Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Bài tập lớn Khuyết tật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.83 KB, 13 trang )

A, ĐẶT VẤN ĐỀ
Người khuyết tật vốn là những người bât hạnh, chịu thiệt thòi và gặp nhiều khó
khăn trong cuộc sống. Họ phải đối diện với áp lực tâm lý rất lớn đó là những mặc cảm, tự
ti về khiếm khuyết trên cơ thể mình, là những gánh nặng họ đem đến cho gia đình và xã
hội. Vì vậy, họ chính là đối tượng cần được tạo điều kiện trong cuộc sống hơn bình
thường. Xuất phát từ điều đó, để tìm hiểu rõ hơn một vài khía cạnh về người khuyết tật
nên em đã tìm hiểu đề tài:
“1, Phân tích nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử với người khuyết tật trong
pháp luật quốc tế và việc vụ thể hóa trong pháp luật Việt Nam.
2, Các dạng tật và sự ảnh hưởng đối với việc tham gia giao thông của người khuyết
tật”.

B, GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Phân tích nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử với người khuyết tật
(NKT) trong pháp luật quốc tế và việc vụ thể hóa trong pháp luật Việt Nam
1, Tình trạng kỳ thị và phân biệt đối xử với NKT hiện tại
- Kỳ thị và phân biệt đối xử gắn bó hữu cơ với nhau, củng cố và hợp thức hóa lẫn
nhau. Kỳ thị nằm trong nguồn gốc của phân biệt đối xử, khiến con người hành động làm
tổn hại hoặc phủ nhận quyền của người khác.
Kỳ thị thể hiện qua thái độ và hành vi thiếu tôn trọng, coi thường, xúc phạm NKT
một cách vô tình hay cố ý. Nhiều người thường không ý thức được rằng những lời nói và
hành động của họ là kỳ thị.
- Phân biệt đối xử là kỳ thị được chuyển thành hành động, thể hiện qua sự đối xử
không công bằng với người bị kỳ thị.
- Hành vi phân biệt đối xử đối với NKT có thể thấy ở các loại hình cụ thể như sau:
+ Phân biệt đối xử trong gia đình: có những NKT bị chính những thành viên trong
gia đình phân biệt đối xử như: coi thường, coi là gánh nặng, coi là “vô dụng”, thường

1



xuyên lăng mạ; không chăm sóc, thậm chí bỏ rơi; không cho ăn, khóa, xích trong nhà, bắt
đi ăn xin ...
+ Phân biệt đối xử trong cộng đồng: điều này diễn ra trong cộng đồng nơi họ sinh
sống: coi thường, lăng mạ, bị phớt lờ trong các hoạt động của cộng đồng; từ chối kết hôn,
bị đánh đập; nhà hàng, cửa hàng từ chối phục vụ; lạm dụng tình dục.
+ Phân biệt đối xử tại nơi làm việc: từ chối nhận vào làm việc, không tôn trọng trong
công việc; không có cơ hội thăng tiến; chỉ ký được hợp đồng ngắn hạn; chỉ được giao cho
“những việc phù hợp” (lương thấp, vị trí thấp); ít khi hoặc không được đào tạo.
+ Phân biệt đối xử trong giáo dục: Nhiều người cho rằng, một số NKT không nên đi
học vì họ không thể đi học hoặc sẽ ảnh hưởng đến việc học của những học sinh “bình
thường” khác hoặc cho rằng học cũng không giúp ích gì. Phần lớn học sinh khuyết tật
gặp rất nhiều khó khăn ở trường như: trong việc đi lại, học tập, giao tiếp với giáo viên và
các bạn cùng lớp; tham gia các hoạt động của trường; cơ sở hạ tầng của trường không
thân thiện với người khuyết tật; giáo viên thiếu kỹ năng dạy NKT và hành vi phân biệt
đối xử của giáo viên và các bạn cùng lớp.
+ Phân biệt đối xử trong hôn nhân và sinh con: nhiều người cho rằng NKT nữ không
nên sinh con vì họ không thể nuôi con, sinh con sẽ tăng thêm gánh nặng cho họ và gia
đình họ, con cái họ có thể bị khuyết tật “di truyền”… Đây là một trong những nguyên
nhân mà khoảng một nửa NKT ở độ tuổi 15 trở lên không kết hôn.
2, Phân tích nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử với người khuyết tật
trong pháp luật quốc tế
Kỳ thị và phân biệt đối xử đối với NKT là một nguyên nhân cơ bản gây nên tình
trạng thiệt thòi của NKT; hạn chế đáng kể các cơ hội sống, cơ hội phấn đấu của NKT. Nó
còn là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc NKT không được hòa nhập vào các hoạt động
văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội của cộng đồng.
Điều 1 Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 đã quy định: “Tất cả
mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và quyền. Mọi con người
đều đươc tạo hóa ban cho lý trí và lương tâm và cần phải đối xử với nhau trong tình
2



bằng hữu”. Vì vậy, giống như mọi người, NKT có quyền được đối xử công bằng và
không bị phân biệt trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Điều 5 Công ước của NKT
năm 2006 đã ghi nhận nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử:
“1. Các Quốc gia thành viên của Công ước này thừa nhận tất cả mọi người đều bình
đẳng trước pháp luật và trong khuôn khổ pháp luật và được pháp luật bảo hộ và được
hưởng những lợi ích của pháp luật một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt
đối xử nào.
2. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết nghiêm cấm tất cả các hành vi
phân biệt đối xử đối vì lý do khuyết tật và đảm bảo người khuyết tật được bảo hộ tích
cực bằng luật pháp khỏi sự phân biệt đối xử vì bất kỳ lý do nào.
3. Để thúc đẩy sự công công bằng và xoá bỏ sự phân biệt đối xử, các Quốc gia thành
viên của Công ước này cam kết thực hiện tất cả các biện pháp phù hợp để đảm bảo có sự
điều chỉnh hợp lý.
4. Các biện pháp cụ thể cần thiết để xúc tiến hoặc đạt được sự công bằng trên thực tế
của người khuyết tật sẽ không bị coi là sự phân biệt đối xử theo các thuật ngữ của Công
ước này.”
Tuyên bố của Tổ chức Lao động Quốc tế tại Philadelphia (1944) đã khẳng định
mọi con người, không phân biệt chủng tộc, tín ngưỡng tôn giáo, giới tính, đều có quyền
được mưu cầu sự đầy đủ về vật chất và phát triển về tinh thần trong điều kiện tự do, bảo
đảm nhân phẩm, bảo đảm kinh tế và bình đẳng về cơ hội. Điều này có nghĩa là tất cả mọi
người, kể cả nam và nữ, cần được đối xử công bằng và có cơ hội bình đẳng để tham gia
các hoạt động xã hội, kể cả thị trường lao động.
Pháp luật các nước trên thế giới ở những mức độ khác nhau cũng đã quy định vấn
đề này trong các văn bản pháp luật. Các quốc gia trên thế giới có luật pháp chung về
chống phân biệt đối xử áp dụng cho mọi công dân, trong đó có đề cập người khuyết tật:
Canada – Luật nhân quyền 1985; Airơlen – Luật bình đẳng việc làm năm 1998; Namibia
– Luật về việc làm ưu đãi 1998… các quốc gia có luật pháp về chống phân biệt đối xử chỉ
3



áp dụng với NKT, ví dụ: Hoa Kỳ - Luật NKT 1990, Costa Riaca – Luật 7600 về cơ hội
bình đẳng cho NKT 1996, Việt Nam – Luật NKT 2010…1
Về phương diện pháp lý, nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử có thể
được tiếp cận với các khía cạnh khác nhau trong pháp luật và dẫn đến các hậu quả không
giống nhau. Nguyên tắc bình đẳng bao gồm: bình đẳng trên danh nghĩa, bình đẳng về cơ
hội, bình đẳng về kết quả. Các hình thức phân biệt đối xử: phân biệt đối xử trực tiếp, gían
tiếp; gây phiền nhiễu; chỉ đạo và khuyến khích phân biệt đối xử 2. Để có cơ sở xác định
một hành vi có phải bình đẳng hoặc phân biệt đối xử với NKT hay không cần có các tiêu
chí xác định mang tính pháp lỹ được cơ quan có thẩm quyền xác định. Các định nghĩa về
“phân biệt đối xử” hay “kì thị NKT” đã được quy định tại 1 số điều luật như: Điều 2 –
Công ước về quyền của NKT 2006, Điều 2- Luật NKT Việt Nam, 2010…
Như vậy, một cách chung nhất, nguyên tắc bình đẳng ở đây được hiểu là sự ngang
nhau trong việc tiếp cận các cơ hội về học tập, việc làm; chăm sóc sức khỏe, dịch vụ
công… của NKT trong mọi điều kiện, hoàn cảnh.
3, Việc cụ thể hóa nguyên tắc trong pháp luật Việt Nam
Luật hiến pháp mà cụ thể là quy định của Hiến pháp là cơ sở pháp lý quan trọng để
xây dựng luật NKT. Các quy định của Hiến pháp 2013 đặc biệt là chương II: Quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân là căn cứ pháp lý quan trọng để xác định quyền của người
khuyết tật như Điều 16 : “1. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. 2. Không ai bị
phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”. Các quy định
trong Hiến pháp là tiền đề, cơ sở xác định các nguyên tắc, định hướng nội dung của pháp
luật người khuyết tật.
Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, luật NKT cụ thể hóa các quyền của người
khuyết tật trên nhiều lĩnh vực cụ thể nhằm tạo tiền đề về mặt pháp lý để người khuyết tật
thông qua sự tiếp cận của mình trực tiếp thực hiện các quyền của họ với tư cách là các
quyền cơ bản công dân. Mặt khác, mặc dù nhấn mạnh đến quyền xong với tư cách là
1(1) Giáo trình luật người khuyết tật Việt Nam. NXB. Công an nhân dân, 2011, tr44
2(2) “Hướng tới cơ hội việc làm bình đẳng cho NKT thông qua hệ thống pháp luật”, ILO,2006,tr18-20 và 27-29


4


công dân người khuyết tật còn phải thực thi các nghĩa vụ của mình – Khoản 2, Điều 4
luật Người khuyết tật 2010 quy định: “Người khuyết tật thực hiện các quyền công dân
theo quy định của pháp luật”. Luật Người khuyết tật bao gồm 10 chương 53 điều bao
gồm những nội dung cơ bản như: Những quy định chung; xác nhận khuyết tật; chăm sóc
sức khỏe; giáo dục; dạy nghề và việc làm; văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí, du lịch; nhà
chung cư, công trình công cộng, giao thông, công nghệ thông tin và truyền thông; bảo trợ
xã hội; trách nhiệm của cơ quan nhà nước về công tác người khuyết tật; điều khoản thi
hành.
Ngoài ra, nguyên tắc này còn được cụ thể hóa trong một số luật chuyên ngành khác
như:
Luật lao động với các quy định chủ yếu liên quan đến lao động, việc làm cho người
khuyết tật. Không thể phủ nhận rằng việc từ chối các cơ hội việc làm công bằng cho
người khuyết tật chính là một trong những nguyên nhân gốc rễ dẫn đến sự nghèo đói và
tình trạng bị phân biệt đối xử. Nói cách khác, không thể nói đến quyền cũng như sự tôn
trọng nhân phẩm của người khuyết tật nếu như không tạo cho họ cơ hội tìm kiếm việc
làm như mọi công dân trong xã hội. Thông qua các quy định của luật lao động về quyền
tự do việc làm, cấm phân biệt đối xử (Điều 5 Bộ luật Lao động), về tỷ lệ lao động khuyết
tật bắt buộc mà doanh nghiệp phải nhận (Khoản 3 Điều 125 Bộ luật Lao động), về chính
sách hỗ trợ với doanh nghiệp, cơ sở sử dụng, dạy nghề người khuyết tật…, đồng thời với
một số quy định chung khác về sử dụng lao động như: Hợp đồng lao động; thời giờ làm
việc, nghỉ ngơi; an toàn, vệ sinh lao động…là căn cứ quan trọng để luật người khuyết tật
khẳng định các quyền của người khuyết tật trong lĩnh vực việc làm và học nghề (chương
5 – luật Người khuyết tật năm 2010) đồng thời có cơ sở pháp lý để thực hiện các quyền
đó.
Luật an sinh xã hội ở Việt Nam với các nội dung chính liên quan đến các chế độ
pháp lý như bảo hiểm xã hội, bảo trợ xã hội, ưu đãi xã hội cho luật người khuyết tật. Với
tư cách một công dân người khuyết tật có quyền được hưởng đầy đủ các chế độ bảo trợ

5


xã hội được quy định trong luật an sinh xã hội, nhưng với tư cách người khuyết tật họ còn
có các chế độ bảo trợ do luật người khuyết tật ghi nhận.
Các văn bản luật nói trên là những văn bản quy định trong từng lĩnh vực cụ thể liên
quan đến quyền của người khuyết tật. Các quy phạm pháp luật trong những văn bản này
là cơ sở pháp lý nhằm tạo ra cơ hội, khả năng tiếp cận, điều kiện cho người khuyết tật
thực hiện các quyền của mình trong mọi lĩnh vực đời sống, kinh tế, xã hội.
Các văn bản dưới luật nhằm hướng dẫn cụ thể, chi tiết luật hoặc quy định những
vấn đề mới nảy sinh, có tính phổ biến chưa được luật điều chỉnh. Cụ thể bao gồm: Pháp
lệnh, nghị định, quyết định, thông tư, nghị quyết… của cơ quan có thẩm quyền.
4, Liên hệ thực tiễn
Trên thực tế, có những người bị tật nhưng vẫn có thể phát triển tài năng và trí tuệ
bình thường, thậm chí có những người đã đạt được những thành tích vượt trội so với
những người lành lặn trên nhiều lĩnh vực như âm nhạc, nghệ thuật, văn chương, tin học,
thể thao, thủ công mỹ nghệ... Chúng ta nên thông cảm, tạo điều kiện giúp đỡ NKT nhưng
cũng cần phải xác định rõ, NKT không phải là đối tượng để thương hại, ban ơn và đặc
biệt cần tránh kỳ thị, phân biệt đối xử đối với NKT.
II. Các dạng tật và sự ảnh hưởng đối với việc tham gia giao thông của người khuyết
tật
1, Các dạng tật
Khuyết tật được phân loại dựa theo các quan điểm khác nhau của các nhà nghiên
cứu nhưng nói chung thường dựa trên tiêu chí của sự khiếm khuyết bộ phận cơ thể hoặc
suy giảm chức năng. Ở Việt Nam, việc phân loại người khuyết tật dựa trên quy định về
dạng tật và mức độ khuyết tật. Theo đó các dạng tật bao gồm: Khuyết tật vận động;
khuyết tật nghe, nói; khuyết tật nhìn; khuyết tật thần kinh, tâm thần; khuyết tật trí tuệ;
khuyết tật khác. Mỗi loại khuyết tật này có những đặc điểm nhất định về tâm, sinh lý qua
đó tác động đến các nhu cầu và sự hòa nhập của người khuyết tật.
Theo khoản 1 Điều 3 Luật NKT 2010 và điều 2 nghị định số 28/2012/NĐ – CP

thì có các dạng khuyết tật sau:
6


- Khuyết tật vận động: là tình trạng giảm hoặc mất chức năng cử động đầu, cổ,
chân, tay, thân mình dẫn đến hạn chế trong vận động, di chuyển. Do đó, người khuyết tật
vận động gặp rất nhiều khó khăn trong sinh hoạt cá nhân, vui chơi, học tập và lao động.
Tuy nhiên, đa số NKT vận động có bộ não phát triển bình thường nên họ tiếp thu được
chương trình học tập, làm được việc có ích cho gia đình, bản thân và xã hội. Người
khuyết tật về vận động cần được sự hỗ trợ về phương tiện đi lại (xe lăn, gậy chống…) và
đặc biệt là không gian cần thiết, thuận tiện, phù hợp để di chuyển khi làm việc, đảm bảo
các nhu cầu cuộc sống bình thường của con người và tham gia các hoạt động xã hội.
- Khuyết tật nghe, nói: là tình trạng giảm hoặc mất chức năng nghe, nói hoặc cả
nghe và nói, phát âm thành tiếng và câu rõ ràng dẫn đến hạn chế trong giao tiếp, trao đổi
thông tin bằng lời nói. Khó khăn về nói, nghe, đọc của NKT ngôn ngữ ảnh hưởng trực
tiếp đến giao tiếp từ đó làm hạn chế sự làm việc, học tập, hòa nhập cộng đồng của họ.
Điều này làm họ dễ cảm thấy mất tự chủ, thiếu tự tin trong giao tiếp với người xung
quanh – nếu như khiếm khuyết của họ thay vì nhận được sự cảm thông lại vấp phải thái
độ giễu cợt hoặc thiếu kiên nhẫn của người nghe.
- Khuyết tật nhìn: là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhìn và cảm nhận ánh
sáng, màu sắc, hình ảnh, sự vật trong điều kiện ánh sáng và môi trường bình thường.
NKT nhìn có trí tuệ phát triển bình thường, có hai cơ quan phân tích thường rất phát
triển: thính giác và xúc giác, nếu được huấn luyện sớm và khoa học hoàn toàn có thể thay
thế cơ quan thị giác bị phá hủy. Ngôn ngữ, tư duy, hành vi, cách ứng xử của những người
này cũng giống người bình thường. Tuy nhiên, cũng có những tồn tại nhất định như ngôn
ngữ thiếu hình ảnh, không thể viết và đọc bằng chữ phẳng. Ít di chuyển nên thể lực giảm
sút, cơ bắp thiếu linh hoạt nên dễ tự ti và thiếu niềm tin ở bản thân.
- Khuyết tật thần kinh, tâm thần là tình trạng rối loạn tri giác, trí nhớ, cảm xúc,
kiểm soát hành vi, suy nghĩ và có biểu hiện với những lời nói, hành động bất thường.
Những NKT này gặp vấn đề về trí nhớ (gặp khó khăn về trí nhớ cả ngắn hạn và dài hạn,

khó khăn trong việc nhớ những gì mang tính trìu tượng hay có quan hệ logic, dễ quên
những gì gần gũi với cuộc sống và không gắn với nhu cầu bản thân).
7


- Khuyết tật trí tuệ là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhận thức, tư duy biểu
hiện bằng việc chậm hoặc không thể suy nghĩ, phân tích về sự vật, hiện tượng, giải quyết
sự việc. NKT về trí tuệ có nhiều hạn chế làm ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của
họ và người thân cả về trí tuệ (phần lớn chỉ dùng ở mức độ tư duy trực quan cụ thể, mức
độ, nhịp độ tư duy của các thành phần không giống nhau); về chú ý (phần đông NKT có
khó khăn khi phải tập trung và duy trì sự chú ý vào một công việc nào đó, đặc biệt là chú
ý đến lời nói. Do duy trì chú ý kém nên việc tiếp nhận thông tin và xử lý thông tin của
NKT thường gặp khó khăn); về kỹ năng giao tiếp xã hội (đa phần người khuyết tật trí tuệ
yếu kém về các kỹ năng xã hội, rất ít thậm chí không có nhu cầu giao tiếp); cuối cùng là
về hành vi (NKT trí tuệ thường có những hành vi làm cho họ khó hòa nhập: hành vi tự
lạm dụng, quá hiếu động, quá ù lì…).
2, Sự ảnh hưởng đối với việc tham gia giao thông của người khuyết tật
Đối với NKT, nhu cầu đi lại và tham gia giao thông là hết sức cần thiết, bởi đó là
một trong những phương tiện để họ tiếp cận với các cơ hội thông tin, việc làm, vui chơi,
giải trí, đáp ứng nhu cầu hòa nhập xã hội và phục hồi chức năng. Cũng như người bình
thường khác, NKT có thể tham gia giao thông dưới nhiều hình thức phương tiện giao
thông khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cá nhân và xã hội hoặc mục đích di
chuyển. Tuy nhiên chính vì sự ảnh hưởng của các bộ phận khuyết tật đã khiến cho NKT
tham gia giao thông một cách khó khăn hơn. Ở mỗi dạng tật NKT lại gặp những khó
khăn khác nhau trong việc tham gia giao thông.
Đối với NKT vận động: Hầu hết người khuyết tật đều là người có thu nhập thấp.
Do khiếm khuyết của mình, phần lớn khi di chuyển họ đều cần sự giúp đỡ của người
thân, một số người có thể tự mình tham gia giao thông trên xe lăn song rất khá nguy
hiểm. Họ rất cần được hoà nhập cộng đồng, được đi trên các phương tiện có tính năng
phù hợp. Xe buýt là phương tiện thông dụng cho việc di chuyển của mọi người vì vậy xe

buýt thường xuyên trong tình trạng quá tải, không đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân.
Ngoài ra, phương tiện này đều không phù hợp cho NKTvận động sử dụng như cửa xe
hẹp, gầm xe cao, không có tay vịn, điểm dừng xe buýt không có đường tiếp cận để lên
8


xe... Nếu sàn xe buýt thấp bằng mặt đường, người khuyết tật có thể lên được xe, các hành
khách khác cũng lên xuống dễ dàng hơn. Các tay vịn trên xe buýt, tàu hoả được sơn màu
vàng, đặc biệt có lợi cho hành khách bị khiếm thị, cũng có lợi cho mọi hành khách khác
muốn nhanh chóng tìm được chỗ để bám tay khi lên ôtô hoặc tàu hoả. Tương tự, nếu
phân chia các làn đường trên phố với các đường dành cho người đi bộ, xe đạp và xe máy,
đều mang lại sự an toàn hơn cho người tham gia giao thông, cũng hỗ trợ tốt cho khách bộ
hành là người tàn tật.
Đối với NKT nghe, nói: Vì rào cản của họ là giao tiếp, trao đổi thông tin bằng lời
nói nhưng họ lại có hoàn toàn bình thường về khả năng vận động nên khi tham gia giao
thông những người này sẽ gặp ít trở ngại hơn so với NKT vận động hay NKT nhìn. Tuy
nhiên chính vì hạn chế trong giao tiếp nên họ sẽ gặp khó khăn trong vấn đề hỏi đường
hay khi tham gia các phương tiện giao thông công cộng họ sẽ khó biểu đạt được nơi mình
muốn đến. Một cách khắc phục điều này là họ phải chuẩn bị trước những thông tin về địa
điểm, nơi mà họ muốn đến, những điều mà họ muốn hỏi ra giấy để nhờ tới sự giúp đỡ của
người xung quanh một cách dễ dàng hơn.
Đối với người khuyết tật nhìn:Với những lộ trình ngắn, quen thuộc quanh nơi ở,
làm việc, thường người khiếm thị sẽ chọn giải pháp chủ động tự mình đi bộ với cây gậy
rò đường. Không khó để bạn hình dung tình hình lộn xộn tại các vỉa hè, lòng đường : xe
cộ dựng đỗ bừa bãi, quán xá bầy hàng lấn chiếm, khiến người sáng mắt đi lại cũng vô
cùng khó khăn. Với những lộ trình xa hơn không thể đi bộ, phương tiện được người
khiếm thị ưa thích lựa chọn đó là xe ôm bởi đây là loại hình dễ điều động, thuận tiện vào
các ngõ ngách lại tiết kiệm so với taxi. Tuy nhiên, xe ôm không hề rẻ với những ai
thường xuyên phải di chuyển.
Có một giải pháp tiết kiệm hơn nhưng cũng đòi hỏi người khiếm thị phải vượt khó

rất nhiều đó là đi xe buýt. Tuy nhiên, tính tiếp cận của xe buýt với người khiếm thị là rất
thấp. Để sử dụng được xe buýt, người khiếm thị đang phải tự nỗ lực vượt cản , phụ thuộc
nhiều vào may rủi, vào sự nhiệt tình, lòng tốt của các lái, phụ xe và những người đồng
hành. Xin nêu những trở ngại chính khi người khiếm thị sử dụng xe buýt:
9


- Tại các điểm chờ xe buýt chưa có dấu hiệu giúp người khiếm thị có thể dễ dàng nhận
biết ví dụ như các gờ đắp nổi hay loại gạch lát riêng có thể cảm nhận bằng chân. Các
điểm chờ chưa được xây dựng thống nhất theo một quy chuẩn, bậc lên xuống chỗ thấp
chỗ cao khó tiếp cận với người già, trẻ em và đặc biệt là người khuyết tật do đó người
khiếm thị thường gặp khó khăn và nguy cơ mất an toàn khi di chuyển từ điểm chờ đến xe
buýt.
- Khi người khiếm thị đứng đón xe không hề có tín hiệu giúp họ nhận biết xe nào vào
điểm để lên, phải hỏi người xung quanh mà không phải lúc nào cũng gặp được người
giúp đỡ. Ở các nước, người ta đã gắn hệ thống thông báo, mỗi khi xe vào điểm mở cửa,
hệ thống này sẽ giúp người khiếm thị nhận biết tuyến xe.
- Khi đã lên được xe, người khiếm thị lại rơi vào trạng thái luôn lo lắng không biết khi
nào tới điểm cần xuống. Một vài tuyến xe đã trang bị hệ thống thông báo điểm dừng
nhưng hoạt động rất thất thường. Nhiều lái phụ xe đã tắt hệ thống đó hoặc mở nhạc quá
to. Thái độ phục vụ của một số lái phụ xe là rất đáng phàn nàn với mọi hành khách nói
chi đến người khuyết tật. Thời gian đi xe buýt vốn đã khá dài và mệt nhọc lại thêm những
lo lắng căng thẳng ảnh hưởng không ít đến hiệu suất làm việc và học tập của người khiếm
thị. xét về tính tiện lợi và kinh tế, xe buýt là phương tiện rất phù hợp, nên cộng đồng
người khiếm thị rất mong ngành xe buýt cùng các ngành liên quan sẽ sớm có những quan
tâm đầu tư đúng mức nhằm kịp thời cải thiện tính tiếp cận của xe buýt dành cho người
khuyết tật nói chung đặc biệt là người khiếm thị.
Với các dịch vụ giao thông đường dài như xe khách, đường sắt, hàng không thì
chưa có chính sách trợ giá cho người khuyết tật, các dịch vụ hỗ trợ còn rất thiếu và yếu,
cá biệt có hãng hàng không còn từ chối phục vụ người khuyết tật đi một mình.

Đối với NKT trí tuệ, thần kinh: Vì những NKT này gặp vấn đề nhận thức, tư duy
biểu hiện bằng việc chậm hoặc không thể suy nghĩ, phân tích về sự vật, hiện tượng, giải
quyết sự việc hay không kiểm sát được hành vi nên họ gặp trở ngại rất lớn trong việc
tham gia giao thông. Họ rất khó khăn trong việc tiếp cận với xã hội chính vì vậy khi tham
gia giao thông họ cần có người hỗ trợ, đi cùng để có thể đảm bảo an toàn cho họ. Mặc dù
10


có rất nhiều đề án được đưa ra nhưng thực tế vẫn chưa thực hiện được. Chính vì thế việc
tham gia giao thông của người khuyết tật vận động còn rất nhiều khó khăn.
3, Liên hệ thực tiễn
Người khuyết tật khi tham gia giao thông vẫn gặp không ít khó khăn do hệ thống
giao thông công cộng hiện tại của Việt Nam không đáp ứng được nhu cầu đi lại của họ.
Tại nhiều nước phát triển, hệ thống giao thông công cộng luôn được xây dựng phù hợp
cho người tàn tật sử dụng, nhưng ở Việt Nam, đây là một vấn đề mới chưa được cơ quan
chức năng thực sự quan tâm. Bộ Xây dựng đã ban hành bộ quy chuẩn xây dựng công
trình để người khuyết tật dễ tiếp cận nhưng vì không có chế tài nên hầu hết các công trình
đều không thực hiện. Rất nhiều công trình xây dựng trong nước đều xây dựng các bậc
tam cấp cao, hoành tráng mà quên đi trách nhiệm đối với người khuyết tật.

C, KẾT LUẬN
Hiện nay, về cơ bản hệ thống pháp luật Việt Nam liên quan đến người khuyết tật
tương đối phù hợp với công ước về quyền của người khuyết tật. Để người khuyết tật
được hưởng đầy đủ và bình đẳng các quyền con người, quyền tự do cơ bản mang tính
toàn cầu và tạo điều kiện tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã hội; đồng thời xây
dựng xã hội không rào cản, theo cam kết của Việt Nam với cộng đồng quốc tế trong việc
thực hiện Thập kỷ lần thức II về người khuyết tật và yêu cầu hội nhập, Việt Nam cần tiếp
tục nội luật hóa các quy định của pháp luật quốc tế trên cơ sở xem xét tiếp tục phê chuẩn
các văn kiện pháp lý quốc tế liên quan đến người khuyết tật.


11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình luật người khuyết tật Việt Nam. NXB. Công an nhân dân.

2.

Công ước về quyền của người khuyết tật năm 2006.

3.

Luật người khuyết tật Việt Nam năm 2010.

4.

Nghị định số 28/2012/NĐ-CP QUY ĐỊNH CHI TIẾT VÀ HƯỚNG DẪN THI

HÀNH MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT NGƯỜI KHUYẾT TẬT
5.

Hướng tới cơ hội việc làm bình đẳng cho người khuyết tật thông qua hệ thống pháp

luật, tài liệu hướng dẫn của ILO.
6.

( />
khong.html)

7. ( />
MỤC LỤC
12


A, ĐẶT VẤN ĐỀ
B, GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Phân tích nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử với người
khuyết tật trong pháp luật quốc tế và việc vụ thể hóa trong pháp luật
Việt Nam
1, Tình trạng kỳ thị và phân biệt đối xử với NKT hiện tại
2, Phân tích nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử với người
khuyết tật trong pháp luật quốc tế
3, Việc cụ thể hóa nguyên tắc trong pháp luật Việt Nam
4, Liên hệ thực tiễn
II. Các dạng tật và sự ảnh hưởng đối với việc tham gia giao thông của
người khuyết tật
1, Các dạng tật
2, Sự ảnh hưởng đối với việc tham gia giao thông của người khuyết tật
3, Liên hệ thực tiễn
C, KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

13

TRANG
1
1
1
1

2
4
6
6
6
8
11
11



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×