Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Bài tập kế toán tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.74 KB, 35 trang )

KTTC_ Giảng viên: CPA_TS Trương Văn Khánh

Trang 1

BÀI TẬP CHƯƠNG 1
KẾ TOÁN VỐN BẰNG TIỀN VÀ CÁC KHOẢN PHẢI THU
Bài 1: Tại một doanh nghiệp có tình hình kinh doanh trong tháng như sau:(Đvt:Đồng)
NV1.

Rút tiền gửi ngân hàng ACB về nhập quĩ tiền mặt: 50.000.000

NV2.

Nhận tiền mặt của cửa hàng Quang Nhật về khoản ứng trước tiền hàng:10.000.00

NV3.

Chi tiền mặt mua dàn máy vi tính có trị giáù: 15.000.000

NV4.
mặt

Thanh toán khoản nợ tháng trước của cửa hàng Thanh Thảo 30.000.000 bằng tiền

NV5.
Nhận giấy Báo Có của NH ACB về khoản tiền của cửa hàng Anh Thy
trả:50.000.000
NV6.

Doanh thu bán hàng 60.000.000, thuế gtgt phải nộp 10%, đã nhận bằng tiền mặt


NV7.

Chi tiền gửi NH ACB 50.000.000 để mua chứng khoán ngắn hạn

NV8.

Chi tiền mặt nộp thuế GTGT 1.000.000đ

NV9.

Chi tiền mặt trả lương cho cán bộ công nhân viên: 10.000.000

NV10.

Chi tiền mặt sữa chữalớn TSCĐ: 10.000.000.

NV11.

Chi tiền mặt cho Giám Đốc đi công tác: 5.000.000

NV12.

Rút tiền gửi ngân hàng Á Châu về nhập quỹ tiền mặt: 80.000.000

NV13.

Bán chứng khoán thu bằng tiền mặt: 25.000.000

NV14.


Thanh lí 1 TSCĐ thu bằng tiền mặt : 15.000.000

NV15.

Nhận tiền mặt về khoản kí cược ngắn hạn: 30.000.000.

NV16.

Chi tiền gửi ngân hàng ACB đi góp vốn liên doanh 20.000.000

NV17.

Chi tiền mặt nộp thuế TNDN 5.000.000

NV18.

Chi tiền ứng cho nhân viên đi mua hàng: 20.000.000

Yêu cầu: Định khoản các nghiệp vụ KTPS
Bài 2: Tại một công ty, có tình hình như sau:
Số dư: 1112 : 160.000.000 (10.000)
1. Mua hàng hoá của CTy A chưa thanh toán tiền cho người bán 2000 USD, thuế GTGT
10%, tỉ giá thực tế 15890.
2. Vay ngắn hạn ngân hàng 100usd bằng TGNH, tỉ giá thực tế 16100.
3. Bán hàng chưa thu tiền của cho cty X, giá bán 3.000usd, thuế GTGT 10%, tỉ giá thực tế
16100
4. Dùng tiền mặt thanh toán nợ cho Cty A. tỉ giá thực tế 16150
5. Công ty X thanh toán toàn bộ nợ bằng tiền gửi ngân hàng, tỉ giá thực tế 15980



KTTC_ Giảng viên: CPA_TS Trương Văn Khánh

Trang 2

6. Chi tiiền mặt mua NVL 550usd, trong đó thuế 10%, tỉ giá thực tế 15.000
Yêu cầu hạch toán các nghiệp vụ trên theo phương pháp Tỉ giá thực tế. Ngoại tệ xuất theo
phương pháp FIFO
Bài 3: Tại DN có các số liệu sau
Số dư đầu kỳ :
111: 100.000.000
112: 720.000.000 (1121: 481.050.000; 1122: 238.950.000 chi tiết 15.000 usd)
131: 318.600.000 chi tiết 20.000
Trong kỳ có các nghiệp vụ phát sinh.
1. Xuất bán 1 lô hàng có trị giá xuất kho 279.000.000, giá bán chưa thuế 20.000 USD thuế
GTGT 10% khách hàng đã thanh toán bằng chuyển khoản. TGTT 16.100 đ/usd
2. Doanh nghiệp ký hợp đồng với một nhà thầu để đầu tư xây dựng cơ bản. Trị giá gói thầu
100.000 usd , doanh nghiệp đã ứng trước 10.000 usd bằng chuyển khoản, TGTT 16.130
đ/usd
3. Khách hàng thanh toán nợ cho doanh nghiệp bằng chuyển khoản 16.000usd, TGTT
16140đ/usd
4. Ký hợp đồng vay nợ dài hạn với ngân hàng 200.000 USD ngân hàng đã chuyển tiền vào
tài khoản của doanh nghiệp TGTT 16.200đ/usd
5. xuất bán hàng hoá trị giá xuất kho 300.000.000đ. giá bán 26.000 usd (giá đã bao gồm
thuế GTGT 10%) khách hàng chưa thanh toán tiền. TGTT 16.200đ/usd
6. Mua TSCĐ 150.000 usd bằng tiền gởi ngân hàng, TGTT 16.170đ/usd
7. Nhập kho hàng hoá chưa trả tiền cho người bán, giá tính nhập khẩu 20.000usd, thuế
nhập khẩu 5%, thuế GTGT hàng nhập khẩu 10% TGTT 16230 đ/usd
8. Chi phí bán hàng phát sinh bằng tiền mặt 2200 usd (trong đó thuế GTGT 10%),
TGTT 16.140đ/usd.
9. Đánh giá lại số dư cuối kỳ của các khoản mục tiền tệ và kết chuyển khoản chênh lệch tỷ

giá thuần phát sinh. TGTT 16100đ/usd
Yêu cầu : hạch toán các nghiệp vụ phát sinh, doanh nghiệp xuất ngoại tệ theo phương pháp
FIFO.
Bài 4: Tại DN Hồng Anh có các số liệu sau :
TK 131 (dư Nợ) 30.000.000đ
1. Bán hàng giá bán 50.000.000, thuế GTGT 10% chưa thu tiền.
2. Người mua trả nợ tháng trước bằng tiền mặt.
3. Khách hàng mua ở nghiệp vụ 1 báo có 1 số sản phẩm không đạt chất lượng theo yêu cầu
trên hợp đồng, doanh nghiệp đồng ý cho hưởng giảm giá 2%/ giá bán chưa thuế. Sau đó
khách hàng đã thanh toán toàn bộ nợ còn lại bằng tiền mặt cho doanh nghiệp.


KTTC_ Giảng viên: CPA_TS Trương Văn Khánh

Trang 3

4. Xuất khẩu lô hàng trị giá 30.250 USD tỉ giá thực tế 16.000 đ/usd, thuế xuất khẩu
phải nộp 10% khách hàng chưa thanh toán.
Hai ngày sau khách hàng thanh toán 15250 usd bằng chuyển khoản TGTT 15.800đ/usd
5. Một tuần sau khách hàng ở nghiệp vụ 4 báo đã thanh toán toàn bộ nợ còn lại bằng tiền gửi
ngân hàng TGTT 15.900đ/usd
Yêu cầu : Định khoản các nghiệp vụ phát sinh
Bài 5: Nhập kho 10.000kg nguyên liệu đơn giá 6000đ/kg, thuế GTGT 10%. Chưa thanh toán
tiền cho khách hàng. Chi phí vận chuyển nguyên vật liệu về kho là 200đ/kg do người bán trả
nhưng doanh nghiệp trả hộ bằng tiền mặt.
1. Khi vật liệu về kho phát hiện thiếu 100kg so với hoá đơn, thủ khi lập số lượng hàng thiếu
chưa rõ nguyên nhân.
2. Kiểm quỹ phát hiện thiếu 1.000.000đ, chưa rõ nguyên nhân chờ giải quyết. Sau đó doanh
nghiệp quyết định trừ vào lương của thủ quỹ 500.000, còn lại đưa vào chi phí khác.
3. Nhận được thông báo chia lãi liên doanh, lãi được chia 30.000.000đ.

4. 1 tháng sau ngân hàng báo Có về số lãi được chia ở NV4
Yêu cầu : Định khoản các nghiệp vụ phát sinh.
Bài 6: Tại DN thương mại An Phú có số liệu sau.
1. Nhập kho hàng hoá trị giá 50.000.000 đ thuế GTGT 10%, thanh toán bằng tiền tạm ứng
của ông Long, chi phí vận chuyển lô hàng nhập kho là 2.100.000 trong đó thuế GTGT 5%
tiền vận chuyển chưa thanh toán.
2. Tạm ứng cho ông An đi mua hàng bằng tiền mặt số tiền là 40.000.000đ
3. Tạm ứng cho cô Châu 1.000.000 đ bằng tiền mặt để mua văn phòng phẩm cho bộ phận
bán hàng.
4. Ông An thanh toán tạm ứng ở nghiệp vụ 2 nội dung :
-

Nhập kho hàng hoá 30.000.000đ thuế GTGT 10%, chi phí vận chuyển 1.000.000đ thuế
GTGT 10%.

-

Nộp lại doanh nghiệp 4.000.000đ bằng tiền mặt

-

Số còn lại trừ vào lương.

5. Cô Châu thanh toán tạm ứng gồm.
-

Mua văn phòng phẩm cho bộ phận bán hàng 200.000đ

-


Mua văn phòng phẩm cho bộ phận văn phòng 500.000đ

-

Nộp lại quỹ 200.000đ bằng tiền mặt

-

Số còn lại yêu cầu trừ vào lương

6. Chi tạm ứng cho anh Tâm 4.000.000 bằng tiền mặt để mua công cụ dụng cụ.
7. Nhập kho một số công cụ dụng cụ trị giá 5.000.000, thuế GTGT 10% thanh toán bằng tiền
tạm ứng của anh Tâm. Số thiếu doanh nghiệp chi thêm cho anh tâm bằng tiền mặt.


KTTC_ Giảng viên: CPA_TS Trương Văn Khánh

Trang 4

Yêu cầu : định khoản các nghiệp vụ phát sinh
Bài
1. Xuất quỹ tiền mặt 20.000.000 mang đi ký quỹ ký cược dài hạn

7:

2. Mang 1 tài sản cố định nguyên giá 200.000.000 đ đi thế chấp 2 năm để vay tiền.
3. Nhận tiền ký quỹ ký cược ngắn hạn bằng tiền mặt 10.000.000đ
4. Nhận lại hàng hoá đã thế chấp cầm cố ngắn hạn là 12.000.000đ
5. Chuyển khoản 50.000.000 ký quỹ mở L/C cho lô hàng nhập khẩu.
6. Công ty tổ chức đấu thầu xây dựng văn phòng của công ty, có 5 đơn vị tham gia đấu thầu,

mỗi đơn vị phải ký quỹ 20.000.000đ, 2 công ty ký quỹ bằng tiền mặt, 3 công ty còn lại ký quỹ
bằng tiền gởi ngân hàng.
Yêu cầu : định khoản các nghiệp vụ phát sinh.
Bài 8: Trả trước tiên thuê văn phòng 1năm là 88.000.000 tr bằng chuyển khoản, trong đó thuế
GTGT 10%.
1. Xuất kho công cụ dụng cụ 500.000 sử dụng ngay cho bộ phận bán hàng.
2. Xuất kho 1 số công cụ trị giá ban đầu 40.000.000đ dùng cho bộ phận phân xưởng, phân
bổ trong 8 kỳ.
3. Chi phí quảng cáo 110.000.000 (trong đó thuế GTGT 10%) doanh nghiệp đã thanh toán
bằng chuyển khoản 30.000.000 số còn lại doanh nghiệp nợ, doanh nghiệp dự định phân
bổ chi phí quảng cáo trong 10kỳ.
4. Xuất kho 1 công cụ trị giá 24.000.000đ sử dụng bộ phận quản lý doanh nghiệp, phân bổ
24 tháng.
Yêu cầu : định khoản các nghiệp vụ phát sinh, phân bổ chi phí trả trước vào các đối tượng chi
phí.
Bài 9: Tại 1 doanh nghiệp có các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong tháng 12/200X như sau:
1. Chi tiền Việt Nam tại quỹ để mua 5.000 USD về nhập quỹ. Tỷ giá thực tế lúc mua là
16.500đ/USD
2. Khách hàng trả nợ doanh nghiệp bằng chuyển khoản là 12.000 USD. Tỷ giá thực tế lúc ghi
nhận nợ là 16.000đ/USD, tại thời điểm trả nợ là 17.000đ/USD
3. Chuyển tiền gửi ngân hàng 3.000 USD để trả nợ cho người cung cấp. Tỷ giá thực tế lúc nhận
nợ là 16.000đ/USD, tại thời điểm trả nợ là 16.700đ/USD
4. Bán cho khách hàng 1 số sản phẩm trị giá 22.000 USD, trong đó khách hàng trả ngay bằng tiền
mặt là 5.000 USD, số còn lại chưa thanh toán. Tỷ giá thực tế tại thời điểm bán là
17.000đ/USD.
5. Đổi 1.500 USD tại quỹ để lấy tiền Việt Nam nhập quỹ. Tỷ giá thực tế lúc đổi là 17.000đ/USD
6. Xuất quỹ ngoại tệ để thanh toán tiền mua nhập khẩu 1 thiết bị sản xuất, giá hoá đơn: 4.400
USD, thuế nhập khẩu: 0%, thuế suất GTGT: 10%. Tỷ giá thực tế lúc mua là 17.800đ/USD.
7. Xuất quỹ 3.000 USD gửi vào ngân hàng, tỷ giá thực tế lúc gửi 17.000đ/USD



KTTC_ Giảng viên: CPA_TS Trương Văn Khánh

Trang 5

8. Nhập 1 số vật liệu mua từ nước ngoài trị giá mua vật liệu ghi trên hóa đơn 15.000USD, chưa
thanh toán tiền. Chi phí vận chuyển bốc dỡ trả bằng tiền mặt là 700.000đ, thuế nhập khẩu phải
nộp là 10% giá mua. Tỷ giá thực tế lúc nhập vật liệu là 17.000đ/USD, thuế suất GTGT 10%.
9. Chuyển đổi 9.000 USD gửi ngân hàng thành tiền Việt Nam gửi ngân hàng. Tỷ giá thực tế lúc
đổi là 17.500đ/USD
10. Xuất 600 USD tại quỹ để trả cho chuyên gia nước ngoài về công việc hướng dẫn nghiệp vụ
cho nhân viên trong doanh nghiệp. Tỷ giá thực tế lúc xuất là 17.200đ/USD
11. Cuối tháng tiến hành điều chỉnh theo tỷ giá thực tế của ngân hàng nhà nước công bố là
17.500đ/USD cho số dư của các tài khoản có gốc ngoại tệ. Biết số dư đầu tháng của các tài
khoản có gốc ngoại tệ:
(TK 1112 = 0 ; TK 1122 =0 ; TK 131 = 12.000 USD ; TK 331 = 3000 USD)
Yêu cầu : Tính toán, định khoản kế toán và phản ánh tình hình trên vào sơ đồ chữ T các
nghiệp vụ kinh tế trên.
Bài 10: Tại 1 DN có các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong tháng 1/200X như sau: (đơn vị:
1.000đ)

1. Nhập kho vật liệu chính mua bằng chuyển khoản, giá mua chưa thuế GTGT: 35.000,
Thuế GTGT: 3.500
2. Gửi tiền mặt qua bưu điện để trả nợ công ty A 12.000
3. Nhận được giấy báo có của ngân hàng, công ty B trả nợ tiền hàng 40.000
4. Xuất quỹ tiền mặt tạm ứng cho ông X đi mua vật tư 20.000
5. Theo yêu cầu của nhà cung cấp Y, doanh nghiệp xuất quỹ 5 lượng vàng SJC để ký quỹ
với giá xuất: 4.800 /1 lượng.
6. Xuất kho vật tư theo giá thưc tế cho công ty C mượn tạm:
- Vật liệu chính: 15.000

- Công cụ: 5.000
7. Nhận được điện tín của công ty A cho biết đã nhận được tiền của DN chuyển trả.
8. Xuất quỹ tiền mặt trả tiền thuê cửa hàng trong 1 năm để giới thiệu sản phẩm 19.800.
DN đã nhận được hoá đơn thuê cửa hàng tháng 1 với thuế suất GTGT: 10%.
9. Báo cáo thanh toán tạm ứng của ông X kèm chứng từ có liên quan:
- Hoá đơn mua vật liệu chính: giá mua chưa thuế GTGT: 17.000, thuế GTGT:1.700
(Vật liệu đã nhập kho).
- Hoá đơn vận chuyển, bốc dỡ vật liệu chính: giá chưa thuế GTGT: 500, thuế GTGT:
50
- Số tiền tạm ứng thừa đã nộp lại quỹ.


KTTC_ Giảng viên: CPA_TS Trương Văn Khánh

Trang 6

10. Doanh nghiệp mang 1 xe vận tải cùng giấy chủ quyền xe cầm cố cho ngân hàng Z để
được vay 1 khoản tiền là 200.000. Ngân hàng đã báo có tài khoản tiền gửi của DN.
Theo sổ sách kế toán, tài sản này có NG: 400.000, GTHM: 40.000
11. Nhập kho số vật liệu do công ty C chuyển trả.
12. Đã nhận và nhập kho vật liệu phụ của nhà cung cấp Y, giá mua chưa thuế GTGT:
30.000, thuế GTGT: 3.000. Doanh nghiệp đã thoả thuận với nhà cung cấp Y về việc
thanh toán tiền hàng như sau:
- Dùng tiền ký quỹ để thanh toán theo giá thị trường: giá thực tế mua bán bình quân 1
lượng vàng SJC tại thời điểm này là 4.900 /lượng.
- Số còn lại thanh toán bằng tiền mặt.
13. Theo biên bản kiểm kê:
- Phát hiện số tiền thiếu hụt quỹ: 1.500, bắt thủ quỹ phải bồi thường.
- Phát hiện 1 số công cụ bị thiếu trị giá 2.000 chưa rõ nguyên nhân chờ xử lý.
14. Do không có nguồn trả nợ nên doanh nghiệp đồng ý với ngân hàng K về việc phát mãi

lô hàng đã cầm cố (để vay khoản ngắn hạn là 100.000, trị giá lô hàng ghi trên sổ sách
kế toán lúc cầm cố là 200.000). Số tiền thu được thông qua bán đấu giá là 187.000 với
thuế suất GTGT: 10%, doanh nghiệp đã nhận lại bằng tiền mặt khoản tiền còn lại sau
khi đã thanh toán tiền bảo quản, tiền tổ chức bán đấu giá là 3.000 và thanh toán nợ gốc
của ngân hàng (tiền lãi DN đã trả hàng tháng).
Yêu cầu: Hãy định khoản kế toán tình hình trên.
Bài 11: Tại 1 doanh nghiệp có tài liệu sau:
I/ Số dư đầu tháng 12/200X của 1 số tài khoản:
TK 1122: 1.000 USD x 17.000đ/USD
TK 1112: 300 USD x 17.000đ/USD
TK 131: 2.000 USD x 17.000đ/USD (Công ty M)
TK 331: 5.000 USD x 17.000đ/USD (Công ty N)
TK 144: 30.000.000đ trong đó có 1.000 USD x 17.000đ/USD
TK 113: 20.000.000đ
II/ Các nghiệp vụ phát sinh trong tháng
1. Thu nợ công ty M 1.000 USD nộp vào ngân hàng (đã nhận được giấy báo có), tỷ giá
thực tế 17.200đ/USD
2. Nhận được giây báo của ngân hàng về tiền đang chuyển đầu tháng đã trừ vào tiền
vay ngắn hạn (20.000.000đ)
3. Nộp tiền mặt vào ngân hàng để mua 500 USD (đã nhận giấy báo Có), tỷ giá thực tế
17.400đ/USD


KTTC_ Giảng viên: CPA_TS Trương Văn Khánh

Trang 7

4. Xuất quỹ 10 lượng vàng SJC để ký quỹ cho công ty P với giá xuất: 19.800.000đ/
lượng. Sau đó DN đã nhận và nhập kho vật liệu của công ty P, giá mua chưa thuế
GTGT: 200.000.000đ, thuế GTGT: 10%, doanh nghiệp đã thoả thuận với công ty P

về việc thanh toán tiền hàng như sau:
- Dùng tiền ký quỹ để thanh toán theo giá thị trường: giá thực tế mua bán bình quân 1
lượng vàng SJC tại thời điểm này là 20.000.000đ /lượng.
- Số còn lại thanh toán bằng tiền mặt.
5. Cấp vốn cho đơn vị cấp dưới bằng TGNH 100.000.000đ (đã nhận giấy báo NH)
6. Thanh toán cho công ty N 4.000 USD trong đó:
- Bằng ngoại tệ gởi ngân hàng: 2.500 USD
- Bằng ngoại tệ tại quỹ: 300 USD
- Bằng tiền Việt Nam tại quỹ tương ứng 1.200 USD
Tỷ giá thực tế 17.600đ/USD
7. Chi TM 26.400.000đ thuê văn phòng làm việc trong 6 tháng, doanh nghiệp đã nhận
hoá đơn thuê tháng thứ nhất với thuế suất GTGT 10%
8. Nhập quỹ 1.000 USD đã ký quỹ, tỷ giá thực tế 17.800đ/USD
9. Khách hàng mua sản phẩm của DN thanh toán 21.000.000đ bằng séc, thuế suất
GTGT 5%. Doanh nghiệp đã nộp séc vào ngân hàng nhưng chưa nhận được giấy
báo có.
10. Chi tiền mặt trả hộ đơn vị cấp dưới tiền điện thoại 3.000.000đ
11. Xuất quỹ tiền mặt tạm ứng cho ông H đi mua vật tư 25.000.000đ. Sau đó ông H
báo cáo thanh toán tạm ứng kèm theo các chứng từ:
- Hoá đơn mua vật liệu: giá mua chưa thuế GTGT: 20.000.000đ, thuế GTGT:
2.000.000đ (Vật liệu đã nhập kho).
- Hoá đơn mua công cụ: giá mua chưa thuế GTGT: 5.000.000đ, thuế GTGT:
500.000đ (công cụ đã nhập kho).
- Hoá đơn vận chuyển, bốc dỡ: giá chưa thuế GTGT: 500.000đ, thuế GTGT:
50.000đ (chi phí này được phân bổ cho vật liệu và công cụ theo trị giá mua chưa
thuế)
- Xuất quỹ thanh toán số chi quá tạm ứng
12. Vì không có nguồn để trả nợ nên doanh nghiệp đồng ý với ngân hàng về việc phát
mãi 1 TSCĐ đã cầm cố trước đây để được vay ngắn hạn số tiền là 200.000.000đ,
TSCĐ lúc cầm cố có NG: 350.000.000đ, giá trị hao mòn lũy kế: 50.000.000đ. TSCĐ

trên được bán với giá chưa thuế GTGT: 240.000.000đ, Thuế GTGT 24.000.000đ,
doanh nghiệp đã nhận lại bằng tiền mặt khoản tiền còn lại sau khi đã thanh toán tiền


KTTC_ Giảng viên: CPA_TS Trương Văn Khánh

Trang 8

bảo quản, tiền tổ chức bán đấu giá là 5.000.000đ và thanh toán nợ gốc (DN đã trả
tiền lãi).
13. Bị phạt 2.000.000đ do vi phạm hợp đồng trừ vào tiền ký quỹ ngắn hạn.
14. Điều chỉnh số dư các tài khoản có gốc ngoại tệ theo tỷ giá thực tế vào cuối năm là
17.000đ/USD
Yêu cầu:
Phản ánh tình hình trên vào TK kế toán. Biết tỷ giá xuất ngoại tệ được xác định
theo phương pháp bình quân liên hoàn.
Bài 12: Tại 1 doanh nghiệp có tài liệu sau:

I/ Số dư đầu tháng 12/200X của 1 số tài khoản:
TK 1112: 300 USD x 17.000đ/USD
TK 1122: 1.000 USD x 17.000đ/USD
TK 131: 2.000 USD x 17.000đ/USD (Công ty M)
TK 331: 5.000 USD x 17.000đ/USD (Công ty N)
TK 144: 30.000.000đ trong đó có 1.000 USD x 17.000đ/USD
TK 113: 20.000.000đ
II/ Các nghiệp vụ phát sinh trong tháng
1. Nộp tiền mặt vào ngân hàng để mua 700 USD (đã nhận giấy báo Có), tỷ giá thực tế
17.400đ/USD
2. Thu tiền công ty M 1.000 USD nộp vào ngân hàng (đã nhận được giấy báo có), tỷ
giá thực tế 17.200đ/USD

3. Cấp vốn cho đơn vị cấp dưới bằng TGNH 100.000.000đ (đã nhận giấy báo NH)
4. Chi TM thuê văn phòng làm việc trong 6 tháng 24.000.000đ
5. Nhận được giây báo của ngân hàng về tiền đang chuyển đầu tháng đã trừ vào tiền
vay ngắn hạn (20.000.000đ)
6.Xuất quỹ 10 lượng vàng SJC để ký quỹ cho công ty P với giá xuất:
18.800.000đ/lượng. Sau đó DN đã nhận và nhập kho vật liệu của công ty P, giá mua
chưa thuế GTGT: 180.000.000đ, thuế GTGT: 10%, doanh nghiệp đã thoả thuận với
công ty P về việc thanh toán tiền hàng như sau:
-Dùng tiền ký quỹ để thanh toán theo giá thị trường: giá thực tế mua bán bình quân
1 lượng vàng SJC tại thời điểm này là 19.000.000đ /lượng.
- Số còn lại thanh toán bằng tiền mặt.
7. Chi tiền mặt trả hộ đơn vị cấp dưới tiền điện thoại 2.000.000đ
8. Thanh toán cho công ty N 4.000 USD trong đó:


KTTC_ Giảng viên: CPA_TS Trương Văn Khánh

Trang 9

- Bằng ngoại tệ gởi ngân hàng: 2.500 USD
- Bằng ngoại tệ tại quỹ: 300 USD
- Bằng tiền Việt Nam tại quỹ tương ứng 1.200 USD
Tỷ giá thực tế 17.600đ/USD
9. Xuất quỹ tiền mặt tạm ứng cho ông H đi mua vật tư 30.000.000đ. Sau đó ông H báo
cáo thanh toán tạm ứng kèm theo các chứng từ:
- Hoá đơn mua vật liệu: giá mua chưa thuế GTGT: 25.000.000đ, thuế GTGT:
2.500.000đ (Vật liệu đã nhập kho).
- Hoá đơn mua công cụ: giá mua chưa thuế GTGT: 4.000.000đ, thuế GTGT:
400.000đ (công cụ đã nhập kho).
- Hoá đơn vận chuyển, bốc dỡ: giá chưa thuế GTGT: 500.000đ, thuế GTGT:

50.000đ (chi phí này được phân bổ cho vật liệu và công cụ theo trị giá mua chưa
thuế)
- Xuất quỹ thanh toán số chi quá tạm ứng
10. Nhập quỹ 1.000 USD đã ký quỹ, tỷ giá thực tế 16.800đ/USD
11. Vì không có nguồn để trả nợ nên doanh nghiệp đồng ý với ngân hàng về việc phát
mãi 1 TSCĐ đã cầm cố trước đây để được vay ngắn hạn số tiền là 200.000.000đ,
TSCĐ lúc cầm cố có NG: 350.000.000đ, giá trị hao mòn lũy kế: 50.000.000đ. TSCĐ
trên được bán với giá chưa thuế GTGT: 240.000.000đ, Thuế GTGT 24.000.000đ,
doanh nghiệp đã nhận lại bằng tiền mặt khoản tiền còn lại sau khi đã thanh toán tiền
bảo quản, tiền tổ chức bán đấu giá là 5.000.000đ và thanh toán nợ gốc (DN đã trả tiền
lãi).
12. Bị phạt 2.000.000đ do vi phạm hợp đồng trừ vào tiền ký quỹ ngắn hạn.
13. Khách hàng mua sản phẩm của DN thanh toán 21.000.000đ bằng séc, thuế suất
GTGT 5%. Doanh nghiệp đã nộp séc vào ngân hàng nhưng chưa nhận được giấy báo
có.
14. Điều chỉnh số dư các tài khoản có gốc ngoại tệ theo tỷ giá thực tế vào cuối kỳ là
17.000đ/USD
Yêu cầu:
Yêu cầu: Hãy định khoản kế toán tình hình trên.
Bài 13: Tại một DN SXKD hàng không chịu thuế GTGT, tỷ giá xuất ngoại tệ áp dụng phương
pháp FIFO, hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên, có tài liệu kế toán
sau:
Số dư đầu tháng 12/N của một số tài khoản:
TK 1112:
20.900.000đ (1.000USD)
TK 315:
41.800.000đ (2.000USD), vay dài hạn NH Ngoại thương đến hạn trả
TK 311:
104.500.000đ (5.000USD), vay ngắn hạn ngân hàng B



KTTC_ Giảng viên: CPA_TS Trương Văn Khánh
TK331:
TK 131:

Trang 10

52.250.000đ (2.500USD), Công ty C
62.700.000đ (3.000USD), Công ty D

Các TK khác có số dư giả định.
Nghiệp vụ phát sinh liên quan đến vốn bằng tiền trong tháng 12/N
1. Bán hàng thu ngoại tệ nhập quỹ: 5.000USD, tỷ giá bình quân liên ngân hàng
(TGBQLNH): 20.920đ/USD;
2. Xuất khẩu hàng thu ngoại tệ qua tài khoản, tiền gửi ngân hàng ngoại thương (NHNT):
10.000USD, đã nhận giấy báo có ngân hàng, TGBQLNH: 20.930đ/USD;
3. Nhập khẩu hàng hoá trị giá 5.500USD chưa trả tiền người bán E, TGBQLNH:
20.920đ/USD.
4. Khách hàng D trả nợ 2.000USD bằng tiền mặt nhập quỹ, TGBQLNH: 20.940đ/USD;
5. Làm thủ tục ở NHNT để trả nợ vay ngắn hạn ngân hàng B: 5.000USD và trả nợ người bán
C: 2.500USD, đã nhận giấy báo nợ của ngân hàng, TGBQLNH: 20.950đ/USD;
6. Nộp ngoại tệ vào tài khoản tiền gửi NHNT: 5.000USD, TGBQLNH: 20.960đ/USD, đã
nhận giấy báo có ngân hàng.
7. Đến kỳ hạn trả nợ vay dài hạn NHNT, ngân hàng thu nợ gốc: 2.000USD và thu lãi vay kỳ
cuối 10USD từ tài khoản tiền gửi của DN gửi tại ngân hàng, đã nhận được giấy báo Nợ
ngân hàng, TGBQLNH: 20.950đ/USD.
Yêu cầu:

1. Định khoản các nghiệp vụ nêu trên
2. Mở tài khoản chữ T: TK 1112, 1122, 131 (chi tiết cho từng khách hàng),

331 (chi tiết cho từng khách hàng), TK007
3. Đánh giá chênh lệch tỷ giá cuối kỳ, biết tỷ giá BQLNH ngày 31/12/N:
21.000đ/USD.

Bài kiểm tra:
Tại 1 DN nộp thuế GTGT theo PP khấu trừ, tính giá xuất ngoại tệ và hàng tồn kho theo PP FIFO,
có tài liệu trong tháng 12/2011 như sau:
1. Xuất bán hàng hoá trị giá xuất kho 500.000.000đ, giá bán 33.000 usd (giá đã bao gồm
thuế GTGT 10%) khách hàng chưa thanh toán tiền. TGTT 20.200đ/usd;
2. Trả nợ vay ngắn hạn NH ACB 10.000USD, tỷ giá lúc nhận nợ 20.000, tỷ giá xuất ngoại
tệ: 20.450; NH ACB thu lãi vay 500USD, tỷ giá thực tế 20.500 bằng TGNH;
3. Vì không có nguồn để trả nợ nên doanh nghiệp đồng ý với ngân hàng về việc phát mãi 1
TSCĐ đã cầm cố trước đây để được vay ngắn hạn số tiền là 200.000.000đ, TSCĐ lúc cầm
cố có NG: 350.000.000đ, giá trị hao mòn lũy kế: 70.000.000đ. TSCĐ trên được bán với
giá chưa thuế GTGT: 340.000.000đ, thuế GTGT 34.000.000đ, doanh nghiệp đã nhận lại
bằng tiền mặt khoản tiền còn lại sau khi đã thanh toán tiền bảo quản, tiền tổ chức bán đấu
giá là 10.000.000đ, thanh toán nợ gốc và trả tiền lãi: 20.000.000đ.
4. Nhập 1 số vật liệu mua từ nước ngoài trị giá mua vật liệu ghi trên hóa đơn 15.000USD,
CP vận chuyển và bảo hiểm quốc tế 5.000USD, chưa thanh toán tiền. Chi phí vận chuyển
bốc dỡ trả bằng tiền mặt là 10.000.000đ, thuế nhập khẩu phải nộp là 10% giá mua. Tỷ giá
thực tế lúc nhập vật liệu là 20.000đ/USD, thuế suất GTGT 10%.


KTTC_ Giảng viên: CPA_TS Trương Văn Khánh

Trang 11

5. DN trả tiền thuê mặt bằng cho năm 2012, số tiền 100trđ, thuế GTGT 10% qua TK thanh
toán ngân hàng; đơn vị cho thuê lập hoá đơn hàng tháng để cấp cho DN trong năm 2012.
6. DN xuất 1 xe ô tô có NG 500trđ, khấu hao luỹ kế 100trđ, giá thỏa thuận trao đổi chưa

thuế GTGT 450trđ để lấy 1 xe tải theo giá thoả thuận chưa thuế 200trđ, thuế GTGT 10%,
DN đã nhận tiền qua NH số tiền chênh lệch.
7. Nghiệm thu nhà văn phòng quản lí do bộ phận xây dựng cơ bản bàn giao. Giá quyết toán
của ngôi nhà 1.5 tỷ, giá tri 5 quyết toán 1,4tỷ, số chênh lệch bắt người có trách nhiệm phải
bồi thường. Vốn xây dựng công trình là nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
8. Gửi 1 thiết bị sản xuất đi tham gia liên doanh đồng kiểm soát, nguyên giá 300.000.000đ,
giá trị hao mòn luỹ kế 50.000.000đ, giá trị vốn góp được Hội đồng liên doanh định giá
350.000.000đ, được biết tỷ lệ vốn góp của DN trong liên doanh là 25%.
Cau hoi: Theo ban, tai sao DN phai danh gia lai cac khoan muc von bang tien, phai thu, phai tra
co goc ngoai te tai thoi diem BCTC?


KTTC_ Giảng viên: CPA_TS Trương Văn Khánh

Trang 12

BÀI TẬP QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC
Ths. PHẠM VĂN NAM
Bài 1 : Công ty QUANPAL có 6 đơn vị kinh doanh chiến lược, các số liệu kinh doanh
được thống kê như sau :
Doanh Số

Doanh Số 3 Đơn Vị
Dẫn Đầu

Số
Phần Còn
Đơn Vị
Đối
Lại Của thị

1997 1998
Thủ
Trường
A
104
120
240
200
200
9
980
B
70
80
115
100
80
7
300
C
193
200
500
450
380
5
720
D
122
140

140
117
100
12
900
E
288
320
320
320
250
8
1200
F
445
480
480
240
180
6
600
Dùng ma trận BCG phân tích và xây dựng chiến lược mới cho công ty QUANPAL.
Bài 2 : Công ty X có 5 đơn vị Kinh doanh Chiến lược (SBU), từ kết quả kinh doanh trong
năm 2000, các nhà phân tích chiến lược đã đưa ra một bảng đánh giá như sau:
YẾU TỐ
ĐƠN
ĐƠN
ĐƠN
ĐƠN
ĐƠN

VỊ A
VỊ B
VỊ C
VỊ D
VỊ E
TL Đ TL Đ TL Đ TL Đ TL Đ
Vị thế cạnh tranh
0.2
3 0.1
2 0.1
3 0.1
2 0.2
4
• Phần phân chia thị
5
5
5
trường
0.0
3 0.1
3 0.1
2 0.1
2 0.1
3
• Giá cả sản phẩm
5
0.1
3 0.2
3 0.1
3 0.2

2 0.2
4
• Chất lượng sản phẩm
5
5
0.1
4
0.2
1
0.1
4 0.1
3 0.1
4
• Danh tiếng nhãn hiệu
0.1
4 0.0
2 0.1
3 0.1
2 0.0
5
• Mạng lưới phân phối
5
5
0.0
3 0.0
2 0.0
3 0.0
3 0.1
3
• Sức sản xuất

5
5
5
5
4 0.1
1 0.0
4 0.1
2 0.0
4
• Chi phí đơn vị sản phẩm 0.1
5
5
0.1
4 0.0
3 0.1
2 0.0
3 0.0
3
• Hiệu quả bán hàng
5
5
5
5
0.1
4 0.0
2 0.1
4 0.1
2 0.0
4
• Cung cấp nguyên liệu

5
5
0.0
5 0.0
2 0.1
3 0.0
3 0.0
5
• Nghiên cứu phát triển
5
5
5
5
1
1
1
1
1


KTTC_ Giảng viên: CPA_TS Trương Văn Khánh

Tính hấp dẫn cuả thị
trường
• Độ lớn cuả thị trường 0.2
5
0.2
• Tốc độ tăng trưởng

Trang 13


5

0.2

4

4

0.1

4

0.2
5
0.2

4

0.1

2

0.2

4

3

2


4

0.2

3

0.1
5
0.1
5
0.2

2

4

0.2
5
0.2

3

0.1

4

0.1
5
0.0

5
0.1

3

• Lề lợi nhuận

0.1

5

0.2

3

• Cường độ cạnh tranh

0.1
5
0.1

4

0.2

5

0.1
5
0.1


4

0.1

5

0.1

• Đòi hỏi về kỹ thuật
• Yếu tố xã hội

1

2
3

0.1
4 0.1
3 0.1
2 0.1
3
3
5
0.0
4 0.1
4 0.1
3 0.0
4
3

• Tác động cuả nhà
5
5
nước
1
1
1
1
1
Thiết lập ma trận GE và phân tích chiến lược cho Công ty.
Bài 3 : Công ty X là một tổng công ty hoạt động trong ngành nhựa, gồm có 5 công ty con
sản xuất các sản phẩm nhựa dân dụng khác nhau. Thời gian trước năm 1999 phần lớn sản
phẩm chủ yếu cuả các công ty con đều xuất sang thị trường Campuchia với phương thức
các doanh nghiệp Campuchia sẽ cung cấp nguyên vật liệu chủ yếu (nhựa PVC …) và
nhận bao tiêu sản phẩm. Tuy nhiên trong thời gian gần đây, thị trường Campuchia có sự
biến động lớn, các đối thủ cạnh tranh từ Thái lan, Trung quốc và ngay ở Campuchia đã
gia tăng cạnh tranh và đã có những thành công trong việc chiếm lĩnh thị trường làm cho
công ty X mất đi một phần quan trọng thị trường vốn có và phải quay về thị trường trong
nước. Để thực hiện sự trở lại thị trường trong nước, Tổng công ty đã liên kết với một công
ty thương mại chuẩn bị mở một siêu thị có qui mô khá lớn tại thành phố Hồ Chí Minh.
Đồng thời tiến hành điều chỉnh cơ cấu đầu tư trong Tổng công ty. Được biết số liệu kinh
doanh trên thị trường nội điạ trong năm vưà qua cuả các công ty con cho bởi bảng sau :
Công ty

Doanh
Doanh số các đơn vị dẫn
% tăng
số
đầu
trưởng

A
20
30
28
24
16
B
40
80
60
50
8
C
10
60
50
40
4
D
20
20
10
8
6
E
40
80
70
60
12

Hãy dùng kỹ thuật BCG để đề ra chiến lược điều chỉnh cơ cấu đầu tư hợp lý cho tổng
công ty X trong giai đoạn kinh doanh tới.
Bài 4 : TỪ CÔNG VIÊN NƯỚC ĐẾN NƯỚC UỐNG TINH KHIẾT


KTTC_ Giảng viên: CPA_TS Trương Văn Khánh

Trang 14

Nghiên cứu sáng tạo đề tìm ra cái mới luôn là ý tưởng phấn đấu cuả anh chàng họ
DƯƠNG – người lấy tên mình đặt cho doanh nghiệp sản xuất đồ chơi cái tên NGỌC
THẠCH.
Sang thế kỷ mới, bước đột phá lớn nhất cuả công ty là chế tạo đồ chơi cho các công viên
nước. Đây là đơn vị đầu tiên tại Việt nam thực hiện hoàn chỉnh qui trình thiết kế, chế tạo
và lắp đặt công trình công viên nước bằng composite. Từ sản phẩm đầu tiên là công viên
nước tỉnh Gia lai (gồm các loại hình trò chơi như: máng trượt, hồ tạo sóng, cano đạp
nước, phao đụng, đu quay bạch tuộc …), công ty NGỌC THẠCH đang nhân rộng mô
hình này tại công viên nước tỉnh Bình dương, đồng thời cũng đã vươn ra thị trường nước
ngoài bằng việc xuất cho Thụy sỹ các loại thú trang trí cho sân chơi bằng composite.
Chưa dừng lại ở loại hình kinh doanh này, anh DƯƠNG NGỌC THẠCH lại một lần nữa
thử sức mình trong sản xuất nước uống tinh khiết đóng chai nhãn hiệu MOONWA. Từ
sản phẩm này, anh đang có kế hoạch hợp tác với các nhà khoa học sản xuất loại nước
uống làm chậm quá trình lão hoá cuả cơ thể.
NAM PHƯƠNG (báo Khoa học Phổ thông số Xuân Tân tỵ 2001)
1. Chiến lược cuả công ty NGỌC THẠCH trước đây và hiện nay là những chiến
lược gì? giải thích.
2. Theo anh (chị) việc sản xuất nước tinh khiến đóng chai cuả công ty có mạo
hiểm không? Với tư cách là chuyên gia chiến lược anh chị sẽ đưa ra những ý
kiến gì cho công ty nếu được hỏi ý kiến ?
Bài 5 : Xí nghiệp Liên hiệp Sản xuất Rau quả X được thành lập năm 1978, với chức năng

là sản xuất các sản phẩm rau quả xuất khẩu. Sản phẩm của xí nghiệp gồm các sản phẩm
đông lạnh, và các sản phẩm đóng hộp, nước ép trái cây cô đặc. Trực thuộc xí nghiệp liên
hiệp có hai nông trường chuyên canh thơm và một nhà máy với 3 dây chuyền công nghệ
(dây chuyền sản xuất các sản phẩm đông lạnh, dây chuyền sản phẩm đóng hộp, dây
chuyền nước quả cô đặc). Một số đặc điểm cơ bản của xí nghiệp như sau:
• Hoạt động cung ứng nguyên liệu: Nguồn nguyên liệu thơm do hai nông trường trực
thuộc sản xuất ra đáp ứng đủ yêu cầu sản xuất của nhà máy mà không phải mua thêm
từ bên ngoài, những loại trái cây nguyên liệu khác như chôm chôm, nhãn, vải, ổi, trái
điều, chuối,.. xí nghiệp phải mua từ các hộ nông dân trong vùng hoặc từ vùng khác.
• Các sản phẩm đông lạnh, và đóng hộp được sản xuất theo đơn đặt hàng của các công
ty xuất khẩu chuyên ngành, gần như không tiêu thụ nội địa. Như vậy khách hàng ở
đây là các khách hàng trung gian, không phải là khách hàng tiêu dùng cuối cùng.
• Các sản phẩm nước trái cây cô đặc, thực chất là một loại nguyên liệu cho ngành sản
xuất nước trái cây, được bán trực tiếp cho khách hàng Hà lan và Thụy sỹ (họ là các
nhà sản xuất nước trái cây).
Phương hướng sắp tới: Xí nghiệp liên hiệp X đang có dự định:
• Đưa sản phẩm của xí nghiệp vào tiêu thụ ngay tại thị trường nội địa, đặc biệt là tại các
thành phố lớn nhất tại Việt Nam.
• Đầu tư thêm một dây chuyền sản xuất nước trái cây từ nguyên liệu nước quả cô đặc,
sản phẩm nước ép trái cây này sẽ được bán ở thị trường nội địa cũng như sẽ xuất
khẩu sang các nước khác.


KTTC_ Giảng viên: CPA_TS Trương Văn Khánh

Trang 15

1. Hãy cho biết tên gọi chiến lược của xí nghiệp X hiện nay là gì? sắp tới là gì?
2. Xí nghiệp X có nên hay không mở ra tất cả các nông trường sản xuất đủ các loại
trái cây nhằm khép kín phía đầu vào nhằm chủ động hoàn toàn nguồn nguyên

liệu cho nhà máy sản xuất hay không? (giả định rằng nó có đầy đủ các yếu tố
nhân lực, vốn, đất đai cho việc sản xuất & canh tác các loại trái cây).
3. Trong chiến lược đầu tư vào dây chuyền công nghệ sản xuất nước ép trái cây, xí
nghiệp nên xem xét những yếu tố thuộc về môi trường bên ngoài và bên trong như
thế nào? Hãy xếp các yếu tố cuả môi trường bên ngoài và bên trong theo thứ tự
quan trọng.
Bài tập 6 : công ty Vĩnh Thịnh có 6 đơn vị kinh doanh chiến lược
SBU A : sản xuất đá hoa xây dựng
SBU B : sản xuất ngói ép
SBU C : sản xuất khung cưả các loại
SBU D : sản xuất tấm ép trần nhà
SBU E : khai thác cát đá xây dựng
SBU F : sản xuất gạch bông, gạch men
Doanh số của các SBU trên thị trường và mức tham gia thị trường tương đối của các SBU
trên những thị trường cạnh tranh ngành của chúng như sau :
SBU
A
B
C
D
E
F
Doanh số (Tỉ
600
150
250
300
200
420
đồng)

Thị phần tương
2
0.4
0.7
1.2
0.3
1
đối
Các nhà phân tích chiến lược đã thiết lập được một bảng điểm của công ty như sau :
YẾU TỐ
Vị thế cạnh tranh
• Phần phân chia thị
trường
• Chất lượng sản phẩm
• Danh tiếng nhãn hiệu
• Mạng lưới phân phối
• Sức sản xuất
• Chi phí đơn vị sản
phẩm
• Hiệu quả bán hàng
• Cung cấp nguyên liệu

SBU A SBU B SBU C SBU D SBU E SBU F
TL Đ TL Đ TL Đ TL Đ TL Đ TL Đ
0.2

4

0.2


0.1
5
0.0
5
0.1
0.0
5
0.1

4

3 0.2

1 0.2

3

0.15 2 0.2

4 0.1

3

5

0.1

3
4


0.1 2 0.1 3 0.1
0.05 3 0.05 3 0.0
5
0.1 2 0.05 2 0.0
5
0.1 2 0.05 2 0.0
5
0.05 3 0.1 2 0.1

4 0.0
5
3 0.2
4 0.0
5
5 0.1

1 0.1
5
2 0.1
2 0.1
3 0.0
5
1 0.0
5
3 0.1

3
4

0.0

5
0.0
5

5

3 0.0
5

5

4

4

2 0.15 2 0.2
2 0.1
5
2 0.15 2 0.1

4 0.0
5
3 0.0
5

3

4
3



KTTC_ Giảng viên: CPA_TS Trương Văn Khánh

• Nghiên cứu phát triển
• Giá cả sản phẩm

0.0
5
0.2

5
4

1
Tính hấp dẫn cuả thị
trường

Độ lớn cuả thị
trường

Tốc độ tăng
trưởng

Lề lợi nhuận

Cường độ cạnh
tranh

Đòi hỏi về kỹ thuật



Yếu tố xã hội



Chu kỳ phát triển

Trang 16

0.05 3 0.05 3 0.0
5
0.1 2 0.1 2 0.1
5
1
1
1

4 0.0
5
3 0.1
5
1

2 0.1

3

1 0.1

3


5 0.2
5
4 0.1
5
4 0.1
4 0.1

2 0.1
5
2 0.1

4

3 0.2
2 0.0
5
2 0.2
5
2 0.1
5
2 0.1
1

3
5

0.2

4


0.25 5 0.2

4 0.2

0.1

4

0.1

4 0.2

3 0.1

0.2
0.2

3
4

0.1
0.1

4 0.05 4 0.1
4 0.05 4 0.2

0.1

3


0.25 4 0.25 3 0.2

0.1

3

0.1

3 0.15 3 0.1

4 0.1
5
5 0.1
5
5 0.1
1

1

5

3
3

0.1 4 0.1 4 0.1 4 0.1
4
1
1
1

1
1/ Lập ma trận GE và phân tích chiến lược cho công ty
2/ Trong 6 SBU của công ty, SBU nào bị đối thủ trong ngành của nó đeo bám quyết liệt
nhất ?
Bài 7 : TỔNG CÔNG TY DỆT MAY VIỆT NAM (VINATEX)
Ngay từ năm 1986 cùng với quá trình hội nhập của kinh tế Việt Nam, ngành dệt may đã
có những bước chuyển mình mạnh mẽ mặc dù phải cạnh tranh không bình đẳng với các
quốc gia khác. Tốc độ phát triển trung bình trong 10 năm qua là 26%/ năm. Tuy nhiên
ngành dệt may Việt Nam hiện nay đang đứng trước những đe doạ lớn. Thứ nhất, tại thị
trường trong nước hàng Trung Quốc nhập lậu đang tràn lan và chưa có biện pháp kiểm
soát. Thứ hai, quá trình hội nhập vào Asian làm cho hàng Việt Nam không còn được bảo
hộ bằng mức thuế 50% nữa (đến năm 2005 mức thuế là <=5%), điều đó làm hàng dệt may
Việt Nam phải chịu một áp lực cạnh tranh về giá gay gắt. Thứ ba, Trung Quốc sau khi gia
nhập WTO đã trở thành một đối thủ lớn nhất về hàng dệt may và sẽ chiếm khoảng 50%
thị phần thế giới vào năm 2005. Cơ hội chủ yếu của Việt Nam là thị trường Mỹ sau khi
hiệp định thư thương mại Việt – Mỹ có hiệu lực, lợi thế cạnh tranh chính của Việt Nam là
lao động có trình độ và giá cả hợp lý. Hiện nay tổng công ty Vinatex nói riêng và ngành
dệt may nói chung có những khó khăn và yếu kém cơ bản sau :
1. Năng suất lao động trong toàn ngành còn thấp, trung bình thấp khoảng 2,5 lần so với
các quốc gia cạnh tranh khác (ví dụ với Trung Quốc). Giá thành sản phẩm còn quá
cao, thường cao hơn các nước khác từ 20-30%. Điều này còn do do tỉ lệ nội địa hoá
các sản phẩm xuất khẩu chỉ đạt 25%.


KTTC_ Giảng viên: CPA_TS Trương Văn Khánh

Trang 17

2. Thương hiệu của các công ty dệt may Việt Nam còn kém, điều này gây rất nhiều bất
lợi trong tìm kiếm khách hàng và tạo uy tín cho sản phẩm trong cạnh tranh. Các hoạt

động quảng bá và xúc tiến trên tầm mức quốc gia còn kém làm cho uy tín và độ tin
cậy của khách hàng đối với các doanh nghiệp may Việt Nam còn thấp. Khả năng sử
dụng các công cụ tiếp thị hiện đại (như thương mại điện tử, Internet …) còn kém.
3. Chưa có khả năng đáp ứng nhanh chóng nhu cầu của khách hàng, việc thiết kế qui
trình và hoàn thiện sản phẩm còn chậm, không có khả năng phản ứng nhanh khi có
nhu cầu.
4. Chưa quen với những hệ thống tiêu chuẩn mới, nhất là những tiêu chuẩn thuộc về
trách nhiệm xã hội, điều này dễ bị những rào cản mà các thị trường lớn (như EU hay
Mỹ) đặt ra.
5. Những bất lợi về giá điện (cao hơn Thái lan, Indonesia ), viễn thông (cao hơn 4 lần so
với các nước trong khu vực), vận tải biển (cao hơn 50% so với Thái lan, Trung quốc)
và những thủ tục xuất nhập khẩu đã làm cho giá thành sản phẩm dệt may của Việt nam
tăng cao.
Và hiện nay ngành dệt may Việt nam đang gặp những rào cản cạnh tranh rất lớn.
1. Các thị trường chính như EU, Nhật … đang áp dụng hạn ngạch đối với Việt nam trong
khi mở cửa đồi với các quốc gia khác (ví dụ không áp dụng hạn ngạch đối với
campuchia).
2. Các thị trường chính đang áp dụng rào cản về mặt xã hội (tiêu chuẩn lao động) để gây
khó dễ cho hàng dệt may từ các nước đang phát triển nhất là Việt nam.
3. Việt nam đang phải đối phó với đối thủ rất mạnh là Trung quốc (sẽ chiếm khoảng 50%
thị phần thế giới vào năm 2005) và ngay với các nước Asian khi gia nhập AFTA.
Vinatex phải làm gì để hội nhập trong bối cảnh cạnh tranh hiện nay ? hãy nêu các giải
pháp chiến lược gắn liền với chiến lược trên. Các doanh nghiệp ngành dệt Việt Nam
phải vượt qua các rào cản đó bằng cách nào ?
Bai 8 : Cách đây nhiều năm, thương hiệu P/S được phía nước ngoài định giá vài
triệu USD đã làm "bừng tỉnh" ý thức đầu tư thương hiệu trong giới doanh nhân
Việt Nam. Có người lo ngại, các thương hiệu nổi tiếng của Việt Nam sẽ dần dà bị
nước ngoài “nuốt chửng”. Nhưng từ năm 2002 bắt đầu có sự “đổi ngôi”: người đi
mua lại thương hiệu bây giờ là các doanh nhân Việt.
Khởi xướng là một liên doanh Việt - Nhật: Vinabico - Kotobuki. Sau một thời gian hoạt

động trên lĩnh vực chế biến thực phẩm, cái tên Vinabico - Kotobuki được người tiêu dùng
biết đến qua các loại sản phẩm bánh trung thu, bánh kem, bánh kẹo các loại. Tuy nhiên,
sau đó, Kotobuki quyết định bán lại cổ phần trong liên doanh cho phía Việt Nam.
Vinabico chuyển thành công ty 100% vốn trong nước, với chiến lược mới và được sử
dụng thương hiệu cũ trong vòng 5 năm.
Trên lĩnh vực xe máy, cuối 2002, một công ty tư nhân đã mạnh dạn “mua” lại quyền sử
dụng thương hiệu động cơ xe máy Daelim nổi tiếng của Hàn Quốc. Một thời gian sau,
Công ty Hoa Lâm đã chứng minh sự chuyển mình bằng một hợp đồng chuyển giao công
nghệ và độc quyền sản xuất, tiêu thụ động cơ xe máy Daelim trên thị trường Việt Nam.


KTTC_ Giảng viên: CPA_TS Trương Văn Khánh

Trang 18

Mới đây, thêm một tin vui cho sự lớn mạnh của các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam, đó
là chuyện Công ty cổ phần Kinh Đô mua lại thương hiệu kem Wall’s của Tập đoàn
Unilever Việt Nam.
Tổng vốn đầu tư Unilever đã bỏ ra cho việc xây dựng nhà máy, quảng bá nhãn hiệu
Wall’s trong 6 năm qua tại Việt Nam là hơn 20 triệu USD. Kem Wall’s hiện có 4.000
điểm bán, chiếm 50% thị phần kem Việt Nam. Theo ông Trần Cao Thành, Phó Giám đốc
Công ty Kinh Đô, chỉ riêng trên góc độ đầu tư thương hiệu, Kinh Đô đã tiết kiệm được
khá nhiều chi phí. Từ chối cho biết giá sang nhượng, nhưng ông Thành cũng thừa nhận,
cái giá Kinh Đô phải trả cho Unilever rẻ hơn nhiều so với việc Kinh Đô đi đầu tư mới một
nhà máy kem, chưa kể còn được sử dụng lại lực lượng 130 công nhân giỏi nghề và được
đào tạo bài bản của Unilever mà không mất một đồng nào phí đào tạo nhân lực.
Tương tự, Giám đốc Công ty Hoa Lâm cũng phải đeo đuổi nhiều năm, chứng minh được
mình có thực lực, có uy tín thương trường mới đạt được hợp đồng chuyển giao công nghệ
của Tập đoàn Daelim. Cái giá để độc quyền sản xuất và sử dụng thương hiệu Daelim tại
thị trường Việt Nam không phải nhỏ, nhưng dây chuyền công nghệ, tay nghề công nhân

đều do chính Daelim chuyển giao. Nhãn hiệu Dealim được nhiều người tiêu dùng biết
đến, do đó, việc tiêu thụ và xây dựng thị phần dễ dàng hơn.
Mua lại “thương hiệu” là con đường tắt để đi vào thị trường nhanh nhất. Song, làm cách
nào để phát huy hết lợi thế của việc mua lại thương hiệu? Theo Kinh Đô, lời giải ở chỗ
chiến lược kinh doanh. Thất bại của một nhãn hiệu thường do chiến lược kinh doanh chưa
hiệu quả. Khi bỏ tiền ra mua lại, người mua chắc chắn phải khảo sát kỹ lý do thất bại,
tiềm năng thị trường và đã có bài học kinh nghiệm từ người đi trước.
Công ty Unilever Việt Nam đã chính thức tuyên bố rút chân khỏi thị trường kem ăn
cao cấp của Việt Nam sau khi đã đạt được thoả thuận chuyển nhượng toàn bộ nhà
máy sản xuất kem Wall's của họ cho Công ty cổ phần Kinh Đô. Ông Trần Kim
Thành, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng giám đốc Công ty Kinh Đô đã có
cuộc trao đổi với báo giới xung quanh sự kiện này.
- Vì sao Unilever lại bán hãng kem Wall's và bên mua lại là Kinh Đô?
- Thông tin chính thức của Unilever đưa ra là ''ngưng sản xuất kem Wall's để tập trung nỗ
lực cho các hoạt động khác tại Việt Nam''. Thế nhưng, chúng tôi không quan tâm việc vì
sao họ bán; hơn nữa trong kinh doanh, chuyện mua bán, thanh lý hay giải thể là điều bình
thường. Vấn đề chính là Kinh Đô mua lại kem Wall's nhằm mục tiêu phát triển của mình,
đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao uy tín thương hiệu Kinh Đô trên thương trường trong
nước và quốc tế. Còn vì sao hai bên gặp nhau là do họ chỉ bán cho DN không phải là đối
thủ cạnh tranh; thứ nữa DN mua phải là đơn vị có uy tín, quan tâm đến người lao động và
các đối tác...
- Giá mua là bao nhiêu, thưa ông?
- Theo thoả thuận chung thì không công bố giá mua bán cũng như những con số cụ thể về
kết quả kinh doanh của kem Wall's trước đó.


KTTC_ Giảng viên: CPA_TS Trương Văn Khánh

Trang 19


- Ngoài ràng buộc trên, ông có thể cho biết những thông tin khác trong hợp đồng?
- Nói chung, chúng tôi mua lại toàn bộ tài sản (kể cả công nghệ sản xuất) của hãng kem
Wall's, từ nhà xưởng, thiết bị máy móc, phương tiện làm việc, văn phòng các nơi, hệ
thống kho, tủ kem, xe đẩy, xe tải... Tất cả nằm trong danh mục tài sản cụ thể và sẽ được
bàn giao rõ ràng, đúng luật pháp. Về người lao động, toàn bộ sẽ ký hợp đồng mới với
chúng tôi thời hạn ban đầu là ba năm và họ được hưởng mọi quyền lợi như cũ.
Ngoài ra, Kinh Đô được quyền sử dụng thương hiệu Wall's trong thời hạn 5 năm kể từ
ngày hợp đồng có hiệu lực, sản phẩm Wall's không do Kinh Đô sản xuất sẽ không được
xuất hiện ở Việt Nam dù là nhập khẩu hay tái đầu tư sản xuất. Và trong thời hạn 5 năm
này, nếu Kinh Đô không sản xuất kem thì cũng không được bán thiết bị, công nghệ cho
đối thủ cạnh tranh của Wall's. Sau 5 năm, nếu Wall's trở lại Việt Nam thì Kinh Đô sẽ là
đối tác ưu tiên số một trong vấn đề hợp tác sản xuất kinh doanh, nếu có.
- Khi mua lại một DN của một tập đoàn đa quốc gia, ông có nghĩ trong quản lý điều hành
sẽ có những khác biệt?
- Trong thời gian thương thảo, chúng tôi được tham quan và giới thiệu hoạt động về nhà
máy, xem báo cáo tài chính, bản kê khai tài sản... Nhìn chung việc quản lý, điều hành, tác
phong lao động... trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Wall's là rất khoa học, nghiêm
túc; mọi người đều qua đào tạo bài bản, có trình độ cao, nhiều người sử dụng tiếng Anh
lưu loát. Đây là vốn quý, là những cái hay mà Kinh Đô thấy cần phải học hỏi. Tuy nhiên,
điều quan trọng hơn đối với DN là đường lối, chiến lược kinh doanh.
Thông tin thêm về Wall's Việt Nam
Nhà máy sản xuất đặt tại Củ Chi
Vốn đầu tư 20 triệu USD
Công suất là 9 triệu lít/năm
Doanh số năm 2002 tăng 8% so với năm 2001 (riêng quý
I/2003 doanh số tăng 20%)
Có mạng lưới 115 đại lý trên toàn quốc
(Theo TBKTSG)
Phân tích đường lối chiến lược của KINH ĐÔ, đánh giá những rủi ro và những cơ hội
mà KINH ĐÔ có thể có khi thực hiện chiến lược này.

Bài 9 : SANG THỊ TRƯỜNG LÀO
Hiện nay các công ty dệt may Việt Nam đang đối mặt với khó khăn thiếu hạn ngạch
xuất khẩu. Để giải quyết vấn đề này đã có một số công ty dệt may Việt Nam liên
doanh với các công ty Lào để mở rộng thị trường vì có thể tranh thủ hạn ngạch của
bạn trong khi chi phí về việc nhập khẩu vải phụ liệu vào Lào cũng xấp xỉ khi nhập
vào Việt Nam nhưng giá nhân công lại rẻ hơn.
Bài toán hạn ngạch


KTTC_ Giảng viên: CPA_TS Trương Văn Khánh

Trang 20

Hiện nay, các doanh nghiệp (DN) Việt Nam vẫn thiếu hạn ngạch xuất hàng dù rằng mới
đây EU đã tăng thêm số lượng hạn ngạch của hàng may mặc Việt Nam vào EU. Tình hình
thực tế cuối năm 2002 cho thấy, có nhiều DN có hợp đồng xuất hàng đi EU, có hàng hoá
chuẩn bị sẵn nhưng không xuất hàng được do không có hạn ngạch, và đã nảy sinh hiện
tượng cò hạn ngạch làm trung gian mua bán hạn ngạch giữa các doanh nghiệp. Mỹ cũng
vừa tuyên bố sẽ áp dụng hạn ngạch dệt may với Việt Nam, theo đó mỗi năm hàng dệt may
Việt Nam xuất sang thị trường này tối đa là 1,7 tỷ USD.
Hướng sang thị trường Lào
Theo ông Sahouane Sawang, Tuỳ viên kinh tế thương mại Lào, hiện có rất ít công ty dệt
may nước ngoài đầu tư vào Lào. Số DN Việt Nam đầu tư vào đây cũng chỉ đếm trên đầu
ngón tay. Sắp tới, Lào sẽ tổ chức kêu gọi đầu tư của Việt Nam vào Lào và sẽ dành một số
ưu đãi đặc biệt cho các công ty Việt Nam như ưu đãi về thủ tục, đất đai, lao động...
Ông Sahouane Sawang cho biết, hiện Lào không phải chịu hạn ngạch dệt may khi xuất
vào EU do số lượng không đáng kể. Ngoài ra, hàng may mặc của Lào cũng nhận được
một số ưu đãi về mặt thuế quan, do đó các DN Việt Nam có thể liên kết với phía Lào sản
xuất hàng may mặc xuất khẩu sang nước thứ 3 để tận dụng ưu đãi của Lào và ưu đãi của
nước nhập hàng. Ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng công ty Dệt may

Việt Nam, cho biết hiện có 2 công ty đang đầu tư vào Lào, đó là công ty Scavi ở quận 2,
TP.HCM và một công ty của Đức có nhà xưởng ở Hải Dương.
Thận trọng từng bước vẫn hơn
Ông Lê Quốc Ân cũng cho biết, hiện Hiệp định thương mại giữa Lào và Mỹ chưa có hiệu
lực nên việc đầu tư vào Lào để xuất hàng sang Mỹ không thuận lợi hơn sản xuất ở Việt
Nam. Nhưng EU xếp Lào vào 48 nước nghèo trên thế giới nên hàng may mặc vào EU
không bị áp dụng hạn ngạch và về thuế thì được hưởng ưu đãi thuế quan chung (GSP).
Tuy vậy, ông cũng lưu ý các DN khi đầu tư vào Lào cần chú trọng đến việc vận chuyển
và nhân công; về nhân công thì nhân công Lào năng suất lao động thấp hơn Việt Nam và
DN Việt Nam phải đưa lao động kỹ thuật sang Lào. Về phưong tiện vận chuyển, vì Lào
không có cảng nên phải đưa hàng về Việt Nam rồi xuất đi, nên theo ông Ấn, tốt nhất nên
đầu tư nhà máy sản xuất tại biên giới Lào, gần các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị
để thuận lợi trong việc vận chuyển và nếu cần có thể đưa lao động Việt Nam sang.
(Theo SGTT)
Các công ty dệt may Việt nam phải làm gì để tồn tại và phát triển ? giải pháp tiến sang
thị trường Lào thuộc loại chiến lược nào ? những khó khăn và thận lợi của các doanh
nghiệp Dệt may Việt nam khi thực hiện sự chuyển hướng trên.
Bài 10 : Bài học đắng từ cây mía ngọt


KTTC_ Giảng viên: CPA_TS Trương Văn Khánh

Trang 21

Thời trước, trong tư duy kinh tế chúng ta từng quan niệm “tự lực cánh sinh”, hết
sức ấu trĩ theo kiểu thế giới làm được cái gì, ta cũng phải làm cho được cái ấy, phòng
nước ngoài bao vây kinh tế, không bán cho ta dùng (?).
Thời đó, dọc con đường nhỏ dẫn vào các trường Ðại học Ngoại giao, ÐH Ngoại thương
Hà Nội, có một dãy nhà mang vẻ bí ẩn, thấp thoáng các nhân viên mặc blu trăng, vào ra.
Hỏi ra mới biết, ở đó, các nhà khoa học Việt Nam đang cố gắng nghiên cứu chế tạo

transitor. Lúc đó, Pháp đã cùng Anh chế tạo thành công phản lực cơ dân dụng Concord
với những đặc tính ưu việt nổi trội (cho đến tận bây giờ) và đang theo đuổi chương trình
tên lửa đẩy Ariane. Thế nhưng Pháp lại không sản xuất transitor. Vậy mà tivi Thompson
của Pháp lại nổi tiếng châu Âu vì Pháp có thế mạnh về thiết kế mạch cho tivi. Khi ấy, trên
thế giới đã có 6 nước sản xuất transitor, trong đó có cả Liên Xô, Hungrari và Trung Quốc,
sản lượng dư ra cung ứng cho cả thế giới. Bản thân các nước này cũng phải cạnh tranh dữ
dội trong việc xuất khẩu transitor. Khoảng đầu thập kỷ 80, tôi lại nghe một tin ngắn: Việt
Nam đã thế tạo thành công transitor đầu tiên, đạt tiêu chuẩn quốc tế. Nhưng từ đó đến
nay, tôi chẳng thấy một chiếc transitor Việt Nam nào có mặt trong các thiết bị điện tử dù
là hàng của Việt Nam lắp.
Lại nói chuyện mía đường. Từ nhiều năm nay, dưới những “chiếc ô” thuế quan và phi
thuế quan, ngành mía đường của ta thường “sống dở, chết dở”. Chỉ một đợt lơi lỏng
chống buôn lậu là hầu hết DN sản xuất, kinh doanh mía đường của ta đều ngạt thở. Vậy
mà mấy năm nay, sau phong trào ồ ạt xây dựng nhà máy xi măng, bất kể công nghệ lạc
hậu, tiếp đến một “nạn dịch” xây dựng nhà máy đường, bất kể khả năng cung ứng, giá
thành nguyên liệu cũng như giá thành sản phẩm. Ðến nay, nhìn vào các con số thống kê
không khỏi rùng mình. Chỉ riêng năm 2001, 33 DN mía đường trong cả nước đã thua lỗ
hơn 2.100 tỷ đồng (chắc chắn còn giấu!). Hiện ngành mía đường cả nước nợ tới hạn phải
trả các ngân hàng gần 510.000 tỷ đồng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thảm trạng trên.
Song, nguyên nhân cơ bản và trực tiếp nhất là do giá thành sản xuất (bình quân) quá cao,
so với các nước lân cận cũng gấp gần hai lần.
Tiến trình cắt giảm thuế quan cứ đến gần. Giờ đây những “chiếc ô” thuế quan, phi thuế
quan, dù muốn hay không cũng phải gấp lại. Nếu ngay từ bây giờ, dù muộn, không có
những quyết định sáng suối và táo bạo dù phải chịu những cú sốc, thì ngay mai đây, dưới
“sức nặng” gay gắt của đường ngoại cạnh tranh trên cùng sân chơi, một kết cục bi thảm
đối với ngành mía đường là không thể tránh khỏi. Ấy thế mà không ít địa phương vẫn
chưa thức tỉnh trước viễn cảnh chẳng chút sáng sủa của ngành mía đường nước nhà.
Chính phủ không cho phép xây dựng thêm nhà máy mới thì tỉnh "lách" bằng cách mở
rộng công suất thiết kế nhà máy đã có. Có nhà máy được nâng công suất lên gấp 10 lần,
ngốn mất cả nghìn tỷ đồng. Khác nào xây thêm 9 nhà máy mới! Không có luận chứng khả

thi về vùng nguyên liệu, cho nên có nhà máy, suốt cả năm chỉ chạy được xấp xỉ 10 ngày!
Hiện tượng tranh giành nguyên liệu gay gắt đã xảy ra. Ðể “găm” mía cho nhà máy tỉnh
nhà, có nơi đã tái lập quy định lỗi thời và phạm luật – “ngăn sông cấm chợ”, mặc dù càng
sản xuất thì càng lỗ. Cứ như đà điểu rúc đầu vào cát bỏng vậy.


KTTC_ Giảng viên: CPA_TS Trương Văn Khánh

Trang 22

Thế giới đang đi sâu vào phân công chuyên môn hoá sâu sắc, nhất là trong xu thế hội
nhập. Muốn thành công thì sản xuất, kinh doanh bất cứ thứ gì cũng phải tính đến yếu tố
lợi thế so sánh trên thương trường quốc tế. Muộn còn hơn không, bài toán cho tương lai
ngành mía đường đang đặt ra cấp thiết cho những cấp quản lý vĩ mô Trung ương cũng
như địa phương. Chỉ ở đâu cho phép sản xuất đường với giá thành xấp xỉ khu vực và thế
giới thì mới nên trồng mía, làm đường, đa dạng hoá và nâng cao giá trị gia tăng các sản
phẩm từ đường. Nơi nào không thể đáp ứng yêu cầu đó cần “nghiến răng” đóng cửa nhà
máy, tìm cách chuyển đổi cây trồng cho phù hợp với thổ nhưỡng và nhất là phải tính đến
mức độ cạnh tranh trên thế giới. Ðể hy vọng giảm phần nào học phí quá đắt phải trả cho
những bài học kiểu “mía đường” trong tương lai.
Gần 30 năm trước, ở Mỹ, người ta sản xuất đường từ ngô theo phương pháp thuỷ phân
tinh bột. Mỹ là nước có sản lượng ngô cực lớn. Họ quyết định giá ngô thương mại toàn
cầu, bởi năng suất rất cao, công nghệ chế biến tiên tiến nên giá thành đường thô từ ngộ
rất thấp, chỉ 5 cent/Lb (khoảng 1.700 đ/kg). Mới đây, bản tin thông tin thương mại của
VN lại cho biết, hiện giá đường thô New York cũng là 5 cent/Lb. Tức là chẳng hề “trượt
giá” chút nào. Giá đường trắng hiện nay Luân Ðôn khoảng 208 USD/tấn (xấp xỉ 3.000
đ/kg).
Thời báo Kinh tế Việt Nam
Từ bài học trên rút ra được điều gì khi xây dựng chiến lược kinh doanh ?
Bài 11 : THỊ TRƯỜNG XE HƠI VIỆT NAM

Việt Nam hiện nay có 11 doanh nghiệp lắp ráp xe hơi (liên doanh hay 100% vốn
nước ngoài) với năng lực sản xuất khoảng 150.000 xe/năm. Mặc dù số lượng các doanh
nghiệp trong ngành công nghiệp xe hơi không nhiều nhưng thị trường Việt Nam tỏ ra quá
nhỏ bé cho sự phát triển. Số lượng xe hơi tiêu thụ năm 2001 là 20.000 chiếc (chiếm 13%
tổng công suất toàn ngành). Mặc dù số lượng xe hơi bán được ngày càng tăng, nhưng điều
đó không làm hài lòng các nhà sản xuất và lắp ráp xe hơi ở Việt Nam. Theo tính toán để
công nghiệp xe hơi ổn định thì GDP bình quân đầu người là 1000 USD/năm, muốn ngành
công nghiệp xe hơi phát triển thì GDP phải trên 3000 USD/người/năm. Hiện nay GDP
bình quân đầu người của Việt Nam khoảng 450 USD/ năm, cộng với những yếu kém của
cơ sở hạ tầng, thói quen sử dụng xe gắn máy, thị trường du lịch chưa phát triển …. Đã
làm cho thị trường xe hơi Việt Nam phát triển chậm và không khởi sắc. Chỉ có 3 trong số
11 doanh nghiệp xe hơi là hoạt động có lãi, tỉ lệ nội địa hoá chỉ đạt 10%, trên thực tế công
nghiệp xe hơi Việt Nam chỉ thuần túy là lắp ráp. Các công ty xe hơi không thể tìm được
các nhà cung cấp trong nước đủ chất lượng, thêm vào đó tay nghề nhân viên chưa cao,
khả năng thiết kế mẫu mã xe gần như là con số không. Theo kinh nghiệm của Nhật Bản,
cần từ 10 – 15 năm để thiết lập các nền tảng cho sự phát triển công nghệ xe hơi, nếu lấy
mốc năm 1990 thì công nghiệp xe hơi của Việt Nam đã có hơn 10 năm phát triển, khoảng
thời gian đó được coi như giai đoạn khởi đầu. Nhưng tương lai của ngành công nghiệp xe
hơi Việt Nam có phần ảm đạm, vì Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập AFTA nên
hàng rào quan thuế xẽ bị xoá bỏ, trong khi khả năng cạnh tranh của công nghiệp xe hơi


KTTC_ Giảng viên: CPA_TS Trương Văn Khánh

Trang 23

Việt Nam rất thấp so với các nước trong khu vực vì ra đời muộn hơn, giá thành cao hơn,
tỉ lệ nội địa hoá thấp và chưa có các ngành công nghiệp hỗ trợ. Hiện nay, mục tiêu của
ngành công nghiệp xe hơi của Việt Nam đến năm 2010 là thay thế dần nhập khẩu, tiến tới
sản xuất và xuất khẩu phụ tùng linh kiện sang các thị trường khác. Theo các tính toán hiện

nay, nhu cầu xe hơi của Việt Nam tới năm 2010 là khoảng 100.000 chiếc, cũng cần biết
con số này là không mấy sáng sủa cho các doanh nghiệp sản xuất lắp ráp xe hơi.
Nếu bạn là một chuyên gia chiến lược được mời tới cố vấn cho một công ty liên doanh
sản xuất và lắp ráp xe hơi, bạn sẽ có những ý kiến gì ?
Bài 12 : ỨNG BIẾN CỦA APLACO TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP
Công ty nhựa cao cấp hàng không (APLACO) khi thành lập đã có một thuận lợi
mà không phải doanh nghiệp nào cũng có : 30% sản phẩm sản xuất ra được độc quyền
cung cấp cho 2 hãng hàng không Việt Nam Airlines và Pacific Airlines. Trong quá trình
hoạt động , do đặc thù của mình mà APLACO đã tạo ra thương hiệu sản phẩm trong lớp
khách hàng tiêu dùng cao cấp là những khách hàng trên các chuyến bay trong nước và
quốc tế. Thời kỳ hoàng kim đã qua, hiện tại và tương lai đối với APLACO trở nên rất khó
khăn. Hiện nay cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt không những đối với các đối thủ
trong nước mà đã xuất hiện các đối thủ nước ngoài mà cụ thể là các công ty sản xuất nhựa
cao cấp của Trung Quốc. Hơn nữa đến năm 2006, theo tiến trình hội nhập AFTA Việt
Nam sẽ phải thực hiện giản thuế suất các mặt hàng nhựa nhập khẩu từ 40% xuống 0%,
kéo theo sự xâm nhập ồ ạt của các sản phẩm cùng loại từ các nước trong khu vực. Để thực
hiện quá trình hội nhập, APLACO đã đưa ra những tư tưởng phát triển cơ bản. Thứ nhất,
tập trung đổi mới trang thiết bị công nghệ, trong năm 2001 công ty đã đầu tư hơn 15 tỉ
đồng phát triển công nghệ, năm 2002 kế hoạch đầu tư là 20 tỉ. Thứ hai, công ty thực hiện
kế hoạch đào tạo nhân sự cho 100% cán bộ công nhân viên về kỹ thuật và quản lý. Thứ
ba, công ty coi thị trường trong nước là hàng đầu trong việc phát triển thương hiệu và
phát triển sản xuất. Thứ tư, công ty từng bước hướng ra thị trường quốc tế mà cụ thể là thị
trường các nước Asean và thị trường Mỹ. Mục tiêu cơ bản của APLACO là tạo tốc độ
tăng trưởng 20 – 25%/ năm cho đến năm 2010, tập trung vào nhóm sản phẩm nhựa công
nghiệp như linh kiện nhựa cao cấp, bao bì nhựa công nghiệp …
Hãy đánh giá xem chiến lược của APLACO là chiến lược gì ?


KTTC_ Giảng viên: CPA_TS Trương Văn Khánh


Trang 24

DỆT LONG AN - “CON VOI ĐẦU ĐÀN” GỤC NGÃ
Sai lầm chiến lược và thiếu quyết đoán trước cơ hội thị trường
báo người lao động số thứ 6 16/7/2004
Với hơn 1.000 công nhân Công ty Dệt Long An và những ai quan tâm đến thương hiệu
này, ngày 15-7-2004 là một ngày buồn: Sau hơn 29 năm hoạt động, công ty buộc phải
đóng cửa vì không trụ nổi trong cơn bão của cơ chế thị trường.
Bắt đầu từ sự trì trệ trong đội ngũ lãnh đạo, sự thiếu nhạy bén trong nắm bắt thời cơ dẫn
đến thua lỗ kéo dài, đời sống người lao động sa sút, “cái chết” của cánh chim đầu đàn
của ngành dệt may cả nước đang tạo nên những chấn động nhất định.
Tuy vậy, với nhiều chuyên gia, cú ngã đã được báo trước này là một dấu hiệu đáng
mừng để làm lại, một sự thức tỉnh cần thiết đối với các nhà quản lý, hoạch định chính
sách
Sáng 15-7, chúng tôi đến Công ty Dệt Long An giữa lúc ban giám đốc (BGĐ) triển khai
quyết định của UBND tỉnh Long An về việc đóng cửa và tiến hành giải thể. Bầu không
khí thật ảm đạm. Rất nhiều cán bộ, công nhân đã bật khóc.
Thời vàng son ngắn ngủi
Tiếp xúc với chúng tôi, ông Huỳnh Văn Khánh, Tổng Giám đốc Công ty Dệt Long An,
thở dài: “Thế là con voi đầu đàn của nền kinh tế tỉnh nhà đã chết!”. Rồi ông giải thích:
Trong thời kỳ đầu đổi mới, Tỉnh ủy và UBND tỉnh Long An ra sức xây dựng 5 mô hình
kinh tế mạnh tượng trưng cho 5 con voi sung sức trên thương trường trong và ngoài
nước. Dệt Long An được xem là con voi đầu đàn trong số này. Đến đầu thập niên 90 của
thế kỷ trước, 4 con voi kinh tế của tỉnh lần lượt ra đi hoặc biến thể không còn là voi nữa
bởi tính cạnh tranh khốc liệt của cơ chế thị trường. Lúc bấy giờ, cả tỉnh tập trung toàn
lực cho cho chú voi đầu đàn, lấy đó làm niềm tự hào của địa phương. Nhờ vậy, Dệt Long
An có những bước đột phá táo bạo và đem lại thành công vượt ra ngoài sự mong đợi của
người dân tỉnh nhà. Bước đột phá mang tính quyết định là mạnh dạn ra nước ngoài mua
công nghệ theo phương thức trả chậm. Chỉ trong một thời gian ngắn, Dệt Long An tung
ra thị trường những sản phẩm vải chất lượng vượt xa nhiều nhà máy dệt hiện có trong

nước. Không dừng lại những sản phẩm tốt, Dệt Long An cho ra đời xí nghiệp nhuộm
bằng dây chuyền sản xuất hiện đại vào nửa cuối thập niên 80, vừa gây được tiếng vang
lớn trong ngành dệt cả nước, vừa đem về cho tỉnh những khoản siêu lợi nhuận. Gần như
tất cả sản phẩm dệt từ các nơi khác đều đưa về đây gia công, tô điểm màu sắc.
Cuối năm 1987, theo Nghị định 217 của Chính phủ, lãnh đạo tỉnh an tâm giao toàn
quyền tự chủ cho giám đốc công ty. Có thể nói, trong giai đoạn này, công tác quản lý
gần như bị buông lỏng. Lẽ ra BGĐ tự chứng minh năng lực của mình trong việc đưa
doanh nghiệp tiến lên một tầm cao mới, đằng này một số người lại bộc lộ sự tự mãn
trước những cái đã đạt được. Nội bộ BGĐ mất đoàn kết nghiêm trọng, giám đốc thì tự ý
mua sắm trang thiết bị mà không cần nghe những ý kiến phản biện mang tính xây dựng.


KTTC_ Giảng viên: CPA_TS Trương Văn Khánh

Trang 25

Từ đó, Dệt Long An thường mua sắm trang thiết bị đắt hơn nhiều so với giá thực. Có
món chỉ có giá chừng 1,3 triệu USD, nhưng Dệt Long An phải nhập đội giá lên đến 2,7
triệu USD. Ngoài ra, người ta còn mua phải những món trang thiết bị không thể phát huy
tác dụng với tổng trị giá lên đến 40 tỉ đồng, một khoản tiền không nhỏ so với thời giá ở
nửa cuối thập niên 80. Tình trạng lãng phí, tự mãn trong nội bộ BGĐ Dệt Long An kéo
dài đến năm 1995 mới kết thúc bằng việc UBND tỉnh bổ nhiệm ông Huỳnh Văn Khánh
làm tổng giám đốc thay ông Nguyễn Văn Dánh.
Thiếu chiến lược cạnh tranh, sản phẩm làm ra không bán được
Ngay khi nhậm chức, ông Khánh phải đương đầu với một thử thách lớn. Đó là việc đại
lý độc quyền tiêu thụ sản phẩm của Dệt Long An trước đây đứng ra thành lập công ty,
đồng thời thông qua ông Dánh chiêu mộ phần lớn cán bộ kỹ thuật chủ chốt. Ngoài cán
bộ kỹ thuật, nhiều công nhân trẻ lành nghề của Dệt Long An lần lượt rứt áo ra đi. Tình
thế này buộc ông Khánh phải điều hành trong thế vừa sản xuất, vừa đào tạo đội ngũ kỹ
thuật mới. Nhờ sự kiên nhẫn và sự đoàn kết của đội ngũ công nhân cựu trào, ông Khánh

dần dần vượt qua khó khăn, ổn định sản xuất. Đến năm 2000, Dệt Long An cơ bản thanh
toán xong nợ nần trong và ngoài nước.
Vừa ổn định được sản xuất thì ông Khánh có quyết định trở về Sở Công nghiệp. Lẽ ra,
ngay sau khi thoát ra khỏi khó khăn, Dệt Long An phải củng cố nội lực, đề ra chiến lược
phát triển mới, chiến lược cạnh tranh có hiệu quả. Nhưng thực tế thì Dệt Long An vẫn
lẩn quẩn bên cái cũ, thiếu hẳn những sản phẩm mang tính cạnh tranh đáp ứng thị hiếu
người tiêu dùng. Cái thiếu mang tính quyết định ở Dệt Long An là không đầu tư trang
thiết bị dệt kim để cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trong nước, khâu tiếp cập thị
trường, quảng bá thương hiệu cũng không được chú trọng. Hậu quả là sản phẩm làm ra
không bán được dù năm nào vải của Dệt Long An cũng được cấp giấy chứng nhận hàng
Việt Nam chất lượng cao. Sản phẩm không tiêu thụ, đời sống người lao động giảm sút là
lẽ đương nhiên. Từ 1.500 công nhân, công ty buộc phải giảm dần xuống còn 930, trong
khi lương thì trả cầm chừng. Công ty rơi vào khủng hoảng nhưng BGĐ mới lại lục đục
xoay quanh quan điểm bán hay giữ lại Dệt Long An để củng cố. Từ năm 2000 trở lại
đây, Dệt Long An không còn là chính mình nữa.
Đánh mất cơ hội sáp nhập dẫn đến đóng cửa
Những người có quan điểm giữ lại Dệt Long An đưa ra hai hướng vực dậy doanh nghiệp
gồm: sáp nhập với Tổng Công ty Dệt may Việt Nam hoặc tiến hành cổ phần hóa, sắp
xếp lại sản xuất gọn nhẹ nhưng có sức cạnh tranh cao. Ở một chừng mực nào đó, lãnh
đạo tỉnh Long An ủng hộ việc giữ lại công ty nên tái bổ nhiệm ông Huỳnh Văn Khánh
làm tổng giám đốc vào tháng 7-2003. Quay lại trong lúc này, ông Khánh thấy không thể
tiến hành cổ phần hóa vì công ty không còn vốn để làm việc đó. Còn công nhân thì quá
khó khăn nên không ai mặn mà, vấn đề còn lại là xúc tiến việc sáp nhập vào Vinatex. Về
việc này, Bộ Công nghiệp ủng hộ, Vinatex cũng đồng tình với điều kiện tỉnh Long An
phải giải quyết khoản nợ gần 100 tỉ đồng. Các ngân hàng thương mại cho công ty vay
trước nay cũng đồng ý khoanh nợ với điều kiện UBND tỉnh ra quyết định tiếp tục củng


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×