Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Thực hiện pháp luật về đầu tư nước ngoài ở cộng hòa dân chủ nhân dân lào (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.88 KB, 27 trang )

HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH

NORKEO KOMMADAM

THựC HIệN PHáP LUậT
Về ĐầU TƯ NƯớC NGOàI ở NƯớC CộNG HòA
DÂN CHủ NHÂN DÂN LàO HIệN NAY

TểM TT LUN N TIN S
CHUYấN NGNH: Lí LUN V LCH S NH NC V PHP LUT

H NI - 2016


Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Đức Thảo

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Phản biện 3:

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp
tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi

giờ


ngày

tháng

năm 201

Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện quốc gia và
Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh kinh tế thế giới ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế là con
đường lựa chọn tất yếu để đảm bảo cho sự phát triển bền vững lâu dài cho một
quốc gia. Sau hơn 30 năm thực hiện chính sách đổi mới, nền kinh tế của nước
CHDCND Lào đã chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và đã từng bước phát
triển. Một số ngành có các mặt hàng có chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong
nước và nước ngoài như: điện, vàng, đồng, cà phê, dệt may, bia, sản phẩm gỗ,
dịch vụ viễn thông, ngân hàng và hàng thủ công mỹ nghệ...
Tuy nhiên, trong điều kiện tham gia cộng đồng kinh tế ASEAN kể từ năm
2015 và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, cạnh tranh phát triển
ngày càng trở nên gay gắt. Để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, nhà nước
Lào trước hết phải tạo ra cơ sở pháp lý đa dạng và phù hợp với điều kiện mới.
Sau đó, Luật Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) đầu tiên của CHDCND Lào được
ban hành ngày 19/4/1988, đã được thay thế bằng Luật Khuyến khích và quản lý
ĐTNN được Quốc hội thông qua ngày 14/3/1994, có hiệu lực tháng 6/1994 (sau đây
gọi tắt là Luật Đầu tư nước ngoài của CHDCND Lào) Luật này chỉ điều chỉnh hoạt
động ĐTNN. Năm 2009 Quốc hội Lào đó thông qua Luật khuyến khích đầu tư mới.

Năm 2011 tại kỳ họp của Quốc hội CHDCND Cách mạng Lào lần thứ VIII đã
sửa đổi cuối cùng gọi chung là Luật khuyến khích đầu tư của nước CHDCND Lào.
Những văn bản pháp luật trên đây bước đầu đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng thu hút
được sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài vào Lào trong những năm qua.
Hàng năm lượng vốn đầu tư nước ngoài thường năm sau cao hơn năm trước.
Tuy vậy, thực tiễn đầu tư nước ngoài trong những năm qua cho thấy mặc dù Luật đầu
tư nước ngoài đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư những kết quả thu hút
nguồn vốn của nước ngoài vào Lào còn rất hạn chế. Điều đó do nhiều nguyên nhân
trong đó đáng chú ý là việc thực hiện pháp luật này còn nhiều hạn chế bất cập. Đó là
các chủ thể thực hiện pháp luật đầu tư cũng chưa hiểu hết các pháp luật đầu tư nước
ngoài của Lào; công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật đầu tư nước ngoài
thiếu tính thường xuyên liên tục... Từ đó, dẫn đến có một số chủ thể tuân thủ, chấp
hành không nghiêm, một số chủ thể khác sử dụng pháp luật trong thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của mình chưa có hiệu quả, các cá nhân, cơ quan có thẩm quyền


2

áp dụng pháp luật đôi lúc còn mang tính chủ quan... tác động không nhỏ đến thu hút
của nhà đầu tư nước ngoài vào Lào trong thời gian qua... nhằm khắc phục những bất
cập nêu trên đòi hỏi cần có sự nghiên cứu toàn diện và hệ thống những vấn đề lý luận
mà thực tiễn vấn đề thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài vào CHDCND Lào.
Xuất phát từ những lý do trên NCS chọn đề tài: "Thực hiện pháp luật
về đầu tư nước ngoài ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào" để nghiên cứu
và viết luận án Tiến sĩ Luật học.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích của luận án
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật về ĐTNN
ở nước CHDCND Lào, Luận án đề xuất các quan điểm và giải pháp bảo đảm
thực hiện pháp luật về ĐTNN ở nước CHDCND Lào hiện nay.

2.2. Nhiệm vụ của luận án
Để thực hiện mục đích trên luận án có những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật về ĐTNN ở
nước CHDCND Lào.
- Nghiên cứu đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật về ĐTNN và thực hiện
pháp luật đầu tư ở nước CHDCND Lào, trên cơ sở đó chỉ ra được những ưu điểm,
hạn chế và nguyên nhân của thực trạng này.
- Luận chứng cơ sở khoa học đề xuất các giải pháp bảo đảm thực hiện
pháp luật về ĐTNN ở nước CHDCND Lào hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật ĐTNN
ở nước CHDCND Lào, dưới góc độ lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian nghiên cứu thực hiện pháp luật về ĐTNN ở nước CHDCND
Lào, có tham khảo giá trị một số nước trên thế giới, tập trung là Việt Nam.
- Thời gian chủ yếu từ khi nhà nước CHDCND Lào ban hành luật ĐTNN
năm 1986 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận án đã sử dụng các


3

phương pháp nghiên cứu để phân tích và lý giải các nội dung liên quan đến đề
tài luận án. Cụ thể các phương pháp này bao gồm:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp được dùng chủ yếu để phân tích cơ sở
lý luận về thực hiện pháp luật về ĐTNN ở CHDCND Lào ở chương 2 luận án.
- Phương pháp lịch sử cụ thể được sử dụng chủ yếu ở chương 3 luận án

để phân tích đánh giá quá trình hình thành và phát triển pháp luật ĐTNN.
- Phương pháp so sánh - thống kê được dùng chủ yếu ở chương 3 - đánh
giá thực trạng thực hiện pháp luật ĐTNN từ năm 1986 đến năm 2015, từ đó chỉ
ra được ưu điểm và hạn chế của thực trạng.
5. Đóng góp khoa học mới của luận án
Luận án là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu tương đối toàn diện
hệ thống thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài như nước CHDCND Lào như
vậy có một số đóng góp khoa học mới sau:
- Phân tích và đưa ra được khái niệm và chỉ ra được vai trò, điều kiện
đảm bảo thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài của nước CHDCND Lào.
- Luận án chỉ ra được thành tựu và hạn chế thực hiện pháp luật đầu tư
nước ngoài ở CHDCND Lào.
- Luận án đề xuất hệ thống các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật đầu
tư nước ngoài ở CHDCND Lào hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về phương diện lý luận luận án, góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận và
thực tiễn của thực hiện pháp luật về ĐTNN ở CHDCND Lào, luận giải căn cứ
khoa học, căn cứ đề xuất về quan điểm và giải pháp thực hiện pháp luật ĐTNN
của nước CHDCND Lào hiện nay.
- Về phương diện thực tiễn luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
trong việc nghiên cứu hệ thống pháp luật thực hiện về ĐTNN cũng như là pháp
luật đầu tư của Lào hiện nay, trong công tác xây dựng pháp luật về đầu tư, trong
quản lý hoạt động ĐTNN hay trong công tác giảng dạy các môn khoa học pháp lý
như Luật kinh tế, Lý luận Nhà nước và pháp luật, Luật so sánh, Luật thương mại...
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận án gồm 4 chương, 10 tiết.
Chương 1



4

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở LÀO

Vấn đề pháp luật đầu tư nói chung và thực hiện pháp luật đầu tư trong
nước và ngoài nước nói riêng đã được các cơ quan và các nhà khoa học
CHDCND Lào quan tâm nghiên cứu. Đến nay đã có một số công trình nghiên
cứu đã được công bố liên quan đến đề tài luận án. Các công trình đó được thể
hiện qua các nhóm vấn đề sau:
1.1.1. Nhóm công trình liên quan đến đầu tư và pháp luật đầu tư
Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ
Sengphet Bulom “Pháp luật về hình thức đầu tư Việt Nam trong sự so
sánh với pháp luật đầu tư CHDCND Lào”; Phonepaseuth Mahanousith “Hoàn
thiện pháp luật về khuyến khích đầu tư nhằm hình thành và phát triển các khu
công nghiệp ở nước CHDCND Lào”; Phutsady Phănnhaxít “Pháp luật về khuyến
khích đầu tư ở nước CHDCND Lào - thực trạng và phương hướng hoàn thiện;
Bun thôm Phôm ma vông sy “Đầu tư Nhà nước vào sự phát triển cơ sở hạ tầng
kiến trúc ở tỉnh Sa La Văn”; BunTy ĐêtĐaVôngSỏn:“Cải thiện đầu tư của Nhà
nước trong khu vực nông nghiệp; Syvanh Leemaitêng “Các quy định pháp luật về
đầu tư nước ngoài ở Việt Nam và Lào - Nhìn từ góc độ so sánh; Khăm manh
Sisath “Pháp luật đầu tư của Lào trong tương quan so sánh với pháp luật đầu tư
Việt Nam - Bài học kinh nghiệm hoàn thiện pháp luật đầu tư của CHDCND Lào;
Sengkhamyong Bounnaphone:“Các quy định về khuyến khích đầu tư - so sánh
giữa pháp luật của Việt Nam và của CHDCDN Lào”; Sổm Sắc Sengsắcđa “Đầu
tư trực tiếp nước ngoài ở tỉnh Chăm pa Sắc nước CHDCND Lào”.
1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến đầu tư nước ngoài
và thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài
Luận án tiến sĩ:

KhămLa LoVanXay “Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với đất đai ở
nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào”; Phonesay Vilaysach“ Thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
Luận văn thạc sĩ:
Thặt sa na lon Sỉ su nôn:“Quy tắc khuyến khích và quản lý đầu tư nước
ngoài ở CHDCND Lào trường hợp nghiên cứu việc đầu tư trong công trình


5

thông thường; Khăn keo Đa Ly But:“Giải quyết tranh chấp vấn đề xảy ra vì
đầu tư nước ngoài nghiên cứu để so sánh hệ thống trong và ngoài tòa án;
Alounny Manipakone:“Các biện pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào Thủ đô Vientian nước CHDCND Lào; Ekmongkhon Saiyavong “Nhất thế
hóa pháp luật đầu tư của Việt Nam trong sự so sánh với pháp luật đầu tư của
CHDCND Lào trong tiến trình gia nhập WTO; KhămSải Nănthavông:“Thu hút
vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài căn cứ vào sự phát triển nền kinh tế ở Lào;
BunSổng VaSayGì:“Quản lý đầu tư trực tiếp trong nước và nước ngoài gắn vào
khu vực nông nghiệp ở tỉnh Luông năm Tha; Souliya Pouangpadith:“Các biện
pháp khuyến khích và bảo hộ đầu tư trực tiếp nước ngoài tại CHDCND Lào.
Tạp chí và báo:
Văn Xay Sen Nhot: "Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong quy trình
phát triển kinh tế các tỉnh miền núi phía Bắc Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào";
Văn Xay Sen Nhot: "Để thu hút FDI nhiều hơn tại các tỉnh miền núi phía Bắc
Lào".
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM

1.2.1. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến đầu tư và pháp luật
đầu tư
Luận án tiến sĩ:

Phan Thị Hương Thủy:“Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh
chấp Kinh tế của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam;
Nguyễn Khắc Định:“Hoàn thiện pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong
xu hướng nhất thể chế hóa pháp luật về đầu tư ở Việt Nam; Hồ Hoàng
Đức:“Quản lý nhà nước trên lĩnh vực đầu tư xây dựng trong cơ chế kinh tế
thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Luận văn thạc sĩ:
Trịnh Thị Thu Hương:“Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với đầu
tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành phố Hà Nội; Tống Thị Hạnh:
“Quản lý nhà nước bằng pháp luật về đầu tư xây dựng ở thành phố Hà
Nội”; Phạm Thị Kim Cúc “Thực hiện pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh
vực đầu tư ở tỉnh Vĩnh Phúc; Nguyễn Huy Thường “Hoàn thiện quản lý nhà
nước bằng pháp luật trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản ở Việt Nam hiện
nay; Phạm Mỹ Hương:“Những vấn đề pháp lý về đầu tư theo hợp đồng hợp
tác kinh doanh ở Việt Nam; Nguyễn Duy Nam: “Pháp luật quản lý nhà nước
về đầu tư - những vấn đề lý luận và thực tiễn; Đỗ Thị Phương:“Pháp luật về
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam những vấn


6

đề lý luận và thực tiễn; Trần Bảo Yến:“Pháp luật về đầu tư, kinh doanh vốn
nhà nước trong các tổ chức kinh tế - những vấn đề lý luận và thực tiễn.
1.2.2. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến thực hiện pháp luật
đầu tư
Luận án tiến sĩ:
Trần Tiến Hải “Thực hiện pháp luật về đầu giá quyền sử dụng đất ở các tỉnh
Bắc Trung Bộ Việt Nam hiện nay”; Nguyễn Văn Linh “Thực hiện pháp luật về giải
quyết thủ tục hành chính của cơ quan nhà nước cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay”.
Luận văn thạc sĩ:

Vũ Viết Thiệu:“Thực hiện pháp lệnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
trong quản lý nhà nước lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản; Nguyễn Văn Trường
“Thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài trên địa bàn thủ đô Hà Nội; Đào Thị
Mai:“Nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay thực tiễn của thành
phố Hải Phòng”; Trần Thị Xuân: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện
pháp luật ở thành phố Hà Nội hiện nay; Lệ Thùy Dương: “Hoàn thiện pháp luật về
chuyển nhượng dự án đầu tư kinh doanh bất động sản ở Việt Nam hiện nay.
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

1.3.1. Về lý luận
- Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật ĐTNN ở
CHDCND Lào, cụ thể như sau:
+ Phân tích về pháp luật ĐTNN làm rõ khái niệm, đặc điểm và thực hiện
pháp luật ĐTNN ở CHDCND Lào.
+ Luận chứng cơ sở lý luận về các hình thức thực hiện pháp luật ĐTNN ở
CHDCND Lào và các điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật ĐTNN ở CHDCND Lào.
1.3.2. Về thực tiễn
- Nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển của pháp luật ĐTNN của
CHDCND Lào, từ đó chỉ ra được ưu điểm, hạn chế của pháp luật này qua
từng giai đoạn.
- Đánh giá ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân trong thực hiện pháp luật
ĐTNN của CHDCND Lào từ năm 1986 đến nay.
- Luận chứng khoa học của các quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện
pháp luật ĐTNN đến năm 2020 của CHDCND Lào.
Kết luận Chương 1


7

Nghiên cứu thực hiện pháp luật về đầu tư nước ngoài ở nước Cộng hòa

Dân chủ Nhân dân Lào trong chương 1 luận án đã phân tích tổng quan các công
trình nghiên cứu của các nhà khoa học ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và
Việt Nam về những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Điều đó được phản ánh qua các công trình liên quan đến đầu tư nước ngoài về
pháp luật đầu tư để thực hiện các công trình liên quan đến thực hiện pháp luật
và thực hiện pháp luật về đầu tư nước ngoài. Những công trình này bao gồm
các luận án, luận văn thạc sĩ, các bài báo khoa học được đăng tải trên các tạp
chí uy tín. Những công trình này ở mức độ khác nhau đã đề cập đến một số vấn
đề lý luận liên quan đến đề tài luận án như khái niệm pháp luật đầu tư nước
ngoài, khái niệm và hình thức thực hiện pháp luật chung.
Cho đến nay chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu tương đối đủ, toàn
diện về thực hiện pháp luật đầu tư ở nước CHDCND Lào. Nhất là làm rõ khái niệm,
đặc điểm, vai trò pháp luật đầu tư nước ngoài và thực hiện pháp luật đầu tư nước
ngoài; cũng như những hình thức thực hiện pháp luật này dưới góc độ lý luận chung
về Nhà nước và Pháp luật. Luận án cũng cần chỉ ra được những kết quả, bất cập và
nguyên nhân của thực trạng này. Từ đó tìm kiếm, đề xuất giải pháp khắc phục. Đó
chính là những vấn đề cần tiếp tục đặt ra để nghiên cứu của luận án.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
2.1. KHÁI NIỆM VÀ NỘI DUNG ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI Ở LÀO

2.1.1. Khái niệm đầu tư, đầu tư nước ngoài
Nghiên cứu các công trình khoa học đã được công bố cho thấy đầu tư là
khái niệm được xem xét dưới nhiều góc độ khoa học khác nhau. Chẳng hạn dưới
góc độ kinh tế đầu tư được hiểu là khâu đầu tiên trong quá trình sản xuất kinh
doanh của một chủ thể đầu tư.
Đầu tư được phân thành hai loại cơ bản là đầu tư trong nước và ĐTNN.
Đầu tư trong nước là việc nhà đầu tư trong nước bỏ vốn bằng tiền và các

tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư.
Đầu tư nước ngoài là việc nhà ĐTNN đưa vào Lào vốn bằng tiền và các
tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư.


8

Từ những khái niệm trên, có thể hiểu đầu tư nước ngoài như sau: “Đầu
tư nước ngoài là loại hình kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn
bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào đó để thiết lập các cơ sở sản xuất kinh
doanh ở nước tiếp nhận đầu tư, nhờ đó họ có quyền sở hữu và tham gia quản
lý, điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư nhằm mục đích thu được lợi
nhuận từ những hoạt động đầu tư đó ”.
2.1.2. Khái niệm pháp luật đầu tư nước ngoài
- Có quan niệm cho rằng pháp luật ĐTNN là một bộ phận, hay một chế
định của tư pháp quốc tế, bởi các quan hệ đầu tư mà nó điều chỉnh có yếu tố
nước ngoài, chủ thể đầu tư là cá nhân, tổ chức nước ngoài.
- Quan niệm khác lại cho pháp luật ĐTNN không thuộc một ngành luật nào,
mà là ở vùng giao thoa của nhiều ngành luật, song gần gũi với ngành luật kinh tế.
- Bên cạnh đó quan niệm coi pháp luật đầu tư chỉ là một bộ phận của
pháp luật thương mại, bởi quan niệm có tính phổ biến trên thế giới, trong đó có
quan niệm của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), trong các hiệp định của
tổ chức này, đầu tư chỉ được coi là một trong các hành vi thương mại.
Luận án tiếp cận khái niệm pháp luật ĐTNN dưới góc độ lý luận chung về
nhà nước và pháp luật nên có thể hiểu pháp luật ĐTNN là tổng hợp những quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lính vực đầu tư nước
ngoài nhằm bảo đảm các hoạt động ĐTNN được thực hiện có hiệu lực, hiệu quả
góp phần phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.
2.1.3. Nội dung điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài ở Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào

Xuất phát từ quan niệm pháp luật ĐTNN nêu trên và pháp luật ĐTNN
hiện hành của Lào cho thấy pháp luật này tập trung điều chỉnh một số nhóm
quan hệ sau:
Một là, nhóm các quy định về quan điểm và chính sách ĐTNN.
Hai là, nhóm các quy định về hình thức ĐTNN.
Ba là, Nhóm các quy định về quyền lợi và nghĩa vụ của nhà đầu tư.
Bốn là, nhóm của quy định và tổ chức quản lý đầu tư nước ngoài
2.2. KHÁI NIỆM, HÌNH THỨC, VAI TRÒ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU
TƯ NƯỚC NGOÀI

2.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật đầu tư


9

Về phương diện lý luận có các quan niệm khác nhau về thực hiện pháp
luật, tác giả luận án đồng tình với khái niệm thực hiện pháp luật được hiểu là một
quá trình hoạt động có mục đích làm cho các quy định của pháp luật trở thành
hiện thực trong cuộc sống, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ
thể pháp luật. Theo đó, có thể hiểu thực hiện pháp luật ĐTNN là toàn bộ quá
trình hoạt động có mục đích của các chủ thể đầu tư nước ngoài làm cho các quy
định của pháp luật ĐTNN được hiện thực hóa trong thực tiễn cuộc sống.
2.2.2. Các hình thức thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài
Về phương diện lý luận thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài cũng gồm
bốn hình thức nêu trên cụ thể như:
Một là, tuân thủ pháp luật đầu tư nước ngoài tuân thủ pháp luật là hình thức
thực hiện pháp luật thụ động, trong đó các chủ thể đầu tư kiềm chế không tiến hành
những hoạt động mà pháp luật đầu tư nước ngoài ngăn cấm.
Hai là, thi hành hay chấp hành pháp luật đầu tư nước ngoài là hình thức
thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý

của của mình bằng hành động tích cực.
Ba là, sử dụng pháp luật đầu tư nước ngoài là hình thức thực hiện pháp
luật trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể, tức là thực hiện
những hành vi mà pháp luật cho phép.
Bốn là, áp dụng pháp luật đầu tư nước ngoài là thực hiện pháp luật trong
đó nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức
cho các chủ thể thực hiện những quy định của pháp luật.
2.2.3. Vai trò thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài
Một là, thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài góp phần thu hút nguồn
vốn đầu tư của nước ngoài nhằm phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Hai là, thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài góp phần tăng cường pháp
chế XHCN ở Lào nói chung và trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài nói riêng.
Ba là, thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng trong
thu hút vốn đầu tư nước ngoài, bảo vệ lợi ích hợp pháp cho các chủ đầu tư.
2.3. CÁC ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI Ở LÀO

2.3.1. Bảo đảm về chính trị


10

Nước CHDCND Lào là một nước có một Đảng lãnh đạo, Đảng NDCM
Lào là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo nhà nước và xã hội. Trong lĩnh vực
kinh tế, Đảng lãnh đạo bằng việc xác định rõ đường lối chính sách mở rộng
quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để học hỏi, tiếp thu
chọn lọc kinh nghiệm quốc tế, nhằm tạo lập một hệ thống pháp luật đầu tư phù
hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của cả nước.
Thứ nhất, ổn định kinh tế chính trị là cơ sở để tăng cường ĐTNN.
Thứ hai, thống nhất môi trường pháp lý giữa đầu tư trong nước và đầu tư

nước ngoài là chủ trương để xây dựng mặt bằng pháp lý cho doanh nghiệp trong
nước và doanh nghiệp có vốn ĐTNN cũng như để phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thứ ba, chú trọng cải tạo xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng
vững chắc. Đây là điều hết sức quan trọng để các nhà đầu tư quyết định đầu tư
vốn của mình vào một quốc gia khác.
Tóm lại, trong quá trình đổi mới và nâng cao chất lượng lãnh đạo của các
cấp ủy Đảng trong tổ chức thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài đặt ra yêu cầu là:
Phải nghiên cứu, nhận thức đúng hệ thống các quan điểm của Đảng về mở cửa,
hội nhập kinh tế quốc tế để việc thực hiện pháp luật về ĐTNN ở CHDCND Lào đi
đúng hướng và phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện phát triển chung của Lào. Trong
đó, luôn luôn phải đảm bảo yêu cầu là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.
2.3.2. Bảo đảm về pháp lý
Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật và tính đồng bộ trong cơ chế thực hiện
pháp luật, bảo vệ pháp luật của Nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Một là, bảo đảm về sự hoàn thiện của hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật, trong đó có các văn bản pháp luật về ĐTNN.
Hai là, bảo đảm hiệu quả các hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật và là
tổ chức thực hiện vốn.
Ba là, bảo đảm sự hoàn thiện của quy trình thực hiện pháp luật.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu ý thức pháp luật với tư cách là yếu tố bảo đảm
thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài cần chú ý các đặc thù của các quan hệ
pháp luật đầu tư nước ngoài, trong đó chủ thể một bên là người nước ngoài, đối
tượng của các quan hệ đó là tài sản thuộc sở hữu của người nước ngoài. Đây là
vấn đề phức tạp trong bảo đảm thực hiện pháp luật về ĐTNN.
2.3.3. Bảo đảm kinh tế đối với thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài
2.3.3.1. Bảo đảm về vốn và tài sản của nhà đầu tư
Việc bảo đảm về vốn và các tài sản khác của nhà đầu tư là biện pháp bảo


11


đảm đầu tư quan trọng nhất, bởi vì điều đầu tiên mà các nhà đầu tư quan tâm khi
đầu tư là vốn có được bảo đảm không, bảo đảm như thế nào. Ngược lại, Nhà nước
đang rất cần huy động vốn đầu tư trong và ngoài nước cho phát triển kinh tế.
Nguồn vốn này lại chỉ phải trả lãi nếu đem lại lợi nhuận và việc trả lãi này
còn bị khống chế bởi hệ thống thuế và các chính sách kiểm soát của Nhà nước
có chủ quyền.
Theo quy định của pháp luật Lào, chủ đầu tư có toàn quyền quyết định việc
sử dụng vốn bằng tiền, thiết bị, máy móc, dụng cụ, bộ phận rời được đưa vào đầu
tư, dưới mọi hình thức mà pháp luật cho phép, theo các hình thức đầu tư trực tiếp.
Ngoài ra, với các vốn đầu tư dưới hình thức bằng sáng chế, bí quyết kỹ
thuật, dịch vụ kỹ thuật, căn cứ vào pháp luật về quyền bảo hộ sở hữu công
nghiệp, các vốn này được Nhà nước CHDCND Lào bảo hộ, phù hợp với các
Điều ước quốc tế mà Lào tham gia, hoặc theo nguyên tắc có đi có lại.
Tóm lại, việc bảo đảm vốn đầu tư là một việc quan trọng và là một yếu tố tích
cực trong môi trường đầu tư. Số phận của tài sản của nhà đầu tư phải được đảm bảo
bằng một loạt những quy định của pháp luật để tạo nên một cơ sở pháp lý ổn định
cho vấn đề này. Bên cạnh đó, Nhà nước còn phải thực hiện nhiều hoạt động khác để
bảo đảm cho nhà đầu tư thực sự yên tâm trong việc bỏ vốn vào đầu tư.
2.3.3.2. Bảo đảm chuyển vốn, tài sản ra nước ngoài của nhà đầu tư
Nhà nước CHDCND Lào luôn luôn tôn trọng và bảo đảm cho các nhà
đầu tư có thể chuyển lợi nhuận và các tài sản hợp pháp của mình ra nước
ngoài một cách thuận tiện và nhanh chóng.
Nhà nước CHDCND Lào cũng không cấm các nhà ĐTNN, người nước
ngoài làm việc tại Lào cho các dự án đầu tư thực hiện việc chuyển vốn và tài
sản hợp pháp ra nước ngoài (Điều 12 Luật đầu tư năm 2004), những khoản hợp
pháp được chuyển ra nước ngoài bao gồm: Lợi nhuận thu được tự hoạt động
kinh doanh; Những khoản tiền trả cho việc cũng cấp kỹ thuật dịch vụ sở hữu trí
tuệ; tiền gốc và lãi các khoản vay nước ngoài; vốn đầu tư các khoản thanh lý
đầu tư; các khoản tiền và tài sản hợp pháp thuộc sở hữu của nhà đầu tư; thu

nhập hợp pháp của người lao động nước ngoài làm việc cho các dự án đầu tư.
Tuy nhiên, việc qui định về thuế vận chuyển lợi nhuận ra nước ngoài có
những bất cập mà một trong những bất cập đó đánh thuế trùng lập trên một đối
tượng chịu thuế. Trên thực tế phần lợi nhuận của các nhà đầu tư đã phải gánh
chịu nghĩa vụ thuế thu nhập doanh nghiệp, nếu sau đó lại là đối tượng chịu thuế
chuyển lợi nhuận ra nước ngoài thì không hợp lý. Vì vậy, pháp luật hiện hành
của CHDCND Lào về thuế cũng như về đầu tư đã thống nhất bỏ thuế chuyển lợi


12

nhuận ra nước ngoài nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng cho các nhà đầu tư.
2.3.3.3. Bảo đảm đối đãi công bằng giữa các nhà đầu tư tại Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào
Pháp luật CHDCND Lào bảo đảm đối đãi với nhà đầu tư thực sự công
bằng, điều này được thể hiện như là: đối xử công bằng và bảo đảm điều kiện
sản xuất kinh doanh cho nhà đầu tư. Đối xử công bằng có thể hiểu là sự đối xử
không phân biệt nhà đầu tư là ai, ở nước nào.
Đảm bảo đối xử thỏa đáng với các nhà đầu tư được hiểu là : khi một tổ
chức, cá nhân đưa vốn vào đầu tư tại CHDCND Lào, Nhà nước phải tạo cho họ
những điều kiện thuận lợi nhất tương ứng với giá trị tài sản họ bỏ ra đầu tư. Để
đảm bảo vấn đề này, Nhà nước dựa chủ yếu vào những biện pháp đòn bẩy kinh
tế, mà hiệu quả nhất là thuế. Bằng những quy định của pháp luật, chúng ta đã
đưa ra các biểu thuế, thuế suất cho các tổ chức, cá nhân có hoạt động đầu tư tại
Lào. Nói chung, các sắc thuế của Lào hiện nay đầu tư bảo đảm tạo điều kiện
thuận lợi cho các nhà đầu tư.
2.3.4. Các điều kiện đảm bảo khác
Một là, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có đủ trình độ, năng lực
về chuyên môn nghiệp vụ liên quan đến đầu tư nước ngoài, đồng thời có kỹ
năng tổ chức tốt quá trình thực hiện pháp luật nói chung và thực hiện pháp

luật đầu tư nước ngoài nói riêng.
Hai là, bảo đảm về ý thức tự giác chấp hành pháp luật các chủ thể. Hành vi xử
sự của các chủ thể pháp luật là yếu tố quyết định tính hiệu quả trong điều chỉnh pháp
luật, trong việc thực hiện pháp luật.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền, cùng với
sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội thì việc nâng cao ý thực pháp luật sẽ là điều
kiện quan trọng để tổ chức thực hiện pháp luật có hiệu quả, trong đó có việc thực
hiện pháp luật về ĐTNN.

Kết luận Chương 2
Trên đây là những nội dung lý luận cơ bản của chương 2 luận án. Đó là
những luận cứ lý luận để nghiên cứu đánh giá thực trạng và đề xuất của giải
quyết nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài ở Cộng hoà dân chủ
nhân dân Lào ở các chương tiếp theo của luận án.
Chương 3
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT VÀ
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI


13

Ở NƯỚC CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
3.1. SỰ HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI Ở CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
3.1.1. Pháp luật đầu tư nước ngoài trước thời kỳ đổi mới (trước năm 1986)
Sau ngày giải phóng đất nước Lào năm 1975, Đảng và Nhà nước Lào
đề ra chủ trương khôi phục và xây dựng đất nước sau chiến tranh. Đến năm
1978 Uỷ ban kế hoạch nhà nước Lào đã đề ra kế hoạch phục hồi phát triển
kinh tế xã hội 3 năm (1978 - 1981).
Giai đoạn từ năm 1981 đến năm 1986, thực hiện chủ trương phát triển kinh

tế và tập trung phát triển cơ sở hạ tầng, xây dựng hệ thống đường giao thông kết
nối từ Bắc đến Nam trên phạm vi cả nước và các nước láng giềng, trong đó tổ
chức phát triển và khuyến khích đầu tư nước ngoài, phát triển kinh tế đối ngoại
của Đảng NDCM Lào là nội dung quan trọng, Nhà nước Lào đã quan tâm đến
việc xây dựng thể chế, thiết chế để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào Lào.
Tóm lại, trong giai đoạn từ sau ngày giải phóng năm 1975 đến năm 1986,
Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào tập trung mọi nguồn lực để khôi phục và phát
triển kinh tế, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (1981 - 1986)
theo con đường XHCN. Trong thời kỳ này, vấn đề đầu tư nước ngoài chưa được
quan tâm đúng mức. Các quan hệ đầu tư nếu có chỉ áp dụng ở những văn bản
riêng lẻ có quy định đề cập đến vấn đề này. Nói cách khác pháp luật đầu tư
nước ngoài ở Lào thời kỳ này rất ít và tản mạn. Chưa có những văn bản pháp
luật chuyên biệt về đầu tư nói chung và đầu tư nước ngoài nói riêng. Vì lẽ đó,
việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Lào thời kỳ này rất hạn chế.
3.1.2. Pháp luật đầu tư nước ngoài ở Lào thời kỳ đổi mới (từ năm
1986 đến nay)
Từ năm 1986 đến nay, Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào thực hiện
đường lối đổi mới toàn diện đất nước do Đảng NDCM Lào đề ra Đại hội
Đảng lần thứ IV. Trong đó nội dung cơ bản là đổi mới cơ cấu kinh tế nhằm
chuyển nền kinh tế tự nhiên, tự túc tự cấp thành nền kinh tế hàng hoá; đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế, xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Theo luật đầu tư năm 1988, nhà đầu tư nước ngoài có thể đầu tư vào Lào
dưới ba hình thức: hợp đồng hợp tác kinh doanh; hợp doanh giữa nhà đầu tư


14

nước ngoài và đầu tư trong nước, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Trước hết, cần khẳng định rằng doanh nghiệp có vốn ĐTNN được đối xử

bình đẳng so với các tổ chức kinh doanh khác của Lào có toàn quyền quyết định
chương trình và kế hoạch kinh doanh của mình phù hợp với giấy phép đầu tư đã
được cấp và thực hiện đúng các nghĩa vụ mà pháp luật Lào quy định.
Chính phủ CHDCND Lào sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc các nhà đầu
tư nước ngoài, người lao động nước ngoài kể cả các thành viên gia đình của họ
trong việc xuất nhập cảnh và nghỉ ngơi ở Lào vì mục đích kinh doanh hoặc vì
công việc gia đình, nhưng họ phải tôn trọng và tuân theo pháp luật của Lào
trong suốt thời gian ở CHDCND Lào. Nhà đầu tư nước ngoài phải mở tài khoản
bằng tiền Kip và tiền nước ngoài tại Ngân hàng của Lào hoặc ngân hàng nước
ngoài đặt tại Lào. Trong việc quản lý kinh doanh, nhà đầu tư nước ngoài phải
áp dụng chế độ kế toán của Lào và chịu sự kiểm soát thường xuyên theo chế độ
quản lý, kế toán của Chính phủ Lào.
Tóm lại, có thể đánh giá chung quá trình phát triển pháp luật đầu tư nói
chung và đầu tư nước ngoài ở Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào nói riêng là quá
trình phát triển từ chưa thống nhất, đồng bộ đến thống nhất đồng bộ hơn; từ tản
mạn đến hệ thống và được hoàn thiện từ thấp đến cao. Kỹ thuật lập pháp và
pháp điển hoá ngày càng cao hơn. Điều đó, bước đầu đã tạo được khuôn khổ
pháp lý để điều chỉnh, quản lý đầu tư nói chung và đầu tư nước ngoài ở
CHDCND Lào nói riêng ngày càng tốt và hiệu quả hơn
3.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Ở
CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

3.2.1. Những ưu điểm thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài ở Cộng
hoà dân chủ nhân dân Lào
3.2.1.1. Chấp hành pháp luật đầu tư nước ngoài
Để chấp hành thực hiện tốt pháp luật ĐTNN tại CHDCND Lào, Chính
phủ Lào đã thành lập cơ quan Nhà nước về chấp hành luật đầu tư nước ngoài tại
Lào đạt được kết quả cao, đây gọi là Uỷ ban quản lý đầu tư nước ngoài. Các
nhà đầu tư nước ngoài có nhu cầu xin phép đầu tư phải gửi cho Uỷ ban quản lý
ĐTNN hồ sơ gồm: Đơn xin cấp giấy phép đầu tư; Giải trình kinh tế - kỹ thuật,

điều lệ doanh nghiệp; Hợp đồng liên doanh; Hợp đồng hợp tác kinh doanh và
các tài liệu cần thiết khác.
3.2.1.2. Thực thi pháp luật đầu tư nước ngoài


15

Nhà nước đã chú ý đặc biệt giữa hai bên đầu tư cấp Trung ương và địa
phương để thành lập bộ máy giúp việc của Uỷ ban tổ chực thực hiện pháp luật
về ĐTNN tại CHDCND Lào, đây là một cách để thực hiện pháp luật đầu tư
nước ngoài có hiệu quả. Chính phủ là nơi quản lý chung và thống nhất trên toàn
quốc, giao ngành Kế hoạch và Đầu tư, ngành Công thương phối hợp với các
ngành hữu quan liên quan và chính quyền địa phương là chủ quản theo vai trò,
chức năng nhiệm vụ của mỗi nơi.
Chính quyền địa phương có nhiệm vụ tham gia theo chức năng vai trò của
mình trong việc quản lý dự án đầu tư đặt tại địa phương mình do Trung ương
cấp phép. Việc phân cấp quản lý đã được quy định rõ trong luật của các ngành,
do đó thực hiện theo như các luật đã định [75, tr.36-43]. (Luật 2009)
Vì vậy để đạt hiệu quả cao trong tổ chức thực hiện pháp luật đầu tư nước
ngoài cần phải đào tạo đội ngũ chuyên gia, người có nghiệp vụ chuyên môn tốt
về lĩnh vực này trong các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức
thành phần kinh tế khác nhau.
3.2.1.3. Sử dụng pháp luật đầu tư nước ngoài
Sử dụng pháp luật ĐTNN ngoài là một hình thức thực hiện pháp luật về
đầu tư trong đó chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện
những hành vi mà pháp luật cho phép).
Sử dụng pháp luật ĐTNN, trước hết cần khẳng định rằng doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài được đối xử bình đẳng so với các tổ chức kinh doanh
khác của Lào, có toàn quyền quyết định chương trình và kế hoạch kinh doanh
của mình phù hợp với giấy phép đầu tư đã được cấp và thực hiện đúng các

nghĩa vụ mà pháp luật Lào quy định.
Chính phủ CHDCND Lào sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc các nhà đầu
tư nước ngoài, người lao động nước ngoài kể cả các thành viên gia đình của họ
trong việc xuất nhập cảnh và nghỉ ngơi ở Lào vì mục đích kinh doanh hoặc vì
công việc gia đình, nhưng họ phải tôn trọng và tuân theo pháp luật của Lào
trong xuất thời gian ở CHDCND Lào. Nhà đầu tư nước ngoài phải mở tải khoản
bằng tiền Kíp và tiền nước ngoài tại Ngân hàng của Lào hoặc ngân hàng nước
ngoài đặt tại Lào. Trong việc quản lý kinh doanh, nhà đầu tư nước ngoài phải
áp dụng chế độ kế toán của Lào và chịu sự kiểm soát thường xuyên theo chế độ
quản lý, kế toán của Chính phủ Lào.
3.2.1.4. Áp dụng pháp luật đầu tư nước ngoài


16

Áp dụng pháp luật đầu tư nước ngoài luôn gắn liền với việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước với hoạt động quản
lý nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
- Pháp luật tác động vào các quan hệ xã hội, vào cuộc sống với hiệu quả
cao nhất chỉ khi những quy phạm của nó phản ánh chính xác ý nguyện của nhân
dân, phù hợp quy luật xã hội và được thực chính xác, triệt để.
Trong một số quan hệ pháp luật mà nhà nước thấy cần thiết phải tham gia
để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia vào quan hệ đó, hoặc nhà
nước xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại của một số sự việc, sự kiện thực tế.
Ví dụ, việc xác nhận di chúc, chứng thực thế chấp... Tóm lại, áp dụng pháp luật
ĐTNN là hoạt động thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà nước mà biểu hiện
cụ thể là một hình thức thực pháp luật, hoặc là cách thức nhà nước tổ chức các
chủ thể thực hiện pháp luật.
Áp dụng pháp luật ĐTNN được tiến hành chủ yếu theo ý chí đơn phương
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, không phụ thuộc vào ý chí của chủ

thể bị áp dụng pháp luật; Áp dụng pháp luật ĐTNN có tính chất bắt buộc (trong
trường hợp cưỡng chế) đối với chủ thể bị áp dụng và các chủ thể có liên quan;
Áp dụng luật pháp luật ĐTNN được thực hiện theo một quy trình, thủ tục
chặt chẽ do pháp luật quy định; Áp dụng pháp luật ĐTNN là hoạt động điều
chỉnh cá biệt, cụ thể đối với các quan hệ xã hội xác định; Áp dụng pháp luật đầu
tư nước ngoài là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo, khi áp dụng pháp luật này, các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải nghiên cứu kỹ lưỡng vụ việc, làm sáng tỏ
bản chất pháp lý của nó để từ đó lựa chọn đúng, chính xác quy phạm, ra văn bản
áp văn bản áp dụng pháp và tổ chức thi hành kịp thời.
Như vậy, áp dụng pháp luật đầu tư nước ngoài là hoạt động mang tính tổ
chức, tính quyền lực nhà nước, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoạt
các tổ chức xã hội được Nhà nước trao quyền thực hiện nhằm đưa các quy
phạm pháp luật vào cuộc sống và lợi ích cho người dân toàn diện.
3.2.2. Hạn chế của thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài ở Cộng hoà dân
chủ nhân dân Lào
Một là, việc tuân thủ pháp luật đầu tư của một số pháp luật đầu tư còn
hạn chế.
Hai là, việc áp dùng pháp luật đầu tư chưa được nhất quán.
Ba là, Công tác quản lý nhà nước đối với đầu tư trong và nước ngoài
cũng còn nhiều mặt yếu kém.
3.2.3. Nguyên nhân của những yếu kém về thực hiện pháp luật về đầu


17

tư ở nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào
- Nguyên nhân khách quan: Những năm qua, Nhà nước CHDCND Lào
đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động đầu tư; Sự cạnh
tranh trong thu hút FDI đối với việc thực thiện pháp luật ĐTNN, giữa các
nước trong khu vực.

- Nguyên nhân chủ quan: Do nhận thức về vai trò, vị trí của thực hiện
pháp luật ĐTNN trong nền kinh tế chưa thực sự thống nhất cao và do chưa
quán triệt đầy đủ quan điểm, chủ trương thực hiện pháp luật ĐTNN của Đảng
ở các cấp các ngành đến người dân; Hệ thống luật pháp, chính sách về thực
hiện pháp luật ĐTNN ở Lào nói chung đang trong quá trình hoàn thiện nên
còn thiếu tính đồng bộ và ổn định, thiếu chính xác, thậm chí còn chồng chéo,
đặc biệt là thiếu tính thể chế nên chưa tạo điều kiện cho hoạt động thực hiện
các dự án FDI một cách dễ dàng.
Kết luận Chương 3
Trên cơ sở những vấn đề lý luận thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài ở
CHDCND Lào ở chương 2, chương 3 luận án tập trung nghiên cứu quá trình hình
thành phát triển pháp luật đầu tư nước ngoài ở Cộng hoà DCND Lào. Có thể nhận
thấy rằng quá trình phát triển pháp luật đầu tư nước ngoài ở Lào là quá trình thể
chế hoá chủ trương của Đảng NDCM Lào về đường lối đổi mới toàn diện đất
nước Lào nói chung và đường lối hợp tác kinh tế quốc tế nhằm thu hút nguồn vốn
đầu tư nước ngoài vào Lào nói riêng. Hệ thống pháp luật đầu tư nước ngoài được
phát triển từ những quy định tản mạn, thiếu luật chuyên biệt điều chỉnh đầu tư ở
Lào nói chung và đầu tư nước ngoài nói riêng đến hệ thống pháp luật đầu tư nước
ngoài ngày càng đồng bộ và hoàn thiện và có luật riêng đến điều chỉnh quan hệ
này. Những kết quả của chương này luận án là cơ sở thực tiễn quan trọng cho việc
đề xuất các quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài
ở CHDCND Lào ở chương tiếp theo (chương 4) của luận án.
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
Ở NƯỚC CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY
4.1. QUAN ĐIỂM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI Ở CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY

4.1.1. Thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài ở Lào gắn liền với

chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài của Lào trong thời kỳ đổi mới


18

Đầu tư nước ngoài có ý nghĩa là sự chuyển vốn gồm có: Tài sản, kỹ thuật và
kinh nghiệm vào nước CHDCND Lào bởi nhà đầu tư nước ngoài nhằm mục đích
kinh doanh. Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân hoặc pháp nhân nước ngoài đến đầu
tư ởnước CHDCND Lào.
Tài sản là bằng tiền tệ, các đồ vật tài sản về trí tuệ. Chúng ta điều biết, các
nhà đầu tư chỉ yên tâm và mạnh dạn bỏ vốn, tài sản ra sản xuất, kinh doanh khi
họ chắc chắn rằng vốn họ bỏ ra sẽ có lãi và cả vốn lẫn lãi của họ đều được bảo
đảm an toàn. Do vậy, bảo đảm đầu tư là một trong những phương cách có tính
chiến lược để khuyến khích đầu tư và thu hút vốn đầu tư.
- Bảo đảm đầu tư là những cam kết của nước tiếp nhận đầu tư nhằm đảm bảo
an toàn về mặt pháp lý cũng như về mặt thực tiễn đối với tài sản, vốn, các quyền và
lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư nước ngoài khi tiến hành các hoạt động đầu tư tại
nước tiếp nhận. Ngoài ra, những khả năng rủi ro đó cũng có thể được cam kết giảm
bớt hoặc ngăn chặn không cho xảy ra bởi chính Nhà nước tiếp nhận đầu tư.
- Sự bảo đảm ĐTNN là như: Tài sản và mọi sự đầu tư của nhà ĐTNN ở
nước CHDND Lào sẽ được bảo đảm bởi pháp luật của Lào, các tài sản đầu tư
này không bị thu hồi, tịch thu gồm cả quốc hữu hoá, ngoại trừ có sự cần thiết
vì lý do quốc phòng, an ninh và lợi ích quốc gia.
Theo nghĩa hẹp thì đó là sư bảo đảm bằng pháp luật vốn các tài sản khác
được các nhà đầu tư đưa vào sản xuất, đưa vào kinh doanh. Vốn là vấn đề được
quan tâm hơn cả nên yêu cầu bảo đảm vốn được đặt lên hàng đầu. Theo tư duy
mới, đầu tư nói chung, nhất là đầu tư trực tiếp của nước ngoài là một loại
hình thị trường, bên cạnh các thị trường hàng hoá, lao động…
Tóm lại, về bảo đảm pháp luật đầu tư phải bao hàm tất cả những nội dung
trên. Pháp luật bảo đảm đầu tư được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp

luật thuộc nhiều ngành luật như : Hiến pháp, Luật Đầu tư, luật liên quan đến
lĩnh vực đầu tư cũng như các văn bản pháp quy khác, trong các điều ước quốc
tế về bảo đảm ĐTNN do các bên hữu quan ký kết…
4.1.2. Thực hiện pháp luật về đầu tư nước ngoài ở nước Cộng hoà dân
chủ nhân dân Lào phải gắn liền với bảo đảm lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư
Để thể chế hoá các chủ trương đó và xuất phát từ chính sách đổi mới nền
kinh tế, mở cửa và hội nhập với nước ngoài, ngày 19/04/1988 Quốc hội quốc
gia ban hành Luật Đầu tư nước ngoài, cho phép các tổ chức, công ty và các cá
nhân nước ngoài được đầu tư vào Lào.


19

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, hệ thống văn bản pháp luật đã bộc lộ
những yếu kém không phù hợp với tình hình mới. Đồng thời, để cụ thể hoá những
chủ trương chính sách mới, Nhà nước đã không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp
luật về ĐTNN nhằm làm cho môi trường đầu tư ở Lào ngày càng trở nên hấp dẫn,
thông thoáng, tạo điều kiện cho hoạt động ĐTNN ở Lào đạt hiệu quả hơn.
Nhìn nhận một cách tổng quát, hệ thống pháp luật về ĐTNN của Lào tuy
còn nhiều thiếu sót và nhược điểm, nhưng vẫn được coi là tương đối thông thoáng
và hấp dẫn đối với nhà ĐTNN. Những lợi ích này phải được nhìn nhận một cách
toàn diện và lâu dài. Bên cạnh đó, Nhà nước còn không ngừng cải tiến hệ thống
pháp luật về đầu tư nước ngoài cho hoàn thiện, phù hợp và hấp dẫn hơn.
4.1.3. Thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài phải bảo đảm ổn định
chính trị, phát triển cơ sở hạ tầng và thủ tục hành chính
Một là, sự ổn định về chính trị, thể chế chính trị, sự nhất quán trong chủ
trương, đường lối chính sách cơ bản của nhà nước luôn là yếu tố tạo môi trường
đầu tư kinh doanh hấp dẫn các nhà đầu tư.
Nếu nước tiếp nhận đầu tư có bất kỳ sự xung đột nào ở trong nước hay ở
trong khu vực, nội chiến hay sự hoài nghi... đều thiếu thiện cảm đối với các nhà

đầu tư nước ngoài, bởi vì đây là những nhân tố tác động tiêu cực đến tâm lý và
hành động thực tế của chủ đầu tư cũng như làm chậm lại các cải cách chính
sách cần thiết đối với việc thu hút FDI của nước nhận đầu tư.
Tóm lại, chính trị, kinh tế - xã hội của nước tiếp nhận đầu tư càng ổn định
thì càng có khả năng thu hút được nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Hai là, để tăng cường hoạt động đầu tư, ngoài môi trường pháp lý
thông thoáng, minh bạch đòi hỏi các nước phải có kết cấu hạ tầng, tương
xứng với sự chuyển đổi nền kinh tế.
Việc phát triển và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng là điều kiện để tăng
sức hấp dẫn của môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho những nước tiếp
nhận đầu tư có thể khai thác lợi ích nhiều hơn, đầy đủ hơn từ các dịch vụ vận
tải, thông tin, điện, nước từ các dự án đầu tư đã được triển khai.
Từ lúc mở cửa đến nay, Lào đã phát triển một số tuyến đường tới nông
thôn, vùng sâu, vùng xa, các tuyến đường đi ra các nước láng giềng như Việt
Nam, Thái Lan, Campuchia, Trung Quốc... Cải tạo và nâng cấp các tuyến
đường từ trung ương đến các tỉnh, địa phương.
Tóm lại, hệ thống kết cấu hạ tầng đó phải giúp cho nhà ĐTNN tiện nghi


20

và sự thoải mái, giúp họ giảm được chi phí về giao thông vận tải, giúp họ duy
trì được các mối quan hệ dễ dàng làm ăn với các đối tác trong nước và trên toàn
cầu được thuận lợi.
Ba là, thủ tục hành chính rất được nhà đầu tư nước ngoài chú ý khi lựa
chọn quốc gia để đầu tư. Bộ máy đó phải thống nhất, gọn nhẹ, sáng suốt. Các
thủ tục hành chính và những quy định pháp lý phải đơn giản, công khai và nhất
quán. Vì mục tiêu của FDI là nhằm thu lợi nhuận cao, do vậy, nếu các dự án
FDI đã được triển khai đạt tỷ suất lợi nhuận cao sẽ khuyến khích và củng cố
niềm tin cho các nhà ĐTNN tiếp tục đầu tư. Ngược lại, nếu các dự án đang triển

khai kinh doanh không hiệu quả, thường xuyên thua lỗ sẽ làm nản lòng các nhà
đầu tư, vì họ cho rằng có thể môi trường đầu tư không tốt.
Tóm lại, FDI sẽ tìm đến quốc gia có nền kinh tế - xã hội ổn định; hệ
thống pháp luật đầu tư đầy đủ, cởi mở, tin cậy và mang tính chuẩn mực quốc tế
cao; thủ tục hành chính không rườm rà, chính sách đầu tư linh hoạt và đủ sức
hấp dẫn, cơ sở hạ tầng tốt, lao động có trình độ và rẻ...
4.2. GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI Ở CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY

4.2.1. Nhóm giải pháp chung
Một là, hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài ở Lào hiện nay.
- Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đầu tư nước ngoài và các
văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Xây dựng và hoàn thiện một hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có hệ thống các văn bản quy phạm pháp
luật về đầu tư nước ngoài đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, minh bạch và khả thi sao
cho pháp luật đó thực sự là công cụ chủ yếu để quản lý xã hội, góp phần xây dựng
và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà
nước pháp quyền của Lào, do nhân dân, vì nhân dân trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là điều kiện tiên
quyết để bảo đảm thực hiện pháp luật, nâng cao hiệu quả ĐTNN ở CHDCND Lào.
- Trong hoạt động xây dựng pháp luật về đầu tư nước ngoài và các văn
bản có liên quan, cần thu hút các chuyên gia giỏi vào các giai đoạn soạn thảo,
thẩm định. Trong nhiều trường hợp cần lấy ý kiến của doanh nghiệp, nhân dân
một cách rộng rãi, có hiệu quả trước khi ban hành.
- Trong hoạt động ban hành các văn bản pháp luật đầu tư nước ngoài, của
Lào cần áp dụng các quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
của Hội đồng Uỷ viên Quốc hội và Uỷ ban kế hoạch đầu tư năm 2004.


21


Hai là, tiếp tục củng cố và ổn định chính trị - xã hội.
Ba là, tăng cường hoạt động xúc tiến đầu tư nước ngoài và quản lý Nhà
nước về đầu tư nước ngoài.
Bốn là, phát triển hạ tầng cơ sở thông thoáng tạo điều kiện thuận lợi cho
các nhà đầu tư.
4.2.2. Nhóm giải pháp cụ thể
Một là, hoàn thiện cơ chế thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài ở Lào.
- Đối với Chính phủ
- Đối với Bộ Kế hoạch và Đầu tư
- Đối với các Bộ, Ngành có liên quan
Hai là, tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật đầu
tư nước ngoài ở Lào.
Ba là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức liên quan đến thực
hiện pháp luật đầu tư nước ngoài ở Lào.
Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực hiện luật pháp luật
đầu tư nước ngoài ở Lào.
Năm là, phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh những hành vi, vi phạm
pháp luật đầu tư nước ngoài ở Lào.
Như vậy, trong việc thực hiện pháp luật về ĐTNN ở CHDCND Lào, khi các chủ thể,
kể cả các nhà ĐTNN cũng như cán bộ, công chức làm nhiệm vụ quản lý có hành vi vi phạm pháp luật thì đều
phải xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật. Đối với các cơ quan và cán bộ công chức làm chức năng quản lý
nhà nước về đầu tư nước ngoài, những người nắm trong tay quyền lực nhà nước, thì khi thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình do pháp luật quy định không được lợi dụng hay sử dụng quá quyền hạn đó. Mọi vi
phạm pháp luật của cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước ở CHDCND Lào phải được xử lý nghiêm minh
theo nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, bất cứ ai, dù ở cương vị nào cũng phải sống và làm
việc theo Pháp lệnh và pháp luật.

Kết luận Chương 4
Trong chương này, tác giả đã giải thích một số vấn đề như sau:

Thứ nhất, thực hiện pháp luật ĐTNN của CHDCND Lào khi nào cũng
phải gắn liền với sự biến đổi và nằm trong khuôn khổ của sự nghiệp đầu tư để
phát triển đất nước.
Thứ hai, trong bối cảnh trong nước và quốc tế hiện nay mở ra nhiều triển
vọng nhưng cũng không ít thách thức, khó khăn đòi hỏi Lào phải rất cố gắng,
nỗ lực trong việc cải thiện môi trường đầu tư để có thể tăng cường thu hút được
nhiều FDI thời gian tới, Lào cần thiết phải cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu


22

tư, trên cơ sở cải cách một cách đồng bộ các điều kiện pháp luật để thừa nhận
nước ngoài Lào đã thiết lập.
Thứ ba, thấy được tầm quan trọng của thực hiện pháp luật đầu tư đối với
việc giải quyết vấn đề khó khăn về vốn và tác động tích cực của nó đối với việc
tăng trưởng phát triển kinh tế của Lào, để giải quyết tăng cường thực hiện pháp
luật đầu tư ở Lào trong thời gian tới có thể thực hiện có hiệu quả cao cần phải
thực thi một hệ thống các giải pháp .
Thứ tư, trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, việc nhà
nước hỗ trợ để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là mục tiêu kinh
tế rất quan trọng, vừa mang tính cấp bách trước mắt, vừa có ý nghĩ lâu dài trong
bổi cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Trên cơ sở khái quát hoá những vấn đề lý
luận về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và sự hỗ trợ nâng cao năng lực các DN
của Lào trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án đã hệ thống một số
quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN Lào
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ năm, giải pháp vấn đề khác đã xảy ra trên thực tế đã liên quan đến
việc thực hiện pháp luật ĐTNN, đối với sự cạnh tranh trong môi trường đầu tư
của các nhà ĐTNN sau khi xây dựng và khởi động công ty cổ phần doanh
nghiệp và kinh doanh ở CHDCND Lào hiện nay.

KẾT LUẬN
Thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài tại CHDCND Lào là sự nghiệp lớn
nhất của Đảng và Nhà nước, để tạo điều kiện cho đất nước phát triển thoát khỏi
sự lạc hậu. Cho nên, để nâng cao hiệu quả việc thực hiện pháp luật ĐTNN ở
nước CHDCND Lào trong giai đoạn hiện nay cần tiến hành những biện pháp
chủ yếu sau:
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của Lào trong giai đoạn hiện
nay, hiện đại và phù hợp với các môi trường đầu tư đa dạng;
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giải thích và giáo dục pháp
luật; nâng cao ý thức pháp luật và văn hoá pháp lý cho cán bộ, nhân dân;
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật; xử lý
nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật;
- Tổ chức tốt việc thực hiện pháp luật về đầu tư nước ngoài;
- Tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước theo hướng nhà nước pháp quyền xã


23

hội chủ nghĩa.
Để phát triển kinh tế xã hội Đảng và Nhà nước Lào đã và đang quan tâm
đến tất cả các lĩnh vực kinh tế, trong đó có vấn đề thực hiện pháp luật về đầu tư
để thu hút vốn FDI. Trên thực tế qua các giai đoạn vừa qua FDI vào Lào đã góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế của Lào, giải quyết được nhiều công ăn việc
làm cho người lao động. Tuy nhiên, việc thu hút FDI vào Lào còn bộc lộ nhiều
hạn chế, khó khăn và thách thức vì vậy cần được khắc phục và hoàn thiện trong
thời gian tới. Qua nghiên cứu tìm hiểu về việc thực hiện pháp luật ĐTNN của
Lào tác giả đã chọn đề tài.
Từ những lý do trên đây, thì tôi đã chọn đề tại này để nghiên cứu và
mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào việc sử dụng pháp luật về đầu tư có
hiệu lực và được hiệu quả trên thực tế hiện nay và tương lai, vì vậy “Thực

hiện pháp Luật về đầu tư nước ngoài ở nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân
Lào” làm luận án tiến sĩ, hiện đang và đòi hỏi để đáp ứng về mặt lý luận và
thực tiễn của nước CHDCND Lào.
Từ các nội dung nghiên cứu và trình bày, luận án đã hoàn thành những
nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
1. Khái quát hoá cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật và thực tiễn về FDI;
phân tích vai trò đóng góp của FDI cho sự phát triển kinh tế của một quốc gia.
Theo đó, luận án đã phân tích ảnh hưởng của một số nhân tố quan trọng đến quá
trình thực hiện pháp luật ĐTNN.
2. Lựa chọn và đúc kết những kinh nghiệm về thực hiện FDI của một số
nước ASEAN, luận án đã rút ra các bài học kinh nghiệm thu hút FDI thành
công ở các nước đó.
3. Phân tích thực trạng hoạt động thực hiện pháp luật FDI ở Lào trong
những năm qua và rút ra những kết quả và hạn chế:
- Về kết quả, khu vực thực hiện pháp luật ĐTNN đã trở thành một bộ phận
quan trọng trong việc phát triển kinh tế đất nước.
- Những hạn chế, hiệu quả thực hiện pháp luật vẫn còn nhiều cái thứ thì cần
phải quan tâm đến như là nguyên nhân của những hạn chế trên đây bắt nguồn từ
nhiều yếu tố bên ngoài và bên trong làm cho môi trường đầu tư ở Lào chưa có
sức hấp dẫn các nhà ĐTNN.
4. Từ kết quả nghiên cứu, ở chương 4, luận án đã đưa ra một số nhóm giải
pháp chủ yếu nhằm tăng cường thực hiện pháp luật đầu tư của Lào có thể đáp


×