Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

Đề Cương Thảo Luận TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.1 KB, 56 trang )

Họ và tên:
Môn học :TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.
Lớp
:

CÂU HỎI THẢO LUẬN
CÂU HỎI
Câu 1: Phân tích
khái

TRẢ LỜI
A. CHỦ ĐỀ : Khái niệm và Nguồn gốc của TTHCM; TTHCM về độc lập dân

niệm tộc gắn liền với CNXH.

TTHCM? Vì sao

B. TRỌNG TÂM: Các vấn đề cơ bản về TTHCM; Độc lập dân tộc, gắn liền với

độc lập dân tộc CNXH là nội dung cốt lõi trong TTHCM và việc vận dụng của ĐCSVN trong tình hình
gắn
CNXH
dung

liền

với hiện nay.

là

nội



C. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

cốt

lõi

1. Khái niệm về tư tưởng HCM

trong TTHCM?
Hiện

* Định nghĩa: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và

nay sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và

ĐCSVN đã vận phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và
dụng những nội phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân
dung này như loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về
thế nào? Liên hệ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
bản thân đồng thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ
chí?

của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn
dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hoá, không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng,
cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo,
vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân…Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường
cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng

và dân tộc ta”
* Giá trị của khái niệm:
- Bản chất cách mạng và khoa học thể hiện ở ba tính chất: hệ thống; toàn diện

1


và sâu sắc; cơ bản.
- Cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với chủ nghĩa Mác - Lênin và ý
nghĩa của những nguồn gốc khách quan đối với sự hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh.
- Thể hiện qua chín nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng
hiện nay của Đảng và nhân dân ta.
2. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là nội dung cốt lõi trong TTHCM.Bởi
vì:
a. Tính tất yếu của ĐLDT gắn liền với CNXH trong cách mạng Việt Nam
* Đòi hỏi khách quan của cách mạng Việt Nam từ đầu thế kỷ XX
- Chính sách xâm lược và thống trị tàn bạo của thực dân Pháp đối với nhân
dân và dân tộc Việt Nam
- Nhân dân Việt Nam muốn sống, không còn con đường nào khác ngoài con
đường làm cách mạng.
- Sự thất bại của các phong trào yêu nước Việt Nam theo mô hình độc lập dân
tộc gắn với phong kiến, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa tư bản đã cho thấy yêu
cầu khách quan của việc lựa chọn con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội.
* Kinh nghiệm cách mạng thế giới
- Tổng kết kinh nghiệm các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới và rút ra
bài học cho cách mạng Việt Nam; Tác phẩm “Đường cách mệnh” giới thiệu tính
chất, nội dung các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới: Cách mạng Mỹ 1776,

cách mạng Pháp 1789, cách mạng Nga 1917. Từ sự phân tích tính chất, nội dung
các cuộc cách mạng Mỹ, Pháp, Nguyễn Ái Quốc đi đến kết luận mang tính so sánh
với tiến tình vận động lịch sử: Mặc dầu có ý nghĩa to lớn trong tiến trình phát triển
của nhân loại, nhưng các cuộc cách mạng này vẫn là những cuộc cách mạng
“không đến nơi”, “không triệt để”. Trong quan niệm của Người, chỉ có cuộc cách

2


mạng tháng Mười Nga là cuộc cách mạng triệt để.
- Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu cách mạng vô sản: muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc, chỉ có thể đi theo con đường Cách mạng tháng Mười Nga, vừa giải
phóng nhân dân lao động, vừa giải phóng các dân tộc bị áp bức.
- Việc phân tích các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, đối chiếu với nhu
cầu khách quan của cách mạng Việt Nam: Độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc
cho nhân dân, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra bài học lớn: Dân tộc ta phải đi theo con
đường cách mạng tháng Mười Nga, tức là theo con đường cách mạng vô sản, con
đường ĐLDT gắn liền với CNXH.
* Chủ nghĩa Mác - Lênin soi đường cho cách mạng Việt Nam
- Nguyễn Ái Quốc từ người yêu nước trở thành người cộng sản.
- Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu lý luận cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác Lênin.
b. Nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐLDT gắn liền với CNXH
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐLDT, về cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt
Nam
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc: quyền dân tộc độc lập thật sự
gắn với quyền dân tộc tự quyết và tôn trọng quyền dân tộc độc lập, quyền dân tộc
tự quyết của các nước trong cộng đồng quốc tế.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam:
+ Phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
+ Phải tiến hành bằng bạo lực cách mạng của quần chúng.

+ Phải chủ động giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
+ Phải định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ngay từ đầu.
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội:
Là chế độ do nhân dân lao động làm chủ; một xã hội dân giàu, nước mạnh,
văn minh, hạnh phúc; một xã hội dân chủ, công bằng; các dân tộc trong nước đều

3


bình đẳng, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau; đoàn kết, hữu nghị, bình đẳng với các dân
tộc trên thế giới.
Là xã hội có nền kinh tế phát triển cao, lực lượng sản xuất hiện đại, khoa học,
kỹ thuật tiên tiến, chế độ công hữu.
Là xã hội có nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Là xã hội công bằng, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm
không hưởng; luôn nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; con
người sống có văn hóa, có đạo đức.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Việt Nam tất yếu đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của toàn dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo.
Mục tiêu, phương hướng: tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Biện pháp, cách
thức, bước đi: tiến dần từng bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Thường xuyên đổi mới, chỉnh đốn đảng cầm quyền là nhân tố quyết định
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
* Mối quan hệ giữa ĐLDT với CNXH ở Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí
Minh
- Độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội:
Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để mở đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Trong khi đấu tranh để giải phóng dân tộc, phải định hướng đi lên chủ nghĩa
xã hội.
- Chủ nghĩa xã hội với độc lập dân tộc:
Đi lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan sau khi giành được độc lập dân
tộc.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công là điều kiện quyết định thắng lợi cuối
cùng của cách mạng Việt Nam và bảo vệ vững chắc lâu dài nền độc lập dân tộc
nhưng phải xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc trưng Việt Nam.

4


* Những điều kiện cơ bản cho ĐLDT gắn liền với CNXH chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam
Xác lập, giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng.
Thiết lập mối liên minh công - nông - trí thức làm nền tảng xây dựng khối
đoàn kết toàn dân tộc.
Có nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Thường xuyên gắn bó cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới.
3. Việc vận dụng TTHCM về ĐLDT gắn liền với CNXH của ĐCSVN
a. Đổi mới là tiếp tục con đường cách mạng ĐLDT gắn liền với CNXH.
b. Điều kiện mới của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội hiện nay
c. Nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
Sự kiên định mục tiêu ĐLDT gắn liền với CNXH tiếp tục được Đảng ta thấu suốt
và thực hiện sáng tạo trong điều kiện đất nước thống nhất, hòa bình, cả nước đi lên
CNXH. Đây là thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam. Thời kỳ tiến hành công cuộc đổi
mới, CNH - HĐH, tạo ra sự biến đổi về chất trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm
thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng mà Đảng đã xác định: đổi
mới phải thực hiện thắng lợi 2 nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành công CNXH đi
đôi với bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đó chính là thực hiện ĐLDT gắn

liền với CNXH trong điều kiện lịch sử mới.
Để thực hiện được điều đó, Đảng ta đề ra mục tiêu cho thời kỳ này: phải xây
dựng được nền tảng cơ sở vật chất của CNXH, phấn đấu đến năm 2020, nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; với kiến trúc thượng tầng (chính
trị, tư tưởng, văn hóa,…) phù hợp. Đại hội XI của Đảng đề ra Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2011 - 2020; xác định phát triển nền KTTT định hướng XHCN với
nhiều thành phần kinh tế; trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Tích cực
hoàn thiện thể chế KTTT, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng
theo hướng nhanh, bền vững; thực hiện ba khâu đột phá chiến lược: hoàn thiện thể chế
kinh tế, phát triển nguồn nhân lực và xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ.
Cùng với đó, chú trọng tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại, phát triển văn

5


hóa… và kết hợp chặt chẽ các nhiệm vụ đó trong quá trình thực hiện.
Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường;
xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế diễn ra sâu rộng. Điều đó, tác động nhiều
chiều đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Bên cạnh đó, các
thế lực thù địch tiếp tục tăng cường hoạt động chống phá trên tất cả các lĩnh vực,
hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN ở nước ta. Những yếu tố
bên trong, bên ngoài đang tồn tại đan xen, vừa tạo cơ hội, vừa làm phát sinh thách
thức mới. Trong nội bộ, tệ quan liêu, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống là mầm mống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” không thể xem
thường. Vì thế, hơn bao giờ hết, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải kiên định
mục tiêu ĐLDT gắn với CNXH, thường xuyên nêu cao cảnh giác, chủ động ứng
phó có hiệu quả với mọi tình huống, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN…
Quán triệt toàn Đảng, toàn quân và toàn dân nắm vững, thấu suốt nội hàm của
ĐLDT và CNXH trong điều kiện mới. Đây là vấn đề rất quan trọng, làm cơ sở để xác

định nội dung và những bước đi phù hợp. ĐLDT phải được nhận thức một cách triệt để,
toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó, vấn đề tiên quyết, cơ
bản nhất là giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối chính trị của Đảng, bảo đảm con
đường đi lên CNXH của dân tộc ta không bị lệ thuộc vào bất cứ thế lực nào. Đường lối
đó phải trên cơ sở trung thành với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, được
vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam và trở thành nền tảng tư tưởng của
toàn xã hội. Sự kiên định lập trường đó trong sự nghiệp đổi mới phải bảo đảm cho đất
nước ta “đổi mới nhưng không đổi hướng”, “hội nhập nhưng không hòa tan” trong thế
giới “đa cực” với nhiều biến động phức tạp, nhanh chóng hiện nay. Triển khai thực hiện
hiệu quả trong toàn bộ cán bộ Đảng viên, công viên chức, người lao động, trong toàn
dân thực hiện hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI)và Chỉ thị số 03-CT/TW
ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị. Quán triệt những nội dung độc lập, tự chủ trên lĩnh
vực kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, văn hóa... Thống nhất nhận thức về ĐLDT
sẽ là cơ sở đảm bảo cho hành động đúng trong thực tiễn hoạt động xây dựng CNXH và
bảo vệ Tổ quốc XHCN trong thời kỳ mới.
Như vậy, ĐLDT và CNXH vừa là mục tiêu cơ bản của cách mạng, vừa là lợi
ích căn bản của quốc gia và là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta. Trải

6


qua 85 năm lãnh đạo Cách mạng Việt Nam và gần 30 năm lãnh đạo sự nghiệp đổi
mới theo con đường Cách mạng ĐLDT gắn liền CNXH của ĐCSVN đã tiếp tục
khẳng định và cho thấy đó là nhu cầu sống còn, là sự lựa chọn duy nhất đúng của
Cách mạng Việt Nam.
4. Liên hệ bản thân
Bản thân có lập trường tư tưởng vững vàng, luôn luôn trung thành với lý tưởng
cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu ĐLDT gắn liền với CNXH;
nghiêm túc thực hiện tốt việc Học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh.

Thường xuyên và nghiêm túc chấp hành chủ trương, chính sách pháp luật của
Nhà nước, tham gia tuyên truyền các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
trong nhân dân tại địa phương sinh sống.
Tham mưu cấp ủy, lãnh đạo Ban thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 03-CT/TW
ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị theo chủ đề từng năm; bản thân luôn nghiêm túc và
có kế hoạch thực hiện hiệu quả theo từng chuyên đề; gắn liền với thực hiện nhiệm vụ
chuyên môn chính trị-đoàn thể được giao.
Luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, chủ động ứng phó có hiệu quả với mọi tình
huống, diễn biến hòa bình của thế lực thù địch. Thực hiện hiệu quả việc kiểm điểm
phê bình và tự phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI)và Chỉ thị số 03CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị.
Có ý thức và trách nhiệm trong việc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về
tư tưởng chính trị, phai nhạt lý tưởng cánh mạng….Thực hiện tốt mọi nhiệm vụ
được giao, góp phần vào thực hiện nhiệm vụ phát triển KT-XH của đơn vị và địa
phương.
Câu 2: Nội dung


bản

CHỦ ĐỀ : TTHCM về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam; TTHCM về Nhà

của nước của dân, do dân, vì dân; TTHCM về Mặt trận và các đoàn thể quần chúng

TTHCM về xây (được thể hiện qua TTHCM về đại đoàn kết dân tộc)
dựng Đảng, Nhà

TRỌNG TÂM: Nội dung cơ bản của TTHCM về xây dựng Đảng, Nhà nước, Mặt

nước, Mặt trận trận - các đoàn thể quần chúng ở nước ta (được thể hiện qua TTHCM về đại đoàn kết


7


và các đoàn thể dân tộc) và việc vận dụng của ĐCSVN trong tình hình hiện nay.
quần

chúng

nước

ở
ta?

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Nội dung cơ bản của TTHCM về xây dựng Đảng và việc vận dụng tư

ĐCSVN đã vận tưởng của ĐCSVN
dụng tư tưởng

1.1. Nội dung cơ bản của TTHCM về xây dựng Đảng

này

* Đảng Cộng sản Việt Nam phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin “làm cốt”

như

thế

nào? Liên hệ bản

thân đồng chí?

- Trong cuốn Đường Kách mệnh, Hồ Chí Minh đã mở đầu bằng một câu của
Lênin: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động…chỉ có
theo lý luận cách mệnh tiền phong, Đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách
mệnh tiền phong”.Người cũng chỉ rõ: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm
nòng cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà
không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”.
- Người đã tìm thấy lý luận cách mạng tiền phong ở chủ nghĩa Lênin: “Bây
giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn
nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.
- Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin “làm nòng cốt” theo Hồ Chí Minh không có
nghĩa là giáo điều theo từng câu, từng chữ mà là nắm vững tinh thần của chủ nghĩa
Mác-Lênin, nắm vững lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa MácLênin, đồng thời thâu thái những tinh hoa của văn hóa dân tộc và nhân loại.
* Đảng Cộng sản Việt Nam phải được xây dựng theo những nguyên tác của
Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản
- V.I.Lênin đã đề ra những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới để phân biệt
với những Đảng cơ hội của Quốc tế II. Hồ Chí Minh đã tiếp thu những nguyên lý
xây dựng Đảng của V.I.Lênin, đề ra những nguyên tác xây dựng Đảng sau đây:
- Một là, nguyên tắc tập trung dân chủ
Đây là nguyên tắc cơ bản nhất để xây dựng Đảng cộng sản, không biến Đảng
thành một câu lạc bộ, Hồ Chí Minh gọi tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức của
Đảng.

8


Dân chủ và tập trung là hai mặt có quan hệ gắn bó và thống nhất với nhau
trong một nguyên tắc, dân chủ để đi đến tập trung, là cơ sở của tập trung; tập trung
trên cơ sở dân chủ, thep nguyên tắc thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phục

tùng cấp trên, mọi đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Từ
đó làm cho “Đảng ta tuy nhiều người nhưng khi tiền đánh thì chỉ như một người”.
Về dân chủ, Người viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự
do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình,
góp phần tìm ra chân lý. Đó cũng là một quyền lợi và cũng là một nghĩa vụ của
một người.
Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc ấy, quyền tự do tư
tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý.”
Người đặc biệt nhấn mạnh đến việc thực hiện và phát huy dân chủ nội bộ, vì
có dân chủ trong Đảng mới có thể nói đến dân chủ trong xã hội, mới định hướng
cho việc xây dựng một chế độ dân chủ triệu lần dân chủ hơn chế độ tư bản chủ
nghĩa.
- Hai là, nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Theo Hồ Chí Minh, đây là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng. Nhiều người thì
nhiều kiến thức, người thấy mặt này, người thấy mặt kia, do dó hiểu được mọi mặt,
mọi vấn đề. Việc gì đã được tập thể bàn bạc kỹ lưỡng, kế hoạch đã được định rõ thì
cần giao cho một người phụ trách, như thế công việc mới chạy, như thế mới tránh
được thói dựa dẫm, người này ỷ vào người kia, ỷ lại vào tập thể. Không xác định rõ
cá nhân phụ trách, thì giống như “nhiều sãi không ai đóng cửa chùa”.
Người kết luận: “Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc
đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái
tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc. Tập thể lãnh đạo và
cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau”
Về vấn đề tập trung dân chủ, Người giải thích: “Tập thể lãnh đạo là dân chủ;
Cá nhân phụ trách là tập trung; Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách tức là dân chủ

9


tập trung”

- Ba là, nguyên tắc tự phê bình và phê bình
Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, là quy luật phát triển
của Đảng. Người nhấn mạnh: “Muốn đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, ắt phải thống
nhất tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình”.
Người xem tự phê bình và phê bình là vũ khí để rèn luyện đảng viên, nhằm
làm cho mỗi người tốt hơn, tiến bộ hơn và tăng cường đoàn kết nội bộ hơn.
Tự phê bình và phê bình là vũ khí để nâng cao trình độ của Đảng, để Đảng
làm tròn sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, làm tròn trách nhiệm trước giai cấp và dân
tộc. Người nói: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng.
Một Đảng có gan từa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó… là một
Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chân chính”
Tự phê bình và phê bình không những là một vấn đề của khoa học cách mạng, mà
còn là của nghệ thuật. Người lưu ý cán bộ, đảng viên và các cấp bộ Đảng từ trên xuống
dưới phải “luôn luôn dùng và khéo dùng cách phê bình và tự phê bình”. Mỗi người phải
trung thực, chân thành với bản thân mình cũng như với người khác, “phải có tình đồng
chí thường yêu lẫn nhau”.
- Bốn là, nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh và tự giác
Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng một kỷ luật nghiêm minh và tự giác
trong Đảng để tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng: “Sức mạnh vô địch của Đảng là
ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm minh của cán bộ, đảng viên.”
Theo Hồ Chí Minh nghiêm minh là thuộc về tổ chức Đảng, tự giác là thuộc về
mỗi cá nhân cá bộ, đảng viên đối với Đảng. Hồ Chí Minh nói: “Kỷ luật này lá do
lòng tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với Đảng”
- Yêu cầu cao nhất của kỷ luật Đảng là chấp hành các chủ trương, nghị quyết của
Đảng và tuân thủ các nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và sinh hoạt Đảng, các nguyên tắc
xây dựng Đảng.
Mỗi đảng viên dù ở cương vị nào, mỗi cấp ủy dù ở cấp bộ nào cũng phải

10



nghiêm túc kỷ luật của các đoàn thể và pháp luật của Nhà nước, tuyệt đối không ai
được cho phép mình coi thường, thậm chí đứng trên tất cả. Về vấn đề này, Hồ Chí
Minh đã nhấn mạnh: “Mỗi đảng viên cần phải làm kiểu mẫu phục tùng kỷ luật,
chẳng những kỷ luật của Đảng, mà cả kỷ luật của các đoàn thể nhân dân và của cơ
quan chính quyền cách mạng”
- Năm là, nguyên tắc đoàn kết, thống nhất trong Đảng
Hồ Chí Minh khẳng định, đoàn kết thống nhất của Đảng là một nguyên tắc
quan trọng của Đảng kiểu mới của Lênin. Xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong
Đảng để làm nòng cốt cho việc xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong nhân dân,
xây dựng nên khối đoàn kết vững chắc, đảm bảo cho việc giành được những thắng
lợi ngày càng to lớn hơn.
Hồ Chí Minh coi giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng là nhiệm vụ của
toàn Đảng. Trong di chúc, Người viết: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý
báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải
giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”
Cơ sở để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng chính là đường lối,
quan điểm của Đảng và Điều lệ Đảng. Nếu xa rời cơ sở này sẽ xuất hiện những
nguy cơ phá hoại đoàn kết thống nhất từ bên trong.
Củng cố và tăng cường sự đoàn kết thống nhất đối với cán bộ lãnh đạo có ảnh
hưởng đến sự đoàn kết thống nhất của nhiều cán bộ, đảng viên, đến toàn Đảng. Về
vấn đề này, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Ngày nay, sự đoàn kết trong Đảng là
quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo”.
Để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, Người yêu cầu: phải thực hiện
và mở rộng dân chủ nội bộ; phải thường xuyên thực hiện phê bình và tự phê bình; phải
thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân với bao nhiêu
thứ tệ nạn từ chủ nghĩa cá nhân mà ra - tham ô, lãng phí, quan liêu, cơ hội, dối trá,
chạy theo chức quyền, danh lợi.
* Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành của nhân dân.


11


Phải thường xuyên chăm lo củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và dân
Từ khi Đảng ra đời, do có đường lối đúng đắn và có sự gắn bó máu thịt với
nhân dân, Đảng đã được nhân dân thừa nhân là Đảng duy nhất có vai trò lãnh đạo
cách mạng Việt Nam và trong suốt tiến trình đi lên của cách mạng Việt Nam, Đảng
ta hoàn toàn xứng đáng với sự tin cậy ấy. Năm 1960, Người nói: “Với tất cả sự
khiêm tốn của một người cộng sản, chúng ta có thể tự hào rằng, Đảng ta vĩ đại
thật”.
Trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, theo Hồ Chí Minh, Đảng phải vừa là
người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Hai mặt lãnh đạo
và đầy tớ không tách rời nhau, không đối lập nhau. Người nhấn mạnh: Lãnh đạo có
nghĩa là làm đầy tớ.
Đảng cầm quyền lại càng phải ý thức thật sâu sắc mình là đầy tớ nhân dân, chứ
không phải người chủ của nhân dân, tự cho phép mình đứng trên dân, trên Nhà nước,
trên pháp luật. Đảng lãnh đạo Nhà nước là nhằm xây dựng một Nhà nước thực sự của
dân, do dân và vì dân.
Là đầy tớ trung thành của nhân dân, Đảng không có quyền lợi gì của riêng
mình, ngoài quyền lợi của giai cấp, của dân tộc.
* Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới
- Chỉnh đốn và đổi mới là nhằm làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh
cả về ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên
không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực trước những yêu cầu và nhiệm vụ
cách mạng.
- Hồ Chí Minh nhận định, bên cạnh số đông đảng viên xứng đáng với danh
hiệu của mình, thì vẫn có một số “thấp kém về tinh thần và đạo đức cách mạng…
họ tự cho mình có quyền sống xa hoa hưởng lạc, từ đó mà đi đến tham ô, trụy lạc,
thậm chí sa vào tội lỗi”. Hồ Chí Minh đã nêu lên một luận điểm quan trọng: “Một
dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn,

không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi,

12


nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Vì vậy, phải
chỉnh đốn để sửa chữa những lỗi lầm, sai trái ấy.
- Đối với toàn Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên đều chịu những ảnh hưởng của xã
hội, cả cái tốt và cái xấu, cái hay và cái dở. Chỉ có thể phát huy được cái tốt, cái
hay, lọc bỏ được được cái xấu, cái dở bằng việc rèn luyện thường xuyên của mỗi
cán bộ, đảng viên, thường xuyên chú ý đến việc chỉnh đốn Đảng.
- Trong điều kiện Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh coi việc
xây dựng đảng, chỉnh đốn Đảng là công việc thường xuyên của Đảng. Người nhìn
thấy rõ hai mặt của quyền lực: một mặt, quyền lực có sức mạnh rất to lớn để cải tạo
cái cũ và xây dựng cái mới trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nếu biết
sử dụng đúng quyền lực; mặt khác, nó cũng có sức phá hoại rất ghê gớm vì con
người nắm quyền lực có thể thoái hóa, biến chất rất nhanh chóng, nếu đi vào con
đường tham muốn quyền lực, chạy theo quyền lực, tranh giành quyền lực, và khi
đã có quyền lực thì lợi dụng quyền lực, lạm quyền, lộng quyền, đặc quyền, đặc
lợi… Vì vậy, trong điều kiện đảng lãnh đạo chính quyền, Đảng phải đặc biệt quan
tâm đến việc chỉnh đốn và đồi mới Đảng để hạn chế, ngăn chặn, đẩy lùi và tẩy trừ
mọi tệ nạn do thoái hoá biến chất gây ra.
- Trước lúc đi xa, Người còn để lại những lời tâm huyết, căn dặn toàn Đảng:
“Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn
viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn
ý phục vụ nhân dân”
Những luận điểm trên đây về công tác xây dựng Đảng của Hồ Chí Minh thực
sự là một chân lý, phản ánh đúng thực tiễn và đã được thực tiễn kiểm nghiệm,
khôngphải chỉ từ thực tiễn nước ta, mà còn ở nhiều nơi trên thế giới, có ý nghĩa rất
sâu xa đối với Đảng Cộng sản, đối với mỗi đảng viên cộng sản. Nghị quyết Trung

ương 6 (lần 2) khoá VIII về xây dựng chỉnh đốn Đảng, Nghị quyết Đại hội IX và
Nghị quyết TW 4 khóa XI đang được toàn Đảng triển khai hiện nay là những việc
làm thiết thực để thực hiện những di huấn của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong

13


tình hình mới.
1.2. Việc vận dụng TTHCM về xây dựng, chỉnh đốn Đảng của ĐCSVN
* Xây dựng, chỉnh đốn Đảng để Đảng thật sự là đạo đức, là văn minh
“Đảng là đạo đức, là văn minh” là cách nói khác về phẩm chất và năng lực của
Đảng và toàn thể cán bộ, đảng viên, là yêu cầu đặt ra đối với Đảng ở mọi thời kỳ, song
trong điều kiện Đảng cầm quyền, trong hội nhập kinh tế thế giới, phải coi trọng và
nhấn mạnh hơn nhiều”.
Nguy cơ lớn nhất đối với Đảng hiên nay là nguy cơ từ bên trong do mặt trái
của quyền lực gây ra, nếu quyền lực có sức mạnh to lớn trong xây dựng xã hội
mới, thì mặt trái của nó sẽ làm tha hóa con người, thậm chí tha hóa cả một Đảng
cầm quyền. Con người mà không giữ được cái gốc là đạo đức cách mạng sẽ dẫn tới
tham nhũng, lạm quyền, lộng quyền, hà hiếp, áp bức dân, tranh giành quyền lực
gây bè phái, phá hoại sự đoàn kết của Đảng; đe dọa sự tồn vong của một Đảng cầm
quyền.
Theo HCM, để xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh trong điều kiện Đảng
cầm quyền, tất yếu và thường xuyên phải tiến hành xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Về
vấn đề này, HCM đã từng nói: “Phải chỉnh đốn nội bộ Đảng… Đảng ví như cái máy
phát điện, các công việc trên ví như những ngọn đèn, máy mạnh thì đèn sáng”; “Đảng
là đội tiên phong của giai cấp và dân tộc. Để làm tròn nhiệm vụ kháng chiến và kiến
quốc, Đảng phải mạnh, toàn Đảng tư tưởng phải nhất trí, hành động phải nhất trí”; và
trong bản Di chúc, Người nhấn mạnh: “Việc phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng,
làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng
giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ Nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công

việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”…
Trong đổi mới tổ chức và hoạt động của cả HTCT, chúng ta đã coi trọng xây
dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực và hiệu
quả lãnh đạo đối với toàn bộ HTCT và cả xã hội. Đảng phải thường xuyên tự đổi
mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ và năng lực lãnh đạo, trên tinh

14


thần: Xác định đúng mục đích xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng, giữ vững và nâng
cao năng lực hiệu quả, uy tín lãnh đạo xã hội về mọi mặt của Đảng; Xác định đúng
chức năng của Đảng trong sự lãnh đạo xã hội về mọi mặt. Xác định đúng phương
thức lãnh đạo của Đảng chủ yếu bằng hệ tư tưởng, lý luận, đường lối, chủ trương,
và xác định đúng phương pháp lãnh đạo tuyên truyền, giáo dục thuyết phục, kiểm
tra và nêu gương của cán bộ, đảng viên, của tổ chức Đảng.
Đảng thật sự là đạo đức, là văn minh để trực tiếp đấu tranh vượt qua 4 nguy cơ
hiện nay như trước Đại hội X xác định, đó là tụt hậu về kinh tế; chệch hướng XHCN;
tham nhũng quan liêu; diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch, đến Đại Hội X đã
trở thành 4 thách thức. Nguy cơ là cái cần đề phòng hoặc đẩy lùi, thách thức là cái
hiện có phải vượt qua. Và để vượt qua các thách thức đó, vừa chăm lo công tác cán
bộ, không còn con đường nào khác là phải làm cho Đảng thật sự là đạo đức, văn
minh, cán bộ đảng viên phải học: học và làm theo tấm gương đạo đức HCM (theo
Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị); học làm đầy tớ dân; học cách sống chung với
tư bản để chiến thắng tư sản. Phải thực hiện tốt phương châm: xây dựng Đảng là
then chốt, phát triển kinh tế là trọng tâm, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của
xã hội. Tổ chức Đảng, đảng viên phải nghiêm tục thực hiện các Nghị quyết Trung
ương về xây dựng Đảng, đặc biệt là thực hiện Nghị quyết Trung ương 4-khóa XI
“Một số vấn đề cấp bách về XD Đảng hiện nay”...
* Xây dựng Đảng trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức
Thấm nhuần tư tưởng HCM phải thể hiện ở việc xây dựng Đảng về chính trị:

phải đề ra được đường lối đúng đắn, tổ chức thực hiện thắng lợi đường lói chính trị.
Đường lối của Đảng phải dựa trên cơ sở những quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lê
Nin, tư tưởng HCM, đồng thời còn dựa trên cơ sở thực tiễn của đất nước trong từng
thời kỳ và đường lối đó phải có khả năng thực thi, phải được vận dụng sâu sắc, sáng
tạo vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Trong tình hình thực tế vô cùng phong phú và
trong cơ chế thị trường định hướng XHCN, đòi hỏi Đảng phải luôn luôn tổng kết để
hoạch định đường lối một cách đúng đắn, tránh sai lầm về đường lối.

15


Sức mạnh của ĐCS Việt Nam còn ở lĩnh vực tư tưởng: xây dựng Đảng ta về
tư tưởng vẫn là vấn đề cấp thiết đặt ra. Đảng phải là một khối thống nhất về tư
tưởng và hành động. Toàn Đảng, từ TW đến cơ sở, mọi cán bộ, đảng viên phải kiên
định lập trường, không hoang mang, dao động, phải kiên định mục tiêu và lý tưởng
của mình. Trong tình hình mới hiện nay, trước nhiều thách thức và nguy cơ mới,
Đảng cần tiếp tục kiên định lập trường nhằm nâng cao tinh thần tách nhiệm lãnh
đạo đất nước thực hiện thành công xây dựng CNXH, đáp ứng lòng mong mỏi của
Chủ tịch HCM.
Đảng mạnh là do tổ chức mạnh. Xây dựng Đảng ta vững mạnh, xứng đáng
là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại diện trung thành cho lợi ích của giai
cấp công nhân, NDLĐ và toàn dân tộc; muốn vậy Đảng phải được tổ chức chặt
chẽ và hoạt động theo nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng như nguyên tắc tập
trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thường xuyên tự phê bình và
phê bình, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng. Mọi sự chia rẽ, bè phái, buông
lỏng kỷ luật đều trái với bản chất Đảng. Toàn Đảng là một khối đoàn kết thống
nhất, đó là truyền thống tốt đẹp của Đảng ta, là sinh mệnh của Đảng, là nguồn sức
mạnh của Đảng. Đảng phải vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật sự
trung thành của nhân dân, đấu tranh chống lại các nguy cơ; phải đổi mới phương
thức lãnh đạo của mình với Nhà nước và các đoàn thể để vừa đảm bảo sự lãnh

đạo của Đảng cầm quyền trong HTCT.
Trên tinh thần “Xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính
trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng là
nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta hiện nay”, và nhất là “chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên
trong sạch, có phẩm chất, có năng lực, có sức chiến đấu cao theo tấm gương đạo
đức HCM” theo tinh thần Đại hội Đảng lần thứ XI, mỗi cán bộ đảng viên của Đảng
“phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức,
lối sống; kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”

16


của các thế lực thù địch; phê phán, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”. Giữ gìn
sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng”.
1.3. Liên hệ bản thân
Để công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng trong điều kiện hiện nay đúng với tinh
thần những lời chỉ dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đúng với tinh thần của Nghị
quyết TW 4 khóa XI của Đảng mới ban hành, theo tôi:
Trước hết phải thấm nhuần sâu sắc hơn nữa những lời chỉ dạy tận tình của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng.
Cần khắc phục những điều chưa đạt những yêu cầu đặt ra trong việc thực hiện
cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Hội nghị TW 6 (lần 2)
Khóa VIII; Nghị quyết TW 4 khóa XI và Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị .
Trong điều kiện hiện nay phải kiên quyết khắc phục được những hạn chế, yếu
kém trong công tác xây dựng Đảng, bắt đầu từ việc tự phê bình và phê bình một
cách dân chủ. Những người đứng đầu cấp ủy, tổ chức Đảng, các đảng viên cần tự
giác gương mẫu làm trước tự phê bình, kiểm điểm, đấu tranh mạnh mẽ chống chủ
nghĩa cá nhân, thói ích kỷ, vụ lợi, tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, xử lý nghiêm những hành vi vi phạm kỷ luật

của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Thực hiện nghiêm túc công tác cán bộ và các vấn đề, trên cơ sở thực hiện
nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng, các quy định của pháp luật, dựa vào sự
giám sát, giúp đỡ của nhân dân và phát huy trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên
và tổ chức Đảng.
2. Nội dung cơ bản của TTHCM về Nhà nước của dân, do dân và vì dân; sự
vận dụng của Đảng ta
2.1 Nội dung cơ bản của TTHCM về Nhà nước của dân, do dân và vì dân
a. Quan niệm của HCM về Nhà nước của dân, do dân, vì dân
* Nhà nước của dân
HCM chỉ đạo xây dựng Nhà nước, cơ quan quyền lực Nhà nước phải là của

17


dân, do dân là chủ. Theo HCM, nhà nước kiểu mới trước hết phải là nhà nước của
cả dân tộc, tiêu biểu cho khối đại đoàn kết dân tộc, tập hợp được đội ngũ cán bộ,
công chức, công chức có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, tài năng tham gia vào
công cuộc xây dựng nhà nước.
HCM đã cùng Đảng, cùng dân xây dựng “Nhà nước dân chủ, quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân”. Nhà nước ta là nhà nước dân chủ, bản chất của Nhà nước là của
giai cấp công nhân.
Trong TTHCM, Nhà nước của dân là Nhà nước trong đó nhân dân là chủ; dân
là người có địa vị cao nhất, có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất của
đất nước, của dân tộc. HCM nhiều lần khẳng định: Nước ta là nước dân chủ, địa vị
cao nhất là dân, vì dân là chủ; bao nhiêu quyền hạn là của dân; quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân. Trong Nhà nước ta, toàn bộ quyền lực đều thuộc về nhân dân.
Trong nhà nước ta, dân là chủ thể của quyền lực thì người cầm quyền, CBCC
nhà nước chỉ là người được ủy quyền, được nhân dân trao quyền gánh vác, giải
quyết những công việc chung của đất nước. HCM gọi người cầm quyền, CBCC

nhà nước là “đầy tơ”, “công bộc” của dân.
* Nhà nước do dân
Theo HCM, nhà nước do dân là dân làm chủ Nhà nước; Nhà nước phải tin
dân và dựa vào dân. Nội dung quyền làm chủ Nhà nước của dân rất rộng, trước hết
thể hiện ở chỗ: nhân dân là người tổ chức nên các CQNN từ TW đến địa phương
thông qua thực hiện chế độ tổng tuyển cử phổ thông, trực tiếp, bỏ phiếu kín bầu
các đại biểu xứng đáng vào các cơ quan quyền lực Nhà nước…
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quyền lực tối cao của nhân dân không chỉ thể
hiện ở việc bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, mà còn ở quyền bãi
miễn, kiểm soát, giám sát hoạt động của các đại biểu. Cơ chế dân chủ này nhằm
làm cho Quốc hội được trong sạch, giữ được phẩm chất, năng lực hoạt động. Hồ
Chí Minh nêu rõ: “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của
nhân dân”
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước của dân, do nhân dân làm chủ còn
bao hàm một nội dung quan trọng khác đó là nhân dân có quyền kiểm soát Nhà
nước.

18


Là người làm chủ Nhà nước, nhân dân có quyền, thông qua cơ chế dân chủ thực
thi quyền lực, nhưng đồng thời nhân dân phải có nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Nhà
nước, làm cho Nhà nước ngày càng hoàn thiện, trong sạch, vững mạnh. Hồ Chí Minh
luôn đòi hỏi với tư cách là chủ nhân của một nước độc lập, tự do, quyền và nghĩa vụ
công dân gắn bó chặt chẽ với nhau.
* Nhà nước vì dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước dân chủ nhân dân là Nhà nước phục
vụ nhân dân, đem lại lợi ích cho dân. Mọi hoạt động của chính quyền phải nhằm
mục tiêu mang lại quyền lợi cho nhân dân và lấy con người là mục tiêu phấn đấu

lâu dài.
Người nêu rõ: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân,
ta phải hết sức tránh”; đồng thời thường xuyên căn dặn cán bộ phải quan tâm đến
những kiến nghị, đề đạt của nhân dân.
Trách nhiệm của Nhà nước trước hết là thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu của nhân
dân: “Làm cho dân có ăn; Làm cho dân có mặc; Làm cho dân có chỗ ở; Làm cho dân
có học hành.Cái mục đích chúng ta đi đến là 4 điều đó. Đi đến để dân nước ta xứng
đáng với tự do độc lập và giúp sức được cho tự do độc lập” . Theo Người việc đáp
ứng và thỏa mãn nhu cầu, lợi ích của nhân dân là tiêu chí số một để đánh giá hiệu quả
năng lực hoạt động của nhà nước.
Theo Hồ Chí Minh, nguy hại nhất là khi được nhân dân ủy quyền, một số cán
bộ, công chức kéo bè, kéo cánh để thu vén lợi ích cá nhân. Vì ích kỷ, chủ nghĩa cá
nhân mà trong bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương đã nảy sinh những
“lỗi lầm rất nặng” làm biến dạng nhà nước. Hồ Chí Minh sớm cảnh báo những căn
bệnh khá phổ biến, đó là trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo.
Người gọi đó là “giặc nội xâm” hết sức nguy hiểm và gây hậu họa nghiêm trọng,
làm thất thoát tiền của nhà nước, chậm tốc độ phát triển, nhất là làm xói mòn niềm
tin của dân, làm cho dân xa nhà nước. Vì thế, chống đặc quyền, đặc lợi, khắc phục
những tiêu cực trong bộ máy nhà nước là nhu cầu và việc làm thường xuyên, đảm
bảo cho nhà nước thật sự là công bộc của dân.
b. Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước Việt Nam
Quan niệm Hồ Chí Minh về bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước Việt
Nam kiểu mới là sự vận dụng, phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin về nhà

19


nước và nhà nước chuyên chính vô sản.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, để đảm bảo và giữ vững bản chất giai cấp công
nhân của nhà nước, cần quán triệt những vấn đề có tính nguyên tắc sau.

Xây dựng, tổ chức và hoàn thiện chính quyền nhà nước phải trên cơ sở các
nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước, nhà nước chuyên
chính vô sản, áp dụng vào điều kiện, đặc điểm nước ta để có hình thức và cơ chế
vận hành thích hợp.
Xác lập và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với nhà nước.
Đây là vấn đề có tính nguyên tắc số một bảo đảm bản chất giai cấp công nhân của
nhà nước.
Thiết chế, tổ chức và hoạt động của Nhà nước phải theo nguyên tắc tập trung
dân chủ. Nguyên tắc này bảo đảm bản chất giai cấp công nhân và là nguyên tắc tổ
chức đặc thù của nhà nước kiểu mới.
Cơ sở xã hội của Nhà nước là khối địa đoàn kết dân tộc, khối đại đoàn kết
toàn dân mà nòng cốt là liên minh công-nông-trí.
Nhà nước ta được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc quyền lực Nhà nước
là thống nhất, nhưng trong tổ chức, hoạt động có sự phân công rành mạch về chức
năng, nhiệm vụ giữa quyền lập-hành-tư pháp.
Nhà nước điều hành, quản lý xã hội bằng pháp luật mà pháp luật đại biểu cho
ý chí, nguyện vọng, lợi ích của giai cấp công nhân và đông đảo quần chúng lao
động.
Thực hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề có tính nguyên tắc trên đây sẽ duy
trì và bảo đảm bản chất giai cấp công nhân của nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngày nay, những nguyên tắc cơ bản đó vẫn chỉ đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam.
c. Quan điểm của HCM về Nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền trước hết phải là một nhà nước hợp pháp và hợp hiến,
được nhân dân tổ chức nên thông qua tổng tuyển cử, được xây dựng và hoạt động
theo các nguyên tắc của Hiến pháp.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà mọi người được tôn trọng, dân chủ được
mở rộng, người dân sống và làm việc theo luật định. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước

20



phải thể hiện được việc điều hành và quản lý xã hội bằng pháp luật.
Mọi quan hệ xã hội, mọi lĩnh vực của đời sống đều chịu sự chi phối của pháp luật.
Pháp luật là cơ sở đảm bảo thực hiện các quyền tự do, dân chủ, quyền làm chủ của nhân
dân.
Pháp quyền là phương tiện, còn hiệu quả quản lý xã hội làm cho đất nước ngày
càng tăng tưởng, chính trị ổn định, kinh tế phát triển, đời sống nhân dân ngày càng cao.
Theo HCM, luật pháp của ta phải dựa vào lực lượng nhân dân, lực lượng lao động
làm nền tảng để xây dựng Nhà nước, xây dựng xã hội. Dó là nội dung quyết định bản
chất luật pháp của Nhà nước ta và luật pháp của chúng ta dựa vào đó để xây dựng.
Hồ Chí Minh quan tâm rất sớm đến vai trò của luật pháp trong điều hành và
quản lý xã hội. Người đã kết hợp chặt chẽ việc quản lý, điều hành xã hội bằng pháp
luật với việc tuyên truyền, giáo dục đạo đức cách mạng, nâng cao bản lĩnh công
dân cho cán bộ và nhân dân. Pháp luật và đạo đức đều dùng để điều chỉnh hành vi
của con người, nâng con người lên, hướng con người tới chân, thiện, mỹ.
d. Về vấn đề xây dựng bộ máy, CBCC nhà nước
* Xây dựng bộ máy nhà nước
Hồ Chí Minh quan niệm bộ máy nhà nước là một hệ thống bao gồm nhiều bộ
phận gắn chặt, liên kết, ràng buộc và thúc đẩy lẫn nhau, nhưng mỗi bộ phận lại có
một vị trí riêng, có tính độc lập tương đối. Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề
thiết kế và xây dựng một nhà nước pháp quyền: mạnh mẽ, sáng suốt, hoạt động vì
lợi ích của nhân dân.
Nguyên tắc chung xây dựng bộ máy nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh
bao gồm:
Xây dựng Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước. Quốc hội
giải quyết những vấn đề chung cho toàn quốc, xây dựng hiến pháp, pháp luật....
Xây dựng một Chính phủ mạnh, hoạt động có hiệu quả. Chính phủ là cơ quan
hành pháp cao nhất của Nhà nước, hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật, là
trung tâm đầu não điều chỉnh mọi hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước.

Xây dựng một bộ máy tư pháp có tính độc lập tương đối, dân chủ, hiện đại,
xét xử công bằng theo Luật và lương tâm người xử án.
Xây dựng một nền hành chính hiện đại từ trung ương đến địa phương và cơ

21


sở.
* Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước
Trong công cuộc xây dựng bộ máy nhà nước và nền hành chính, Hồ Chí
Minh đặc biệt coi trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ công chức. Theo Người,
“cán bộ là nguồn vốn của Nhà nước”, là cái gốc của mọi công việc; công việc
thành công hay thất bại do cán bộ quyết định. Vì thế, chất lượng, năng lực, hiệu lực
của Nhà nước phụ thuộc một phần lớn vào chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.
HCM có một quan niệm nhất quán, chuẩn xác hiện đại về cán bộ công chức
nhà nước, đồng thời Người xác định xác định rõ tính cách chuyên nghiệp của công
chức theo chế độ chức nghiệp; đã xây dựng hệ tiêu chuẩn đối với đội ngũ cán bộ,
công chức nhà nước; xây dựng quy chế khung thi tuyển cán bộ, công chức nhà
nước.
Theo Hồ Chí Minh, cán bộ công chức nhà nước vừa có đức, vừa có tài, vừa
hồng, vừa chuyên, nhưng đức phải là gốc. Cán bộ công chức nhà nước phải có đủ
các đức tính: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, có tri thức và học thức, nắm
vững lý luận, sâu sát thực tế, có lý trí vững chắc, tình cảm trong sáng, kết hợp
nhuần nhuyễn giữa chính trị và khoa học, chấp hành đúng pháp luật. Nắm vững
pháp luật và vận dụng nhuần nhuyễn luật pháp để giải quyết đúng công việc hàng
ngày là đòi hỏi không thể thiếu đối với cán bộ, công chức.
Đối với cán bộ lãnh đạo, Hồ Chí Minh yêu cầu phải biết người, biết dùng
người, tạo điều kiện cho nhân viên phát huy được tài năng và phẩm chất của mình.
Hồ Chí Minh có yêu cầu rất cao đối với đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.
Đội ngũ này phải mang tính chuyên nghiệp và được tiêu chuẩn hóa. Để đạt mục

tiêu đó, Người đã xây dựng một chế độ thi tuyển cán bộ, công chức vào các ngạch,
bậc của ngành hành chính.
Chế độ thi tuyển cán bộ, công chức do Hồ Chí Minh khởi xướng thể hiện một
cách rõ nét tư tưởng chính quy, hiện đại, dân chủ, công khai, công bằng, bình đẳng
xã hội, không có đặc quyền đặc lợi.
2.2. Việc vận dụng TTHCM về Nhà nước của dân, do dân và vì dân
a. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước - cơ sở lý luận xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay

22


b. Nội dung và phương hướng vận dụng
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm của nhiều nước
trên thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rất rõ phương hướng đổi mới Nhà
nước hiện nay, đó là đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy
dân chủ, tăng cường pháp chế. Phương hướng chung, khái quát này được cụ thể hoá
thành các nội dung chính sau đây:
- Đảm bảo trên thực tế Nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân, từng bước xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền của
dân, do dân, vì dân.
- Tiến hành cải cách thể chế, phương thức hoạt động của Nhà nước một cách
đồng bộ, bao gồm cả cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, đẩy mạnh việc thực thi nghiêm chỉnh pháp
luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Kiên quyết đấu tranh chống tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
- Xây dựng đội ngũ công chức vững mạnh, trong sạch, có đạo đức, phẩm chất, có
năng lực.
- Giải quyết đúng đắn quan hệ giữa sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà
nước, quyền làm chủ của nhân dân, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với

Nhà nước.
- Củng cố, tăng cường cơ sở xã hội của Nhà nước là khối đại đoàn kết toàn
dân mà nòng cốt là liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức...
2.3. Liên hệ bản thân: Trong thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao; trong
quá trình tiếp xúc với người dân để thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao; trong
thực hiện quyền và nghĩa vụ của người CBCC
3. Nội dung cơ bản của TTHCM về Mặt trận và các đoàn thể quần chúng (thể
hiện qua đại đoàn kết dân tộc).
3.1. Nội dung cơ bản của TTHCM về đại đoàn kết dân tộc
Theo quan niệm của HCM, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân
đông đảo, mà không phải là công việc của một số người, của riêng Đảng Cộng sản.
Đảng lãnh đạo để nhân dân đứng lên đấu tranh tự giải phóng và xây dựng xã hội

23


mới. Sự nghiệp ấy chỉ có thể thực hiện được bằng sức mạnh của cả dân tộc, bằng
đại đoàn kết dân tộc. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc và việc xây dựng khối đại đoàn
kết dân tộc của HCM là một cống hiến đặc sắc, có giá trị lý luận và giá trị thực tiễn
hết sức quan trọng.
Những quan điểm cơ bản của HCM về ĐĐKDT, thể hiện ở các nội dung sau:
a. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành
công của cách mạng, chứ không phải là vấn đề có ý nghĩa sách lược. HCM
thường nhấn mạnh: “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”, “Đoàn kết,
đoàn kết, đại đoàn kết - thành công, thành công, đại thành công”. Đoàn kết là
điểm mẹ, “điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt…”; “Đoàn kết là
một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị”. Điều đó nói rõ
rằng, đoàn kết là vấn đề sống còn của cách mạng. Nếu có khác chăng là ở những
thời kỳ cách mạng khác nhau cần có phương pháp tổ chức, bố trí lực lượng cho
phù hợpvới những yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể của thời kỳ đó.

b. Đại đoàn kết không chỉ là phương pháp tập hợp, tổ chức lực lượng cách
mạng, mà cao hơn, đó là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng (đại đoàn kết là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cả đường lối, chủ
trương của Đảng).
HCM khẳng định, mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể tóm gọn trong 8
chữ “Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”. Điều đó đòi hỏi Đảng phải xây dựng được
một đường lối chiến lược khoa học, phù hợp với nguyện vọng, quyền lợi của đại đa số
dân chúng để thu hút và phát huy triệt để sức mạnh của quần chúng vào sự nghiệp đấu
tranh cách mạng.
Đại đoàn kết dân tộc là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng.
Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, chuyển những đòi hỏi khách quan, tự
phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực, có tổ chức, thành sức
mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh
phúc cho con người.

24


c. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
HCM đã dùng khái niệm đại đoàn kết dân tộc để định hướng cho việc xây
dựng khối đoàn kết toàn dân trong suốt tiến trình của cách mạng Việt Nam. Nói
đến đại đoàn kết dân tộc cũng có nghĩa là phải tập hợp được mọi người dân vào
một khối trong cuộc đấu tranh chung. Muốn thực hiện được đại đoàn kết toàn dân
thì phải kế thừa truyền thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc, phải có
tấm lòng khoan dung, độ lượng với con người.
Để thực hiện được đoàn kết, Người căn dặn “Cần xóa bỏ hết thành kiến, cần
phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ để phục vụ nhân dân”.
Người đã xác định nền tảng của khối đoàn kết dân tộc “là công nhân, nông dân và
các tầng lớp nhân dân lao động khác” mà “liên minh công nông là nền tảng của

Mặt trận dân tộc thống nhất”. Nền tảng càng được củng cố vững chắc thì khối đại
đoàn kết dân tộc càng có thể mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm
suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
d. Ở HCM, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại ở quan niệm, ở
tư tưởng, ở những lời kêu gọi, mà được cụ thể hóa thành một chiến lược cách
mạng, trở thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, của dân ta
Ngay từ khi tìm thấy con đường cứu nước, HCM đã rất chú ý đến việc đưa
quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng giai tầng, từng
giới, từng ngành nghề, từng lứa tuổi, từng tôn giáo và phù hợp với từng bước phát
triển của phong trào cách mạng, bao trùm nhất là Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt
trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị rộng rãi, tập hợp đông đảo các giai
cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu nước ở
trong và ngoài nước, phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập, thống nhất của Tổ
quốc và tự do hạnh phúc của nhân dân. Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp
thương dân chủ, lấy việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các
tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng.
Với HCM, đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành; thân ái giúp

25


×