Tải bản đầy đủ (.docx) (68 trang)

2014 BSCKI trần thị hải vân đánh giá hiệu quả điều trịrối loạn trầm cảm tại cộng đồng ở phường hòa minh – phường hòa hiệp nam quận liên chiểu, thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.91 KB, 68 trang )

BÁO CÁO KHOA HỌC 2014
VÂN

BSCKI TRẦN THỊ HẢI

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trầm cảm là rối loạn tâm thần phổ biến tại cộng đồng, đặc biệt
trong hoàn cảnh kinh tế hiện tại. Theo thống kê trong cộng đồng có
khoảng 15% dân số bị trầm cảm và lo âu. Trong đó chỉ có khoảng 1/10
số lượng bệnh nhân được chăm sóc y tế. Năm 1994 được sự giúp đỡ
của WHO khu vực Tây Thái Bình Dương, ngành tâm thần Việt nam
đã tiến hành điều tra tâm thần tại 3 điểm : Xã Tự Nhiên, xã Quất Động
thuộc huyện Thường Tín, xã Tiên Kiên, huyện Lâm thao – Phú Thọ và
xây dựng mô hình chăm sóc sức khoẻ tâm thần dựa vào cộng đông.
Trong chương trình Bảo vệ sức khỏe tâm thần tại cộng đồng, tâm thần
phân liệt, động kinh và trầm cảm là 3 rối loạn tâm thần được quan
tâm. Bên cạnh đó người dân không có những kiến thức cơ bản về rối
loạn trầm cảm, do đó tỷ lệ bệnh nhân bị trầm cảm không được can
thiệp y tế chiếm tỷ lệ khá cao.
Trong điều trị trầm cảm tại Việt Nam, người ta chú tâm nhiều
đến việc sử dụng thuốc, nhưng quên đi một phần quan trọng trong
điều trị đó là sử dụng các liệu pháp tâm lý. Với các liệu pháp tâm lý
bệnh nhân trầm cảm có thể tự vượt qua được nỗi trầm cảm của mình
và tăng cường tự tin để vượt qua các sang chấn trong cuộc sống ở
tương lai.
Nhận thức của người dân về rối loạn trầm cảm chưa được cao,
người dân thường quan niệm đó là bệnh nội khoa, do đó khi bị bệnh
thường không đến chuyên khoa ngay, từ đó ảnh hưởng đến niềm tin
của bệnh nhân đối với kết quả điều trị . Rối loạn này khiến người bệnh
buồn bã, mất hứng thú trong cuộc sống, mệt mỏi, giảm tập trung, mất
tự tin, nếp ăn ngủ bị đảo lộn. những vấn đề này nếu không được chữa


trị sẽ trở thành mạn tính, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của
người bệnh và gia đình. Trầm cảm còn có thể dẫn đến tự tử. Tuy
1


BÁO CÁO KHOA HỌC 2014
VÂN

BSCKI TRẦN THỊ HẢI

nhiên, hiện có những phương pháp điều trị tương đối đơn giản, hiệu
quả và chi phí không cao có thể được áp dụng cho người bệnh trầm
cảm, giúp họ từng bứơc vượt qua được những vấn đề nêu trên, trở về
với cuộc sống bình thường. Những phương pháp điều trị này tốt nhất
là được thực hiện ở tuyến chăm sóc sức khoẻ ban đầu.
Tại Thành phố Đà Nẵng với sự hỗ trợ chính của tổ chức Basic
needs. Tổ chức RAND tại Việt Nam, kết hợp cùng với Bệnh viện tâm
thần Đà Nẵng phối kết hợp cùng Hiệp hội phụ nữ Đà Nẵng trong
chương trình chăm sóc sức khỏe cộng đồng từ năm 2013 đến năm
2015. Chúng tôi đã áp dụng liệu pháp kích hoạt hành vi cho nhóm
bệnh nhân kết hợp với thuốc chống trầm để điều trị cho đối tượng
bệnh nhân là phụ nữ nghèo bị bệnh trầm cảm tại 2 phường trong
thành phố.
Nhận thức của người dân về rối loạn Trầm cảm chưa được cao,
người dân thường quan niệm đó là bệnh nội khoa, do đó khi bị bệnh
thường không đến chuyên khoa ngay, từ đó ảnh hưởng đến niềm tin
của bệnh nhân đối với kết quả điều trị. Trong khuôn khổ dự án LIFEDM “Điều trị rối loạn trầm cảm tại cộng đồng và tích hợp hỗ trợ vay
vốn” tại các phường ở Thành phố Đà Nẵng với các phương pháp trị
liệu tâm lý và kết hợp sinh kế cho phụ nữ nghèo. Tôi thực hiện đề tài
nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả điều trịRối loạn trầm cảm tại cộng

đồng ở phường Hòa Minh – Phường Hòa Hiệp nam Quận Liên
Chiểu, Thành phố Đà Nẵng.Nhằm mục tiêu:
1. Khảo sát các đặc điểm lâm sàng trên bệnh nhân rối loạn trầm cảm

điều trị tại bệnh viện tâm thần thành phố Đà Nẵng.
2. Đánh giá hiệu quả điều trị Trầm cảm tại cộng đồng ở các phường Hòa

Minh, và Hòa Hiệp Nam - Quận Liên chiểu - Thành phố Đà Nẵng.
2


BÁO CÁO KHOA HỌC 2014
VÂN

BSCKI TRẦN THỊ HẢI

3. Đánh giá các yếu tố tâm lý của bệnh nhân ảnh hưởng đến hiệu quả

điều trị.

3


BÁO CÁO KHOA HỌC 2014
VÂN

BSCKI TRẦN THỊ HẢI

1. TỔNG QUAN
1.1. KHÁI NIỆM, LỊCH SỬ, DỊCH TỄ HỌC VÀ BỆNH NGUYÊN

CỦA RỐI LOẠN TRẦM CẢM
1.1.1. Khái niệm chung
Rối loạn khí sắc thể hiện từ buồn bã quá mức gọi là trầm cảm
hay vui sướng quá mức gọi là hưng cảm. Trầm cảm và hưng cảm là
hai hội chứng của rối loạn khí sắc.
Rối loạn khí sắc là trạng thái bệnh lý biểu hiện bằng rối loạn
trầm cảm đơn thuần hoặc xen kẽ với những rối loạn hưng cảm hoặc
rối loạn khí sắc chu kỳ ở cường độ cao, trong thời gian dài hoặc có
những rối loạn hành vi, tác phong rõ rệt, những hoạt động này làm
người bệnh mất khả năng hoạt động, thích ứng với xã hội và xung
quanh.
1.1.2 Khái niệm trầm cảm:
Trầm cảm là hiện tượng ức chế của các quá trình hoạt động tâm
thần với bệnh cảnh lâm sàng gồm các triệu chứng thường gặp như:
nét mặt buồn rầu, ủ rũ, mau mệt mỏi, không muốn làm việc, mất hoặc
giảm mọi quan tâm thích thú ngay cả những đam mê thích thú cũ,
giảm tập trung chú ý, mất hoặc giảm tự tin, tự đánh giá thấp mình.
Quá trình suy nghĩ chậm chạp, ý tưởng nghèo nàn, tự cho mình có tội,
bi quan về tương lai. Một số trường hợp trầm cảm nặng, bệnh nhân có
thể có ý nghĩ hoặc hành vi tự sát. Trong trầm cảm thường có các triệu
chứng của cơ thể như mất ngủ (thường là mất ngủ cuối giấc, thức dậy
sớm), hồi hộp, đánh trống ngực, mạch nhanh, đau mỏi xương cơ
khớp, sút cân, giảm hoạt động tình dục. Bệnh nhân thường có hội
chứng lo âu và những cảm giác căng thẳng, bất an, sợ hãi...

4


BÁO CÁO KHOA HỌC 2014
VÂN


BSCKI TRẦN THỊ HẢI

Khoảng vài chục năm gần đây, số người bị rối loạn trầm cảm
chiếm tỷ lệ cao trong nhân dân ở hầu hết các nước trên thế giới. Theo
ước tính của Tổ chức Y Tế thế giới 5% dân số trên hành tinh của
chúng ta có rối loạn trầm cảm rõ rệt. Ở nước ta đã có nhiều công trình
nghiên cứu dịch tễ của trầm cảm, trong một nghiên cứu dịch tễ lâm
sàng 10 rối loạn tâm thần thường gặp ở 8 vùng sinh thái do Trần Văn
Cường và cộng sự năm 2001 cho tỷ lệ trầm cảm là 2,8% dân số.
Người bệnh rối loạn trầm cảm sẽ dẫn đến gián đoạn học tập và
khả năng lao động, rối loạn khả năng thích ứng, dần dần tách rời xã
hội, chất lượng cuộc sống bị giảm sút sau mỗi giai đoạn là trầm cảm.
Càng trở nên trầm trọng khi 20% số họ trở nên mạn tính. Người bệnh
có nguy cơ tự sát cao khi bị trầm cảm tái diễn. Trầm cảm gia tăng còn
thúc đẩy tỷ lệ lạm dụng rượu và ma tuý, không chỉ gây ra những thiệt
hại cho cá nhân, rối loạn trầm cảm còn ảnh hưởng lớn đến chất lượng
sống của gia đình và xã hội.
Do tính phổ biến và mức độ nghiêm trọng các rối loạn trầm cảm
nó đã trở thành một vấn đề lớn ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng
một vấn đề thời sự đang được quan tâm nghiên cứu trên nhiều lĩnh
vực đặc biệt là hình thái lâm sàng, chẩn đoán, điều trị và nguy cơ tái
phát.
1.1.3. Lịch sử bệnh trầm cảm
Những rối loạn trầm cảm đã có từ khi con người biết viết lịch
sử. Trong kinh thánh, Vua David cũng như vua Job đã mắc phải căn
bệnh này. Hippocrates thì đề cập tới vấn đề trầm cảm là tình trạng u
sầu với bản chất là “mật đen”. Mật đen cùng với máu, đờm và mật
vàng là 4 loại dịch thể giải thích cho sinh lý y học cơ bản lúc bấy giờ.
Trầm cảm đã được đưa vào trong các tác phẩm văn học và nghệ thuật

trong hàng trăm năm nhưng ngày nay chúng được hiểu như thế nào?
5


BÁO CÁO KHOA HỌC 2014
VÂN

BSCKI TRẦN THỊ HẢI

Vào thế kỷ thứ 19, trầm cảm được xem là một sự yếu đuối về cá
tính do di truyền. Vào nửa đầu của thế kỷ 20, Freud kết nối giữa quá
trình bệnh sinh của trầm cảm với vấn đề phạm tội và xung đột. John
Cheever, tác giả và cũng là người bị rối loạn về trầm cảm, đã viết về
những xung đột và những kinh nghiệm trải qua với cha mẹ mà ảnh
hưởng đến quá trình tiến triển trầm cảm của ông.Trong thập niên 5060, trầm cảm được chia làm 2 loại, nội tại và thần kinh. Khi trầm cảm
bắt nguồn từ bên trong cơ thể, có thể do nguồn gốc từ gen hoặc vô căn
thì được gọi là loại nội tại.
Trầm cảm do thần kinh hay trầm cảm phản ứng có một yếu tố
thúc đẩy rõ ràng từ môi trường như là cái chết của người thân hoặc
những mất mát đáng kể khác như bị mất việc làm. Trong thập niên 7080, người ta chuyển tập trung từ nguyên nhân của trầm cảm sang
những ảnh hưởng của nó lên người bệnh. Điều đó nghĩa là tìm hiểu
các triệu chứng và các chức năng bị suy giảm để nhà chuyên môn có
thể chẩn đoán xác định ra bệnh trầm cảm cho dù đó là nguyên nhân
gì đi nữa. Mặc dù có một số tranh cãi cho tới nay (giữa các ngành
trong y khoa ) thì hầu hết các nhà chuyên khoa đồng ý rằng: Rối loạn
trầm cảm là một hội chứng phản ánh tâm trạng buồn bã hoặc một nổi
khổ quá mức bình thường.
Đặc biệt, sự u sầu này trong trầm cảm có mức độ nặng hơn, kéo
dài hơn, nhiều triệu chứng nghiêm trọng hơn và mất chức năng nhiều
hơn bình thường.Những rối loạn trầm cảm không chỉ đặc trưng bởi

các suy nghĩ, tâm trạng và hành vi tiêu cực mà còn bởi những thay đổi
đặc hiệu trong các hoạt động chức năng (ví dụ như ăn, ngủ, và hoạt
động tình dục).
Những thay đổi về chức năng thường được gọi là các dấu hiệu
thần kinh thực thể.Một số người bị trầm cảm, đặc biệt là rối loạn cảm
6


BÁO CÁO KHOA HỌC 2014
VÂN

BSCKI TRẦN THỊ HẢI

xúc lưỡng cực, dường như có tính di truyền.Rối loạn trầm cảm là một
vấn đề lớn về sức khoẻ trong cộng đồng: Trong năm 1990, phí điều trị
trầm cảm ở Mỹ là 43 tỉ đôla bao gồm tiền điều trị, chi phí gián tiếp
(như là mất khả năng lao động hay vắng mặt lâu ngày).Một nghiên
cứu y học quan trọng cho thấy bệnh trầm cảm gây nên những vấn đề
nghiêm trọng, ảnh hưởng đến hoạt động của người bệnh hơn là các
vấn đề từ viêm khớp hay huyết áp cao, bệnh phổi mạn tính, tiểu
đườngmang lại; và trong hai loại bệnh, trầm cảm có ảnh hưởng ngang
với bệnh động mạch vành.Trầm cảm làm tăng nguy cơ tiến triển bệnh
mạch vành, HIV, henvà các bệnh lý nội khoa khác. Hơn nữa, trầm cảm
làm tăng độ mắc bệnh, và tỉ lệ tử vong của các bệnh trên. Thường
trầm cảm được chẩn đoán đầu tiên ở một trung tâm sức khoẻ ban đầu
chứ không phải trong một phòng khám của bác sĩ chuyên khoa tâm
thần.
Hơn thế nữa, bệnh thường nằm trong nhiều dạng lẫn lộn khác
nhau khiến cho rất hay bỏ sót chẩn đoán.Trầm cảm thường không thể
chữa trị cho dù có rất nhiều tài liệu nghiên cứu và các chỉ dẫn lâm

sàng tập trung vào vấn đề điều trị. Hi vọng rằng tình trạng này sẽ
được cải thiện.Để có thể thoát khỏi một rối loạn tâm lý cần phải điều
trị bằng thuốc hoặc bằng liệu pháp tâm lý cho dù nó có yếu tố thúc
đẩy hay do vô căn.

1.1.4 Dịch tể học trầm cảm:
Rối loạn trầm cảm là rối loạn phổ biến và mãn tính, điều trị hiệu
quả thì khó và đắt đỏ, giá cả vượt trội hơn một số bệnh mãn tính khác
như đái tháo đường hay tăng huyết áp, hơn một nửa số bệnh nhân
trải qua điều trị lần thứ nhất thì cũng trải qua lần thứ hai, điều này sẽ
7


BÁO CÁO KHOA HỌC 2014
VÂN

BSCKI TRẦN THỊ HẢI

làm cho bệnh nhân mất việc làm, cản trở quan hệ cá nhân, lạm dụng
thuốc, tình trạng sức khỏe trở nên tồi tệ và ước lượng trầm cảm là
nguyên nhân dẫn đầu mất khả năng hoạt động được tính toán bởi
YLDs chiếm tỉ lệ 12% của tất cả căn nguyên gây mất khả năng lao
động.
Theo Tổ chức y tế thế giới tới năm 2020 trầm cảm chỉ đứng sau
các bệnh tim mạch về gánh nặng bệnh tật và nguyên nhân gây tử
vong. Rối loạn trầm cảm ảnh hưởng tất cả mọi người ở mọi lứa tuổi từ
trẻ em đến người già Ở Pháp 10% dân số có nguy cơ mắc bệnh này, tỉ
lệ mắc bệnh chung ở một thời điểm nhất định là 2-3% số dân ở Anh
hơn 2.9 triệu người được chẩn đoán trầm cảm ở một thời điểm nào đó
và ở Mỹ tỉ lệ mắc bệnh chung ở giới nữ là 5-9%, nam giới là 2-3% tỉ lệ

trầm cảm tái phát sau 6 tháng là 27% sau 1 năm là 50% tần suất suốt
đời của trầm cảm và lo âu khoảng 15-20% ở các bệnh viện thực hành
tỉ lệ còn cao hơn khoảng 10-12%.
Nữ giới chiếm tỉ lệ cao (70%), phụ nữ thu nhập thấp có nguy cơ
trầm cảm cao hơn các phụ nữ ở nhóm thu nhập khác phụ nữ có thai
có nguy cơ cao hơn phụ nữ bình thường những bà mẹ mới sinh nguy
cơ trầm cảm từ 13-16% khoảng 80% phụ nữ sau sinh trải nghiệm sự
buồn chán, nhưng chỉ có khoảng 10-15% có triệu chứng nghiêm trọng
trầm cảm sau sinh tỉ lệ dàn trải từ 5-25% phụ thuộc vào sự thay đổi
định nghĩa và tính đa dạng của cộng đồng nghiên cứu, tỉ lệ cao ở các
nước phát triển và từ 16-35% trong các nền văn hóa khác nhau, nhưng
trong giai đoạn tiền mãn kinh nguy cơ trầm cảm gấp 14 lần so với
tuổi trước 30.
Phù hợp với mẫu nghiên cứu cộng đồng, ở nhóm sinh viên các
trường Đại học Mỹ tỉ lệ trầm cảm khoảng từ 15-20% và gia tăng trong
2 thập kỷ trước.
8


BÁO CÁO KHOA HỌC 2014
VÂN

BSCKI TRẦN THỊ HẢI

Trẻem và trẻ vị thành niên trong cộngđồng bị trầm cảm có tỉ lệ
2-6%, theo một báo cáo của trung tâm thông tin sức khỏe thanh thiếu
niên quốc gia Mỹ hơn 25% thanh thiếu niên bị ảnh hưởng bởi trầm
cảm mức độ nhẹ, nguy cơ tự sát ở nhóm này cũng cao hơn so với
cộng đồng chung.
Yếu tố thể tạng đóng vai trò quan trọng, thường hay gặp ở

người có thể tạng mập mạp 67% và thường gặp ở người lớn tuổi từ
35- 60, tuổi trung bình khoảng 40 tuổi, đặc biệt ở phụ nữ tuổi xuất
hiện sớm hơn nam giới, tần suất trong cả cuộc đời khoảng 15% dân
số, ở nam giới khoảng 15%, ở nữ giới là 24% .
Theo Dunlop (2003), tỉ lệ trầm cảm ở người da trắng và cộng
đồng người Hispanic (Tây ban nha và Bồ Đào Nha) thì cao hơn người
da đen.
Ở người già tỉ lệ trầm cảm và loạn khí sắc khoảng từ 5-10%. Khi
so sánh với trầm cảm ở người trẻ ở những người già mắc bệnh trầm
cảm thường tồn tại cùng lúc nhiều bệnh mãn tính mặc dù tỉ lệ cao
như vậy nhưng do phần lớn bênh nhân đánh giá không đúng mức
tình trạng bệnh nên chỉ có khoảng 70% bệnh nhân tìm kiếm đến để
điều trị , nhưng chỉ 10% được điều trị đầy đủ .
Theo nghiên cứu của Polit, D;& Martinez (2001), chỉ ra rằng,
những người phụ nữ có nguy cơ trầm cảm cao thì khả năng lạm dụng
chất cao, còn những người phụ nữ có lạm dụng chất thì có nguy cơ
trầm cảm cao .
Năm 1961, E. Moller cho rằng tỉ lệ rối loạn trầm cảm nói chung
là 6-7% dân số và tỉ lệ trầm cảm điển hình chỉ là 1%.
Greenfield (1997) đã xác định tỉ lệ trầm cảm là 10-13% và trong
đó có 55% số bệnh nhân đã có một cơn trầm cảm trong vòng 12 tháng
9


BÁO CÁO KHOA HỌC 2014
VÂN

BSCKI TRẦN THỊ HẢI

gần đây. Nghiên cứu của các tác giả khác cũng đã chỉ ra rằng: trầm

cảm thường không được thừa nhận, chỉ có 9,2% tổng số bệnh nhân
được chẩn đoán là rối loạn trầm cảm trong các khoa lâm sàng khác.
Việc gia tăng tỉ lệ rối loạn trầm cảm được giải thích như sau:
+ Do tăng tuổi thọ.
+ Do quá trình đô thị hóa nhanh làm người ta không thích ứng
kịp.
Ngược lại tỉ lệ rối loạn cảm xúc lưỡng cực chỉ chiếm 1% dân số
và phân bố đều cho 2 giới.
+ Rối loạn trầm cảm và rối loạn cảm xúc lưỡng cực có sự khác
nhau rõ về tuổi khởi phát, số lượng và thời gian tồn tại của các giai
đoạn bệnh.
+ Theo Angst (1986): tuổi khởi phát trung bình của trầm cảm
chủ yếu là tuổi 45, trong khi đó tuổi của rối loạn cảm xúc lưỡng cực là
29, tuổi trung bình trên 30 và trên 40 đối với thể đơn cực .
1.1.5 Nguyên nhân gây bệnh trầm cảm:
Có nhiều nguyên nhân gây ra trầm cảm, có thể tập trung vào 4
nhóm nguyên nhân chính sau đây:
- Do sang chấn tâm lý: Đây là nguyên nhân thường gặp gây trầm cảm.
Sang chấn tâm lý hay còn gọi là stress có thể đến từ bên ngoài cơ thể
như những mâu thuẫn trong gia đình, bạn bè, công việc... hoặc stress
cũng có thể đến từ bên trong cơ thể như bị các bệnh nặng, nan y (HIVAIDS, ung thư...). Tuy nhiên cần đánh giá đúng mức độ ảnh hưởng
của những stress này khi chẩn đoán vì có thể một mình yếu tố stress
ấy đã đủ gây ra trầm cảm (những stress nặng, cấp tính như người
thân qua đời hay thiên tai thảm khốc... hoặc những stress không nặng
nhưng kéo dài, trường diễn như sức ép công việc kéo dài, mệt mỏi
10


BÁO CÁO KHOA HỌC 2014
VÂN


BSCKI TRẦN THỊ HẢI

trong quan hệ vợ chồng, gia đình, bệnh nặng kéo dài...); tuy nhiên
cũng có những stress không đủ mức độ gây bệnh mà chỉ là một yếu tố
góp thêm vào những nhân tố có sẵn (như stress trường diễn, dịp này
chỉ là giọt nước làm tràn ly, hoặc là trên cơ sở một rối loạn tâm thần
tiềm ẩn có trước, nay có dịp bùng phát). Chẩn đoán đúng mức độ ảnh
hưởng của những sang chấn tâm lý này sẽ rất có ích trong điều trị
trầm cảm.
- Do bệnh thực thể ở não: Như chấn thương sọ não, viêm não, u não...
Những rối loạn và tổn thương cấu trúc não này làm giảm ngưỡng
chịu đựng stress của cơ thể, chỉ cần một stress nhỏ cũng có thể gây ra
các rối loạn cảm xúc, đặc biệt là trầm cảm. Xác định được chính xác và
điều trị triệt để nguyên nhân thì có thể điều trị khỏi trạng thái trầm
cảm.
- Do sử dụng các chất gây nghiện hoặc các chất tác động tâm thần:
Như Heroin, Amphetamin (thuốc lắc), rượu, thuốc lá... Đặc điểm
chung của các chất này là giai đoạn đầu thường gây kích thích, sảng
khoái, hưng phấn nhưng sau đó thường rơi vào trạng thái trầm cảm,
mệt mỏi, uể oải, giảm sút và ức chế các hoạt động tâm thần (giai đoạn
ức chế). Như vậy cứ tưởng rằng khi buồn có thể giải sầu bằng rượu
nhưng thực ra càng uống rượu vào lại càng buồn, càng trầm cảm
nhiều hơn
- Nguyên nhân nội sinh: Khi đã loại trừ tất cả các nguyên nhân trên. Do
rối loạn hoạt động của các chất dẫn truyền thần kinh trong não như
Serotonin, Noradrenalin... thường là dẫn đến trầm cảm nặng, có thể
có ý tưởng và hành vi tự sát, kèm theo các rối loạn loạn thần như
hoang tưởng bị tội, ảo thanh sai khiến tự sát... Loại trầm cảm này điều
trị


rất

khó

khăn



thường

dễ

tái

phát.

1.2. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG CỦA RỐI LOẠN TRẦM CẢM
11


BÁO CÁO KHOA HỌC 2014
VÂN

BSCKI TRẦN THỊ HẢI

1.2.1. Chẩn đoán trầm cảm theo ICD-10
1.2.1.1. Tiêu chuẩn chẩn đoán theo ICD-10
* Ba triệu chứng đặc trưng của trầm cảm
+ Giảm khí sắc: bệnh nhân cảm thấy buồn vô cớ, chán nản, ảm

đạm, thất vọng, bơ vơ và bất hạnh, cảm thấy không có lối thoát. Đôi
khi nét mặt bất động, thờ ơ, vô cảm.
+ Mất mọi quan tâm và thích thú: là triệu chứng hầu như luôn
xuất hiện. Bệnh nhân thường phàn nàn về cảm giác ít thích thú, ít vui
vẻ trong các hoạt động sở thích cũ hay trầm trọng hơn là sự mất nhiệt
tình, không hài lòng với mọi thứ. Thường xa lánh, tách rời xã hội, ngại
giao tiếp với mọi người xung quanh.
+ Giảm năng lượng dẫn đến tăng mệt mỏi và giảm hoạt động
* Bảy triệu chứng phổ biến của trầm cảm
+ Giảm sút sự tập trung và chú ý.
+ Giảm sút tính tự trọng và lòng tự tin.
+ Những ý tưởng bị tội, không xứng đáng.
+ Nhìn vào tương lai thấy ảm đạm, bi quan.
+ Ý tưởng và hành vi tự huỷ hoại hoặc tự sát.
+ Rối loạn giấc ngủ: ngủ nhiều hoặc ngủ ít, thức giấc lúc nửa đêm
hoặc dậy sớm.
+ Ăn ít ngon miệng.
* Các triệu chứng cơ thể (sinh học) của trầm cảm
+ Mất quan tâm ham thích những hoạt động thường ngày.
+ Thiếu các phản ứng cảm xúc với những sự kiện và môi
trường xung quanh mà khi bình thường vẫn có những phản ứng
cảm xúc.
12


BÁO CÁO KHOA HỌC 2014
VÂN

BSCKI TRẦN THỊ HẢI


+ Thức giấc sớm hơn ít nhất 2 giờ so với bình thường.
+ Trầm cảm nặng lên về buổi sáng.
+ Chậm chạp tâm lý vận động hoặc kích động, có thể sững sờ.
+ Giảm cảm giác ngon miệng.
+ Sút cân (thường ≥ 5% trọng lượng cơ thể so với tháng trước).
+ Giảm hoặc mất hưng phấn tình dục, rối loạn kinh nguyệt ở
phụ nữ.
* Các triệu chứng loạn thần
Trầm cảm nặng thường có hoang tưởng, ảo giác hoặc sững sờ.
Hoang tưởng, ảo giác có thể phù hợp với khí sắc (hoang tưởng bị tội,
bị thiệt hại, bị trừng phạt, nghi bệnh, nhìn thấy cảnh trừng phạt, ảo
thanh kết tội hoặc nói xấu, lăng nhục, chê bai bệnh nhân) hoặc không
phù hợp với khí sắc (hoang tưởng bị theo dõi, bị hại).
Ngoài ra, bệnh nhân có thể có lo âu, lạm dụng rượu, ma tuý
và có triệu chứng cơ thể như đau đầu, đau bụng, táo bón… sẽ làm
phức tạp quá trình điều trị bệnh.
Trong chẩn đoán cần chú ý
+ Thời gian tồn tại ít nhất 2 tuần.
+ Giảm khí sắc không tương ứng với hoàn cảnh.
+ Hay lạm dụng rượu, ám ảnh sợ, lo âu và nghi bệnh.
+ Khó ngủ về buổi sáng và thức giấc sớm.
+ Ăn không ngon miệng, sút cân trên 5%/ 1 tháng
1.2.1.2. Phân theo mức độ các triệu chứng lâm sàng
* Giai đoạn trầm cảm nhẹ
Khí sắc trầm, mất quan tâm, giảm thích thú, mệt mỏi nhiều khó
tiếp tục công việc hằng ngày và hoạt động xã hội. Ít nhất phải có 2
13


BÁO CÁO KHOA HỌC 2014

VÂN

BSCKI TRẦN THỊ HẢI

trong số những triệu chứng chủ yếu cộng thêm 2 trong số những triệu
chứng phổ biến khác ở trên để chẩn đoán xác định. Thời gian tối thiểu
phải có khoảng 2 tuần và không có hoặc có những triệu chứng cơ thể
nhưng nhẹ.
* Giai đoạn trầm cảm vừa
Có ít nhất 2 trong 3 triệu chứng chủ yếu đặc trưng cho giai đoạn
trầm cảm nhẹ, cộng thêm 3 hoặc 4 triệu chứng phổ biến khác.
Thời gian tối thiểu là khoảng 2 tuần và có nhiều khó khăn trong
hoạt động xã hội, nghề nghiệp hoặc công việc gia đình; không có hoặc
có 2-3 triệu chứng cơ thể ở mức độ trầm trọng vừa phải.
* Giai đoạn trầm cảm nặng không có triệu chứng rối loạn tâm thần
Buồn chán, chậm chạp nặng hoặc kích động; mất tự tin hoặc
cảm thấy vô dụng hoặc thấy có tội lổi, nếu trầm trọng có hành vi tự
sát.
Triệu chứng cơ thể hầu như có mặt thường xuyên; có 3 triệu
chứng điển hình của giai đoạn trầm cảm, cộng thêm ít nhất 4 triệu
chứng phổ biến khác khác.
Thời gian kéo dài ít nhất là 2 tuần, nếu có triệu chứng đặc biệt
không cần đến 2 tuần; ít có khả năng hoạt động xã hội, nghề nghiệp
và công việc gia đình.
* Giai đoạn trầm cảm nặng có triệu chứng rối loạn tâm thần
Thỏa mãn tất cả các tiêu chuẩn rối loạn trầm cảm và có hoang
tưởng, ảo giác phù hợp với khí sắc bệnh nhân hoặc sững sờ trầm cảm.
Hoang tưởng gồm tự buộc tội, hèn kém hoặc có những tai họa
sắp xãy ra; ảo giác gồm áo thanh, ảo khứu, những lời phỉ báng bệnh
nhân, mùi khó chịu và giảm hoặc mất vân động.

* Các giai đoạn trầm cảm khác
14


BÁO CÁO KHOA HỌC 2014
VÂN

BSCKI TRẦN THỊ HẢI

Các triệu chứng chính của trầm cảm không rõ ràng, có những
triệu chứng cụt và không có giá trị chẩn đoán như căng thẳng, lo lắng,
buồn chán và hỗn hợp các triệu chứng đau hoặc mệt nhọc dai dẳng
không có nguyên nhân thực tổn còn gọi là trầm cảm ẩn.
1.2.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán trầm cảm theo DSM-IV (1994)
1.2.2.1. Tiêu chuẩn chẩn đoán
+ Có ít nhất 5 triệu chứng cùng tồn tại trong thời gian tối thiểu
là 2 tuần và có thay đổi chức năng so với trước đây trong đó phải có ít
nhất 2 triệu chứng là khí sắc trầm cảm và mất quan tâm hứng thú bao
gồm:
- Khí sắc trầm cảm biểu hiện cả ngày và kéo dài.
- Giảm hoặc mất quan tâm hứng thú với mọi hoạt động trước đây
vốn có.
- Giảm trọng lượng cơ thể trên 5%/1 tháng.
- Mất ngủ vào cuối giấc (ngủ dậy sớm ít nhất là 2 giờ so với bình
thường).
- Ức chế tâm thần vận động hoạt kích động trong phạm vị
hẹp (kích động trong phạm vi xung quanh giường ngủ của
mình).
- Mệt mỏi hoặc cảm giác mất năng lượng kéo dài.
- Có cảm giác vô dụng hoặc có cảm giác tự tội quá đáng hoặc

cảm giác không thích hợp khác.
- Giảm năng lượng suy nghĩ, giảm tập trung chú ý, giảm khả
năng đưa ra các quyết định.
- Có hành vi tự sát.
+ Các triệu chứng không đáp ứng tiêu chuẩn của giai đoạn hỗn
hợp.
15


BÁO CÁO KHOA HỌC 2014
VÂN

BSCKI TRẦN THỊ HẢI

+ Các triệu chứng gây ra đau khổ, gây ảnh hưởng đến chức
năng hoạt động xã hội, nghề nghiệp, và các chức năng khác.
+ Các triệu chứng không do hậu quả của một chất hoặc một
bệnh cơ thể khác.
+ Các triệu chứng không thể giải thích do stress, các triệu chứng
tồn tại dai dẳng trên 2 tuần kèm theo giảm rõ rệt các chức năng xã
hội, nghề nghiệp.
1.2.2.2. Triệu chứng lâm sàng
Rối loạn trầm cảm chủ yếu, là đặc trưng của một hay nhiều giai
đoạn trầm cảm điển hình. Hội chứng trầm cảm là một hội chứng phức
tạp ảnh hưởng lên khí sắc, tư duy, vận động và cơ thể.
Rối loạn trầm cảm như một hội chứng hoặc một bệnh, nhưng
hay gặp nhất là một bệnh. Trầm cảm được biểu hiện bằng các triệu
chứng chủ yếu của khí sắc, mất hứng thú và sở thích.
+ Các triệu chứng của khí sắc trầm khó phân biệt với buồn rầu
bình thường, nhiều bệnh nhân cho rằng bị rối loạn trầm cảm là vì

trong tiền sử có các stress tâm lí. So với triệu chứng buồn rầu thì triệu
chứng trầm cảm bền vững hơn, khí sắc bị ức chế không thay đổi do
các yếu tố ngoại sinh và bệnh nhân không thể kiểm soát được các
triệu chứng trầm cảm của mình
Biểu hiện triệu chứng khí sắc trầm của mỗi người khác nhau
như: buồn, đau khổ, cáu gắt, mất hy vọng, giảm khí sắc. Bệnh nhân
không tự xác định được bệnh và có nhiều rối loạn cơ thể như đau,
bỏng rát ở các vùng khác nhau trong cơ thể. Các dấu hiệu đó tạo
thành hội chứng trầm cảm.
+ Mất hứng thú và sở thích trong rối loạn trầm cảm là triệu
chứng quan trọng thứ hai trong hội chứng trầm cảm. Mất hứng thú
16


BÁO CÁO KHOA HỌC 2014
VÂN

BSCKI TRẦN THỊ HẢI

với mọi hoạt động hoạt vô cảm với mọi sở thích trước khi bị bệnh.
Mất hứng thú với mọi khía cạnh của cuộc sống như thành công trong
nghề nghiệp, quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, đối với đời
sống tình dục và hiệu quả tự chăm sóc bản thân. Bi quan, mất hy
vọng, mất ham muốn được sống, xuất hiện khuynh hướng xa lánh xã
hội và giảm khả năng nhận thông tin.
+ Ngoài hai triệu chứng cơ bản nói trên (khí sắc trầm và mất
hứng thú, sở thích) khám tâm thần của bệnh nhân còn nhiều triệu
chứng khác nữa. Biểu hiện lâm sàng của rối loạn trầm cảm liên quan
chặt chẽ với nhân cách trước khi bị bệnh. Một số đặc điểm của nhân
cách có thể che lấp hoặc khuếch đại bởi các triệu chứng rối loạn trầm

cảm và cũng có thể nhầm với các rối loạn tâm căn.
Biểu hiện bên ngoài của rối loạn trầm cảm có thể là bình thường
trong rối loạn trầm cảm nhẹ. Trong rối loạn trầm cảm vừa và nặng
xuất hiện nét mặt buồn rầu, thái độ chán nản, tư thế ủ rủ, vai rũ
xuống, trán có nhiều nếp nhăn. Một số bệnh nhân có thể không yên
tĩnh và thậm chí có kích động gọi là kích động trầm cảm.
Các triệu chứng rối loạn nhận thức:
Chức năng nhận thức trong rối loạn trầm cảm bị ức chế, vận
động không hiệu quả và chậm chạp gọi là ức chế tâm thần.
+ Rối loạn chú ý: Có sự giảm sút chú ý rõ rệt, khả năng tập
trung chú ý kém, là triệu chứng người bệnh than phiền nhiều nhất:
Họ khẳng định rằng không thể đọc, không thể theo dõi chương
trình tivi, không thể kết thúc công việc đơn giản hằng ngày vì không
có sự tập trung chú ý. Rối loạn tập trung chú ý có thể rõ rệt trong thời
gian khám, khi đó bệnh nhân khó tập trung cho khám bệnh. Có thể áp
dụng cho một số test đơn giản về khả năng tập trung chú ý như test
17


BÁO CÁO KHOA HỌC 2014
VÂN

BSCKI TRẦN THỊ HẢI

100-7 hoặc test 100-3.
+ Rối loạn trí nhớ: rối loạn trí nhớ thường là giảm khả năng nhớ
chính xác các thông tin, hiện tượng này liên quan chặt chẽ với rối loạn
chú ý. Bênh nhân thường than phiền giảm khả năng nhớ, các ký ức bị
ảnh hưởng của khí sắc trầm cảm. Bệnh nhân đặc biệt nhớ các sự kiện
không được thích thú cho lắm và các thất bại trong đời sống trong đời

sống hằng ngày, trong khi đó các sự kiện khác lại được ghi nhớ rất
kém.
+ Rối loạn tri giác: xuất hiện rối loạn tri giác như đau đầu, rối
loạn dạng cơ thể (đau không hệ thống), ảo giác xuất hiện tỏng rối loạn
trầm cảm nặng, thường phù hợp với giảm khí sắc.
+ Rối loạn tư duy: xuất hiện rối loạn hình thức tư duy và cả nội
dung tư duy rất đa dạng:
Nhịp tư duy chậm, bệnh nhân thường khó suy nghĩ, có cảm
giác ý nghĩ bị tắc nghẽn, không rõ ràng, khó hệ thống và khó biểu
hiện. Lời nói chậm, thiếu tính tự động, chậm trả lời các câu hỏi; nội
dung đơn điệu, nghèo nàn tập trung vào các sự kiện hiện tại hoặc các
sự kiện gây khó chịu.
Bệnh nhân không quyết định được, khó quyết định và không
tin ở bản thân mình. Bệnh nhân nhìn tương lai một cách đầy bi quan,
không hy vọng. Nội dung mang màu sắc của rối loạn trầm cảm, xuất
hiện sự sụp đổ, tự ti.
Ý nghĩ không tự tin vào bản thân mình, bênh nhân cảm thấy
mất khả năng sống thoải mái, mất các hoạt động bình thường. Bệnh
nhân cho rằng cuộc sống là một chuỗi dài những thất bại của bản thân
và chất lượng cuộc sống giảm rõ rệt.
Cảm thấy cuộc sống đầy những khó khăn, khó vượt qua được
18


BÁO CÁO KHOA HỌC 2014
VÂN

BSCKI TRẦN THỊ HẢI

và cho rằng mình “ không là ai và không là cái gì”. Có ý nghĩ tội lỗi

thường là hoang tưởng tự buộc tội mình. Bệnh nhân cho rằng mình là
gánh nặng của gia đình, trong trầm cảm nặng, ý nghĩ tội lỗi sẽ trở
thành hoang tưởng Cotar. Cho rằng mình có tội, rằng những tội lỗi,
những thảm họa cho gia đình và cho cả thế giới sắp sụp đổ đến nơi và
người bệnh rất hoảng sợ, than thở, khóc lóc.
Có ý tưởng và hành vi tự sát, hầu hết các trường hợp rối loạn
trầm cảm có ý nghĩ về cái chết, đi đến tự sát và tự sát nhiều lần mà
không thành công. Trong rối loạn trầm cảm có 10-15% tự sát thành
công, 25-30% tự sát nhiều lần nhưng không thành công và 55-65% có
ý tưởng tự sát.
+ Rối loạn tâm thần vận động:
Vận động tâm thần chậm: triệu chứng hay gặp nhất là vận động
tâm thần chậm chạp. Các hệ thống phân loại cổ điển xếp triệu chứng
vận động như một tiêu chuẩn quan trọng để chẩn đoán. Vận động
chậm chạp như trả lời chậm, nói chậm, nhịp tư duy chậm, nhớ chậm
quá mức được biểu hiện bằng trạng thái sững sờ, trầm cảm, vận động
tâm thần.
Không yên tĩnh, kích động tâm thần, (kích động trầm cảm),
thường phối hợp với rối loạn lo âu. Thiếu năng lượng hoặc mệt mỏi là
một trong những triệu chứng không đặc trưng và cần phân biệt với
rối loạn trầm cảm.
+ Rối loạn về ăn uống: bệnh nhân thường ăn uống kém nhưng
một số lại ăn nhiều.
+ Mất ngủ hoặc ngủ nhiều: thường gặp là ít ngủ hoặc không
ngủ, mất ngủ hỗn hợp, mất ngủ ở cuối giấc. Trong giai đoạn rối loạn
trầm cảm chủ yếu, có một số thay đổi đăc trưng điện não đồ ghi trong
19


BÁO CÁO KHOA HỌC 2014

VÂN

BSCKI TRẦN THỊ HẢI

thời gian ngủ là:
- Giảm biên độ REM (giai đoạn vận động nhãn cầu xanh): thời
gian từ khi bắt đầu ngủ đến giai đoạn đầu của REM.
- Tăng độ dài của giai đoạn đầu có REM.
- Giảm tính thường xuyên của giai đoạn REM.
- Giảm giai đoạn 4 của giấc ngủ Delta

1.3. LIỆU PHÁP KÍCH HOẠT HÀNH VI VÀ CÁC PHƯƠNG PHÁP
ĐIỀU TRỊ KHÁC
1.3.1. Liệu pháp kích hoạt hành vi
1.3.1.1. Vài nét về liệu pháp tâm lý
Tâm lý liệu pháp là một trong những phương pháp trị liệu có
lịch sử lâu đời nhất. Một số liệu pháp tâm lý đã được trải qua thực
nghiệm như: Thôi miên, liệu pháp hành vi, thư giãn,…Trên thực tế
lâm sàng không thể phủ nhận hiệu quả điều trị của liệu pháp tâm lý
đặc biệt trong một số bệnh như bệnh tâm căn, các rối loạn tâm thể,
bệnh trầm cảm, các chứng nghiện,…liệu pháp tâm lý đóng vai trò
quyết định.
Vì vậy đây là liệu pháp cần thiết và không thể thiếu được trong
quá trình điều trị bệnh nhân bị rối loạn tâm lý, đặc biệt là những rối
loạn chức năng. Việc mô phỏng mô hình máy tính, chúng ta có thể so
sánh các rối loạn tâm lý liên quan đến tổn thương thực thể phần não
bộ, thì cần đến các phương pháp điều trị sinh học, như: thuốc, phẩu
thuật, shock điện…, còn những rối loạn liên quan đến chức năng tâm
lý và sinh lý của não bộ thì cần đến liệu pháp tâm lý.
Liệu pháp tâm lý cần được áp dụng liên tục trong suốt quá trình

khám và chữa bệnh, kể từ khi bệnh nhân tới phòng khám, điều trị
20


BÁO CÁO KHOA HỌC 2014
VÂN

BSCKI TRẦN THỊ HẢI

nội trú tại các bệnh phòng, lúc ra viện và cả những lần tái khám sau
khi ra viện.. Tác động tâm lý trong quá trình điều trị là tác động tổng
hòa các tác động tâm lý từ môi trường điều trị, từ nhà trị liệu và tác
động qua lại giữa bệnh nhân với bệnh nhân, giữa bệnh nhân với gia
đình.
Mỗi thầy thuốc nói chung, đặc biệt là các nhà trị liệu tâm lý hoặc
các bác sĩ điều trị tâm lý cần phải nắm vững và biết sử dụng liệu pháp
tâm lý trong điều trị, vì:
+ Bản chất mối quan hệ giữa bệnh nhân và thầy thuốc là dựa
trên cơ sở nhân đạo. Vì vậy trong khi khám và điều trị cho người
bệnh cần phải quan tâm đến tâm lý người bệnh.
+ Các triệu chứng nói chung, đặc biệt các triệu chứng chức năng
nói riêng chịu ảnh hưởng rất lớn bởi tác động tâm lý của môi trường
xung quanh, trong đó bao gồm cả thầy thuốc, gia đình, môi trường
bệnh viện,…
+ Liệu pháp tâm lý sẽ điều trị khỏi rất nhanh các rối loạn chức
năng và đồng thời làm tăng hiệu lực điều trị của nhiều liệu pháp
khác.
1.3.1.2. Cơ sở để xây dựng liệu pháp tâm lý khoa học
Kích thích từ môi trường sống ảnh hưởng rất lớn đến trạng thái
tâm lý của con người. Liệu pháp tâm lý nhằm mục đích sử dụng

những tác đọng tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực từ môi
trường bên ngoài lên trạng thái tâm lý của người bệnh. Đây là cơ sở
để xây dựng liệu pháp tâm lý gián tiếp mà mục đích của liệu pháp
này là làm cho người bệnh có cảm giác yên tâm và tin tưởng vào việc
chữa bệnh. Để có được hiệu quả này cần phải chú ý đến phần cấu trúc
từ ngoại cảnh, đến kiến trúc của bệnh viện, cấu trúc của buồng bệnh,
21


BÁO CÁO KHOA HỌC 2014
VÂN

BSCKI TRẦN THỊ HẢI

cách đón tiếp ngay từ khi bước vào bệnh viện,…Tất cả những biện
pháp trên nhằm tác động tích cực lên người bệnh và gia đình họ.
Cơ thể và tâm thần là một khối thống nhất, thường xuyên ảnh
hưởng qua lại lẫn nhau.
Những tác động tâm lý (stress, lo lắng, sợ hãi,…) gây ra những
biến loạn về mặt cơ thể và ngược lại những thay đổi về cơ thể gây ra
những rối loạn về mặt tâm lý nhất định.
Lời nói và những cử chỉ của thầy thuốc như những kích thích
thật sự và có ảnh hưởng rất lớn đến trạng thái tâm lý và diễn biến các
triệu chứng của người bệnh. Lời nói là phương tiện giao tiếp chủ yếu
trong trị liệu tâm lý và với lời nói nhà trị liệu có thể dùng để chữa
bệnh cũng như gây ra các chứng bệnh mà chúng ta gọi là bệnh y sinh.
Như Pavlov đã nói “ Lời nói là một khái niệm thuộc phạm trù phi vật
chất, nhưng nó có thể gây ra những biến đổi vật chất nhất định”.
Bằng thực nghiệm người ta đã chứng minh rằng bằng con đường ám
thị trong trạng thái thôi miên (bằng lời nói) có thể gây ra những biến

đổi về thể dịch, lượng đường trong máu, thay đổi sắc tố da, có thể gây
tê trong phẩu thuật,…
Dựa trên một số học thuyết: học thuyết sinh lý thần kinh, học
thuyết hành vi, học thuyết về stress của Seley.
Tâm lý liệu pháp, một phần của liệu pháp hành vi nhận thức được
đề nghị để điều trị trầm cảm, tuy nhiên ít hơn 10% những người
mắc trầm cảm được điều trị.
1.3.1.3. Liệu pháp kích hoạt hành vi
Những triệu chứng của trầm cảm như mệt mỏi, thờ ơ, mất quan
tâm, mất động cơ và do dự có thể dẫn đến kém hoạt động và điều này
thường làm cho trầm cảm kéo dài, hay ngay cả làm cho bệnh nặng
22


BÁO CÁO KHOA HỌC 2014
VÂN

BSCKI TRẦN THỊ HẢI

hơn. Ngoài ra, bệnh nhân do thiếu động cơ, hay thiếu năng lượng,
nên họ xao nhãng phận sự và trách nhiệm của mình trong công việc ở
cơ quan hay việc nhà và những công việc này trở nên chồng chất. Ví
như, khi người bệnh nghĩ về những việc phải làm họ cảm thấy quá
sức bởi công viêc đang chất chồng nên họ phải hoãn lại, điều này làm
cho bản thân người bệnh thấy có lỗi với cấp trên hoặc với người thân
và nghĩ rằng họ là người vô tích sự hay ngay cả là người thất bại, điều
này làm cho trầm cảm trở nên tồi tệ hơn.
Một trong những cách để giúp cho bệnh nhân vượt qua trầm
cảm là gia tăng chương trình hoạt động cho họ. Những người gia tăng
hoạt động thì nguy cơ trầm cảm thấp hơn những người ít hoạt động

cơ thể. Liệu pháp kích hoạt hành vi là một trong những liệu pháp tâm
lý có thể giúp cho bệnh nhân làm được điều này.
Liệu pháp kích hoạt hành vi là thế hệ thứ 3 của liệu pháp hành
vi trong điều trị trầm cảm. Đó là một trong những liệu pháp tâm lý
phân tích chức năng dựa trên mô hình tâm lý về thay đổi hành vi của
Skinner. Liệu pháp kích hoạt hành vi là một phần của liệu pháp hành
vi nhận thức.
Vào năm 1990 Jacobson và cộng sự ở trường đại học Washington
đã bắt đầu một nghiên cứu phá vỡ cái mà họ làm chứng cho giả
thuyết cạnh tranh về cơ sở dành cho ảnh hưởng của nhận thức. Trong
phần này họ tách ra liệu pháp kích hoạt hành vi và quyết định những
hoạt động đơn giản của người trầm cảm và bằng cách đó giúp họ tiếp
xúc với những trải nghiệm củng cố tiềm tàng. Gray (1977,1981,1990)
cũng cho rằng liệu pháp kich hoạt hành vi là liệu pháp đáng tin cậy
dành cho bệnh nhân những trải nghiệm cảm giác xác thực như: hy
vọng, sự hãnh diện, và hạnh phúc, các trạng thái xúc cảm không chỉ
được mô tả bởi cường độ hoạt động cảm xúc điều mà theo sau hành
23


BÁO CÁO KHOA HỌC 2014
VÂN

BSCKI TRẦN THỊ HẢI

vi phụ thuộc vào dù có hay không các dấu hiệu lôi cuốn hay tách rời,
trong tiếp cận mô tả hệ thống kích hoạt và ức chế hành vi của Gray
cũng đã có nhiều tranh cãi, những người có hoạt động cao trong liệu
pháp kích hoạt hành vi thì tìm ra động cơ thúc đẩy để củng cố hành
vi, cả tích cực và tiêu cực, những sự kiện tích cực có quan hệ mạnh mẽ

với tác động tích cực, nhưng không có quan hệ với tác động tiêu cực.
Trong thập kỷ trước, người ta đã quan tâm lại tính khả thi và
tính hiệu quả của các trị liệu hành vi toàn diện cho lâm sàng trầm
cảm. Nhấn mạnh vào các khía cạnh chức năng của hành vi trầm cảm,
những trị liệu này tập trung vào khái niệm kích hoạt hành vi, khái
niệm đó bổ sung của các yếu tố nhằm gia tăng hoạt động cho bệnh
nhân và đưa đến củng cố hành vi.
Trong những báo cáo gần đây, Hollon (2005) đã nổi tiếng với
một số kết luận quan tâm đến mối liên quan hiệu quả của liệu pháp
tâm lý và thuốc trong điều trị trầm cảm. Đầu tiên, khi liệu pháp tâm
lý được đưa vào thì hiệu quả tác dụng như điều trị bằng hóa dược
trong rối loạn trầm cảm, tuy còn có một vài câu hỏi quan tâm đến
điều trị dành cho những triệu chứng của trầm cảm nặng. Mặc dù
thuốc có tác dụng mạnh trong những trường hợp cấp tính, nhưng
thuốc không thể ngăn chặn sự tái phát sau khi điều trị kết thúc, thuốc
cũng không phải hiệu quả cho mọi bệnh nhân và không phải tất cả
bệnh nhân đều muốn dùng thuốc vì thuốc có nhiều tác dụng không
mong muốn khi sử dụng. Như một sự lựa chọn, đây là bằng chứng
mà liệu pháp tâm lý có thể cung cấp lợi ích lâu dài sau khi kết thúc trị
liệu.
Các nhà nghiên cứu đề xuất rằng can thiệp hành vi dành cho
trầm cảm, có đủ khả năng làm giảm nhẹ các triệu chứng trầm cảm, cải
thiện chức năng nhận thức và chất lượng cuộc sống. Khi gia tăng
24


BÁO CÁO KHOA HỌC 2014
VÂN

BSCKI TRẦN THỊ HẢI


chương trình hoạt động sẽ giúp bệnh nhân cảm thấy sức khỏe tốt hơn,
bệnh nhân cảm thấy ít mệt hơn, bệnh nhân có thể suy nghĩ rõ ràng
hơn. Triết lý này là kết quả của sự phát triển mô hình của liệu pháp
kích hoạt hành vi hiện nay.
Một thuận lợi của liệu pháp kích hoạt hành vi vượt trội hơn liệu
pháp nhận thức truyền thống dành cho điều trị trầm cảm đó là nó dễ
dàng hơn để huấn luyện nhóm trong việc sử dụng nó. Và như thảo
luận của một số tác giả ở trên thì nó có thể hiệu quả lớn hơn trong
điều trị trầm cảm nặng.
Khi người bị trầm cảm, họ bị giảm các hoạt động, liệu pháp
kích hoạt hành vi sẽ làm cho hoạt động của họ trở lại bình thường.
Trong liệu pháp kích hoạt hành vi chúng ta phải hoạt động theo một
kế hoạch hay mục tiêu hiếm khi theo cảm giác. Sự ràng buộc một hoạt
động thích đáng có thể có một trị liệu hữu ích bởi sự tranh luận. Hiện
nay những dữ liệu chỉ ra rằng liệu pháp kích hoạt hành vi can thiệp
có thể thành công khi sử dụng trong bối cảnh cả bệnh nhân nội trú và
bệnh nhân ngoại trú để làm nhẹ bớt triệu chứng trầm cảm.
1.3.1.4. Các nghiên cứu về liệu pháp kích hoạt hành vi trên thế giới
Khi nghiên cứu 25 bệnh nhân trầm cảm điều trị nội trú tại bệnh
viện Derek R Hopko nhận thấy sau thời gian điều trị bằng liệu pháp
kích hoạt hành vi điểm trong bình của thang Beck trầm cảm từ
35,1(SD= 7,4) giảm xuống còn 19,1 (SD=13,1).
Theo Coffman, Martell, Dimidjian, Gallop, & Hollon, (2007),
Dimidjian, (2006), liệu pháp kích hoạt hành vi là một trị liệu có hiệu
quả trong điều trị trầm cảm, liệu pháp có hiệu quả tương đương với
Paroxetine và tốt hơn liệu pháp nhận thức trong trầm cảm mức độ
trung bình đến mức độ nặng trong một số lớn thử nghiệm ngẫu
nhiên, dựa trên lý thuyết hành vi cơ bản và những chứng cớ hiện tại
25



×