con người dù con ng có nhạn biết đc
hay ko
- “Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh”: thế giới vật chất tuy tồn tại độc lập với ý thức con người, nhưng sự tồn tại đó không phải là trừu tượng,
mà là sự tồn tại hiện thực, cụ thể, cảm tính. Khi một dạng vật chất cụ thể nào đó tác động đến con người sẽ gây ra
những cảm giác và đem lại cho con người sự nhân thức, YT-sự phản ánh đối vs VC, VC là cái đc YT p.ánh
Ý thức
Nguồn gốc tự nhiên
Theo quan điểm của triết học Mác - Lê nin, ý thức là một thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ
óc người và mqh giữa con ng vs tg khác quan tạo nên h.tượng p/ánh năng động sáng tạo.
Bộ óc:Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao
là bộ óc người, là c.năng của bộ óc. K.q của h.đ sinh lí thần kinh của bộ óc.
Mối quan hệ giữa con ng vs TG khác quan tạo ra quá trình phản ánh năng động sáng tạo
Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất. Phản ánh là năng lực giữ lại, tái hiện lại của hệ
thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất khác.
Trong quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của vật chất cũng phát triển từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp:


1. Phản ánh vật lý, hóa học: Là hình thức phản ánh đơn giản nhất ở giới vô sinh, thể hiện qua các quá trình
biến đổi cơ, lý, hoá.

2. Phản ánh sinh học: Là những phản ánh trong sinh giới trong giới hữu sinh cũng có nhiều hình thức khác
nhau ứng với mỗi trình độ phát triển của thế giới sinh vật.

3. Phản ánh tâm lý
4. Phản ánh năng động sáng tạo: là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, ý thức chỉ nảy sinh
ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất, cùng với sự xuất hiện của c.người Nguồn gốc xã hội.
Để ý thức có thể ra đời, bên những nguồn gốc tự nhiên thì điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là nguồn
gốc xã hội, thể hiện ở vai trò của lao động, ngôn ngữ


Lao động:


Là hoạt động đặc thù của con người, là hoạt động bản chất người. Đó là hoạt động chủ động, sáng tạo, có mục đích.
Lao động đem lại cho con người dáng đi thẳng đứng, giải phóng hai tay. Điều này cùng với chế độ ăn có thịt đã thực
sự có ý nghĩa quyết định đối với quá trình chuyển hoá từ vượn thành người, từ tâm lý động vật thành ý thức.
Ngôn ngữ:
Theo quan điểm của triết học Mác - Lê nin thì ngôn ngữ là phương tiện để con người giao tiếp trong xã hội, là hệ
thống tín hiệu thứ hai, là cái vỏ vật chất của tư duy, là hình thức biểu đạt của tư tưởng. Ngôn ngữ là yếu tố quan
trọng để phát triển tâm lý, tư duy của con người và xã hội loài người.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
a/ Vai trò của vật chất đối với ý thức
- Trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật chất là nguồn gốc của
ý thức; vật chất quyết định ý thức; ý thức là sự phản ánh đối với vật chất.
- Ý thức của con người không phải là sản phẩm chủ quan thuần tuý, cũng không phải có nguồn gốc từ một lực lượng
siêu tự nhiên. Nó là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người.

- Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên và xã hội của ý thức đều do bản thân thế giới vật chất hoặc những dạng
tồn tại của vật chất tạo ra, do đó vật chất là nguồn gốc của ý thức.
- Vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển của ý thức; sự biến đổi của ý thức là sự phản ánh đối với sự biến đổi của
vật chất. Vật chất không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi
của ý thức.
b. Vai trò của ý thức đối với vật chất
- Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con
người:
Vai trò của ý thức đối với vật chất thực chất là vai trò của con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp làm thay
đổi được hiện thực, muốn thay đổi hiện thực cần phải có hoạt động vật chất. Song do mọi hoạt động của con người
đều được ý thức chỉ đạo, nên ý thức trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan trên cơ sở đó giúp con
người xác định mục tiêu, phương hướng, lựa chọn biện pháp, công cụ ... để thực hiện mục tiêu của mình.
- Sự tác động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực hoặc tiêu cực.
+ Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có nghị lực, ý chí, hành động hợp quy luật khách quan thì có
tác dụng thúc đẩy hoạt động thực tiễn, cải tạo được thế giới, đạt được mục đích của mình.
+ Nếu ý thức phản ánh sai hiện thực khách quan, khiến cho hành động của con người đi ngược lại quy luật khách
quan thì những tác động ấy sẽ mang lại tác động tiêu cực đối với hoạt động thực tiễn, kìm hãm sự phát triển xã hội.
Chính vì thế, trong hoạt động thực tiễn, ngoài việc nhận thức đúng quy luật khách quan, còn cần phải phát huy cao
độ tính năng động chủ quan, đồng thời chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí, chống lại những
tư tưởng lạc hậu, phản động, phản khoa học.
Ý nghĩa phương pháp luận
Trên cơ sở quan điểm về bản chất vật chất của thế giới; bản chất năng động, sáng tạo của ý thức và mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất và ý thức có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận là


- Trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành động
theo khách quan đồng thời phát huy tính năng động chủ quan.
+Trong nhận thức và hành động con người phải xuất phát từ thực tế khách quan để xác định mục đích, đề ra đường
lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch, biện pháp;
+phải lấy thực tế khách quan làm cơ sở, phương tiện; phải tìm ra những nhân tố vật chất, tổ chức những nhân tố ấy

thành lực lượng vật chất để hành động.
-Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức và nhân tố con người
trong việc vật chất hóa tính tích cực, năng động, sáng tạo ấy
. Điều này đòi hỏi con người phải tôn trọng tri thức khoa học, mặt khác phải tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ
tri thức khoa học đồng thời phải tu dưỡng rèn luyện bản thân mình về đạo đức, ý chí, nghị lực.
Đảm bảo nguyên tắc tính thống nhất biện chứng giữa tôn trọng khách quan và phát huy năng động chủ quan trong
hoạt động thực tiễn đòi hỏi phải khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, chủ nghĩa kinh nghiệm, coi thường tri thức
khoa học...trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Ví dụ:
Tiêu chuẩn đánh giá sự vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan thông qua chủ trương chính sách của Đảng và
Nhà nước là sản xuất phát triển, lưu thông thông suốt, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước được
ổn định và nâng cao, con người mới XHCN ngày càng hình thành rõ nét, xã hội ngày càng lành mạnh, chế độ
XHCN ngày càng được cũng cố. Điều đó là điều kiện đảm bảo sự dẫn dắt đúng đắc của Đảng. Mọi chủ trương chính
sách gây tác động ngược lại là biểu hiện sự vận dụng không đúng quy luật khách quan, cần phải được sửa đổi hay
bãi bỏ kịp thời.
Câu 3:Khả năng và hiện thực. Mqh, ý nghĩa p.p luận 6. Khả năng và hiện thực
a. Khái niệm
- Khả năng là phạm trù triết học dùng để chỉ là cái chưa có, chưa tới, nhưng sẽ có, sẽ tới trong những điều kiện nhất
định.
Ví dụ: Cái mầm nảy ra từ hạt thóc, đứa trẻ biết nói
- Hiện thực là phạm trù triết học dùng để chỉ cái đang tồn tại trong thực tế.
Ví dụ: Hạt thóc có thể nảy mầm thành cây mạ.
Hiện thực có hiện thực vật chất và hiện thực tinh thần. Khả năng có khả năng tất nhiên và khả năng ngẫu nhiên. Khả
năng còn được chia ra: khả năng gần và khả năng xa.
b. Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực
- Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ thống nhất, không tách rời, luôn chuyển hóa lẫn nhau.


- Khả năng trong những điều kiện nhất định thì biến thành hiện thực.
Ví dụ: Một công ty có sản phẩm với chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng thì sản phẩm

sẽ được tiêu thụ rất nhanh chóng trên thị trường.
Hiện thực mới lại mở ra khả năng mới và trong những điều kiện nhất định lại chuyển hóa thành hiện thực.
- Với cùng một điều kiện nhất định có thể tồn tại một hoặc nhiều khảnăng: khả năng thực tế, khả năng tất nhiên, khả
năng ngẫu nhiên, khả năng gần, khả năng xa…
Ví dụ: Một sinh viên chăm chỉ học tập thì đi thi sẽ đạt kết quả cao nhưng có thể vì một lí do nào đó mà lại bị kết
quả thấp. Điều đó có thể xảy ra
- Khả năng biến thành hiện thực cần phải có những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Nhân tố chủ quan là
tính tích cực xã hội của ý thức chủthể con người để chuyển hóa khả năng thành hiện thực. Điều kiện khách quan là
sự tổng hợp các mối quan hệ về hoàn cảnh, không gian, thời gian để tạo nên sự chuyển hóa đó.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Khả năng và hiện thực không tách rời nhau, nên trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần dựa vào hiện thực để
nhận thức và hành động. Cần phân biệt khả năng với cái không khả năng; khả năng với hiện thực để tránh rơi vào ảo
tưởng.
- Trong đời sống xã hội, để khả năng biến thành hiện thực cần phát huytối đa tính năng động chủ quan của con
người trong việc nhận thức và thực tiễn để biến khả năng thành hiện thực theo mục đích của mình.

Câu 4: nhận thức và các trình độ của nhận thức:

Nhận thức là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thếgiới khách quan vào bộ óc con người trên cơ
sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách quan đó.
Quan niệm trên đây về nhận thức xuất phát từ các nguyên tắc cơ bản sau:
1- thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người và con người có thể nhận thức được
thế giới khách quan ấy.


2- thừa nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan; coi nhận thức là sự phản ánh thế giới
khách quan vào trong bộ óc của con người, là hoạt động tìm hiểu khách thể của chủ thể; thừa nhận không có cái gì là
không thể nhận thức được mà chỉ có những cái con người chưa nhận thức được.
3- khẳng định sự phản ánh là quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo và đi từ thấp đến cao (chưa biết đến
biết, biết ít đến biết nhiều, chưa toàn diện sâu sắc đến toàn diện sâu sắc...)

Các trình độ nhận thức
Nhận thức là một quá trình với các trình độ nhận thức khác nhau, đó cũng là quá trình đi từ nhận thức kinh nghiệm
đến trình độ nhận thức lý luận; từ nhận thức thông thường đến trình độ nhận thức khoa học.
Nhận thức kinh nghiệm:
-Là trình độ nhận thức hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên, xã hội hay trong
các thí nghiệm khoa học
- Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm bao gồm cả tri thức kinh nghiệm thông thường và tri
thức kinh nghiệm khoa học
- Hạn chế của nhận thức kinh nghiệm là chỉ dừng lại ở sự mô tả sự vật do đó chỉ đem lại những hiểu biết về các mặt
riêng rẽ, bề ngoài, rời rạc, chưa phản ánh được bản chất và quy luật của sự vật, hiện tượng.
Nhận thức lý luận
- Là trình độ nhận thức gián tiếp, trừu tượng, có tính hệ thống trong việc khái quát bản chất, quy luật của các sự vật,
hiện tượng. -- - Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác nhau, có mối quan hệ
biện chứng với nhau, trong đó nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức lý luận.
-Nhận thức lý luận không hình thành một cách tự phát, trực tiếp do đó nó có thể đi trước những dữ kiện kinh
nghiệm, hướng dẫn sự hình thành những tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn kinh nghiệm hợp lý phục vụ cho
hoạt động thực tiễn.
Nhận thức thông thường: là loại nhận thức được hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ trong hoạt động hàng
ngày của con người.
Nhận thức thông thường phản ánh sự vật, hiện tượng xảy ra với tất cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và với sắc thái
khác nhau của sự vật do đó mang tính phong phú, nhiều vẻ, gắn liền với quan niệm sống hàng ngày. Vì thế nó có vai
trò chi phối thường xuyên hoạt động của con người trong xã hội.


Nhận thức khoa học: là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản
chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu.
-Nhận thức khoa học vừa có tính khách quan, vừa có tính trừu tượng, khái quát, hệ thống dưới hình thức các khái
niệm, các phạm trù và quy luật khoa học
-. Để nhận thức khoa học, con người phải sử dụng một hệ thống các phương pháp nghiên cứu và được diễn đạt bằng
cả ngôn ngữ thông thường và thuật ngữ khoa học. Nhận thức khoa học có vai trò to lớn trong hoạt động thực tiễn,

nhất là trong thời đại cách mạng khoa học công nghệ hiện đại.
Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học là hai bậc thang khác nhau về chất của quá trình nhận thức nhằm đạt
tới các tri thức chân thực.
Giữa chúng có liên hệ chặt chẽ với nhau: nhận thức thông thường là cơ sở cho nhận thức khoa học ngược lại khi đã
đạt đến trình độ nhận thức khoa học nó lại tác động trở lại nhận thức thông thường, làm cho nhận thức thông thường
phát triển.

Câu 5 : chân lý và vai trò của nó vs thực tiễn

chân lý được dùng để chỉ những tri thức có nội dung phù hợp với thực tế khách quan mà sự phù hợp đó đã được
kiểm tra và chứng minh bởi thực tiễn.
Theo nghĩa như vậy, khái niệm chân lý không đồng nhất với khái niệm tri thức và cũng không đồng nhất với khái
niệm giả thuyết (dù là những giả thuyết khoa học), đồng thời chân lý là một quá trình. Theo V.I.Lênin “sự phù hợp
giữa tư tưởng và khách thể là một quá trình: tư tưởng (= con người) không nên hình dung chân lý dưới dạng đứng
im, một bức tranh (hình ảnh) đơn giản, nhợt nhạt (lờ mờ), không khuynh hướng, không vận động”.
Các tính chất của chân lý:
-Mọi chân lý đều có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và tính cụ thể
+Tính khách quan của chân lý là chỉ tính độc lập về nội dung phản ánh của nó đối với ý chí chủ quan của con
người; nội dung của tri thức phải phù hợp với thực tế khách quan, thuộc về thế giới khách quan, do thế giới khách
quan quy định.


Khẳng định chân lý có tính khách quan là một trong những điểm cơ bản phân biệt quan niệm về chân lý của chủ
nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri
+Tính tuyệt đối và tính tương đối của chân lý
_Tính tuyệt đối của chân lý là chỉ tính phù hợp hoàn toàn và đầy đủ giữa nội dung phản ánh của tri thức với hiện
thực khách quan. Về nguyên tắc chúng ta có thể đạt đến chân lý tuyệt đối vì không có sự vật, hiện tượng nào mà con
người hoàn toàn không thể nhận thức đựợc song khả năng đó lại bịhạn chế bởi những điều kiện cụ thể của từng thế
hệ khác nhau, của từng thực tiễn cụ thể và bởi điều kiện xác định về không gian và thời gian của đối tượng được
phản ánh...do đó chân lý có tính tương đối.

+Tính tương đối của chân lý là tính phù hợp nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ giữa nội dung phản ánh của những tri
thức đã đạt được với hiện thực khách quan mà nó phản ánh mà mới chỉ đạt được sự phù hợp từng phần, từng bộ
phận, ở một số mặt, khía cạnh nào đó và trong những điều kiện nhất định.
Chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối không tồn tại tách rời nhau mà có sự thống nhất biện chứng với nhau.
+chân lý tuyệt đối là tổng sốcủa các chân lý tương đối
+trong mỗi chân lý mang tính tương đối bao giờ cũng chứa đựng những yếu tố của tính tuyệt đối.
+Chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối là hai mặt của một chân lý cụ thể. Một chân lý cụ thể vừa có tính tuyệt đối
(vì nếu áp dụng trong điều kiện cụ thể của nó thì nó luôn luôn đúng và không bao giờ trở thành sai lầm), vừa có tính
tương đối (vì nó chưa đầy đủ, chưa toàn diện, nếu áp dụng trong điều kiện khác thì sẽ trở thành sai lầm).
Như vậy, không thể có chân lý vĩnh cữu, tức chân lý bất di bất dịch. Tư duy con người trong quá trình tiến lên vô
cùng tận ngày càng tiệm cận đến chân lý tuyệt đối, chứ không bao giờ có thể đạt được một cách đầy đủ, hoàn toàn.
Tính cụ thể của chân lý là đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản ánh với một đối tượng nhất định cùng
các điều kiện, hoàn cảnh lịch sửcụ thể. Bất kỳ chân lý nào cũng có gắn liền với những điều kiện lịch sử cụ thể, do đó
“ không có chân lý trừu tượng, chân lý luôn luôn là cụ thể.
Vai trò của chân lý đối với thực tiễn
-Để sinh tồn và phát triển, con người phải tiến hành các hoạt động thực tiễn nhưng hoạt động thực tiễn chỉ có thể
thành công và có hiệu quả khi con người có tri thức đúng đắn về thực tế khách quan và vận dụng đúng đắn tri thức
đó trong hoạt động thực tiễn do vậy, chân lý là một trong những điều kiện tiên quyết đảm bảo sự thành công và tính
hiệu quả của hoạt động thực tiễn.


-Mối quan hệ giữa chân lý và hoạt động trong thực tiễn là mối quan hệ song trùng trong quá trình vận động, phát
triển của cả chân lý và thực tiễn.
Chân lý phát triển nhờ thực tiễn nhưng thực tiễn lại phát triển nhờ vận dụng đúng đắn những chân lý mà con người
đã đạt được trong hoạt động thực tiễn.
Ý nghĩa phương pháp luận
-Quan điểm biện chứng về mối quan hệ giữa chân lý và thực tiễn đòi hỏi trong hoạt động nhận thức con người phải
xuất phát từ thực tiễn để đạt được chân lý, coi chân lý là một quá trình, đồng thời phải thường xuyên tự giác vận
dụng chân lý vào hoạt động thực tiễn để phát triển thực tiễn.
-Coi trọng tri thức khoa học và tích cực vận dụng sáng tạo những tri thức đó vào các hoạt động kinh tế xã hội, nâng

cao hiệu quả của hoạt động thực tiễn của con người. Về thực chất đó chính là việc phát huy vai trò của chân lý khoa
học trong hoạt động thực tiễn.

Câu 6:nội dung 3 quy luật cơ bản của phép duy vật biện chứng. ý nghĩa p.p luận
+ Quy luật đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập(quy luật mâu thuẫn)
- Quy luật này là hạt nhân của phép biện chứng
- Nó vạch ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển, phản ánh quá trình đấu tranh giải quyết
mâu thuẫn bên trong sự vật.
-vận dụng nguyên tắc mâu thuẫn mà yêu cầu cơ bản của nó là phải nhận thức đúng đắn mâu thuẫn của sự vật, trước
hết là mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu, phải phân tích mâu thuẫn và quátrình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn
-Đấu tranh là phương thức giải quyết mâu thuẫn. Tuy nhiên, hình thức đấu tranh rất đa dạng. linh hoạt, tuỳ thuộc
mâu thuẫn cụ thể và hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
+ Quy luật chuyển hoá từ những biến đổi về lượng dẫn tới những biến đổi về chất và ngược lại (quy luật
lượng - chất.)
+ Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ của các yếu tố,
các thuộc tính làm cho sự vật nó là nó, chứ không phải cái khác.VD: chẳng chua cũng thể là chanh, chẳng ngọt cũng
thể cam sành chín cây.
+ Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, khối lượng, quy mô,
trình độ, nhịp điệu của sự vận động phát triển của sự vật, cũng như các thuộc tính của sự vật. VD: 4 năm đại học là
lượng của chất sinh viên.
* Nội dung quy luật


Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về
chất, sự vật đang còn là chính nó. VD: 00C > nước< 1000C, nước vẫn ở thể lỏng. Đây là độ của nước.
Điểm nút là một phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà ở đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất. .
VD độ sôi của nước 1000C và điểm nút 00C
Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hoá về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng trước đó
tạo ra. VD vượt qua 1000C nước chuyển sang thể hơi, khí còn vượt qua điểm nút 0 0C thì nước chuyển hóa thành thể
rắn...

=> Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất hữu cơ của hai mặt chất và lượng, chúng tác động qua lại lẫn
nhau làm cho sự vật biến đổi. Sự phát triển của bất cứ sự vật nào cũng bắt đầu từ sự tích luỹ, thay đổi về lượng khi
đạt tới điểm nút thì có sự chuyển hoá về chất thông qua bước nhảy.
Mặt khác, khi chất mới ra đời, nó có tác động trở lại đối với lượng của sự vật, nó có thể làm thay đổi quy mô, kết
cấu, trình độ nhịp điệu vận động của sự vật.
* Ý nghĩa phương pháp luận
+ Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn chúng ta phải biết tích luỹ biến đổi về lượng để tạo ra sự
chuyển hoá về chất theo quy luật.
+ Trong hoạt động thực tiễn cần vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy để cải tạo, biến đổi sự vật. VD: tích
tiểu thành đại; Góp gió thành bão góp cây nên rừng...
+ Tránh nóng vội chủ quan đồng thời tránh trì trệ bảo thủ.
* Liên hệ với bản thân trong quá trình học tập hoặc trong quá trình nhận thức. VD: Chuyển từ chất HS -> SV -> kỹ


+ Quy luật phủ định của phủ định
- Quy luật này khái quát khuynh hướng phát triển tiến lên theo hình thức xoáy ốc thể hiện tính chất chu kỳ trong quá
trình phát triển.
- Đó là cơ sở phương pháp luận của nguyên tắc phủ định biện chứng, chỉ đạo mọi phương pháp suy nghĩ và hành
động của con người
-. Phủ định biện chứng đòi hỏi phải tôn trọng tính kế thừa, nhưng kế thừa phải có chọn lọc, cải tạo, phê
phán, chống kế thừa nguyên xi, máy móc và phủ định sạch trơn, chủ nghĩa hư vô với quá khứ.


- Nguyên tắc phủ định biện chứng trang bị phương pháp khoa học để tiếp cận lịch sử và tiên đoán, dự kiến những
hình thái cơ bản của tươnglai.
- Các cặp phạm trù không cơ bản
Bên cạnh 3 quy luật cơ bản, nội dung của phép biện chứng duy vật còn bao
gồm các cặp phạm trù không cơ bản:
+ cặp phạm trù cái riêng - cái chung
+ tất nhiên - ngẫu nhiên

+ nguyên nhân - kết quả
+ bản chất - hiện tượng
+ khả năng - hiện thực
+ nội dung - hình thức.
Ý nghĩa p.p luận
3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật có ý nghĩa phương pháp luận chỉ đạo mọi hoạt động của
con người để thực hiện quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển và quan điểm lịch sử - cụ thể về phương diện
vạch ra nguồn gốc, động lực, cách thức và xu hướng phát triển tiến lên của các sự vật, hiện tượng trong thế giới.
-Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật chỉ ra hình thức chung nhất của sự vận động, phát triển của thế
giới vật chất và nhận thức của con người về thế giới đó, đồng thời các quy luật này cũng tạo cơ sở cho phương pháp
chung nhất của tư duy biện chứng.
+quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập chỉ ra nguyên nhân và động lực bên trong của sự vận động,
+ quy luật chuyển hoá từ những biến đổi về lượng dẫn đến những biến đổi về chất và ngược lại chỉ ra cách thức và
tính chất của sự phát triển
+ quy luật phủ định của phủ định chỉ ra khuynh hướng, hình thức và kết quả của sự phát triển đó.
-Các quy luật này định hướng cho việc nghiên cứu của những quy luật đặc thù và đến lượt mình, những quy luật cơ
bản về sự phát triển của thế giới, của nhận thức và những hình thức cụ thể của chúng chỉ có tác dụng trên cơ sở và
trong sự gắn bó với những quy luật đặc thù.
Theo triết học Mác-Lênin thì mối quan hệ qua lại giữa các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật với các quy
luật đặc thù của các khoa học chuyên ngành tạo nên cơ sở khách quan của mối liên hệ giữa chủ nghĩa duy vật biện
chứng với các khoa học chuyên ngành.
Câu 7: nội dung 2 nguyên lý của phép BCDV, ý nghĩa
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật và hiện tượng
1. Khái niệm mối liên hệ phổ biến là khái niệm dùng để chỉ sự tác động và ràng buộc lẫn nhau, quy định và chuyển
hoá lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố, các bộ phận trong một sự vật hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.


2. Nội dung và tính chất của mối liên hệ
- Tính khách quan và phổ biến của mối liên hệ: Nhờ có mối liên hệ mà có sự vận động, mà vận động lại là phương
thức tồn tại của vật chất, là một tất yếu khách quan, do đó mối liên hệ cũng là

một tất yếu khách quan.
Mối liên hệ tồn tại trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng ở tất cả lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.
Mối liên hệ phổ biến là hiện thực, là cái vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, nó thể hiện tính thống nhất vật chất của
thế giới.
- Do mối liên hệ là phổ biến, nên nó có tính đa dạng: Các sự vật; hiện tượng trong thế giới vật chất là đa dạng nên
mối liên hệ giữa chúng cũng đa dạng, vì thế, khi nghiên cứu các sự vật, hiện tượng cần phải phân loại mối liên hệ
một cách cụ thể.
Căn cứ vào tính chất, phạm vi, trình độ, có thể có những loại mối liên hệ sau: chung và riêng, cơ bản và không cơ
bản, bên trong và bên ngoài, chủ yếu và thứ yếu, không gian và thời gian, v.v.. Sự
phân loại này là tương đối, vì mối liên hệ chỉ là một bộ phận, một mặt trong toàn bộ mối liên hệ phổ biến nói chung.
- Phép biện chứng duy vật nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất và phổ biến nhất của thế giới khách quan. Còn
những hình thức cụ thể của mối liên hệ là đối tượng nghiên cứu của các ngành khoa học cụ thể.
II. Nguyên lý về sự phát triển
1. Khái niệm phát triển
- Phát triển là sự vận động tiến lên (từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện
hơn).
- Từ khái niệm trên cho thấy:
+ Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển có mối quan hệ biện chứng với nhau, vì nhờ có
mối liên hệ thì
sự vật mới có sự vận động và phát triển.
+ Cần phân biệt khái niệm vận động với khái niệm phát triển. Vận động là mọi biến đổi nói chung, còn phát triển là
sự vận
động có khuynh hướng và gắn liền với sự ra đời của cái mới hợp quy luật.
2. Nội dung và tính chất của sự phát triển
- Phát triển là thuộc tính vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, là khuynh hướng chung của thế giới.
- Sự phát triển có tính chất tiến lên, kế thừa, liên tục.
- Sự phát triển thường diễn ra quanh co, phức tạp, phải trải qua những khâu trung gian, thậm chí có lúc có sự thụt lùi
tạmthời.
- Phát triển là sự thay đổi về chất của sự vật. Nguồn gốc của sự phát triển là do sự đấu tranh của các mặt đối lập
trong bản thân sự vật.

3. Phân biệt quan điểm biện chứng và siêu hình về sự phát triển
- Quan điểm biện chứng xem sự phát triển là một quá trình vận động tiến lên thông qua những bước nhảy vọt về
chất. Nguồn gốc của sự phát triển là cuộc đấu tranh của các mặt đối lập ở trong sự vật.


- Quan điểm siêu hình nói chung là phủ định sự phát triển, vì họ thường tuyệt đối hoá mặt ổn định của sự vật, hiện
tượng. Sau này, khi khoa học đã chứng minh cho quan điểm về sự phát triển của sự vật, buộc họ phải nói đến sự
phát triển, song với họ phát triển chỉ là sự tăng hay giảm đơn thuần về lượng không có sự thay đổi về chất và nguồn
gốc của nó ở bên ngoài sự vật, hiện tượng.
III. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nắm vững hai nguyên lý này
Nguyên lý về liên hệ phổ biến đòi hỏi trong nhận thức sự vật cần phải có quan điểm toàn diện. Với quan điểm này,
khi nghiên cứu sự vật phải xem xét tất cả các mối liên hệ của bản thân sự vật
và với các sự vật và hiện tượng khác.
+ Phải phân loại các mối liên hệ để hiểu rõ vị trí, vai trò của từng mối liên hệ đối với sự vận động và phát triển của
sự vật.
*Nếu khuynh hướng của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan là vận động đi lên thì trong nhận
thức và thực tiễn cần phải có quan điểm phát triển.
* Quan điểm phát triển đòi hỏi: phải phân tích sự vật trong sự phát triển, cần phát hiện được cái mới, ủng
hộ cái mới, cần phải tìm nguồn gốc của sự phát triển trong bản thân sự vật.
Tóm lại: Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật là cơ s ở lý luận của quan điểm toàn diện, lịch sử cụ thể
và phát triển. Với cách xem xét, nghiên cứu theo quan điểm toàn diện và phát triển sẽ giúp ta hiểu được bản chất sự
vật, làm cho nhận thức phản ánh đúng đắn về sự vật và hoạt động thực tiễn có hiệu quả cao.
Câu 8 : khái niệm biện chứng duy vật và những đặc trưng cơ bản
a. Khái niệm phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật do C. Mác và Ph.Ăngghen xây dựng trên cơ sở kế thừa có phê phán hạt nhân hợp lý trong
phép biện chứng của G.W.Ph.Hêghen, là phép biện chứng dựa trên nền tảng của chủ nghĩa duy vật, xuất phát từ biện
chứng khách quan của tự nhiên và xã hội.
Theo Ph.Ăngghen : “Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận
động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”
Khi nhấn mạnh vai trò của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, Ph.Ăngghen còn đưA ra một định nghĩa khác về phép

biện chứng duy vật: “phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến”. Khi nhấn mạnh vai trò của nguyên lý
về sự phát triển trong phép biện chứng mà C.Mác đã kế thừa từ triết học của Hêghen, V.I.Lênin cho rằng, trong số
những thành quả đó thì thành quả chủ yếu là phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức
hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức của con người, nhận thức
này phản ánh vật chất luôn luôn phát triển không ngừng.
b. Đặc trưng cơ bản và vai trò của phép biện chứng duy vật


Xét từ góc độ kết cấu nội dung, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin có hai đặc trưng cơ bản sau:
1- phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin là phép biện chứng được xác lập trên nền tảng của thế giới
quan duy vật khoa học.
Với đặc trưng này phép biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin chẳng những có sự khác biệt căn bản với phép biện
chứng duy tâm của G.Hêghen mà còn có sự khác biệt về trình độ so với phép biện chứng duy vật cổ đại.
2-, trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác Lênin có sự thống nhất giữa nội dung của thế giới quan (duy
vật biện chứng) với phương pháp luận (biện chứng duy vật) do đó, nó không dừng lại ở sự giải thích thế giới mà còn
là công cụ để nhận thức thế giới và cải tạo thế giới.
Mỗi nguyên lý, quy luật trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin không chỉ là sự giải thích đúng
đắn về tính biện chứng của thế giới mà còn là phương pháp luận khoa học của việc nhận thức và cải tạo thế giới.
Với những đặc trưng cơ bản trên mà phép biện chứng duy vật giữ vai trò là nội dung đặc biệt quan trọng trong thế
giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tạo nên tính khoa học và tính cách mạng của chủ
nghĩa Mác-Lênin, đồng thời nó cũng là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của hoạt động sáng tạo trong
các lĩnh vực nghiên cứu khoa học.
Câu 9: nguồn gốc, bản chất, kết cấu của ý thức

a. Nguồn gốc của ý thức


Nguồn gốc tự nhiên của ý thức: thể hiện qua sự hình thành của bộ óc con người; mối quan hệ của con
người với thế giới khách quan, trong đó thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người tạo ra quá trình phản
ánh năng động, sáng tạo.


-Về bộ óc người: Ý thức là thuộc tính của dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người, là chức năng của bộ óc, là kết
quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc. Bộ não người là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của giới sinh vật.
Bộ óc càng hoàn thiện, hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc càng có hiệu quả, ý thức con người càng phong phú và
sâu sắc. Bộ não của động vật chỉ đạt đến trình độ phản xạ, bản năng, tâm lý động vật, trong khi đó bộ óc người có
khả năng phản ánh thế giới bằng tư duy trừu tượng.
-Về mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình phản ánh năng động, sáng tạo: Trong mối
quan hệ giữa con người với thế giới khách quan, thông qua hoạt động của các giác quan, thế giới khách quan tác
động đến bộ óc người, hình thành quá trình phản ánh.
- Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác trong quá trình tác động qua lại
với nhau giữa chúng.


- Phản ánh là thuộc tính của tất cả các dạng vật chất và được thể hiện dưới nhiều hình thức, những hình thức này
tương ứng với quá trình tiến hóa của vật chất.
+Phản ánh vật lý, hóa học là hình thức phản ánh thấp nhất, đặc trưng cho vật chất vô sinh được thể hiện qua
những biến đổi về cơ, lý, hóa khi có sự tác động qua lại với nhau giữa các dạng vật chất vô sinh. Hình thức phản ánh
này mang tính thụ động, chưa có định hướng lựa chọn của vật nhận tác động.
+Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới tự nhiên hữu sinh được thể hiện qua tính
kích thích, tính cảm ứng, phản xạ. Tính kích thích là phản ứng của thực vật và động vật bậc thấp bằng cách thay đổi
chiều hướng sinh trưởng, phát triển, thay đổi màu sắc, cấu trúc…khi nhận sự tác động trong môi trường sống. Tính
cảm ứng là phản ứng của động vật có hệ thần kinh tạo ra năng lực cảm giác, được thực hiện trên cơ sở điều khiển
của quá trình thần kinh qua cơ chế phản xạ không điều kiện, khi có sự tác động từ bên ngoài môi trường lên cơ thể
sống.
+Phản ánh tâm lý là phản ứng của động vật có hệ thần kinh trung ương được thực hiện trên cơ sở điều khiển của hệ
thần kinh qua cơ chế phản xạ có điều kiện.
+Phản ánh năng động, sáng tạo: là hình thức phản ánh cao nhất trong các hình thức phản ánh, nó chỉ được thực
hiện ở dạng vật chất phát triển cao nhất, có tổ chức cao nhất là bộ óc người. Là sự phản ánh có tính chủ động lựa
chọn thông tin, xử lý thông tin để tạo ra các thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của thông tin. Sự phản ánh này được
gọi là ý thức. Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất trong các hình thức phản ánh của vật chất.



Nguồn gốc xã hội của ý thức: ý thức không thể tồn tại ngoài não người; tuy nhiên, ý thức không phải do
não sinh ra. Não chỉ là cơ quan thực hiện chức năng phản ánh. Để có ý thức phải có não người và thế giới khách
quan. Ngoài ra còn phải có những điều kiện xã hội nữa đó là: lao động, ngôn ngữ.

Lao động
-Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên nhằm thay đổi giới tự nhiên cho phù
hợp với nhu cầu con người; là quá trình trong đó bản thân con người đóng vai trò môi giới, điều tiết sự trao đổi vật
chất giữa mình với giới tự nhiên.
Trong quá trình lao động, con người tác động vào thế giới khách quan, làm cho thế giới khách quan bộc lộ ra những
thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của nó biểu hiện thành những hiện tượng nhất định mà con
người có thể quan sát được. Những hiện tượng ấy thông qua hoạt động của các giác quan, tác động vào bộ óc con
người, tạo ra khả năng hình thành những tri thức nói riêng và ý thức nói chung.
-Lao động còn là quá trình phát triển bản thân con người, biến vượn thành người. Trong lao động con người phải
suy nghĩ, tính toán đề ra mục đích, tìm kiếm phương pháp và phương tiện thực hiện mục đích, đúc rút kinh nghiệm
thành công và thất bại. Đó chính là phương thức phát triển của ý thức.
Như vậy, sự ra đời của ý thức chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách quan thông qua quá trình lao động
Ngôn ngữ
-Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ, ý thức
không thể tồn tại và thể hiện.
- Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Mối quan hệ giữa các thành viên trong quá trình lao động làm nảy
sinh nhu cầu phải có phương tiện để biểu đạt, nhu cầu này làm ngôn ngữ nảy sinh.


- Ngôn ngữ là công cụ của tư duy trừu tượng, là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất, nhờ ngôn ngữ con người có
thể tổng kết tri thức, kinh nghiệm, truyền đạt tư tưởng từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Tóm lại: ý thức ra đời do hai nguồn gốc: Nguồn gốc tự nhiên, đó là kết quả sự tiến hóa của bộ não và thuộc tínhh
phản ánh của nó. Nguồn gốc xã hội của ý thức là lao động, ngôn ngữ. Sự tiến hóa tự nhiên là tiền đề vật chất không
thể thiếu được của ý thức. Tuy nhiên, điều kiện xã hội giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự ra đời của ý thức.

b. Bản chất và kết cấu của ý thức
Bản chất của ý thức
-Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào trong đầu óc con người, là “hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan.
-Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo, không phải là sự sao chép đơn giản, máy móc. Tính sáng tạo của phản
ánh ý thức thể hiện ở chỗ ý thức có khả năng phản ánh bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng; ý thức con người
có khả năng biến đổi hình ảnh (cảm tính và lý tính) của sự vật trong đầu óc của mình, tạo ra mô hình mới để từ đó
biến đổi sự vật trong hoạt động thực tiễn.
-Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: ý thức là hình ảnh của thế giới khách quan, do thế giới khách
quan quy định cả về nội dung và hình thức biểu hiện nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách quan mà đã
được cải biến thông qua lăng kính chủ quan (tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, kinh nghiệm, tri thức, nhu cầu…) của
con người. Theo C.Mác: ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải
biến đi trong đó”
-Ý thức là một hiện tượng xã hội, mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực
tiễn, không những chịu tác động của các quy luật sinh học mà còn chủ yếu là các quy luật xã hội, do nhu cầu giao
tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng động, ý thức sáng tạo lại hiện
thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
Kết cấu của ý thức
-Ý thức có kết cấu phức tạp, có nhiều cách tiếp cận nghiên cứu về kết cấu của ý thức. Nếu tiếp cận kết cấu của ý
thức theo các yếu tố cơ bản nhất hợp thành nó thì ý thức bao gồm: tri thức, tình cảm, ý chí, trong đó tri thức là nhân
tố quan trọng nhất.
-Tri thức là toàn bộ sự hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối
tượng được nhận thức dưới dạng ngôn ngữ.
+Mọi hoạt động của con người đều có tri thức, được tri thức định hướng. Mọi biểu hiện của ý thức đều chứa
đựng nội dung tri thức. Tri thức là phương tiện tồn tại của ý thức và là điều kiện để ý thức phát triển.
+Căn cứ vào lĩnh vực nhận thức, tri thức có thể chia thành tri thức về tựnhiên, tri thức xã hội, tri thức nhân
văn.
+Căn cứ vào trình độ phát triển của nhận thức tri thức được chia thành: tri thức đời thường, tri thức khoa học,
tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri thức cảm tính và tri thức lý tính.
-Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ của con người trong các quan hệ. Tình cảm là một hình thái đặc biệt

của sự phản ánh hiện thực, hình thành từ sự khái quát những cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của
ngoại cảnh.


+Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của con người, là động lực thúc đẩy hoạt động
nhận thức và thực tiễn.
+ Tùy vào từng đối tượng nhận thức và sự rung động của con người về đối tượng đó trong các quan hệ mà
hình thành nên các loại tình cảm khác nhau như tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm tôn giáo…
-Ý chí là khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở trong quá trình thực hiện mục đích của
con người
Ý chí được coi là mặt năng động của ý thức, một biểu hiện của ý thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự giác
được mục đích của hành động nên tự đấu tranh với mình và ngoại cảnh để thực hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn.
Có thể coi ý chí là quyền lực của con người đối với mình, nó điều chỉnh hành vi để con người hướng đến mục đích
một cách tự giác.
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau song tri thức là yếu tố quan trọng nhất; là
phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân tố định hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu
hiện của các yếu tố khác.
Câu 10: thực tiễn, vai trò của thực tiễn với nhận thức:
-Thực tiễn là một phạm trù TH chỉ toàn bộ những hoạt động vật chất có tính lịch sử XH của con người nhằm cải
biến TN, XH.
-Hoạt động thực tiễn là hoạt động vật chất của con người
+ bản chất của hoạt động thực tiễn là sự tác động qua lại giữa CT và KT. Trong đó cả CT và KT đều là những đối
tượng vật chất. Ở đó chủ thể tác động chủ động; có mục đích vào KT, biến đổi KT cho phù hợp nhu cầu của mình,
quá trình này không chỉ biến đổi KT mà biến đổi cả bản thân chủ thể.
+Hoạt động thực tiễn là hoạt động lịch sử: vì nó là hoạt động cơ bản của loài người trong sự phát triển lịch sử, là
phương thức tồn tại cơ bản của loài người.
+Hoạt động thực tiễn là hoạt động XH, vì nó là hoạt động phổ biến của XH loài người.
b. Các hình thức hoạt động thực tiễn
· Thực tiễn là lao động sản xuất của cải vật chất: đây là hình thức cơ bản nhất, giữ vai trò quyết định, chi phối các
hoạt động khác còn lại như hoạt động tinh thần, tư tưởng, lý luận, đấu tranh giai cấp, thực nghiệm XH,VH, biểu diễn

nghệ thuật, TH ,TG, đạo đức.... là hoạt động biến vượn thành người, tạo ra các điều kiện cơ bản cho sự tồn tại và
phát triển của XH.
· Thực tiễn là hoạt động cải biến XH: 1 hình thức cao nhất của hoạt động vật chất gồm đấu tranh giai cấp, đấu tranh
giải phóng dân tộc, đấu tranh cho hòa bình ..... làm cho XH ngày càng tiến bộ.
· Thực nghiệm khoa học: là hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn. Đó là hoạt động được diễn ra trong điều kiện
nhân tạo nhằm nhận thức và cải biến TN, XH.Các nhà KH có vai trò to lớn trong việc nhận thức, tạo ra các phát
minh KH và biến những phát minh thành các giải pháp công nghệ, nghị lực, năng lực, vật liệu mới phục vụ cho sản
xuất, đời sống.
2. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Thực tiễn có 2 chức năng quan trọng:


· Chuyển cái tinh thần thành cái vật chất: khách quan hoá chủ quan.
· Chuyển cái vật chất thành cái tinh thần: chủ quan hoá khách quan.
a. Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức
- Nhận thức ngay từ đầu đã xuất phát từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Chính do yêu cầu sản xuất vật chất và đấu
tranh cải tạo XH buộc con người phải nhận thức thế giới. Nhờ có thực tiễn mà con người nhận thức ngày càng sâu
sắc, đầy đủ thế giới xung quanh.
- Cách thức nhận thức: thực tiễn là tác động của con người vào đối tượng, buộc đối tượng bộc lộ những thuộc tính,
kết cấu, quy luật, trên cơ sở đó con người nhận thức chúng. Và nhận thức là nắm bắt bản chất, quy luật, thuộc tính
kết cấu của SV.
- Thực tiễn làm cho giác quan con người ngày càng phát triển hoàn thiện.Thực tiễn tạo ra những công cụ phương
tiện hiện đại giúp cho năng suất lao động tăng lên, KH không ngừng phát triển như kính hiển vi, vi tính, tàu vũ trụ ...
b. Thực tiễn là mục đích của nhận thức
- Những tri thức khoa học chỉ đúng khi chúng được vận dụng vào thực tiễn. Mục đích cuối cùng của nhận thức
không phải là bản thân tri thức, mà là để cải tạo tự nhiên, xã hội đáp ứng cho nhu cầu của con người.
- Thực tiễn nêu ra những vấn đề cho nhận thức hướng tới giải đáp -> cácngành khoa học ngày càng phát triển
- Thực tiễn cũng tạo ra những phương tiện cần thiết giúp cho việc nghiên cứu khoa học, đem lại những tài liệu, dữ
kiện giúp tổng kết, khái quát hình thành lý luận
c. Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra tri thức, là tiêu chuẩn của chân lý

Chỉ có thể đem những tri thức thu nhận được kiểm nghiệm qua thực tiễn mới thấy rõ tính sai lầm hay đúng đắn của
chúng
Câu 11: con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý
a. Quan điểm của V.I.Lênin về con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý
Trong tác phẩm Bút ký triết học, V.I.Lênin khái quát con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý như sau: Từ
trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của
sự nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách quan.
1/ Giai đoạn từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính.
-Nhận thức cảm tính là giai đoạn mở đầu của quá trình nhận thức
+ Đó là giai đoạn nhận thức mà con người trong hoạt động thực tiễn sử dụng các giácquan tiến hành phản ánh các sự
vật khách quan, mạng tính chất cụ thể, cảm tính với những biểu hiện phong phú của nó trong mối quan hệ với sự
quan sát của con người.
-> Do vậy, trong giai đoạn này con người mới chỉ phản ánh được cái hiện tượng, biểu hiện bên ngoài của sự vật mà
chưa phản ánh được cái bản chất, quy luật, nguyên nhân của hiện tượng.


+Nhận thức cảm tính được thực hiện qua ba hình thức cơ bản là: cảm giác, tri giác và biểu tượng:
*Cảm giác của con người về sự vật khách quan là hình ảnh sơ khai nhất, đơn giản nhất của quá trình nhận thức
nhưng nếu không có nó thì sẽ không có bất cứ nhận thức nào về sự vật khách quan. Cảm giác là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan, là cơ sở hình thành tri giác.
*Tri giác là sự phản ánh tương đối toàn vẹn của con người về những biểu hiện của sự vật khách quan, cụ thể,
cảm tính; nó được hình thành trên cơ sở liên kết, tổng hợp những cảm giác về sự vật đó. Tri giác là hình thức nhận
thức cao hơn cảm giác, đầy đủ hơn, phong phú hơn về sự vật nhưng vẫn chỉ là sự phản ánh đối với những biểu hiện
bề ngoài của sự vật.
*Biểu tượng là sự tái hiện hình ảnh về sự vật khách quan vốn đã được phản ánh bởi cảm giác và tri giác, là hình
thức phản ánh cao nhất và phức tạp nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính, là bước quá độ từ nhận thức cảm tính
sang nhận thức lý tính, là tiền đề của sự trừu tượng hóa của giai đoạn nhận thức lý tính.
-Nhận thức lý tính lý tính là giai đoạn cao hơn của quá trình nhận thức, đó là sự phản ánh gián tiếp, trừu tượng và
khái quát những thuộc tính, những đặc điểm bản chất của sự vật khách quan. Đây là giai đoạn nhận thức thực hiện
chức năng quan trọng nhất là tách ra và nắm lấy cái bản chất, có tính quy luật của các sự vật, hiện tượng.

+Nhận thức lý tính được thực hiện thông qua ba hình thức cơ bản là khái niệm, phán đoán và suy lý.
*Khái niệm là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, phản ánh những đặc tính bản chất của sự vật. Sự hình
thành khái niệm là kết quả cuae sự khái quát, tổng hợp các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay một lớp các sự vật.
Nó là cơ sở hình thành nên những phán đoán trong quá trình con người tư duy vềsự vật khách quan.
*Phán đoán là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính được hình thành thông qua việc liên kết các khái niệm lại
với nhau theo phương thức khẳng định hay phủđịnh một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối tượng nhận thức.
Theo trình độ của nhận thức có thể chia thành: phán đoán đơn nhất, phán đoán đặc thù, phán đoán phổ biến. Phán
đoán phổ biến là hình thức phản ánh thể hiện sự bao quát rộng lớn nhất về thực tại khách quan.
*Suy lý là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính được hình thành trên cơ sở liên kết các phán đoán nhằm rút ra
tri thức mới về sự vật. Điều kiện để có bất cứ một suy lý nào là phải trên cơ sở những tri thức đã có dưới dạng
những phán đoán, đồng thời tuân theo các quy tắc lôgic của các loại hình suy luận: suy luận quy nạp (đi từ cái riêng
đến cái chung), suy luận diễn dịch (đi từ cái chung đến cái riêng, cái cụ thể).
Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính , nhận thức lý tính với thực tiễn.


-Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính đều là những nấc thang hợp thành chu trình nhận thức, chúng thường diễn
ra đan xen vào nhau nhưng có chức năng, nhiệm vụ khác nhau:
-Nhận thức cảm tính gắn với thực tiễn, với sự tác động của khách thể cảm tính, là cơ sở cho nhận thức lý tính.
-Nhận thức lý tính có tính khái quát cao  hiểu bản chất, quy luật vận động của sự vật, giúp cho nhận thức cảm tính
có sự định hướng đúng và trở nên sâu sắc hơn.
-Nhận thức lý tính mới chỉ đạt được những tri thức về đối tượng nhưng những tri thức đó có chính xác hay không
cần phải có sự kiểm nghiệm của thực tiễn, dùng thực tiễn để đo lường tính chân thực của nhận thức. Mặt khác, mọi
nhận thức, suy đến cùng đều là xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và trở lại phục vụ thực tiễn.
Tóm lại, quy luật chung của quá trình nhận thức là: từ thực tiễn đến nhận thức - tái thực tiễn - tái nhận thức...quá
trình này không có điểm dừng cuối cùng, nhờ đó mà quá trình nhận thức đạt dần tới tri thức ngày càng đầy đủ hơn,
đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về thực tại khách quan. Đây cũng chính là quan điểm về tính tương đối của nhận thức của
con người trong quá trình phản ánh thực tại khách quan.
Quy luật chung của nhận thức có ý nghĩa quan trọng về mặt phương pháp luận, giúp chúng ta nắm được quy luật
khách quan của quá trình nhận thức đồng thời đây cũng chính là phương pháp học tập, nghiên cứu khoa học và hoạt
động thực tiễn; học đi đôi với hành; học liên tục, suốt đời tránh bệnh tự mãn hoặc hời hợt trong hoạt động nhận thức

.
Câu 12: sự đối lập giữa CNDV & CNDT trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học
Dựa trên tổng kết toàn bộ lịch sử triết học, Ph.Ăngghen cho rằng: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là
của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại hay giữa ý thức với vật chất.


Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:

--Mặt 1, (mặt bản thể luận) trả lời câu hỏi: trong mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa ý thức và vật chất thì cái
nào có trước, cái nào có sau,cái nào quyết định cái nào?
--Mặt 2, (mặt nhận thức luận) trả lời câu hỏi: tư duy con người có khả năng nhận thức thế giới hay không?
Việc giải quyết vấn hai mặt vấn đề cơ bản của triết học là xuất phát điểm của các trường phái lớn: chủ nghĩa duy
tâm >< chủ nghĩa duy vật; khả tri luận (thuyết có thể biết) >< bất khả tri luận (không thể biết). Ngoài ra còn
có chủ nghĩa nhị nguyên và hoài nghi luận.


+Chủ nghĩa duy vật là trường phái triết học xuất phát từ quan điểm: bản chất của thế giới là vật chất; vật chất là
tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai; vật chất có trước ý thức và quyết định ý thức.
+Chủ nghĩa duy tâm là trường phái triết học cho rằng: bản chất của thế giới là tinh thần; ý thức là tính thứ nhất,
vật chất là tính thứ hai; ý thức có trước và quyết định vật chất.
Chủ nghĩa duy tâm có hai trào hình thức cơ bản là Chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ
quan.Chủ nghĩa duy tâm khách quan thừa nhận tính thứ nhất của tinh thần, ý thức nhưng tinh thần, ý thức đó được
quan niệm là tinh thần khách quan, ý thức khách quan có trước và tồn tại độc lập với giới tự nhiên và con người.
Những đại biểu của trào lưu này là Platon, Hêghen, Tômat Đacanh… Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính
thứ nhất của ý thức con người, khẳng định ý thức quyết định vật chất, vật chất không tồn tại độc lập mà phụ thuộc
vào cảm giác, ý thức. Những đại biểu của trào lưu này là G.Beccơli, D.Hium.
Ngoài sự phân biệt chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, người ta còn phân biệt:
+Thuyết nhất nguyên là khuynh hướng triết học cho rằng thế giới chỉ có một bản nguyên, là thực thể vật chất hoặc
thực thể tinh thần có trước và quyết định. Tùy theo quan niệm cho rằng vật chất hay tinh thần là thực thể của thế
giới mà thuyết nhất nguyên có hai hình thức tương ứng: thuyết nhất nguyên duy vật và thuyết nhất nguyên duy tâm.

+Thuyết nhị nguyên cho rằng có hai thực thể vật chất và ý thức song song tồn tại, không phụ thuộc lẫn nhau.
+Thuyết đa nguyên là khuynh hướng triết học cho rằng có nhiều cơ sở, nhiều bản nguyên của tồn tại, chúng không
phụ thuộc lẫn nhau.
Trong việc giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học có hai khuynh hướng đối lập nhau là thuyết khả tri và
thuyết bất khả tri. Đa số các nhà triết học khẳng định rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới, có khả
năng đạt được chân lý khách quan. Một số các nhà triết học phủ nhận một phần hay toàn bộ khả năng nhận thức của
con người. Những nhà triết học này thuộc thuyết bất khả tri (có nghĩa là không thể nhận thức được). Đại biểu của
khuynh hướng này là Protagor, D.Hium, I.Cantơ…
Đối lập với chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa duy vật tồn tại và phát triển có nguồn gốc từ sự phát triển của khoa học và
thực tiễn, đồng thời thường gắn với lợi ích của giai cấp và lực lượng tiến bộ trong lịch sử. Chủ nghĩa duy vật không
chỉ tổng kết, khái quát kinh nghiệm và thành tựu mà con người đạt được mà còn định hướng cho hoạt động thực tiễn
của con người.
2. Chủ nghĩa duy vật biện chứng-hình thức phát triển cao nhất của chủnghĩa duy vật. Trong lịch sử, cùng với sự phát
triển của khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật được hình thành và phát triển với ba hình thức cơ bản là chủ
nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.


a. Chủ nghĩa duy vật chất phác
Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật thời kỳ cổ đại. Họ thừa nhận tính thứ
nhất của vật chất nhưng lại đồng nhất vật chất với một hay dạng tồn tại cụ thể của vật chất, coi đó là thực thể đầu
tiên, là bản nguyên của vũ trụ. Đó là sự nhận thức mang tính trực quan nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác Scó ưu
điểm là đã lấy bản thân giới tự nhiên để giải thích giới tự nhiên mà không viện đến một thần linh hay một đấng sáng
tạo nào để giải thích thế giới.
b. Chủ nghĩa duy vật siêu hình
Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật, phát triển rõ nét từ thế kỷ XV đến thế kỷ
XVIII, và đạt đỉnh cao vào thế kỷ XIX, nó gắn với thời kỳ cơ học cổ điển phát triển mạnh, do đó chịu sự tác động
mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc. Đặc điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình là nhận thức thế
giới như một cỗ máy cơ giới mà mỗi bộ phận tạo nên nó luôn ở trạng thái biệt lập, tĩnh tại. Nếu có biến đổi thì chỉ có
sự tăng, giảm đơn thuần về số lượng, do những nguyên nhân bên ngoài gây ra.
Tuy chưa phản ánh đúng hiện thực trong mối liên hệ phổ biến và sự phát triển nhưng chủ nghĩa duy vật siêu hình đã

góp phần vào việc chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo, nhất là giai đoạn lịch sử chuyển tiếp từ thời Trung cổ
sang thời Phục hưng ở các nước Tây Âu.
c. Chủ nghĩa duy vật biện chứng
Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng từ những năm 40 của thế kỷ XIX và được
V.I.Lênin phát triển. Chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời trên cơ sở kế thừa tinh hoa trong lịch sử triết học, dựa trên
cơ sở những thành tựu của khoa học tự nhiên vì vậy, đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác và
chủ nghĩa duy vật siêu hình. Trên cơ sở phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan trong mối liên hệ phổ biến và sự
phát triển, chủ ng hĩa duy vật biện chứng là công cụ vĩ đại cho hoạt động nhận thức và thực tiễn cách mạng.
Câu 13: phương thức và hình thức tòn tại của vật chất. tính thông nhất vật chất của thế giới
*định nghĩa Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong
cảm giác, được cảm giác của chúng tachép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là phương thức tồn tại của vật chất; không gian, thời
gian là những hình thức tồn tại của vật chất.
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất


Ph.Ăngghen viết: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là
một thuộc tính cố hữu của vật chất,- thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ
sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy
+vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất, thông qua vận động mà các dạng cụ
thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình. Vận động của vật chất là tự thân vận động và sự tồn tại của vật chất
luôn gắn liền với vận động.
+Vật chất chỉ có thể tồn tại trong vận động, bằng cách vận động, không thể có vật chất không vận động, cũng như
không thể có vận động ngoài vật chất. Các thuộc tính của vật chất chỉ biểu hiện thông qua vận động.
*Các hình thức vận động của vật chất:
1.Vận động cơ giới là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian.
2.Vận động vật lý là vận động của phân tử, của các hạt cơ bản, vận động của nhiệt, ánh sáng, điện, trường, âm
thanh…
3.Vận động hóa học là sự vận động của các nguyên tử; sự hóa hợp và phân giải của các chất.

4.Vận động sinh vật là vận động của các cơ thể sống như sự trao đổi chất, đồng hóa, dị hóa, sự tăng trưỏng, sinh sản,
tiến hóa…
5.Vận động xã hội là sự thay đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa…của đời sống xã hội.
+Các hình thức vận động cơ bản trên được sắp xếp theo thứ tự từ trình độthấp đến trình độ cao, tương ứng với trình
độ kết cấu của vật chất.
+ Các hình thức vận động có mối quan hệ mật thiết với nhau trong đó hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở
các hình thức vận động thấp và bao hàm trong nó những hình thức vận động thấp hơn.
+ Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể có nhiều hình thức vận động khác nhau và đặc trưng bởi hình thức
vận động cao nhất mà nó có.
+Bằng việc phân loại các hình thức vận động cơ bản, Ph.Ăngghen đã đặt cơ sở cho việc phân loại, phân ngành, hợp
loại, hợp ngành khoa học.
Vận động và đứng im:


*vận động là tuyệt đối, là vĩnh viễn nhưng điều đó không có nghĩa là phủ nhận sự đứng im, cân bằng ; song đứng
im, cân bằng chỉ là hiện tượng tương đối, tạm thời và thực chất đứng im, cân bằng chỉ là một trạng thái đặc biệt của
vận động.
*Đứng im là tương đối vì đứng im, cân bằng chỉ xảy trong một số quan hệ nhất định, chứ không phải trong tất cả
mọi quan hệ. Đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một hình thức vận động.Đứng im là tạm thời vì đứng im không
phải là cái tồn tại vĩnh viễn mà chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định, chỉ là xét trong một hay một số quan hệ
nhất định, ngay trong đứng im vẫn diễn ra những quá trình biến đổi nhất định. Đứng im là trạng thái đặc biệt của vận
động, đó là vận động trong thế cân bằng, ổn định, vận động chưa làm thay đổi cơ bản về chất, về vị trí, hình dáng,
kết cấu của sự vật
Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất
Quan điểm siêu hình coi không gian là một cái hòm rỗng trong đó chứa vật chất. Có không gian và thời gian không
có vật chất. Có sự vật, hiện tượng không tồn tại trong không gian và thời gian.
Quan điểm duy vật biện chứng cho rằng mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một
quảng tính (chiều cao, chiều rộng, chiều dài) nhất định và tồn tại trong các mối tương quan nhất định (trước hay sau,
trên hay dưới, bên phải hay bên trái…) với những dạng vật chất khác.
Những hình thức tồn tại như vậy gọi là không gian. Mặt khác sự tồn tại của sự vật còn được thể hiện ở quá trình biến

đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyển hóa… những hình thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian.
Ph.Ăngghen cho rằng: “Các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian và thời gian; tồn tại ngoài thời gian thì
cũng hết sức vô lý như tồn tại ở ngoài không gian”, do đó có thể hiểu:
- Vật chất, không gian và thời gian không tác rời nhau, không có không gian và thời gian không có vật chất cũng
như không thể có sự vật, hiện tượng tồn tại ngoài không gian và thời gian.
- Không gian, thời gian có những tính chất chung như những tính chất của vật chất đó là tính khách quan, tính vĩnh
cửu, tính vô tận và vô hạn.
- Không gian có thuộc tính ba chiều (chiều cao, chiều dài, chiều rộng)còn thời gian chỉ có một chiều (từ quá khứ đến
tương lai). Tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian biểu hiện hình thức tồn tại về quảng tính và
quá trình diễn biến của vật chất vận động.
c. Tính thống nhất vật chất của thế giới


-Thế giới vật chất biểu hiện hết sức phong phú, đa dạng, song, những dạng biểu hiện của thế giới vật chất đều phản
ánh bản chất của thế giới và thống nhất với nhau.
Quan điểm duy tâm giải thích sự thống nhất của thế giới ở một thực thể tinh thần đầu tiên (Ý niệm, Thượng đế) hoặc
từ cảm giác của con người.
-Quan điểm duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất.
*Một là, chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, thế giới vật chất là cái có trước, tồn tại khách quan, độc
lập với ý thức của con người.
*Hai là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không được sinh ra và không bị mất đị.
*Ba là, mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với nhau, đều là những dạng cụ thể của vật
chất, là những kết cấu vật chất, có nguồn gốc vật chất và chịu sự chi phối của những quy luật khách quan phổ biến
của vật chất.
Nhận thức trên có ý nghĩa quan trọng, nó không chỉ định hướng cho con người giải thích về tính đa dạng của thế
giới mà còn định hướng cho việc tiếp tục nhận thức tính đa dạng ấy để thực hiện quá trình cải tạo hợp quy luật.

Câu 14 Bản chất và hiện tượng. mqh, ý nghĩa
a. Khái niệm
- Bản chất là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn

định ở bên trong quy định sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng đó.
- Hiện tượng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự biểu hiện của những mặt, những mối liên hệ đó trong những điều
kiện xác định.
- Hiện tượng là những biểu hiện ra bên ngoài của bản chất.
Ví dụ: Mọi người đều là sản phẩm tổng hợp của các quan hệ xã hội, đó là cái chung, đồng thời đó là bản chất của
con người. Còn những đặc điểm về cấu trúc sinh học của con người như đều có đầu, mình và các chi... đó là cái
chung, nhưng không phải bản chất của con người.
c. Quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng:


×