Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

Đề Cương Thảo Luận Triết học MacLênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538.7 KB, 42 trang )

Tên:
Lớp

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN MÔN TRIẾT HỌC ML
CÂU 1: Phân tích ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ việc nghiên

cứu mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức? Liên hệ vận
dụng vào công tác thực tiễn? Phê phán một số biểu hiện chủ quan,
duy ý chí, vi phạm nguyên tắc khách quan trong tư duy lãnh đạo,
quản lý hiện nay?
Nội Dung Thảo Luận
1. Khái Niệm Lãnh Đạo Và Quản Lý.
2. Phân Biệt Lãnh Đạo Với Quản Lý Theo Các Tiêu Chí.
3. Quy Trình Lãnh Đạo Quản Lý PDCA.
4. Phẩm Chất Cần Thiết Của Người LĐQL.
5. Liên Hệ Thực Tiển ở Đơn Vị.
Bài Làm

1/Khái niệm vật chất,ý thức
 Vật chất : Theo LêNin “ Vật chất là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ
thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được
cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh lại và tồn tại không
lệ thuộc vào cảm giác”
 Ý thức : Là sự phản ánh năng động, sáng tạo hiện thực khách quan
bởi bộ óc con người, thể hiện ra như tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí...
Là một dạng vật chất đặc biệt có tổ chức cao là bộ óc con người. Bộ óc
người là cơ quan vật chất của ý thức còn ý thức là chức năng của bộ óc
con người vì vậy không thể tách rời ý thức ra khỏi bộ óc. Ý thức có 2
nguồn gốc chính: nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội
 Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức : Vật chất và ý thức quan hệ
qua lại và chuyển hóa lẫn nhau :


- Vật chất có trước ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức, vật chất là
nguồn gốc, là tiền đề cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của ý thức. Hay
nói cách khác vật chất thế nào thì ý thức như thế ấy, vật chất thay đổi
đến đâu thì ý thức thay đổi đến đó.
Nguồn gốc của ý thức là vật chất : bộ não người – cơ quan phản ánh
thế giới xung quanh, sự tác động của thế giới vật chất vào bộ não
người, tạo thành nguồn gốc tự nhiên. Lao động và ngôn ngữ (tiếng nói,
chữ viết) trong hoạt động thực tiễn cùng với nguồn gốc tự nhiên quyết
định sự hình thành, tồn tại và phát triển của ý thức.
Mặt khác, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Vật
chất là đối tượng, khách thể của ý thức, nó quy định nội dung, hình
thức, khả năng và quá trình vận động của ý thức.
- Ý thức do vật chất sinh ra và quy định nhưng ý thức lại có tính độc lập
tương đối. Hơn nữa, sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản
ánh tinh thần, phản ánh sáng tạo và chủ động chứ không thụ động, máy
móc, nguyên si thế giới vật chất, vì vậy nó có tác động trở lại đối với


vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Dựa trên các tri
thức về quy luật khách quan, con người đề ra mục tiêu, phương hướng,
xác định phương pháp, dùng ý chí để thực hiện mục tiêu ấy. Vì vậy, ý
thức tác động đến vật chất theo 2 hướng :
+ Nếu ý thức tiến bộ: phản ánh phù hợp với thực tế thì có tác dụng
thúc
đẩy xã hội phát triển.
+ Nếu ý thức lạc hậu: phản ánh không phù hợp với quy luật khách
quan thì
có tác dụng kìm hãm xã hội phát triển.
2/ Ý nghĩa phương pháp luận :
+Quan điểm khách quan:

- Do vật chất là nguồn gốc và là cái quyết định sự biến đổi của ý thức,
vật chất thay đổi sẽ làm cho ý thức thay đổi theo nên khi xem xét đánh
giá sự vật, hiện tượng cần phải căn cứ vào bản thân sự vật, hiện tượng
đó; không được lấy ý chí chủ quan áp đặt vào sự vật, hiện tượng. Ví dụ
khi nhận xét đánh giá về học sinh phải công tâm, đánh giá trung thực,
khách quan.
-Xuất phát từ chính bản thân sự vật xem xét,đánh giá sự vật
- Trong hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ những điều kiện khách
quan, tôn trọng và hành động đúng theo quy luật khách quan thì hiệu
quả hoạt động sẽ cao. Ví dụ khi xây dựng kế hoạch, chủ trương, chính
sách phải lấy hiện thực khách quan làm căn cứ, không lấy ý chí áp đặt
cho thực tế.
-Chống bệnh chủ quan duy ý chí
- Vật chất là điều kiện hiện thực hóa ý thức, là điều kiện khách quan
để biến ước muốn tư tưởng con người thành hiện thực.Ý thức có tác
động tích cực trở lại vật chất sinh ra nó cho nên ta phải biết phát huy
tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố chủ quan
của con người.
- Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta cùng với việc coi
trọng phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất của nhân dân đã rất
chú trọng phát triển văn hóa với tư cách nền tảng tinh thần của xã hội.
+Quan điểm phát huy tính năng động ,sáng tạo của ý thức
-Tôn trọng tri thức khoa học,tích cực truyền bá tri thứ khoa học vào
trong quần chúng
-Bồi dưỡng tình cảm,niềm tin,ý chí
-Chú ý tới mặt lợi ích
-Chống thái độ trông chờ, bảo thủ, trì trệ, ỷ lại. Việc giải quyết đúng
đắn mối quan hệ vật chất và ý thức còn giúp ta chống lại thái độ tiêu
cực thụ động, chờ đợi, bó tay trước hoàn cảnh hoặc chủ quan, duy ý chí
do tách rời và tác động từng vai trò của từng yếu tố vật chất hoặc ý

thức.
 Liên hệ vận dụng vào công tác thực tiễn :


- Nước ta là một nước SX nông nghiệp là chủ yếu, trong ý thức đã hình
thành tác phong lao động nông nghiệp (thói ỷ lại) nên khi chuyển sang
nền SX công nghiệp cần phải thay đổi, phải xây dựng nên tác phong lao
động công nghiệp thì mới đáp ứng được. Nếu không sẽ làm ảnh hưởng
đến năng suất lao động và hiệu quả công việc. Ở VN cũng còn ảnh
hưởng của tác phong lao động nông nghiệp như hay đi trễ giờ làm...
chưa thực hiện đúng giờ, còn trì trệ trong công việc...
 Khi điều kiện vật chất thay đổi dẫn đến ý thức cũng thay đổi theo
- Liên hệ bản thân : trong quá trình giảng dạy, khi số lượng học sinh
đông hơn thì bản thân cán bộ lãnh đạo phải sắp xếp về CSVC, về
chuyên môn cho phù hợp với điều kiện trường. Và khi CSVC được
trang bị tiên tiến hơn thì bản thân người giáo viên cũng phải thay đổi để
phù hợp như luôn nâng cao trình độ chuyên môn, ứng dụng CNTT
trong giảng dạy, học tập trau dồi kinh nghiệm với các đồng nghiệp, áp
dụng phương pháp giảng dạy mới phát huy tính tích cực, chủ động sáng
tạo của học sinh ...
 Khi điều kiện vật chất thay đổi dẫn đến ý thức cũng thay đổi theo
 Phê phán một số biểu hiện chủ quan, duy ý chí, vi phạm nguyên
tắc khách quan trong tư duy lãnh đạo, quản lý hiện nay?
Khách quan là phản ánh sự vật, hiện tượng đúng như nó có, nên phải
có động cơ trong sáng không vụ lợi, phải vì mục tiêu chung cho sự phát
triển của XH. Chủ quan là đem suy nghĩ của mình áp đặt cho sự vật,
hiện tượng đó.Vì vậy chúng ta cần chống bệnh chủ quan duy ý chí, vi
phạm nguyên tắc khách quan trong tư duy lãnh đạo, quản lý hiện nay
thì cần phải phải nhận thức được SV,HT và phản ánh đúng SV,HT.
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta bị chi phối bởi rất nhiều vấn đề,

những nhu cầu, lợi ích tác động rất nhiều đến nhận thức chúng ta.
Không phải vì họ không biết, không nhận thức được mà là do bị lợi ích
chi phối.
Ví dụ như việc công ty Fomosa thải nước thải ra biển gây ô nhiễm môi
trường biển,làm cá chết hàng loạt, tác động xấu đến môi trường ,bị
người dân lên án→ làm việc gi cũng phải đảm bảo nguyên tắc phát triển
chung của XH.
Trong công tác giáo dục, cần xây dựng kế hoạch, nhiệm vụ năm học
dựa vào thực trạng của trường để chúng ta có thể xây dựng kế hoạch, đề
ra chủ trương để phát triển, tuân theo quy luật khách quan, chống chủ
quan duy ý chí.
(phần ví dụ và liên hệ anh ,chi tham khảo ,khi thi đừng viết giống nha!)


CÂU 2: Liên hệ vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu hai

nguyên lý và ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật vào công tác thực tiễn?
1/ Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Nguyên lý về sự phát triển
a)Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
 Ý nghĩa phương pháp luận : Là cơ sở lý luận để xây dựng quan điểm toàn diện lịch sử cụ thể.
Quan điểm toàn diện lịch sử có một số yêu cầu sau :
Sự vật, hiện tượng có nhiều mối liên hệ, để nhận thức đúng đắn bản chất sự vật, hiện tượng
thì phải đặt sự vật, hiện tượng trong các mối liên hệ, phải xem xét các mặt, các mối liên hệ của
nó. Những mối liên hệ khác nhau sẽ ảnh hưởng khác nhau đến sự vật, hiện tượng. Có những mối
liên hệ tác động đến sự vật, hiện tượng nhưng cũng có những mối liên hệ không tác động đến sự
vật, hiện tượng. Tránh quan điểm phiến diện, giáo điều, máy móc chung chung, trừu tượng, qua
loa, đại khái. Cho nên xem xét càng nhiều thì chúng ta càng đỡ sai sót, nên chú ý đến những mối
liên hệ cơ bản, liên hệ bản chất, quyết định đến sự vận động phát triển của sự vật, hiện tượng.

Xác định và phân loại các mqhệ,tìm ra các mqh cơ bản,bên trong,trực tiếp,chủ yếu.
Xem xét sự vật, hiện tượng đó trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác chứ không
phải xem xét chỉ trong bản thân sự vật, hiện tượng đó.
Trong hoạt động thực tiễn, cần phải thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp, nhiều phương tiện,
lực lượng khác nhau đê tác động làm biến đổi các mối liên hệ nhằm thay đổi sự vật, hiện tượng.
Chống lại quan điểm phiến diện,chung chung,trừu tượng…
VD
b) Nguyên lý về sự phát triển :
 Ý nghĩa phương pháp luận : Là cơ sở lý luận để xây dựng quan điểm phát triển. Quan điểm
phát triển có một số yêu cầu cơ bản sau :
Trong nhận thức nói chung, khi xem xét các sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong sự vận
động, phát triển, không chỉ thấy sự vật như là cái đang có, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng
phát triển tất yếu của sự vật, hiện tượng đó trong tương lai.
Trong nhận thức nói chung phải thấy rằng khuynh hướng tất yếu phổ biến của sự vận động
phát triển là cái mới tất yếu thay thế cái cũ, cái mới sẽ chiến thắng cái cũ lạc hậu. Phải phát hiện,


ủng hộ cái mới và tạo điều kiện cho nó phát triển.
Trong hoạt động thực tiễn cần chống bệnh bảo thủ trì trệ, định kiến,ngại đổi mới. Khi gặp
khó khăn, thất bại chỉ là tạm thời phải biết tin tưởng vào tương lai, tin tưởng vào chân lý.
VD:
2/ Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật :
a) Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những
thay đổi về chất và ngược lại
- Ý nghĩa phương pháp luận :
Khi nhận thức sự vật phải nhận thức cả chất và lượng của nó.
Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người cần phải chú ý tích lũy về lượng
để làm thay đổi về chất. Tránh tư tưởng nóng vội, đốt cháy giai đoạn (chủ nghĩa tả khuynh).
Ví dụ như sau 1975, nước ta khắc phục hậu quả chiến tranh , do chủ quan nóng vội, ta chỉ chấp
nhận hình thức sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể, xóa bỏ tư hữu đã lảm triệt tiêu năng lực sáng

tạo, động lực SX. Bên cạnh đó, ta xây các hợp tác xã có quy mô lớn nhưng LLSX nhỏ, trình độ
quản lý yếu kém làm cho SX đình trệ, năng suất thấp dẫn đến nhân dân mất niềm tin vào Đảng.
Khi tích lũy đủ về lượng, cần phải có quyết tâm để thực hiện bước nhảy nhằm thay đổi chất kịp
thời. Tránh tư tưởng bảo thủ, trì trệ(chủ nghĩa hữu khuynh).
b) Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
- Ý nghĩa phương pháp luận :
 Vì mâu thuẫn là khách quan, vốn có của mọi sự vật, hiện tượng và là nguồn gốc, động lực
của sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Do đó, muốn nhận thức đúng bản chất của sự
vật phải tìm, phát hiện mâu thuẫn,giải quyết mâu thuẩn, không được che giấu mâu thuẫn.
Để giải quyết mâu thuẩn cần phân tích mâu thuẩn và chỉ giải quyết mâu thuẩn khi ở giai
đoạn chín muồi.
 Phải phân tích xác định đúng mâu thuẫn, đánh giá đúng vai trò vị trí của các mâu thuẫn.
Nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn là các mặt đối lập phải đấu tranh, chuyển hóa cho nhau, không
được chủ quan, thỏa hiệp.
 Chống phủ nhận ,điều hòa mâu thuẩn,nôn nóng khi giải quyết mâu thuẩn.
 Một sự vật có thể có nhiều mâu thuẫn và vai trò của các mâu thuẫn cũng khác nhau. Do đó,
mâu thuẫn khác nhau sẽ có cách giải quyết khác nhau, thậm chí một mâu thuẫn trong các giai
đoạn khác nhau thì cách giải quyết cũng khác nhau, lựa chọn hình thức nào cho phù hợp để giải
quyết mâu thuẫn.
VD
c) Quy luật phủ định của phủ định
- Ý nghĩa phương pháp luận :
Cho ta cơ sở để hiểu được sự ra đời của cái mới, mối liên hệ giữa cái mới và cái cũ,cần phát
hiện ,bảo vệ cái mới.
Thực hiện nguyên tắc kế thừa sáng tạo, giữ lấy những gì tích cực, có giá trị của cái cũ, cải biến
nó cho phù hợp với điều kiện mới. Chống khuynh hướng sự kế thừa mù quáng, tức là kế thừa
không có phê phán, chọn lọc hoặc phủ định sạch trơn.
Trong nhận thức phải thấy rõ tính quanh co, phức tạp của quá trình phát triển như là một hiện
tượng phổ biến và cần phải lạc quan, tin tưởng vào sự tất thắng, xu thế phát triển của cái mới hợp
quy luật,chống bi quan..

CÂU 3: Mâu thuẩn trong công thức chung của tư bản và lý luận hàng hoá sức lao động.


Bài Làm

1/ Mâu thuẫn công thức chung của tư bản :
1.1 Công thức chung của tư bản :
Công thức vận động đầy đủ của tư bản là T-H-T’ trong đó T’= T+∆T(∆T là phần giá
trị tăng thêm, mà Mac gọi là giá trị thặng dư, kí hiệu là m) và số tiền ban đầu chuyển
hoá thành tư bản. Vậy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư.Sự lớn lên của giá trị là
không có giới hạn.Vì vậy, sự vận động của tư bản cũng không có giới hạn. Mác gọi
công thức T-H -T’ là công thức chung của tư bản vì mọi tư bản đều biểu hiện trong
lưu thông dưới dạng tổng quát cho dù là tư bản thương nghiêp, tư bản công nghiệp hay
tư bản cho vay.
1.2 Mâu thuẫn chung của công thức chung của tư bản
Tư bản vận động theo công thức T-H-T’ trong đó T’=T+m. Vậy m được sinh ra như
thế nào? Để tìm hiểu, ta cần nghiên cứu về lưu thông của tư bản thông qua quá trình
trao đổi và các yếu tố tham gia vào trao đổi.
a. Trong lưu thông (Trao đổi, mua bán): Dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá
cũng không tạo ra giá trị mới và do đó không tạo ra giá trị thặng dư.
- Trường hợp trao đổi ngang giá ( mua bán đúng giá trị) chỉ là sự chuyển hoá hình
thái giá trị từ H-T và ngược lại. Do đó, tiền không lớn lên, giá trị không tăng
thêm, không có m nào xuất hiện.
- Trao đổi không ngang giá: Mua rẻ ( thấp hơn giá trị) thì có lợi trong khi mua.
Nhưng khi bán, bán thấp hơn giá trị thì chịu thiệt thòi. Bán đắt ( cao hơn giá trị):
cái được lợi khi là người bán nhưng sẽ chịu thiệt khi cho người mua. Mua rẻ,
bán đắt: điều này chỉ giải thích sự làm giàu của những thương nhân cá biệt, song
đó chỉ là sự phân phối lượng giá trị đã có trong lưu thông chứ không giải thích
sự làm giàu cho cả một giai cấp- giai cấp của các nhà tư bản nói chung. Như
vậy, trao đổi không ngang giá thì giá trị không tăng thêm.

b. Ngoài lưu thông (xét hai nhân tố) không có sự tiếp xúc hàng tiền:
Nhân tố ( T) tiền: “tiền” tự nó không lớn lên.
Xét nhân tố (H) hàng: Hàng ngoài lưu thông tức là vào tiêu dùng:
+ Tiêu dùng vào sản xuất , tức là tư liệu sản xuất. Vậy giá trị của nó chuyển dịch
dần vào sản phẩm- không tăng lên.
+ Tư liệu tiêu dùng, tiêu dùng cho cá nhân – cả giá trị và giá trị sử dụng đều mất đi.
Như vậy, giá trị thặng dư (m) vừa không thể sinh ra trong lưu thông, vừa không thể
sinh ra bên ngoài lưu thông.
Vậy, cả trong lẫn ngoài lưu thông, xét tất cả các nhân tố thì T không tăng thêm.
Nhưng nhà tư bản không thể vận động ngoài lưu thông, có nghĩa là nhà tư bản phải
tìm thấy trên thị trường mua được một thứ hàng hoá ( trong lưu thông) nhưng nhà
tư bản không bán hàng hoá đó,vì nếu bán cũng không thu được gì. Nhà tư bản tiêu
dùng hàng hoá đó (ngoài lưu thông) tạo ra một giá trị mới lớn hơn gía trị bản thân
nó- hàng hoá đó là sức lao động.
Để giải quyết mâu thuẫn chung của công thức tư bản cần tìm cho thị trường 1 loại
hàng hoá mà việc sử dụng nó tạo ra giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó, hàng hoá
đó là sức lao động. Sức lao động là cái có trước hàng hoá, còn lao động chính là
quá trình sử dụng sức lao động đó.


2. Hàng hoá sức lao động:
2.1 Sức lao động:
* Khái niệm: Sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực tồn tại trong cơ thể con người, thể
lực và trí lực mà người đó sẽ vận dụng trong quá trình sản xuất ra một giá trị sử dụng.
*Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá:
Trong bất cứ xã hội nào, sức lao độngcũng đều là điều kiện cần thiết để sản xuất. Nhưng
không phải bao giờ sức lao động cũng là hàng hoá. Sức lao động chỉ biến thành hàng hoá
trong những điều kiện lịch sử nhất định. Đó là:
+Người có sức lao động được tự do về thân thể, làm chủ về sức lao động của mình, có
quyền bán sức lao động của mình trong một thời gian nhất định.

+Việc biến sức lao động thành hàng hoá đòi hỏi phải thủ tiêu chế độ chiếm hữu nô lệ.
Người có sức lao động bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất, để duy trì cuộc sống phải đi làm
thuê để sống.
Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tât yếu biến sức lao động thành hàng hoá. Sức
lao động biến thành hàng hoá báo hiệu một giai đoạn mới trong sự phát triển xã hội.
Giai đoạn sản xuất hàng hóa trở thành phổ biến, đó là sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa.
Hàng hóa sức lao động là nhân tố tách chủ nghĩa tư bản ra khỏi sản xuất hàng hóa giản
đơn. Như vậy, sức lao động biến thành hàng hóa là điều kiện quyết định để chuyển tiền tệ
thành tư bản.Tuy nhiên để tiền tệ biến thành tư bản thì lưu thông hàng hóa và lưu thông
tiền tệ phải đạt tới mức độ nhất định. Sức lao động là hàng hóa đặc biệt: Sức lao động phải
là hàng hóa và giống hàng hóa thong thường khác nhưng tính đặc biệt được thể hiện:
*Trong quan hệ mua bán:
-Chỉ bán quyền sử dụng chứ không bán quyền sở hữu và có thời gian nhất định.
-Mua bán chịu – Giá trị sử dụng thực hiện trước – giá trị thực hiện sau.
-Chỉ có phía người bán là công nhân làm thuê – Người mua là nhà tư bản.
-Giá cả (tiền lương) luôn thấp hơn với giá trị. Vì sức lao động phải bán trong mọi
điều kiện – mua bán trong mọi điều kiện để sinh sống.
2.2/ Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động:
-Giá trị hàng hóa sức lao động cũng giống như hàng hóa thông thường, lượng giá trị
sức lao động cũng được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản
xuất sức lao động. Nhưng khác hàng hóa thông thường vì sức lao động là năng lực (khả
năng) tồn tại trong cơ thể sống của con người, để tái sản xuất ra năng lực đó người công
nhân phải tiêu dung một khối lượng sinh hoạt nhất định để thực hiện nhu cầu tái tạo sức
lao động. Như vậy hai thuộc tính hàng hóa sức lao động là giá trị và giá trị sử dụng,
*Giá trị:
-Giá trị của hàng hóa sức lao động là toàn bộ giá trị các tư liệu sinh hoạt cần thiết để
tạo và tái tạo ra sức lao động. bao gồm:
+Giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết đề tái sản xuất ra sức lao động cho người công
nhân làm thuê.
+Chi phí đào tạo cho bản thân, nâng cao tay nghề.

+Chi phí nuôi dưỡng gia đình người lao động.
-Giá trị hàng hóa sức lao động đặc biệt khác hành hóa thông thường: nó mang yếu


tố tinh thần và lịch sử. Con người sống trong những điều kiện kinh tế cụ thể ngoài nhu cầu
vật chất còn có nhu cầu tinh thần.
* Giá trị sử dụng của hành hóa sức lao động: cũng giống như hành hóa khác giá trị sử
dụng cũng được thể hiện khi tiêu dung. Nhưng nó khác ở chỗ nhà tư bản tiêu dung sức lao
động của công nhân và bắt công nhân lao động kết hợp với tư liệu sản xuất để tạo ra hành
hóa. Trong quá trình lao động đó người công nhân đã tạo ra một giá trị mới (m + v) trong
đó có một một bộ phận ngang bằng với giá trị sức lao động của người công nhân nhà tư
bản dung để trả lương cho công nhân đó là (v), còn một bộ phận dôi ra ngoài bộ phận sức
lao động (m) nhà tư bản chiếm không.
Kết luận: Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động thỏa mãn nhu cầu của người mua
nhưng cũng thỏa mãn nhu cầu của nhà tư bản. Có thể nói rằng giá trị sức lao động khi nhà
tư bản tiêu dùng nó tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó. Hay nói cách khác:
Giá trị sử dụng đặc biệt của hàng hóa sức lao động là nguồn gốc của giá trị và giá trị thặng
dư. Hàng hóa sức lao động là điều kiện để chuyển hóa tiền tệ thành tư bản. Hàng hóa sức
lao động là chìa khóa để giải thích mâu thuẫn công thức chung của tư bản. Như vậy, tiền tệ
chỉ trở thành tư bản khi nó được sử dụng làm phương tiện để mang lại giá trị thặng dư cho
người có tiền phải tìm được một loại hàng hóa đặc biệt – hàng hóa sức lao động.
Câu 4: Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, so sánh và rút ra ý nghĩa của việc nghiên

cứu?
Bài làm

1. Khái niệm
- Giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân
làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.
- Ngày lao động là thời gian lao động trong một ngày.

+ thời gian lao động cần thiết: thời gian người lao động tạo ra giá trị mới ngang bằng giá trị sức
lao động,
+ Thời gian lao động thặng dư: thời gian người lao động tạo ra giá trị mới ngang bằng giá trị
thặng dư
2. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
- Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Đây là phương pháp nhà tư bản thu được giá trị thặng dư do kéo dài ngày lao động, vượt quá thời
gian lao động tất yếu, nhờ đó kéo dài thời gian lao động thặng dư, trong khi năng suất lao động
và thời gian lao động tất yếu không thay đổi.
Tuy nhiên, phương pháp này cũng gặp phải những giới hạn như: độ dài ngày lao động, thể chất
và tinh thần người lao động, cuộc đấu tranh đòi hỏi ngày lao động tiêu chuẩn (8 giờ),…….. nhà
tư bản áp dụng tăng cường độ lao động hiểu theo nghĩa hao phí calo, điều này cũng co nghĩa là
kéo dài thời gian lao động.
Phương pháp này được áp dung phổ biến ở giai đoạn sau của CNTB.
- Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
– Khái niệm: Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao
động tất yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động trong ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt để


hạ thấp giá trị sức lao động, nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư lên ngay trong điều kiện độ
dài ngày lao động, cường độ lao động vẫn như cũ.
– Điểm mấu chốt của phương pháp này là phải hạ thấp giá trị sức lao động. Điều đó đồng nghĩa
với giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho công nhân. Muốn vậy phải tăng
năng suất lao động xã hội trong các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư
liệu sản xuất để trang bị cho ngành sản xuất ra các tư liệu tiêu dùng.
– Phương pháp này được sử dụng rộng rãi trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản phát triển, nhưng lúc
đầu chỉ một số nhà tư bản làm được vì điều kiện khoa học, kỹ thuật chưa cho phép. Khi đó, các
nhà tư bản này tăng được năng suất lao động nên thu được giá trị thặng dư siêu ngạch. Khi các
nhà tư bản đều cải tiến kỹ thuật, giá trị thặng dư siêu ngạch sẽ không còn. Tất cả sẽ thu được giá
trị thặng dư tương đối. Do đó giá trị thặng dư siêu ngạch là biến tướng của giá trị thặng dư tương

đối.
Đây là phương pháp nhà tư bản thu được giá trị thặng dư do rút ngắn thời gian lao động cần
thiết, nhờ đó kéo dài tương ứng thời gian lao động thặng dư, bằng cách hạ thấp giá trị sức lao
động, trong khi độ dài ngày lao động không đổi.
Để rút ngắn thời gian lao động, tất yếu phải giảm giá trị sức lao động. muốn hạ thấp giá trị sức
lao động phải giảm giá trị những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân. Điều
này chỉ có thể thực hiện được bằng cách tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra tư
liệu sản xuất để sản xuất ra những tư liệu sản xuất đó.
Đây là phương pháp phổ biến ở giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối giống nhau về mục đích và làm
cho thời gian lao động thặng dư được kéo dài ra; nhưng giữa chúng có sự khác nhau về giả thiết,
cách thức tiến hành, biện pháp,……

3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này:
- Nếu gạt bỏ mục đích và tính chất của chủ nghĩa tư bản thì vận dụng các phương pháp sản xuất
giá trị thặng dư, nhất là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu
ngạch trong các doanh nghiệp sẽ kích thích sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, sử dụng kỹ
thuật – công nghệ mới, cải tiến tổ chức quản lý, tiết kiệm chi phí sản xuất.
- Gợi mở cách thức làm tăng của cải, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. đối với nước ta, cần tận dụng
triệt để các nguồn lực; nhất là nguồn lao động trong sản xuất kinh doanh. Về cơ bản và lâu dài ,
giải pháp quan trọng cần phải coi trọng tăng năng suất lao động xã hội, phát triển lực lượng sản
xuất, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

4. So sánh các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư:
* Giống nhau: đều kéo dài thời gian lao động, tạo ra giá trị thặng dư ngày càng lớn cho nhà tư
bản; thể hiện mâu thuẩn giai cấp giữa nhà tư bản và người lao động
* Khác nhau:
Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Thời điểm

Trước khi TBCN hình thành, khi đó Sau khi CNTB hình thành, áp dụng rộng
LLSX chưa phát triển mạnh
rãi phổ biến do công nghệ sản xuất và
LLSX phất triển mạnh mẽ
Biện pháp
Tăng thời gian, cường độ lao động
Tăng cường trang thiết bị hiện đại làm
tăng năng suất lao động
Giới hạn
Độ dài ngày tự nhiên không đổi, tâm Trình độ người lao động, cần đào tạo phù
sinh lý, sức khỏe người lao động
hợp với công nghệ hiện đại
Giai cấp
Mâu thuẫn giai cấp gay gắt
Xoa dịu mâu thuẫn
Câu 5: Thực chất của tích luỹ tư bản, quan hệ giữa tích luỹ, tích tụ, tập trung tư bản?


Bài làm

1. Tính tất yếu khách quan của tích luỹ tư bản
a. Khái niệm: Tích luỹ tư bản là quá trình biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm
để mở rộng sản xuất. Tích luỹ tư bản là quá trình tư bản hoá giá trị thặng dư.
b. Tính tất yếu khách quan của tích luỹ tư bản
- Đáp ứng nhu cầu của tái sản xuất mở rộng nền kinh tế TBCN.
- Để có ưu thế trong cạnh tranh.
- Đẩy mạnh ứng dụng khoa học - kỹ thuật, đổi mới công nghệ.
- Bảo đảm sự thống trị của giai cấp tư sản đối với giai cấp công nhân.
2. Thực chất của tích lũy tư bản: thể hiện thông qua quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa


Tái sản xuất là quá trình sản xuất được lặp đi lặp lại và đổi mới không ngừng.
- Nội dung của tái sản xuất:
+ Tái sản xuất ra của cải vật chất.
+ Tái sản xuất ra sức lao động.
+ Tái sản xuất ra quan hệ sản xuất.
- Loại hình tái sản xuất:
Tái sản xuất được chia thành tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng.
+ Tái sản xuất giản đơn là sự lặp lại quá trình sản xuất với quy mô như cũ.
Tái sản xuất giản đơn TBCN là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô tư bản như cũ, nhà tư
bản tiêu dùng hết giá trị thặng dư.
VÍ dụ: Một nhà tư bản có lượng tư bản ứng trước là 100 triệu USD (80 dùng để mua tư liệu sản
xuất, 20 dùng để mua sức lao động); m’ = 100%
- Quy mô sản xuất năm thứ nhất: 80c + 20v
Kết quả: G = 80c + 20v + 20m = 120 (tiêu dùng hết 20m)
- Quy mô sản xuất năm thứ 2: 80c + 20v (như năm I)
+ Tái sản xuất mở rộng là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô lớn hơn trước.
Tái sản xuất mở rộng TBCN là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô tư bản lớn hơn trước,
nhà tư bản không tiêu dùng hết giá trị thặng dư mà biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản
phụ thêm để mở rộng sản xuất.
Ví dụ: Tiếp tục ví dụ trên:
(1) Quy mô tư bản: 100 80c + 20v (m’ = 100%)
Kết quả sản xuất năm thứ nhất: G = 120 = 80c + 20v + 20m
Trong 20m, nhà TB tiêu dùng 10m và tích luỹ 10m để mở rộng sản xuất
(2) Quy mô tư bản: 110 88c + 22v
(theo tỷ lệ như cũ, với 10 tr.đô tư bản phụ thêm, nhà tư bản sẽ chia thành 8c và 2v)
Kết quả sản xuất năm thứ hai: G = 132 = 88c + 22v + 22m
Trong 22m, nhà tư bản tiếp tục tiêu dùng 11m và tích luỹ 11m.

* Thực chất của tích lũy tư bản
- Thực chất của tích lũy tư bản là tái sản xuất ra tư bản với quy mô ngày một lớn hơn.

- Số tư bản ứng ra ban đầu dù là tài sản chính đáng của nhà tư bản thì qua quá trình tích luỹ tư
bản (tái sản xuất mở rộng) nó cũng vô cùng nhỏ bé so với số tư bản đã tích lũy được.
- Nguồn gốc duy nhất của tích luỹ tư bản là giá trị thặng dư.
* Phân tích thực chất và động cơ tích lũy tư bản? Mối quan hệ và sự khác nhau giữa tích tụ và
tập trung tư? Vai trò của tập trung tư bản trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản?
Thực chất và động cơ tích lũy tư bản. Muốn tái sản xuất mở rộng, nhà tư bản không sử dụng hết
giá trị thặng dư làm tư bản phụ thêm. Thực chất của tích lũy tư bản là biến một phần giá trị thặng
dư thành tư bản phụ thêm; động cơ của tích lũy tư bản là nhằm thắng trong cạnh tranh và thu
được nhiều giá trị thặng dư.
3. Mối quan hệ và sự khác nhau giữa tích tụ và tập trung tư bản.
- Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô tư bản cá biệt bằng cách tư bản hóa một phần giá


trị thặng dư. Nó là kết quả trực tiếp của tích lũy tư bản.
- Tập trung tư bản là sự hợp nhất một số tư bản cá biệt lớn hơn. Tập trung tư bản thường
diễn ra bằng 2 phương pháp là tự nguyện hay cưỡng bức.
- Tích tụ và tập trung tư bản giống nhau ở chỗ chúng ta làm tăng quy mô tư bản cá biệt;
khác nhau ở chỗ tích tụ tư bản làm tăng thêm quy mô tư bản xã hội, phản ánh mối quan hệ trực
tiếp giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Tập trung tư bản chi phối và tổ chức lại tư bản xã
hội, nó phản ánh quan hệ trực tiếp giữa các nhà tư bản.
- Tích tụ và tập trung tư bản có mối quan hệ với nhau và tác động thúc đẩy nhau. Nếu gạt bỏ tính
tư bản chủ nghĩa thì tích tụ và tập trung tư bản là hình thức tích tụ và tập trung sản xuất.
4. Vai trò của tập trung tư bản trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản
Tích cực: Tập trung tư bản có ý nghĩa hoàn thành những cạnh tranh to lớn trong một thời gian
ngắn và tạo điều kiện ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống làm
cho chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh. Sản xuất giá trị thặng dư tăng làm cho CNTB ngày càng
phát triển
Tiêu cực: mâu thuẫn giai cấp ngày càng rõ; kinh tế TB mất cân đối làm kìm hãm sự vận động
phát triển
Câu 6: Câu 6: Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước và xu hướng vận động của CNTB hiện nay?


1. Khái niệm:
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc quyền tư
nhân với sức mạnh của nhà nước tư sản thành một thiết chế và thể chế thống nhất trong đó nhà
nước tư sản bị phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền và can thiệt vào các quá trình kinh tế nhằm
bảo vệ lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản.
2. Nguyên nhân ra đời:
- Sự phát triển cao của trình độ xã hội hóa lực lượng sản xuất đã dẫn đến yêu cầu khách quan là
nhà nước phải đại biểu cho toàn xã hội quản lý nền sản xuất.
- Sự phát triển của phân công lao động xã hội và sự tác động của khoa học - kỹ thuật làm cho lực
lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, cơ cấu kinh tế thay đổi, xuất hiện một số ngành mà tổ chức
độc quyền tư bản tư nhân không thể hoặc không muốn đầu tư kinh doanh, vì dầu tư vốn lớn,
thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận, nhất là các ngành thuộc kết cấu hạ tầng. Bởi vậy, cần phải có sự
giúp đỡ đầu tư và can thiệp của nhà nước.
- Sự thống trị của độc quyền làm tăng thêm tính đối kháng giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô
sản và nhân dân lao động, đòi hỏi nhà nước tư sản phải có những chính sách để xoa dịu những
mâu thuẫn đó.
- Sự mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại và sự hoạt động bành trướng của các công ty xuyên
quốc gia, đòi hỏi nhà nước tư sản phải đứng ra bảo hộ tạo môi trường quốc tế hỗ trợ các tổ
chức độc quyền tư nhân, mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và chuyển dịch các mâu
thuẫn đối kháng ra ngoại vi, nhằm giảm bớt mức độ gay gắt mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản.
3. Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước:
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc quyền tư
nhân với sức mạnh của nhà nước tư sản thành một thiết chế và thể chế thống nhất nhằm phục
vụ lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản.
Như vậy, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự thống nhất của ba quá trình:
- Tăng sức mạnh của tổ chức độc quyền.
- Tăng vai trò kinh tế của nhà nước tư sản.
- Kết hợp sức mạnh độc quyền tư nhân với nhà nước tư sản trong một cơ chế thống nhất, nhằm



bảo trì và thúc đẩy CNTB phát triển.
Về bản chất, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội chứ
không phải là một chính sách của nhà nước tư sản trong giai đoạn độc quyền thống trị. Nó là
hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nghĩa trước sự phát triển mạnh
của lực lượng sản xuất và tính xã hội hóa nhằm duy trì sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, làm chủ
nghĩa tư bản thích nghi với điều kiện lịch sử mới.
4. Những biểu hiện chủ yếu của CNTB độc quyền nhà nước.
a. Sự kết hợp về nhân sự giữa các tổ chức độc quyền và nhà nước tư sản:
- Sự kết hợp về nhân sự được thực hiện
+ Thông qua các đảng phải tư sản.
+ Thông qua các hội chủ xí nghiệp:
* Các đại biểu của các tổ chức độc quyền tham giai vào bộ máy nhà nước
* Các quan chức chính phủ được cài vào các ban quản trị của các tổ chức độc quyền.
b. Sự hình thành và phát triển của sở hữu nhà nước:
- CNTB độc quyền nhà nước thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống, nhưng nổi bật nhất là sức
mạnh của sđộc quyền và nhà nước kết hợp với nhau trong lĩnh vựs kinh tế; Cơ sở của những
biện pháp độc quyền nhà nước trong kinh tế là sự thay đổi các quan hệ sở hữu:
* Sở hữu nhà nước tăng lên.
* Quan hệ giữa sở hữu nhà nước và sở hữu độc quyền được tăng cường trong quá trình chu
chuyển của tổng tư bản xã hội.
+ Sở hữu nhà nước được hình thành dưới những hình thức:
* Xây dựng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách.
* Quốc hữu hóa các xí nghiệp tư nhân bằng cách mua lại
* Nhà nước mua cổ phiếu cảu các doanh nghiệp tư nhân.
* Mở rộng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn tích lũy của các doanh nghiệp tư nhân .
c. Sự điều tiết kinh tế cua nhà nước tư sản:
- Nhà nước tư sản dung hợp cả 3 cơ chế: Thị trường, độc quyền tư nhân và điều tiết của nhà
nước nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của từng cơ chế. Xét đến cùng và về
bản chất, hệ thống điều tiết đó phục vụ cho CNTB độc quyền.

5. Xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản
Chủ nghĩa tư bản trong quá trình phát triển của nó, một mặt đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển rất mạnh mẽ, tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền sản xuất lớn hiện đại; mặt khác làm cho
mâu thuẫn cơ bản của nó - mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản
xuất với tính chất chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất thêm gay gắt.
Ngày nay, chủ nghĩa tư bản hiện đại đang nắm ưu thế về vốn, khoa học, công nghệ, thị trường,
đang có khả năng thích nghi và phát triển trong chừng mực nhất định; chủ nghĩa tư bản cũng đã
buộc phải thực hiện một số điều chỉnh giới hạn về quan hệ sản xuất, trong khuôn khổ của chủ
nghĩa tư bản, song không thể khắc phục nổi những mâu thuẫn vốn có của nó, không thể vượt quá
giới hạn lịch sử của nó.
Mặt khác, các quốc gia độc lập ngày càng tăng cường cuộc đấu tranh để tự lựa chọn và quyết
định con đường phát triển tiến bộ của mình. Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học
thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả
năng tạo ra bước phát triển mới. Vì vậy, sớm hay muộn chủ nghĩa tư bản cũng sẽ bị thay thế bằng


một chế độ mới, cao hơn - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội.
CÂU 7: Tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ

TBCN ở VN?
Bài làm

1. Quan điểm của Mác và Ăng ghen:
+ Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa có tính chất lịch sử và xã hội tư bản tất
yếu bị thay thế bằng xã hội mới - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
+ Dự báo trên những nét lớn về những đặc trưng cơ bản của xã hội mới, xã hội
cộng sản chủ nghĩa.
+ Để xây dựng xã hội mới có những đặc trưng như trên cần phải trải qua hai giai
đoạn: giai đoạn thấp hay giai đoạn đầu và giai đoạn sau hay giai đoạn cao. Sau này
V.I.Lênin gọi giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội và giai đoạn sau là chủ nghĩa cộng sản.

+ C.Mác gọi giai đoạn đầu là thời kỳ quá độ chính trị lên giai đoạn cao của xã hội
cộng sản. Quan niệm về thời kỳ quá độ của Mác có nội dung và phạm vi rộng và dài hơn
nhiều so với quan niệm về thời kỳ quá độ lên CNXH của Lênin.
+ C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu ra khả năng quá độ lên chủ nghĩa cộng sản ở các
nước lạc hậu khi cách mạng vô sản ở các nước Tây Âu giành được thắng lợi.
2. Quan điểm của Lênin
+ Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan, bất cứ quốc gia nào đi
lên chủ nghĩa xã hội đều phải trải qua, kể cả các nước có nền kinh tế rất phát triển.
+ Đặc điểm kinh tế cơ bản nhất của thời kỳ quá độ là sự tồn tại nền kinh tế nhiều
thành phần, xã hội có nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau nhưng vị trí, cơ cấu và
tính chất của các giai cấp trong xã hội đã thay đổi một cách sâu sắc.
+ Khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Khả năng thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở một số nước hoặc ở một nước riêng lẻ
chứ không thể thắng lợi cùng một lúc ở tất cả các nước.
Khi chủ nghĩa xã hội thắng lợi ở một nước, thì nhân loại bắt đầu bước vào thời đại
quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Trong điều kiện đó, các nước lạc
hậu có thể quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
3. Phân tích tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt
Nam
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử bởi vì:
Một là, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa là phù hợp với quy luật khách
quan của lịch sử. Loài người đã phát triển qua các hình thái kinh tế - xã hội: công xã
nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa. Sự biến đổi của các hình
thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên và hình thái kinh tế - xã hội sau cao hơn,
tiến bộ hơn hình thái kinh tế - xã hội trước nó. Sự biến đổi của các hình thái kinh tế - xã
hội nói trên đều tuân theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và xã hội hoá lao động làm cho các



tiền đề vật chất, kinh tế, xã hội ngày càng chín muồi cho sự phủ định chủ nghĩa tư bản và
sự ra đời của xã hội mới - chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của
loài người. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa
xã hội.
Hai là, phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội không chỉ phù hợp với xu thế
của thời đại mà còn phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam: cách mạng dân tộc,
dân chủ gắn liền với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ trước
hết là để giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do, dân chủ… đồng thời nó là tiền đề để
“làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm,
được ấm no và sống một đời hạnh phúc”, nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” (NQĐHĐ IX). Vì vậy, cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa là sự tiếp tục hợp lôgíc cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, làm cho cách
mạng dân tộc, dân chủ được thực hiện triệt để.
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta
trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam luôn khẳng định con đường đi lên của đất nước
là quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trước những năm đổi mới đã
xuất hiện không ít khó khăn, thách thức như đất nước rơi vào tình trạng trì trệ, khủng
hoảng trầm trọng, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, Đảng và dân
tộc ta vẫn kiên trì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đổi mới không phải thay đổi lựa
chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bằng con đường khác, mà là thay đổi cách thức,
bước đi trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với xu thế mới của thế giới và
hoàn cảnh đặc thù của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng ta khẳng định: Ngày nay đã có
những điều kiện để hiểu biết đầy đủ hơn về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua thời kỳ quá độ là một tất yếu
khách quan, và độ dài của thời kì đó phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của
mỗi nước. Thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản
xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất
khó khăn. Đó là một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây

dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến
thức thượng tầng. Đó là một thời kỳ đấu tranh giai cấp phức tạp, đấu tranh giữa hai con
đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội
nhằm giải quyết vấn đề “ai thắng ai”,v.v..Đảng ta đã nhiều lần chỉ rõ nhiệm vụ chủ yếu
của chặng đường đầu tiên là xây dựng những tiền đề chính trị, kinh tế, xã hội cần thiết để
triển khai công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trên quy mô lớn.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng tiếp tục khẳng định: Đi lên chủ
nghĩa xã hội là con đường tất yếu của nước ta. Chúng ta phê phán những khuyết điểm, sai
lầm trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng không quan niệm những lệch lạc
đó là khuyết tật của bản thân chế độ, coi khuyết điểm là tất cả, phủ định thành tựu, từ đó
dao động về mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đổi mới không phải là thay
đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có kết quả bằng



-

những quan điểm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, bằng những hình thức, bước đi và biện
pháp thích hợp.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng nêu rõ: Con đường đi lên của nước
ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ
qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ
nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư
bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta khẳng định: Tiếp tục đưa đất nước từng bước
quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn
Việt Nam. Mặc dù hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất
vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ

nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng
sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết
được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục
xảy ra. “Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân
dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản (…). Theo quy luật tiến hóa
của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Điều kiện bên trong và bên ngoài tác động đến việc lựa chọn con đường quá độ chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Bối cảnh trong nước: điều kiện bên trong, có Đảng cộng sản lãnh đạo giành được chính
quyền và sử dụng chính quyền nhà nước công, nông, trí thức liên minh làm điều kiện
tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định: “Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp.
Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư
thực dân phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế
độ xã hội và nền độc lập của nhân dân ta”.
+ Đặc điểm đặc trưng bao trùm nhất của thời kỳ quá độ ở nước ta là bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa. Nhưng, thế nào là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa? Giải quyết vấn đề
này có ý nghĩa to lớn cả về nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa là “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và
kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân
loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học, công nghệ, để phát
triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.” Bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa thực chất là phát triển theo con đường “rút ngắn” quá trình lên chủ nghĩa xã hội.
Nhưng “rút ngắn” không phải là đốt cháy giai đoạn, duy ý chí, coi thường quy luật. Trái
lại, phải tôn trọng quy luật khách quan và biết vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của
đất nước, tận dụng thời cơ và khả năng thuận lợi để tìm ra con đường, hình thức, bước đi



-

thích hợp. Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng không thể thực hiện quá độ trực tiếp
lên chủ nghĩa xã hội mà phải qua con đường gián tiếp, qua việc thực hiện hàng loạt các
hình thức quá độ.
Tóm lại, xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta tạo
ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là quá trình rất khó khăn, phức
tạp, tất yếu “phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình
thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ”
Bối cảnh quốc tế: điều kiện bên ngoài, có sự giúp đỡ của giai cấp vô sản của các nước tiên
tiến đã giành thắng lợi trong cách mạng vô sản.
+ Các nước lạc hậu có khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa nhưng không phải là quá độ trực tiếp, mà phải qua con đường gián tiếp với một
loạt những bước quá độ thích hợp. “Chính sách kinh tế mới” là con đường quá độ gián
tiếp lên chủ nghĩa xã hội, được áp dụng ở Liên Xô từ mùa xuân năm 1921 thay cho
“Chính sách cộng sản thời chiến” được áp dụng trong những năm nội chiến và can thiệp
vũ trang của chủ nghĩa đế quốc.
+ Khả năng khách quan
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và toàn cầu hoá kinh tế đang diễn
ra mạnh mẽ, nó mở ra khả năng thuận lợi để khắc phục những hạn chế của nước kém
phát triển như thiếu vốn, công nghệ lạc hậu, khả năng và kinh nghiệm quản lý yếu kém,
… nhờ đó ta có thể thực hiện “con đường rút ngắn”
Thời đại ngày nay, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là xu hướng khách quan của loài
người. Chúng ta đã, đang và sẽ nhận được sự đồng tình, ủng hộ ngày càng mạnh mẽ của
loài người, của các quốc gia độc lập đang đấu tranh để lựa chọn con đường phát triển tiến
bộ của mình.
+ Tiền đề chủ quan
Những tiền đề vật chất tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế,
thu hút vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ, tiếp thu kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các

nước phát triển như: nguồn lao động dồi dào, nguồn tài nguyên đa dạng, vị trí địa lý
thuận lợi, những cơ sở vật chất, kỹ thuật đã được xây dựng. Quyết tâm của nhân dân xây
dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, cuộc sống ấm no, hạnh phúc sẽ trở thành lực
lượng vật chất để vượt qua khó khăn, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam, một Đảng giàu tinh thần cách mạng và sáng tạo, có đường
lối đúng đắn và gắn bó với nhân dân, có Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân ngày càng được củng cố vững mạnh và khối đoàn kết toàn dân, đó là những nhân tố
chủ quan vô cùng quan trọng bảo đảm thắng lợi công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại : Đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt nam là
có điểm xuất phát từ trình độ phát triển thấp song bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, do đó
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của dân tộc.


Câu 8: Những nội dung cơ bản về vấn đề thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN
Bài làm
1/ Quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nền kinh tế nhiều thành phần
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải
biến cách mạng sâu sắc, toàn diện và triệt để từ xã hội cũ thành xã hội mới - xã hội xã hội chủ
nghĩa, được bắt đầu từ khi cách mạng vô sản thắng lợi, giai cấp vô sản giành được chính quyền, bắt tay
vào xây dựng xã hội mới và kết thúc khi xây dựng thành công các cơ sở kinh tế, xã hội, chính trị của
chủ nghĩa xã hội. Ở các quốc gia, khi thực hiện bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bao giờ cũng tồn tại
đồng thời ba thành phần kinh tế cơ bản, đó là: Kinh tế xã hội chủ nghĩa, kinh tế của những người sản xuất
hàng hóa nhỏ, và kinh tế tư bản tư nhân.
Trên cơ sở nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng vào điều kiện thực tiễn cách mạng Việt
Nam, ngay từ thời kỳ 1953, trong tác phẩm “Thường thức chính trị” Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra, ở
nước ta tồn tại năm thành phần kinh tế, đó là: Kinh tế địa chủ bóc lột địa tô; kinh tế quốc doanh, có
tính chất nửa xã hội chủ nghĩa; kinh tế hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã mua bán mang tính chất nửa xã
hội chủ nghĩa; kinh tế cá nhân của nông dân và thợ thủ công nghệ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản

quốc gia. Các thành phần kinh tế tồn tại khách quan, đan xen, tác động qua lại lẫn nhau cùng thúc đẩy nền
kinh tế phát triển.
Trong điều kiện cụ thể của nước ta tại thời điểm lịch sử đó, những thành phần kinh tế của xã
hội cũ như: Kinh tế của những người sản xuất hàng hóa nhỏ, kinh tế tư bản tư nhân…chưa thể xóa bỏ
ngay được, những thành phần kinh tế này vẫn còn cơ sở khách quan để tồn tại, có tác dụng nhất định
trong huy động vốn, kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý cũng như tạo việc làm, tạo thu nhập cho người
lao động ở nước ta. Trong khi đó, những thành phần kinh tế của xã hội mới xã hội - xã hội chủ nghĩa như:
Kinh tế hợp tác xã , kinh tế quốc doanh, mới xác lập, còn non yếu, chưa đủ khả năng để đảm đương hết
tất cả các nhiệm vụ nặng nề của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó chính là một thực tế, quy định
tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Vì các thành phần kinh tế tồn tại một cách khách quan, nên chúng ta cần phải tôn trọng
tính khách quan đó, đồng thời phải có chính sách, giải pháp thích hợp khuyến khích các thành phần
kinh tế phát triển.
Để thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển, theo Hồ Chí Minh cần thực hiện tốt bốn chính sách
kinh tế: Công tư đều lợi; chủ thợ đều lợi; công nông giúp nhau; lưu thông trong ngoài. Người cho
rằng: bốn chính sách kinh tế ấy là mấu chốt để phát triển kinh tế của nước ta. Theo đó, Hồ Chí Minh
đã chỉ ra nguyên tắc, mục tiêu hướng tới của nền kinh tế nhiều thành phần là: các thành phần kinh tế tồn
tại trong mối quan hệ hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi, tạo nên sự phát triển cân đối của nền kinh tế.
Đối với kinh tế quốc doanh, Người chỉ ra rằng: đây là thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo,
lãnh đạo nền kinh tế, là hình thức kinh tế tồn tại trong các lĩnh vực then chốt, ảnh hưởng đến quốc kế dân
sinh, có tác dụng hướng dẫn các loại hình kinh tế khác phát triển. Chính từ vị trí, vai trò quan trọng
đó, kinh tế quốc doanh phải được Nhà nước ưu tiên để phát triển. Theo Hồ Chí Minh: chúng ta phải phát
triển kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội và thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ
nghĩa.
Đối với kinh tế hợp tác xã, theo Hồ Chí Minh là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao
động. Nhà nước cần đặc biệt khuyến khích, giúp đỡ phát triển. Phải coi hợp tác hóa nông nghiệp là khâu
chính, thúc đẩy công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Đối với thợ thủ công và lao động riêng lẻ khác. Theo Hồ Chí Minh: cần bảo hộ quyền sở
hữu về tư liệu sản xuất của họ, giúp họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã
sản xuất trên nguyên tắc tự nguyện. Đối với những nhà tư sản công thương thì không xóa bỏ quyền sở

hữu tư liệu sản xuất và của cải khác của họ, mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi cho quốc kế
dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước. Đối với Kinh tế tư bản nhà nước, Nhà nước khuyến
khích và giúp đỡ các nhà tư bản đi theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức công tư hợp doanh và những
hình thức khác. Nhà nước lãnh đạo hoạt động kinh tế theo một kế hoạch thống nhất.
Trên đây là những vấn đề cơ bản trong tư tưởng về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở
nước ta, được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra trong thời kỳ đầu công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tư
tưởng, quan điểm đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nền kinh tế nhiều thành phần, không chỉ được
vận dụng sáng tạo và trở thành hiện thực sinh động trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
trước đây, mà còn tiếp tục được vận dụng sáng tạo trong công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước hiện nay.
Tuy nhiên, quá trình vận dụng tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển nền kinh tế nhiều


thành phần vào thực tiễn cách mạng nước ta trong từng thời điểm lịch sử cụ thể (1970, 1980), còn biểu
hiện thiếu sáng tạo, thiếu chính xác, nôn nóng muốn có ngay chủ nghĩa xã hội, dẫn tới khuynh hướng
muốn xóa bỏ ngay lập tứcthành phần kinh tế tư nhân, chỉ quan tâm phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế
tập thể. Từ đó, làm triệt tiêu động lực phát triển, không phát huy được khả năng đóng góp của kinh tế tư
nhân với sự phát triển và xây dựng đất nước.
Nhận rõ được những khuyết điểm, hạn chế về nhận thức trong quá trình vận dụng tư tưởng
của Người về phát triển kinh tế nhiều thành phần; Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), Đảng
ta đề ra và thực hiện đường lối đổi mới, trước hết là đổi mới về tư duy kinh tế. Trên cơ sở đó, kinh tế
nhiều thành phần được khôi phục; cơ chế thị trường được thừa nhận và thay thế cơ chế tập trungquan liêu - bao cấp trong quản lý kinh tế; người nông dân được trao quyền tự chủ trong sản xuất nông
nghiệp, doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp lại, Luật đầu tư nước ngoài được thông qua; tất cả các giải
pháp để thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội được triển khai một cách đồng bộ. Từ đó đã thực sự
khơi dậy mọi tiềm năng, tạo nên những thay đổi mang tính cách mạng trong đời sống kinh tế- xã hội
trong cả nước.
Tại Đại hội VII của Đảng năm 1991 đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010. Một mô hình mới về
xây dựng chủ nghĩa xã hội chính thức được xác định, công cuộc đổi mới đã đưa nhân dân bước vào
thời kỳ mới: Thời kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội bằng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự
quản lý của Nhà nước. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế nhiều thành phần tiếp

tục được vận dụng sáng tạo, thể hiện rõ trong chủ trương của Đảng: thực hiện nhất quán và lâu dài chính
sách kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Đến các kỳ đại hội gần
đây, Đảng ta tiếp tục khẳng định và thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần,
nhằm huy động sức mạnh và khả năng đóng góp của các thành phần kinh tế trong quá trình đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng và phát triển đất nước. Những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh
vực sau gần 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, đã chứng tỏ tính đúng đắn của Tư tưởng Hồ
Chí Minh về phát triển kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, việc thừa nhận sự tồn tại khách quan, lâu dài của kinh tế nhiều thành phần trong
thời lỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, là một nhận thức đúng, thể hiện sự vận dụng
sáng tạo những quan điểm mácxít của Chủ tịch Hồ Chí Minh về kinh tế nhiều thành phần trong xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở thời kỳ quá độ. Chỉ trên cơ sở vận dụng sáng tạo tư tưởng đúng đắn của Người, mới
có thể huy động được sức mạnh của toàn dân tộc vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, từng
bước đưa nước ta tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội./.
2/ Tính tất yếu khách quan là nhiệm vụ kinh tế thứ 2 của thời kỳ quá độ
Xét dưới góc độ tiến hoá của lịch sử, thì chủ nghĩa xã hội- giai cấp thấp của xã hội cộng sản phải
là một xã hội văn minh hơn, nhân đạo hơn và nói chung phải có trình độ cao phát triển hơn, trước hết
trên một số mặt và cuối cùng trên tất cả các mặt, so với xã hội đã có trong lịch sử. Chủ nghĩa xã hội đang
được xây dựng ở nước ta có các đặc trưng:
Do nhân dân lao động làm chủ và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa không ngừng được xây
dựng và tăng cường.
Có kinh tế phát triển, đời sống được nâng cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công
hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Có nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao
động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển, cùng tiến bộ.
Có quan hệ hữu nghị, hợp tác và phát triển với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Để xây dựng một xã hội với những đặc điểm như trên, phải thực hiện những nhiệm vụ

quan trọng:
Tiến hành xây dựng, phát triển và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới - quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa với nhiều hình thức và bước đi thích hợp phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất.
Xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng một chế độ xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa, từng bước tạo ra nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, củng cố và hoàn thiện nhà nước kiểu mới “Nhà nước của dân, do dân, vì dân”.


Những nhiệm vụ trên vô cùng phức tạp, khó khăn và nặng nề; phải được thực hiện qua một thời
kỳ lịch sử lâu dài - thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
3/ Liên hệ ở Việt Nam - Quan điểm của Đảng ta (Trích Văn kiện Đại hội XI năm 2011)
NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG LỚN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt
động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật,
cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh
tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động
lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu
hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển. Các yếu tố thị
trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước được xây dựng, phát triển, vừa tuân theo
quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Phân định rõ quyền
của người sở hữu, quyền của người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý của Nhà nước trong lĩnh
vực kinh tế, bảo đảm mọi tư liệu sản xuất đều có người làm chủ, mọi đơn vị kinh tế đều tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho
phát triển; các nguồn lực được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội;
thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp
vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước
quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật, chiến

lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất.
Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp
lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Coi trọng phát
triển các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi
thế; phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ công nghệ cao, chất lượng cao gắn với
công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới. Bảo đảm phát triển hài hoà giữa các vùng, miền; thúc
đẩy phát triển nhanh các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng có nhiều
khó khăn. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Câu 9: Phân tích ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa vật
chất và ý thức?Liên hệ vận dụng vào công tác thực tiễn? Phê phán một số biểu hiện chủ quan duy ý chí, vi
phạm nguyên tắc khách quan trong tư duy lãnh đạo quản lí hiện nay?
Bài làm
Trọng tâm trả lời:
- Khái niệm VC –YT
- Mối quan hệ biện chứng giữa VC – YT



Phân tích vai trò tác động qua lại giữa VC – YT
Rút ra ý nghĩa phương pháp luận và liên hệ






Nguyên tắc hàng đầu là nguyên tắc khách quan – liên hệ thực tiễn đơn vị và công tác bản thân
Trong xây dựng chính sách phải khách quan và từ nguồn lực mà ta có chứ ko dùng tình cảm để
xây dựng chính sách, không lấy ý chí chủ quan áp đặt thực tế khách quan – liên hệ thực tế đất

nước, xã hội: xây tượng đài, sân golf, thực tế công tác của bản thân: việc xây dựng chỉ tiêu bộ
môn..
Ở đâu tôn trọng quy luật khách quan thành công; ở đâu không tôn trọng quy luật khách quan
 thất bại; liên hệ công tác của bản thân: phải nắm được quy luật tâm sinh lí lứa tuổi của hs 
giáo duc hs mới đạt hiệu quả
Phát huy vai trò của nhân tố con người trong nhận thức, cải tạo thế giới khách quan; chống tâm
lí thụ động, trông chờ, ỷ lại vào các điều kiện vật chất khách quan ( vì YT một khi đã hình thành


nó có tính năng động, sáng tạophải phát huy vai trò nhân tố con người cho việc cải biến hiện
thực khách quan. Trong giáo dục, đào tạo vẫn tồn tại nhiều quan điểm chủ quan duy ý chí
- Liên hệ vận dụng thực tiễn : Vận dụng việc đánh giá HS khách quan như thế nào,
Bài làm
Theo quan điểm của CN Mac – Lenin, vật chất là một phạm trù triết học, dùng để chỉ thực tại
khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người nhưng đây là sự phản ánh năng
động, sáng tạo thể hiện ở chỗ phản ánh của ý thức là phản ánh có chọn lọc, phản ánh những cái cơ
bản nhất mà con người quan tâm; phản ánh của ý thức là phản ánh không nguyên xi mà còn được
cải biến trong bộ óc con người
Giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau.Chủ nghĩa Macxit khẳng định vật
chất có trước ý thức, quyết định ý thức.Ý thức là cái phản ánh cho nên là cái có sau là cái bị quyết
định. Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao, tổ chức đặc biệt, đó là bộ óc
người. Do vậy, không có bộ óc người thì không thể có ý thức. Hơn nữa, ý thức tồn tại phụ thuộc
vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh thế giới khách quan. Hơn nữa, vật
chất còn là cơ sở, nguồn gốc của những nội dung mà ý thức phản ánh. Nghĩa là vật chất quyết
định nội dung của ý thức
Chủ nghĩa duy vật Macxit cũng cho rằng mặc dù vật chất quyết định ý thức, nhưng ý thức có tính
năng động sáng tạo, cho nên thông qua hoạt động thực tiễn của con người có thể tác động trở lại
vật chất bằng cách thúc đẩy hoặc kìm hãm ở một mức độ nào đó các điều kiện vật chất, góp phần

cải biến thế giới khách quan Tuy nhiên sự tác động trở lại của ý thức dù đến đâu chăng nữa vẫn
phụ thuộc vào các điều kiện vật chất. Cho nên, xét đến cùng, vật chất luôn quyết định ý thức
Trên cơ sở học tập tìm hiểu về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, chúng ta có thể rút ra
được ý nghĩa phương pháp luận về việc vận dụng quan điểm này vào nhận thức và thực tiễn cuộc sống.
Đó là, phải luôn quán triệt quan điểm hàng đầu là phải có quan điểm khách quan trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn.Quan điểm khách quan yêu cầu, trong nhận thức phải nhận thức sự vật như nó vốn có;
trong hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tiễn khách quan, tôn trọng quy luật khách quan và hành
động theo quy luật khách quan Chúng ta không thể lấy mong muốn chủ quan thay cho thực tế khách quan,
không thể hành động xuất phát từ cảm tính, làm trái với quy luật vì như vậy sẽ phải trả giá.
Gv tự liên hệ thực tiễn
CÂU 10: Liên hệ vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu hai nguyên lí và
ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật vào công tác thực tiễn
Bài Làm
Cách làm
Nội dung hai nguyên lí: nguyên lí về mối liên hệ phổ biến và nguyên lí về sự phát triẻn
Trình bày về ba quy luật cơ bản của PBCDV
Phân tích phương pháp luận
Khái quát lại nội dung của nguyên lí và quy luật( ko cần trình bày khái niệm)
Liên hệ vận dụng các nguyên lí
Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến: đây là quan điểm toàn diện, lịch sử, cụ thể  nhận thức cải tạo HS
phải có quan điểm toàn diện, LS, cụ thể ( chú ý toàn diện ko đồng nghĩa với cào bằng) để đánh giá đúng
bản chất các quyết định Nghị quyết 29 của Đảng về đổi mới cơ bản toàn diện GDĐT  cần có quan
điểm toàn diện lịch sử cụ thể để vận dụng đường lối chính sách
Vận dụng quan điểm toàn diện , lịch sử, cụ thể để đánh giá học sinh
BÀI LÀM
Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến:
Liên hệ là khái niệm chỉ sự tác động qua lại, ràng buộc, phụ thuộc, quy định và chuyển hóa lẫn nhau giữa
các SVHT hay giữa các mặt, các yếu tổ trong mỗi SV,HT
Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến nói lên rằng mọi SVHT trong thế giới ( cả tự nhiên,xh, tư duy) dù đa
dạng, phong phú nhưng đều nằm trong mối liên hệ với các SVHT khác



Tính chất của mối liên hệ phổ biến:





tính khách quan
Tính phổ biến
Tính đa dạng, phong phú, phức tạp

Mối liên hệ phổ biến giữa các SVHT là khách quan nghĩa là nó tồn tại không phụ thuộc vào ý thức
con người; Mối liên hệ đó còn phổ biến thể hiện ở chỗ nguyên lí diễn ra với tất cả sự vật, hiện tượng
trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy. Đồng thời mối liên hệ rất đa dạng phong phú phức tạp thể hiên ở
chỗ mỗi sự vật hiện tượng có vai trò, vị trí khác nhau thì mối liên hệ khác nhau
Vai trò của nguyên lí về mối liên hệ phổ biến: Mối liên hệ có vai trò, vị trí cụ thể khác nhau đối với
mỗi SVHT trong từng điều kiện xác dịnh trong đó các mối liên hệ bên trong, cơ bản, chủ yếu… giữ
vai trò quyết định sự vận động, phát triển của SVHT; các mối liên hệ bên ngoài, thứ yếu, không cơ
bản.. ảnh hưởng đến sự vận động, phát triển của các SVHT
Ý nghĩa phương pháp luận
Hình thành quan điểm toàn diện, lịch sử,cụ thể
Khi xem xét, đánh giá SVHT phải đặt nó trong mối liên hệ để xem xét, đánh giá
Phải xác định, phân loại mối liên hệ, tìm ra các mối liên hệ cơ bản, bên trong,chủ yếu, trực tiếp của
các SVHT
Đặt SVHT vào đúng không gian, thời gian,đúng vai trò của mối liên hệ
Kết hợp đồng bộ các biện pháp, giải pháp, huy động tổng hợp các nguồn lực..trong hoạt động thực
tiễn
Chống lại quan điểm phiến diện, chung chung, trừu tượng
Vận dụng vào thực tiễn

Phần này GV tự liên hệ
CÂU 11: Phân tích ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu mối quan hệ

giữa lý luận và thực tiễn? phê phán một số biểu hiện của bệnh kinh nghiệm và bệnh
giáo điều trong tư duy lãnh đạo, quản lý hiện nay?
Bài Làm
Sự gắn kết giữa nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn luôn là một đòi hỏi cấp bách và
là một cách để mang đến thành công cho hoạt động của mỗi cá nhân, của tổ chức và của một
chính đảng. Nhận thức đúng và giải quyết hợp lý mối quan hệ biện chứng tác động qua lại của
lý luận và thực tiễn, dùng lý luận làm kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn, tổng kết thực tiễn để
phát triển lý luận, thực tiễn phải là cơ sở, động lực của nhận thức và tiêu chuẩn của chân lý ...
luôn là chìa khóa để để giải quyết mọi vướng mắc trên con đường đi đến mục tiêu đã định.
Ngược lại, nhận thức không đúng và giải quyết không tốt mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
sẽ rơi vào chủ nghĩa giáo điều, kinh viện và chủ nghĩa kinh nghiệm hay chủ quan duy ý chí, tất
nhiên sẽ dẫn đến những thất bại mà đối với một chính đảng, sự thất bại đó có thể dẫn đến
những hậu quả nghiêm trọng.
1 – Thực tiễn là gì?
Theo triết học DVBC thực tiễn là một phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ hoạt động
vật chất cảm tính có tính lịch sử xã hội của con người nhằm mục đích cải tạo tự nhiên và xã
hội.Theo triết học Mac - Lênin thì thực tiễn có 3 hình thức cơ bản sau:
- Hoạt động sản xuất vật chất: đây là thực tiễn có sớm nhất, cơ bản nhất, quan trọng nhất,
đóng vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của xã hội. Ví dụ: sản xuất ra lúa, khoai,


chăn nuôi heo, bò, gà…
- Hoạt động cải tạo chính trị xã hội, quan hệ xã hội: như đấu tranh giải phóng dân tộc, đấu
tranh giải phóng giai cấp, xây dựng thiết chế dân chủ... Ví dụ: cuộc cách mạng dân chủ tư sản
tại Pháp năm 1789; cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tại Việt Nam năm 1945…
- Những hoạt động thực nghiệm khoa học: đây là hình thức đặc biệt bởi lẽ nghiên cứu tự
nhiên và xã hội trong điều kiện thí nghiệm cũng như việc thực nghiệm chuyển giao khoa học kỹ

thuật hay vận dụng các thành tựu khoa học vào sản xuất vật chất trên cơ sở cải tạo thế giới
phục vụ con người. Ví dụ: việc nghiên cứu, thử nghiệm, và sử dụng Vacxin ngừa bệnh dại của
Louis Pasteur…
Ba hình thức trên có quan hệ bổ sung, hỗ trợ cho nhau, trong đó sản xuất vật chất đóng vai
trò quyết định, 2 hình thức còn lại đóng vai trò quan trọng đối với sản xuất vật chất.
2 – Lý luận là gì?
Theo triết học DVBC lý luận khoa học là hệ thống những tri thức được khái quát từ
những kinh nghiệm thực tiễn và cả những mối liên hệ bản chất mang tính quy luật của các sự
vật hiện tượng trong thế giới khách quan và được biểu đạt bằng hệ thống các nguyên lý, phạm
trù, quy luật.
Từ khái niệm trên cho ta thấy lý luận có những đặc trưng sau đây:
- Cơ sở của lý luận là những tri thức kinh nghiệm thực tiễn.
- Lý luận có tính khái quát hóa, trừu tượng hóa cao.
- Lý luận có khả năng phản ánh bản chất sâu xa của sự vật hiện tượng.
3 – Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn:
Đây là mối quan hệ tác động qua lại 2 chiều, thực tiễn quyết định lý luận và lý luận tác
động lên thực tiễn.
3.1 – Thực tiễn quyết định lý luận:
+ Thể hiện ở chỗ quyết định cả về nội dung, nhiệm vụ, khuynh hướng phát triển lý luận. Hay
nói cách khác, thực tiễn thế nào thì lý luận thế ấy, thực tiễn thay đổi thì sớm muộn gì lý luận
cũng thay đổi bởi vì thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, là động lực, là mục đích của nhận thức.
+ Thực tiễn là cơ sở, là động lực của nhận thức: Theo triết học DVBC thì hoạt động thực
tiễn là cơ sở động lực trực tiếp của nhận thức lý luận, bởi lẽ:
• Bằng hoạt động thực tiễn, thông qua thực tiễn con người tác động vào sự vật hiện tượng
làm cho chúng bộc lộ bản chất, tính chất, trên cơ sở đó con người mới hiểu, biết được sự vật
hiện tượng nghĩa là thực tiễn cung cấp tri thức, sự hiểu biết cho con người.
• Thực tiễn đã đề ra nhu cầu nhiệm vụ, phương hướng đòi hỏi lý luận phải trả lời trên cơ sở
đó thúc đẩy lý luận phát triển.
• Thực tiễn là cơ sở để rèn luyện các giác quan của con người, trên cơ sở đó thúc đẩy
nhận thức, thúc đẩy lý luận phát triển.

• Thực tiễn là cơ sở chế tạo ra các công cụ, phương tiện hỗ trợ cho con người nhận thức
có hiệu quả hơn trên cơ sở đó thúc đẩy lý luận phát triển.
• Thực tiễn là mục đích của nhận thức: Theo triết học MLN chính thực tiễn là mục đích
nhận thức của lý luận, chỉ có lý luận phục vụ cho thực tiễn đích thực bởi lẽ: nhận thức của con
người ngay từ khi con người xuất hiện trên trái đất đã bị quy định bởi nhu cầu thực tiễn. Hơn
nữa những kết quả nhận thức của lý luận chỉ có giá trị đích thực khi đã vận dụng vào thực tiễn,
nếu lý luận mà không vì thực tiễn thì lý luận sẽ mất phương hướng hay còn gọi là lý luận
suông.
Theo triết học MLN chỉ có thực tiễn mới khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm nghĩa là thực
tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra sự đúng đắn về kết quả nhận thức của lý luận, bằng thực tiễn con


người có thể vật chất hoá tri thức, hiện thực hoá lý luận, trên cơ sở đó khẳng định được sự
đúng sai của lý luận.
3.2 – Lý luận tác động trở lại thực tiễn:
Mặc dù lý luận có bị quy định bởi thực tiễn nhưng nó có tính độc lập tương đối so với
thực tiễn cho nên nó có thể tác động trở lại thực tiễn theo 2 hướng cơ bản sau:
+ Nếu lý luận ra đời mà phù hợp với thực tiễn thì sẽ thúc đẩy thực tiễn phát triển nhanh
chóng.
+ Nếu lý luận ra đời mà không phù hợp với thực tiễn thì sẽ kìm hãm thực tiễn phát triển.
Mức độ và hiệu quả của lý luận đối với thực tiễn còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
+ Tính đúng đắn khoa học của lý luận.
+ Phụ thuộc vào mức độ thâm nhập vào quần chúng cách mạng ở mức độ nào.
+ Phụ thuộc vào sự vận dụng đúng đắn sáng tạo hay không bởi chủ thể lãnh đạo.
Vai trò của lý luận đối với thực tiễn: lý luận có vai trò to lớn đối với thực tiễn ở chỗ:
+ Soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo hoạt động thực tiễn đi đúng hướng.
+ Giáo dục, động viên, thuyết phục, tập hợp quần chúng để tạo thành phong trào hoạt động
thực tiễn rộng lớn, trên cơ sở đó cải tạo tự nhiên và xã hội.
+ Do sức mạnh nội tại của mình, lý luận đóng vai trò là dự báo, định hướng cho hoạt động
thực tiễn của con người.

3.3 - Nguyên lý thống nhất giữa lý luận và thực tiễn:
Theo quan điểm mácxít, lý luận và thực tiễn không tách rời nhau mà giữa chúng có sự
liên hệ, xâm nhập và tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn là nguyên tắc căn bản của triết học Mác – Lênin.
Chủ nghĩa Mác – Lênin là tiêu biểu cho sự gắn bó mật thiết giữa lý luận và thực tiễn
trong qúa trình hình thành và phát triển của nó. Lý luận Mác – Lênin là sự khái quát thực tiễn
CM và lịch sử xã hội, là sự đúc kết những tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận trên các lĩnh
vực khác nhau. Sức mạnh của nó là ở chỗ gắn bó hữu cơ với thực tiễn xã hội, được kiểm
nghiệm, bổ sung trong thực tiễn. Chính vì vậy mà nó có vai trò cải tạo thế giới chứ không chỉ
giải thích thế giới. Chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung và triết học Mác – Lênin nói riêng đã tìm
thấy ở giai cấp vô sản vũ khí vật chất của mình và giai cấp vô sản đã tìm thấy ở triết học Mác –
Lênin vũ khí tinh thần của mình.
Lênin từng nhắc nhở những người cộng sản ở các nước phải biết cụ thể hóa chủ nghĩa
Mác – Lênin cho thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh từng lúc, từng nơi. Lý luận cần được bổ
sung bằng những kết luận mới được rút ra từ thực tiễn sinh động.
Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: "Thống nhất lý luận với thực tiễn là nguyên tắc căn bản của
triết học Mác – Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý
luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông" hay "Có kinh nghiệm mà không có lý luận
cũng như một mắt sáng một mắt mờ".
4 – Ý nghĩa phương pháp luận:
Hình thành quan điểm thực tiễn. Quan điểm thực tiễn yêu cầu:
- Nhận thức sự vật phải xuất phát từ thực tiễn, luôn bám sát, gắn với thực tiễn
- Tổ chức hoạt động thực tiễn có hiệu quả, nghiên cứu lý luận phải gắn với thực tiễn, học
phải gắn với hành.
- Thường xuyên tổng kết, đánh giá, khái quát thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý
luận hoặc nâng lên thành lý luận. Phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng, sai của lý
luận cũng như chủ trương, đường lối, chính sách.
Trong hoạt động thực tiễn phải chủ động ngăn ngừa, khắc phục bệnh giáo điều (khuynh
hướng tư tưởng và hành động mà tuyệt đối hóa lý luận, coi thường, hạ thấp kinh nghiệm thực
tiễn); bệnh kinh nghiệm (khuynh hướng tư tưởng và hành động mà tuyệt đối hóa thực tiễn, coi

thường, hạ thấp lý luận); hoặc vận dụng kinh nghiệm của người khác, ngành khác, địa phương


khác mà không tính đến điều kiện thực tiễn cụ thể của mình.
5 – Bệnh kinh nghiệm:
- Bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng tư tưởng tuyệt tối hóa kinh nghiệm, coi thường lý luận
khoa học, khuếch đại vai trò thực tiễn để hạ thấp vai trò lý luận.
- Kinh nghiệm là rất quý, góp phần thành công trong điều kiện, hoàn cảnh nhất định và là cơ
sở để khái quát lý luận. Tuy nhiên, nếu tuyệt đối hóa kinh nghiệm một nơi, một lúc nào đó, xem
thường lý luận sẽ rơi vào bệnh kinh nghiệm và sẽ thất bại trong thực tiễn khi điều kiện, hoàn
cảnh thay đổi. Nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm là do yếu kém về lý luận, cụ thể:
+ nguyên nhân chủ quan: dễ thỏa mãn với vốn kinh nghiệm bản thân, ngại học lý luận,
không chịu nâng cao trình độ lý luận, coi thường khoa học kỹ thuật, coi thường giới trí thức,
thiếu nhìn xa trông rộng, dễ bảo thủ trì trệ.
+ nguyên nhân khách quan: sự tồn tại phổ biến nền sản xuất nhỏ, trình độ dân trí thấp,
khoa học – kỹ thuật chưa phát triển, Nho giáo phong kiến còn ảnh hưởng nặng nề.
6 – Bệnh giáo điều:
- Bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng cường điệu vai trò lý luận, coi nhẹ thực tiễn,
tách rời lý luận khỏi thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử - cụ thể, áp dụng kinh nghiệm một cách
rập khuôn, máy móc.
- Biểu hiện của bệnh giáo điều là bệnh sách vở, nắm lý luận chỉ dừng ở câu chữ theo kiểu
“tầm chương trích cú”; hiểu lý luận một cách phiến diện, hời hợt, biến lý luận thành tín điều và
áp dụng lý luận một cách máy móc; vận dụng sai lý luận vào thực tiễn, không bổ sung, điều
chỉnh lý luận. Nguyên nhân của bệnh giáo điều là do yếu kém về lý luận, cụ thể:
+ hiểu lý luận bằng kinh nghiệm, hiểu lý luận một cách đơn giản, phiến diện, cắt xén, sơ
lược…
+ xuyên tạc, bóp méo lý luận…
7 - Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều có hiệu quả:
Hoàn cảnh giai cấp vô sản của nước ta trong buổi đầu cách mạng vừa giành độc lập tự
do làm mảnh đất màu mỡ cho các bệnh này phát triển nhanh, tuy nhiên chúng ta đã để chúng

tồn tại quá dài. Để khắc phục triệt để bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều, chúng ta cần phải
quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong triết học Mác – Lênin. Cụ thể:
- Bám sát thực tiễn, lý luận phải gắn liền với thực tiễn, thường xuyên kiểm tra trong thực tiễn
và không ngừng phát triển cùng thực tiễn, tăng cường học tập nâng cao trình độ lý luận, bổ
sung, vận dụng lý luận phù hợp với thực tiễn;
- Phải coi trọng lý luận và công tác lý luận; nâng cao dân trí, đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục
và đào tạo, phổ biến rộng rãi tri thức khoa học – công nghệ…;
- Phải đổi mới công tác lý luận của Đảng dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Quán triệt nhiệm vụ, hướng nghiên cứu chủ yếu và phương châm lớn chỉ
đạo hoạt động lý luận của Đảng;
- Hoàn thiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì kinh tế thị trường luôn vận
động và biến đổi, đòi hỏi mọi thành phần, mọi chủ thể kinh tế phải năng động, sáng tạo, phải
thường xuyên bám sát thị trường để ứng phó cho phù hợp
- Phải đổi mới tư duy lý luận, khắc phục sự lạc hậu của lý luận, thu hẹp khoảng cách giữa lý
luận và thực tiễn bằng cách:


+ từ bỏ lối nghiên cứu kinh viện, tư biện;
+ thường xuyên đối chiếu lý luận với cuộc sống, vận dụng lý luận vào hoàn cảnh thực tế
của nước ta;
- Coi trọng và thường xuyên tổng kết thực tiễn, qua đó sửa đổi, phát triển lý luận đã có, bổ
sung hoàn chỉnh đường lối, chính sách, hình thành lý luận mới, quan điểm mới để chỉ đạo sự
nghiệm đổi mới xã hội.
Câu 12: Trình bày ý nghĩa rút ra từ việc nghiên cứu quy luật vì sự phù hợp của QHSX với trình độ
phát triển của LLSX ? Liên hệ sự vận dụng quy luật này với đất nước ta ?
Bài làm

a) Một số khái niệm:
- LLSX biểu hiện mối quan hệ con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất.
QHSX: biểu hiện mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình SXLLSX và

quan hệ sản xuất hợp thành phương thức sản xuất của xã hội.
- Phương thức sản xuất là cách thức mà con người dùng để làm ra của cải vật chất cho mình
trong một giai đoạn lịch sử nhất định với tự nhiên và có những quan hệ với nhau trong sản
xuất.
- Tính chất của LLSX: Là xét về tính chất của tư liệu sản xuất và của lao động. Có hai loại
tính chất của LLSX.
+ Tính chất cá nhân
+ Tính chất xã hội
- Trình độ của LLSX là trình độ phát triển của công cụ lao động, của kỹ thuật, trình độ kinh
nghiệm kỹ năng lao động của con người, quy mô sản xuất, trình độ phân công lao động xã hội
xét những yếu tố trên ta thấy:
+ LLSX có trình độ cao.
+ LLSX có trình độ thấp.
b) Phân tích quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX.
- Trước hết cần phải hiểu sự phù hợp của QHSX có nghĩa là LLSX có tính chất và trình độ
như thế nào thì QHSX cũng có tính chất lượng đó là thống nhất biện chứng có chứa đựng mâu
thuẫn tiêu chí của sự phù hợp này là năng suất lao động tăng. LLSX phát triển đảm bảo nhưng
điều kiện về xã hội và môi trường.
Thứ nhất: QHSX được hình thành biến đổi, phát triển đưa ảnh hưởng quyết định của LLSX.
+ LLSX là yếu tố luôn vận động và biến đổi trong quá trình lịch sử. Sự phát triển từ LLSX
bao giờ cũng được bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của công cụ lao động, của quá trình
phân công lao động. Nhưng giai đoạn khác nhau của sự phân công lao động cũng đồng thời là


×