Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Hệ thống nhân vật trong sử thi m’nông và vấn đề thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (645.02 KB, 34 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRIỆU VĂN THỊNH

HỆ THỐNG NHÂN VẬT TRONG SỬ THI
M’NÔNG VÀ VẤN ĐỀ THỂ LOẠI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH VĂN HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRIỆU VĂN THỊNH

HỆ THỐNG NHÂN VẬT TRONG SỬ THI
M’NÔNG VÀ VẤN ĐỀ THỂ LOẠI

CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC DÂN GIAN
MÃ SỐ: 62.22.36.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH VĂN HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. GS. TS Lê Chí Quế
2. PGS. TS Đỗ Hồng Kỳ

HÀ NỘI - 2015



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các dẫn
liệu, kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất cứ công trình nào khác.

Tác giả luận án

Triệu Văn Thịnh


LỜI CẢM ƠN
Ngoài sự nỗ lực của bản thân, trong quá trình thực hiện luận án chúng
tôi nhận được sự gợi ý và hướng dẫn tận tình, chu đáo của GS.TS Lê Chí Quế,
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, của
PGS.TS Đỗ Hồng Kỳ, Viện nghiên cứu Tôn giáo - Viện Hàn lâm Khoa học xã
hội Việt Nam.
Luận án còn có sự giúp đỡ về tài liệu, sự động viên khích lệ và những ý
kiến đóng góp của các thầy cô giáo thuộc Khoa Văn học, Trường Đại học Đại
học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội .
Xin trân trọng gửi tới quý thầy cô giáo lời biết ơn chân thành và sâu sắc.


MỤC LỤC
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................... 7
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ........................................................................................... 9

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................... 21
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ........................................................ 21

5. Phƣơng pháp nghiên cứu..................................................................... 22
6. Đóng góp mới của luận án ................................................................... 23
7. Cấu trúc của luận án ........................................................................... 24
Chƣơng 1. TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨUError! Bookmark not defined.
1.1. Khái quát về dân tộc M’nông...................................Error! Bookmark not defined.
1.1.1. Địa bàn cư trú, đặc điểm xã hội và thành phần tộc ngườiError! Bookmark not defined.
1.1.2. Đời sống văn hoá của người M’nông ............ Error! Bookmark not defined.
1.1.2.1. Đời sống văn hoá vật chất ........................... Error! Bookmark not defined.
1.1.2.2. Đời sống văn hoá tinh thần.......................... Error! Bookmark not defined.
1.2. Kho tàng văn học dân gian .......................................Error! Bookmark not defined.
1.2.1. Các tác phẩm thuộc loại hình văn xuôi tự sự Error! Bookmark not defined.
1.2.2. Các tác phẩm thuộc loại hình văn vần .......... Error! Bookmark not defined.
1.3. Những vấn đề cơ bản của Ot Ndrong .....................Error! Bookmark not defined.
1.3.1. Những vấn đề cơ bản về nội dung của sử thi M’nôngError! Bookmark not defined.

1.3.1.1. Ot Ndrong phản ánh vũ trụ quan và nhân sinh quan của người M’nôngError! Bookmark
1.3.1.2. Ot Ndrong phản ánh những vận động, chuyển biến lớnError! Bookmark not defined.
1.3.1.3. Ot Ndrong là “bách khoa thư” của người M’nôngError! Bookmark not defined.
1.3.2. Hình thức thể hiện chính của Ot Ndrong ...... Error! Bookmark not defined.
1.3.2.1. Mấy vấn đề về ngôn ngữ của Ot Ndrong ... Error! Bookmark not defined.
1.3.2.2. Biện pháp xây dựng cốt truyện và nhân vật Error! Bookmark not defined.
1.3.2.3. Một số thủ pháp nghệ thuật của Ot NdrongError! Bookmark not defined.
1.4. Một số vấn đề lý luận về sử thi .................................Error! Bookmark not defined.
1.4.1. Quan niệm về sử thi của các nhà nghiên cứu Error! Bookmark not defined.

1.4.1.1. Quan niệm về sử thi của một số nhà nghiên cứu ngoài nướcError! Bookmark not define
1.4.1.2. Quan niệm về sử thi của các nhà nghiên cứu Việt Nam Error! Bookmark not defined.


1.4.2. Quan niệm của người M’nông về Ot Ndrong Error! Bookmark not defined.

1.5. Tiểu kết .........................................................................Error! Bookmark not defined.

Chƣơng 2. HỆ THỐNG NHÂN VẬT TRONG SỬ THI M’NÔNGError! Bookmark not d
2.1. Nhân vật văn học ........................................................Error! Bookmark not defined.
2.2. Các tuyến nhân vật trong sử thi M’nông...............Error! Bookmark not defined.
2.2.1. Nhân vật trung tâm .......................................... Error! Bookmark not defined.
2.2.1.1. Nhân vật khai thiên lập địa .......................... Error! Bookmark not defined.
2.2.1.2. Nhân vật anh hùng văn hóa ......................... Error! Bookmark not defined.
2.2.1.3. Nhân vật anh hùng chiến trận...................... Error! Bookmark not defined.
2.2.2. Các loại nhân vật khác .................................... Error! Bookmark not defined.
2.2.2.1. Nhân vật thần kỳ........................................... Error! Bookmark not defined.
2.2.2.2. Nhân vật người đẹp ...................................... Error! Bookmark not defined.
2.2.2.3. Nhân vật đối lập............................................ Error! Bookmark not defined.
2.2.2.4. Nhân vật cộng đồng ..................................... Error! Bookmark not defined.
2.2.2.5. Nhân vật truyền tin ....................................... Error! Bookmark not defined.
2.3. Tiểu kết .........................................................................Error! Bookmark not defined.

Chƣơng 3. VẤN ĐỀ THỂ LOẠI CỦA SỬ THI M’NÔNGError! Bookmark not defined.
3.1. Môi trường diễn xướng của sử thi M’nông ...... Error! Bookmark not defined.
3.2. Chức năng của sử thi M’nông ........................... Error! Bookmark not defined.
3.3. Cách cấu tạo đề tài .............................................. Error! Bookmark not defined.
3.4. Cốt truyện của sử thi M’nông ............................ Error! Bookmark not defined.
3.5. Cách thức xây dựng nhân vật của sử thi M’nôngError! Bookmark not defined.
3.6. Cơ sở xã hội và nội dung phản ánh của sử thi M’nôngError! Bookmark not defined.
3.7. Tiểu kết ................................................................ Error! Bookmark not defined.

KẾT LUẬN..................................................... Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN....................................................................................... 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 26



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sử thi là một thể loại có giá trị đặc biệt trong kho tàng văn học dân gian
Việt Nam. Những kết quả sưu tầm và nghiên cứu gần đây, càng cho chúng ta
có cơ sở để đưa ra nhận định trên. Sử thi là thể loại văn học có tính nguyên
hợp, ngoài những giá trị về văn học nghệ thuật, nó còn chứa đựng những tư
liệu quý về lịch sử, tư tưởng, văn hoá, phong tục tập quán v.v...
Người đầu tiên sưu tầm và xuất bản sử thi Tây Nguyên là viên công sứ
người Pháp tên là Léopold Sabatier. Năm 1927, L. Sabatier công bố sử thi Dăm
Săn bằng tiếng Pháp, tại Pari. Trong lời tựa của cuốn sách, một nhà văn người
Pháp cho rằng đây là tác phẩm văn học cuối cùng của người Êđê: “Nhưng cay
đắng thay, bằng chứng về văn chương của người Mọi cũng là cái cuối
cùng”[128/15]. Đó là một nhận xét có phần vội vàng và võ đoán, bởi sự phát
hiện ra Dăm Săn mới chỉ là bước khởi đầu cho công việc sưu tầm và khám phá
kho tàng sử thi phong phú và đa dạng của Tây Nguyên. Tiếp đó, vào năm 1955,
các học giả người Pháp khác tên là Dominique Antomarchi và Goerges
Condominas cho công bố tác phẩm Dăm Di (D. Antomarchi sưu tầm và G.
Condominas viết giới thiệu) trên Tạp chí của Viện Viễn Đông bác cổ. Như vậy,
với việc sưu tầm và công bố sử thi của người Pháp, chúng ta biết rằng ở Tây
Nguyên có sử thi.
Sau sự phát hiện mang tính mở đường của L. Sabatier, phải mấy mươi
năm sau độc giả Việt Nam mới được biết nhiều về kho tàng sử thi Tây Nguyên
với việc Đào Tử Chí dịch và xuất bản tác phẩm Dăm Săn với tên gọi là Bài ca
chàng Dăm Săn vào năm 1957 (Đào Tử Chí dịch sử thi Dăm Săn sang tiếng
Việt từ bản bằng tiếng Pháp của L. Sabatier) [128/35]. Tiếp đó vào năm 1963,
hàng loạt tác phẩm như Dăm Di, Xinh Nhã, Khinh Dú, Dăm Prao… ra mắt bạn
đọc được in trong cuốn sách Trường ca Tây Nguyên. Tuy nhiên công tác sưu
tầm, dịch thuật, xuất bản và nghiên cứu sử thi Tây Nguyên thật sự được quan

tâm chú ý, đầu tư đúng mức và đạt được nhiều thành tựu đáng trân trọng là vào
7


những năm cuối thế kỷ thứ XX, đầu thế kỷ XXI, đặc biệt là Dự án Điều tra,
sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản kho tàng sử thi Tây Nguyên. Kết qủa
to lớn của Dự án là đã sưu tầm, ghi âm được hàng trăm sử thi khác nhau và đã
xuất bản được 75 tác phẩm sử thi của các dân tộc Tây Nguyên như Ê Đê, Ba
Na, M’nông, RagLai, Xtiêng, Xê Đăng, Chăm Hroi… bằng hình thức song ngữ
(tiếng Việt và tiếng bản tộc).
Đặt trong tiến trình sưu tầm và nghiên cứu sử thi ở Việt Nam thì sử thi
M’nông được phát hiện tương đối muộn (năm 1988). Mặc dù được phát hiện
muộn nhưng việc nghiên cứu sử thi M’nông cũng đã đạt được những thành tựu
to lớn, các tác giả tiêu biểu là Đỗ Hồng Kỳ với công trình Sử thi thần thoại
M’nông (1996) và phần viết về sử thi M’nông in trong cuốn Văn học dân gian
Êđê và M’nông (2008); Phan Đăng Nhật với công trình Vùng sử thi Tây
Nguyên (1999), Để tìm hiểu thêm sử thi M’nông - Ot Nrong (2002), Ngô Đức
Thịnh với Sử thi Tây Nguyên phát hiện và các vấn đề (2002), Nguyễn Việt
Hùng với luận án tiến sĩ Công thức truyền thống trong sử thi - Ot Ndrong
(2012)…
Về nguồn tư liệu, có thể nói trước năm 2001, việc sưu tầm, dịch thuật và
xuất bản sử thi M’nông còn tương đối khiêm tốn. Nhưng từ năm 2001 đến năm
2007, trong khuôn khổ Dự án, trong đó sử thi M’nông là bộ phận quan trọng
được tiến hành thì các nhà nghiên cứu của Viện nghiên cứu văn hoá thuộc Viện
Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam)
đã sưu tầm được số lượng hàng trăm tác phẩm sử thi M’nông (đã xuất bản
được 26 tác phẩm song ngữ Việt - M’nông). Kết quả trên đã góp phần làm
phong phú thêm kho tàng sử thi Việt Nam và khẳng định dân tộc M’nông có
khối lượng sử thi đồ sộ vào bậc nhất trong khu vực và cả thế giới.
Việc sưu tầm, dịch thuật, xuất bản và nghiên cứu sử thi M’nông đã gặt

hái được nhiều kết quả đáng trân trọng, song vẫn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục
được nghiên cứu để có cái nhìn tổng quan về một thể loại văn học dân gian độc
đáo đang hiện tồn trong đời sống của cộng đồng người M’nông. Bên cạnh đó,
việc xác định tiểu loại sử thi M’nông đang còn có những ý kiến khác nhau, có
8


người cho nó là sử thi thần thoại, có người cho nó là sử thi phổ hệ, có người
cho nó mang đậm tính chất của sử thi sáng thế, có người cho nó là sử thi anh
hùng… Ở đây cần nói thêm là hiện nay việc phân loại sử thi đang có những
cách làm khác nhau. Nếu dựa theo thời gian, có sử thi cổ sơ và sử thi cổ đại (cổ
điển); dựa vào nội dung và đề tài, có sử thi sáng thế và sử thi thiết chế xã hội
(cũng dựa và nội dung và đề tài người ta còn có cách gọi tên khác: sử thi sáng
thế tương đương với sử thi thần thoại và sử thi thiết chế xã hội tương đương
với sử thi anh hùng); dựa vào hình thức, cấu trúc tác phẩm có sử thi phồ hệ và
sử thi đơn hệ. Vậy sử thi M’nông là loại nào trong những loại vừa nêu trên?
Với những vấn đề đặt ra ở trên, cùng với đó bản thân là người dân tộc thiểu số,
hiện nay đang công tác và giảng dạy trên vùng đất Tây Nguyên - nơi sản sinh
ra kho tàng sử thi đặc sắc nên chúng tôi chọn đề tài Hệ thống nhân vật trong sử
thi M’nông và vấn đề thể loại làm đối tượng cho luận án của mình.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Nghiên cứu về văn hoá M’nông đã được các nhà khoa học trong nước và
ngoài nước quan tâm cách đây hơn nửa thế kỷ. Tuy nhiên công việc này chỉ
thật sự được chú trọng và đạt được những kết qủa to lớn vào những năm cuối
thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI.
Người đầu tiên nghiên cứu về dân tộc M’nông một cách khoa học là học
giả người Pháp tên là Goerges Condominas. Trong những năm 1947, 1948 ông
đã đến sống cùng với người M’nông Gar ở huyện Lăk, tỉnh Dak Lăk để tìm
hiểu và nghiên cứu về tộc người này. Sau một quá trình cùng chung sống với
người M’nông Gar, nhà dân tộc học người Pháp đã cho xuất bản cuốn sách có

tựa đề Chúng tôi ăn rừng vào năm 1957, sau đó được tái bản vào năm 1974
(Năm 2003, tác phẩm này được xuất bản lần đầu tiên bằng tiếng Việt). Trong
cuốn sách này, G. Condominas có nhắc đến một hình thức truyện kể của người
M’nông Gar có tên gọi là noo proo và ông gọi đó là anh hùng ca (épopée), ông
viết “Và câu chuyện nói đến nào noo proo, nào anh hùng ca mới hay ho làm
sao: cuộc sáng tạo ra thế giới, trận đại hồng thuỷ, con người bị quỷ nhai nuốt và
9


phun ra, biển nhấn chìm cả một đạo quân…” [12/186]. Tuy nhiên do mục đích
của cuốn sách chủ yếu là khảo sát về tộc người và văn hoá M’nông trên
phương diện dân tộc học do vậy mà G. Codominas chưa đi sâu nghiên cứu sử
thi của người M’nông.
Ở Việt Nam, người đầu tiên đề cập đến sử thi M’nông là cố học giả Võ
Quang Nhơn. Năm 1981 trong luận án Phó tiến sĩ Ngữ văn (nay là Tiến sĩ) và
năm 1983 trong cuốn sách Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam
ông cho rằng người M’nông có sử thi với những tác phẩm như Đam Brơi,
Chàng Trăng…[71/58] nhưng ông cũng mới chỉ dừng lại ở việc kể tên tác
phẩm, còn tên gọi bản địa của nó là gì, hình hài của nó ra sao thì chưa thấy ông
nói đến.
Năm 1982 trong cuốn sách Đại cương về các dân tộc Êđê, Mnông ở Dak
Lak, Bế Viết Đẳng và các tác giả của cuốn sách cũng đã nhắc đến hình thức hát
kể sử thi của người M’nông, ông viết “Cùng với nhóm M’nông Nong, nhóm
M’nông Prêng còn có hình thức kể gia phả gọi là N’koc yao được xem như một
loại sử thi vậy” [17/144]. Ở đây các tác giả đã có sự nhầm lẫn giữa hình thức
kể gia phả với sử thi.
Việc nghiên cứu về sử thi M’nông chỉ đặc biệt được chú ý sau việc phát
hiện ra thể loại này ở xã Dak Mol, huyện Dak Mil, tỉnh Dak Lăk (nay là huyện
Dak Song, tỉnh Dak Nông) vào năm 1988. Theo Đỗ Hồng Kỳ cho biết thì năm
1988, đoàn công tác của Viện Văn hoá dân gian (nay là Viện nghiên cứu Văn

hoá) gồm Ngô Đức Thịnh, Đỗ Hồng Kỳ, Tô Đông Hải và Nguyễn Tấn Đắc
(Viện Khoa học xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh, nay là Viện phát triển bền
vững vùng Nam bộ) đã tiến hành khảo sát tại bon Bu Dop, xã Dak Môl, huyện
Dak Song, tỉnh Dak Nông; qua lời hát kể của các nghệ nhân người M’nông và
qua những phỏng dịch ban đầu, nhà nghiên cứu Đỗ Hồng Kỳ và một số người
trong đoàn công tác đã nhất trí cho rằng đó chính là sử thi của người M’nông.
Từ đó đến nay đã có nhiều người quan tâm nghiên cứu về sử thi M’nông
và có thể nói tiêu biểu hơn cả là nhà nghiên cứu Đỗ Hồng Kỳ. Vào thập niên
80, 90 của thế kỷ trước, ông đã nhiều lần đến vùng đất có nhiều người M’nông
10


sinh sống (chủ yếu là tỉnh Dak Lăk và tỉnh Dak Nông). Ông đã cùng ăn, cùng ở
với những con người nơi đây để tìm hiểu, nghiên cứu về văn hoá, văn học của
họ. Ông đã tiếp cận với nhiều nghệ nhân dân gian người M’nông như Điểu
Kâu, Điểu Klứt, Điểu Klung, Điểu Mpơih, Điểu Byăt… Trong số các nghệ
nhân đó thì Đỗ Hồng Kỳ đã có một quá trình làm việc thường xuyên và lâu dài
với nghệ nhân Điểu Kâu - đến thời điểm đó vẫn là người duy nhất phiên dịch
các tác phẩm sử thi M’nông ra tiếng Việt. Tình cảm giữa Đỗ Hồng Kỳ và nghệ
nhân Điểu Kâu đã trở nên sâu sắc và mật thiết, chính vì vậy mà vào năm 2008
khi Điểu Kâu mất, Đỗ Hồng Kỳ đã có bài viết “Cánh chim đại ngàn đã ngừng
bay ” đăng trên báo Thể thao - Văn hoá rất cảm động về người nghệ nhân mà
ông luôn trân trọng và quý mến. Từ khi sử thi M’nông được phát hiện, Đỗ
Hồng Kỳ và một số trí thức địa phương đã sưu tầm, giới thiệu và cho xuất bản
nhiều công trình về sử thi M’nông như: Sử thi cổ sơ M’nông, Cây nêu thần,
Mùa rẫy bon Tiăng, Sử thi thần thoại M’nông, Kể dòng con cháu mẹ Chếp,
Tiăng bán tượng gỗ…
Từ năm 2001, công tác sưu tầm, dịch thuật và xuất bản sử thi M’nông có
bước phát triển mạnh mẽ và đạt được những kết quả to lớn. Năm 2001, Chính
phủ phê duyệt Dự án Điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản kho

tàng sử thi Tây Nguyên, giao cho Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn
Quốc gia (nay là Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) chủ trì, phối hợp
với các tỉnh Tây Nguyên và vùng phụ cận thực hiện. Trong khuôn khổ dự án
này, các nhà nghiên cứu đã xác định được gần 100 nghệ nhân người M’nông
biết hát kể sử thi, họ đang sống chủ yếu ở các tỉnh Dak Lăk, Dak Nông, Bình
Phước và hầu hết tuổi đã rất cao. Đến tháng 12 năm 2007, Dự án kết thúc và đã
thu được những kết quả to lớn ngoài dự kiến. Riêng về Ot Ndrong, các nhà
nghiên cứu đã sưu tầm, ghi âm được 215 bản hát kể và đã cho biên dịch, xuất
bản được 26 tác phẩm sử thi M’nông với 32 tập sách được làm rất công phu.
Các tác phẩm sử thi được công bố dưới dạng song ngữ, có chân dung của các
nghệ nhân hát kể sử thi. Trong mỗi tác phẩm đều có bài giới thiệu của người
biên tập văn học nhằm giúp cho người đọc thuận lợi hơn trong việc tiếp nhận,
11


nghiên cứu và đánh giá tác phẩm. Vậy là kể từ khi được phát hiện (1988) cho
đến trước năm 2001, mới chỉ sưu tầm, dịch thuật và xuất bản được 6 tác phẩm
sử thi M’nông, nhưng chỉ với 7 năm Dự án được thực hiện, đã sưu tầm, ghi âm
được hàng trăm tác phẩm sử thi M’nông và đã dịch thuật, biên tập và xuất bản
được 26 tác phẩm. Điều này khẳng định được hiệu quả thiết thực từ việc đầu tư
đúng đắn của Nhà nước cũng như những đóng góp to lớn của các nhà khoa học
và trí thức địa phương. Dưới đây là bảng thống kê các tác phẩm sử thi M’nông
đã được xuất bản (đến thời điểm Dự án kết thúc) và tất cả đều do nghệ nhân
Điểu Kâu phiên dịch từ tiếng M’nông sang tiếng Việt. (Xin xem phụ lục 1)
Với số lượng lớn các tác phẩm đã được sưu tầm và công bố cho chúng ta
thấy dân tộc M’nông có kho tàng sử thi vào loại phong phú, đồ sộ, hiếm có trên
thế giới. Kể từ khi được phát hiện, quá trình nghiên cứu và nhận thức sử thi
M’nông đã trải qua mấy thập kỷ và đã xuất bản được nhiều công trình nghiên
cứu có giá trị khoa học. Tuy nhiên vấn đề đặt ra ở đây là việc nhận thức và xác
định đặc trưng thể loại của nó vẫn còn những điểm khác biệt, chưa thống nhất

giữa các nhà khoa học.
Như trên chúng tôi đã trình bày, người đã dành nhiều thời gian, công sức
nghiên cứu về sử thi M’nông là Đỗ Hồng Kỳ. Từ năm 1990 đến nay, Đỗ Hồng
Kỳ đã liên tục cho công bố các kết qủa nghiên cứu của ông trên các tạp chí
khoa học chuyên ngành cũng như những cuốn sách có giá trị. Trong rất nhiều
những công trình đó, đáng chú ý là những bài báo và cuốn sách: Năm 1990,
trên Tạp chí Văn hoá dân gian, số 3, Đỗ Hồng Kỳ có bài viết Ot Nrông - sử thi
cổ sơ Mơ Nông. Trong bài này, tác giả giới thiệu một cách khái quát về môi
trường, phương thức diễn xướng và chức năng sinh hoạt, nội dung và phương
thức thể hiện, cơ sở xã hội và nội dung phản ánh của sử thi M’nông. Ngay từ
những trang viết đầu tiên này, Đỗ Hồng Kỳ đã có những nhận định ban đầu về
hình thức thể loại của sử thi M’nông và ông cho rằng sử thi M’nông thuộc loại
sử thi cổ sơ, trong đó chứa đựng cả những yếu tố thần thoại lẫn yếu tố sử thi
anh hùng. Điểm này hơi khác so với những công trình tiếp theo của ông, bởi
12


trong những công trình nghiên cứu sau đó, ông đều cho rằng sử thi M’nông là
sử thi thần thoại.
Năm 1993, trên Tạp chí Văn hoá dân gian, số 1, có bài Cốt truyện và
nhân vật trong sử thi nrông của người M’nông. Trong bài này, tác giả có bàn
đến cốt truyện đơn và cốt truyện liên kết, phân tích đặc điểm của cốt truyện Ot
Ndrong, bàn về hành động của các nhân vật trong Ot Ndrong và ông đã đưa ra
nhận xét: Kết cấu cốt truyện của sử thi M’nông là kết cấu theo kiểu liên hoàn,
gồm nhiều cốt truyện đơn hợp lại với nhau. Các cốt truyện đơn có mối quan hệ
mật thiết với nhau, tuy nhiên ở chừng mực nào đó nó lại có tính độc lập tương
đối.
Năm 1994, Đỗ Hồng Kỳ đã bảo vệ thành công luận án Phó tiến sĩ (nay là
Tiến sĩ) với đề tài Sử thi thần thoại M’nông và năm 1996 công trình này đã
được Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành. Trong cuốn sách này, ngoài phần

giới thiệu khái quát về tiến trình nghiên cứu sử thi thần thoại ở Việt Nam và
những vấn đề đại cương về dân tộc M’nông thì trong phần chính của cuốn
sách, tác giả đã tập trung phân tích về nội dung của sử thi M’nông trên các
phương diện: Sự hình thành con người; thế giới ba tầng và một số nhân vật tiêu
biểu hoạt động trong thế giới đó; các nhân vật anh hùng; sự giàu có, tràn ngập
niềm vui của dân tộc M’nông; những vận động chuyển biến lớn trong xã hội
M’nông cổ xưa; tri thức và sự hiểu biết của người M’nông đã được phản ánh
như thế nào trong Ot Ndrong. Bên cạnh vấn đề nội dung của Ot Ndrong, ông
đã đi vào phân tích hình thức của nó trên các phương diện: Đặc điểm cấu trúc
của tác phẩm, các thủ pháp nghệ thuật, chức năng tư tưởng - thẩm mỹ của Ot
ndrong. Sau khi khảo sát một cách cơ bản về nội dung và hình thức của sử thi
M’nông. Đỗ Hồng Kỳ đã chứng minh Ot Ndrong là sử thi thần thoại, điều này
được thể hiện qua các phương diện môi trường diễn xướng, chức năng sinh
hoạt, hệ thống thi pháp, cơ sở xã hội và nội dung phản ánh của nó.
Vào năm 2001, Đỗ Hồng Kỳ cho xuất bản cuốn sách Những khía cạnh
văn hoá dân gian M’nông Nong. Trong cuốn sách này, bên cạnh việc đề cập
sâu hơn những vấn đề về tác giả, sáng tác và phương thức lưu truyền, nghệ
13


nhân, công chúng và môi trường diễn xướng, chức năng sinh hoạt, nội dung và
thi pháp của Ot Ndrong, tác giả đã luận giải về tên gọi bản địa của sử thi
M’nông và ông cho rằng cách gọi chuẩn xác nhất, được nhiều nhóm M’nông
chấp nhận là Ot Ndrong.
Năm 2002, Đỗ Hồng Kỳ có 2 bài viết đáng chú ý đăng liên tiếp trong 2
số 4 và 5 của Tạp chí Văn hoá dân gian, đó là bài Sử thi của người M’nông và
bài Diện mạo Ndrong - sử thi M’nông (Bu Nong). Trong những bài viết này,
ông đã cho biết sử thi M’nông có một số lượng đồ sộ với hàng trăm tác phẩm
đã được điều tra, phát hiện, khảo sát và sưu tầm. Bên cạnh đó, bằng những luận
cứ của mình, ông tiếp tục cho rằng “Sử thi M’nông là sử thi cổ sơ - sử thi thần

thoại (đúng hơn là thần thoại - sử thi) với ý nghĩa đầy đủ của từ này”. Có lẽ với
Đỗ Hồng Kỳ, cuốn sách công phu, đầy đủ nhất về quá trình nghiên cứu sử thi
M’nông là Văn học dân gian Ê Đê, Mơ Nông, xuất bản năm 2008. Với những
kết quả đạt được của cuốn sách mà Nguyễn Xuân Kính (Nguyên Viện trưởng
Viện nghiên cứu Văn hoá) cho nó như là một tập đại thành về quá trình nghiên
cứu sử thi M’nông. Trong cuốn sách này, ngoài những vấn đề đã được ông nói
nhiều trong các bài báo, cuốn sách trước đó thì ở đây Đỗ Hồng Kỳ đã điều
chỉnh một số nhận xét trước đây của mình về sử thi M’nông, bên cạnh đó là
việc ông cùng Điểu Kâu đã sơ đồ hoá dòng con cháu mẹ Chau và cụ thể hoá
một cách khá đầy đủ hệ thống nhân vật trong sử thi M’nông. Với cuốn sách này
thì một lần nữa lại đặt ra câu hỏi là sử thi M’nông thuộc loại nào, sử thi phổ hệ
hay sử thi chuỗi hoặc sử thi liên hoàn; thuộc tiểu loại nào, thần thoại hay anh
hùng, sáng thế hay thiết chế xã hội hay sử thi M’nông mang cả hai tính chất:
thần thoại - anh hùng hoặc sáng thế - thiết chế xã hội? Đỗ Hồng Kỳ vẫn luôn
cho rằng Ot Ndrong là sử thi thần thoại, tuy nhiên quan điểm này của ông có sự
khác biệt với quan điểm của Phan Đăng Nhật, Ngô Đức Thịnh, Bùi Thiên
Thai…
Bên cạnh Đỗ Hồng Kỳ còn có nhiều nhà khoa học quan tâm và nghiên
cứu về sử thi M’nông như Phan Đăng Nhật, Nguyễn Xuân Kính, Ngô Đức
Thịnh, Tấn Vịnh, Nguyễn Việt Hùng, Bùi Thiên Thai, Trần Thị An… Năm
14


1998, trên Tạp chí Văn hoá dân gian, số 3, Phan Đăng Nhật cho đăng bài Ot
Nrông - một bộ sử thi phổ hệ đồ sộ mới được phát hiện. Trong bài viết này
cũng như trong cuốn sách Vùng sử thi Tây Nguyên được xuất bản sau đó một
năm, Phan Đăng Nhật đều cho rằng Ot Ndrong là một bộ sử thi phổ hệ đồ sộ
của người M’nông. Mặc dù vào thời điểm ấy, tư liệu chưa nhiều, tác phẩm sưu
tầm được còn ít nhưng Phan Đăng Nhật đã có những nhận xét rất đáng chú ý về
“tính chất” phổ hệ của sử thi M’nông. Hiện nay. với những tác phẩm Ot

Ndrong đã được xuất bản, chúng tôi nhận thấy hầu hết các tác phẩm sử thi đều
được xuất phát từ bon Tiăng, các nhân vật sử thi đều từ đây ra đi để lao động
sản xuất, chiến đấu chống kẻ thù gia tộc, giành lại vật báu hoặc cướp người đẹp
rồi lại trở về bon làng cũ (Bon Tiăng). Tuy nhiên, ở Ot Ndrong chúng tôi chưa
thấy được tính chất cha truyền con nối như sử thi phổ hệ nói chung, ở đây chủ
yếu là ở thế hệ thứ nhất, thứ hai còn ở thế hệ thứ ba chỉ có một mình nhân vật
Mbông mà thôi. Vì vậy Ot Ndrong có thật sự là sử thi phổ hệ đích thực hay
không cần phải tiếp tục được nghiên cứu và tìm hiểu thêm. Chúng tôi sẽ quay
trở lại vấn đề này ở một dịp khác. Tiếp đó, vào năm 2002, trên Tạp chí Văn
học, số 11, Phan Đăng Nhật có bài Để tìm hiểu thêm sử thi M’nông - Ot nrông.
Trong bài viết này, ông cho rằng, bằng những tư liệu đã thu thập được có thể
đưa ra nhận xét rằng, qua sử thi M’nông có thể nhận thức về các hiện tượng
lịch sử - xã hội M’nông như lễ hội và vấn đề chiến tranh.
Năm 2002, trên Tạp chí Văn hoá dân gian, số 4, Ngô Đức Thịnh có bài
Sử thi Tây Nguyên - phát hiện và các vấn đề. Trong bài viết này, tác giả đã hệ
thống hoá những vấn đề học thuật về sử thi Tây Nguyên như: khái niệm sử thi
Tây Nguyên; xác định thể loại và phân loại sử thi Tây Nguyên; thời đại của sử
thi Tây Nguyên; những đặc điểm nghệ thuật của sử thi; sử thi Tây Nguyên là
sử thi “sống”; có một vùng sử thi Tây Nguyên; sử thi Tây Nguyên với sử thi
khu vực Đông Nam Á…
Trong bài viết Tính thống nhất và đa dạng của sử thi Tây Nguyên đăng
trên Tạp chí Văn hoá dân gian số 6 năm 2008, Ngô Đức Thịnh cho rằng sử thi
Tây Nguyên đều thuộc loại hình sử thi cổ sơ, ông viết: Sử thi Tây Nguyên đều
15


thuộc cùng một loại hình là sử thi cổ sơ (épopée archaique), phân biệt với sử thi
cổ đại (épopée antique). Tất nhiên, trong loại hình sử thi cổ sơ không phải
thuần nhất, mà giữa chúng cũng có những sự khác biệt nhất định, đặc biệt là
các hình thức tư duy, sử dụng ngôn ngữ và hình thái xã hội mà nó phản

ánh[89/14].
Năm 2005, Bùi Thiên Thai có bài viết về tác phẩm Con đỉa nuốt bon
Tiăng đăng trên Tạp chí Nguồn sáng dân gian, số 3. Trong bài viết này, tác giả
cho rằng Con đỉa nuốt bon Tiăng là sử thi anh hùng. Ở phần kết luận của bài
báo, tác giả viết “Đây là một sử thi anh hùng, khác với những sử thi thần thoại
của dân tộc Mơ Nông đã được biết đến trước đây” [82/39]. Bùi Thiên Thai còn
cho rằng, các sử thi M’nông là một chuỗi sử thi (sử thi chuỗi) và tác giả đã xếp
sử thi M’nông vào loại sử thi chuỗi chứ không phải sử thi liên hoàn bởi theo tác
giả, hai loại sử thi này có những đặc điểm khác nhau. Tác giả đã đưa ra cách
giải thích về hai loại sử thi này như sau: Thuật ngữ “chuỗi sử thi” (epic cycle)
ban đầu được dùng để chỉ một loạt những bài thơ tự sự có liên quan đến những
miêu tả về chiến tranh Tơ roa nhằm bổ sung cho sử thi của Hôme. Những bài
thơ này do một loạt các nghệ nhân hậu kỳ Hy Lạp được gọi là “thi nhân liên
ca” sáng tác. Sau này nó được dùng để chỉ một hệ thống sử thi được móc nối
với nhau bởi nhiều phần độc lập, giữa các phần có nhân vật chính và bối cảnh
chung, giữa các sự kiện cũng có liên kết và thứ tự nhất định. Bùi Thiên Thai
cho rằng cần có sự phân biệt giữa chuỗi và liên hoàn. Sáng tác liên hoàn (ring
composition) là kết cấu theo kiểu vòng tròn đồng tâm nhằm nhấn mạnh yếu tố
ở vị trí trung gian, có chức năng làm cho dễ nhớ và cả chức năng thẩm mỹ, còn
thuật ngữ “chuỗi” ở trong các sáng tác thơ ca có thể dịch là “liên ca”. Kịch tôn
giáo thời kỳ trung cổ thường thể hiện hoặc giải quyết hàng loạt những chủ đề
lấy kinh thánh làm nền tảng, do đó cũng gọi là chuỗi kịch hoặc liên kịch. Bên
cạnh đó, Bùi Thiên Thai còn cho rằng thuật ngữ sử thi phổ hệ có lẽ không thoả
đáng lắm nếu như áp dụng với sử thi M’nông, bởi sử thi phổ hệ phải có các
nhân vật trung tâm theo kiểu cha truyền con nối, ví dụ như sử thi Manas của
Kirgia. Điểm này khác với quan niệm của Phan Đăng Nhật, bởi Phan Đăng
16


Nhật cho rằng sử thi M’nông là sử thi phổ hệ. Nhìn chung, trong bài viết này

Bùi Thiên Thai đưa ra hai vấn đề rất đáng lưu ý khi cho rằng có một tác phẩm
sử thi M’nông là sử thi anh hùng và các tác phẩm sử thi Mơ Nông là sử thi
chuỗi (chứ không phải sử thi liên hoàn, sử thi phổ hệ).
Ở đây, Bùi Thiên Thai đã tạo ra những bất ngờ thú vị bởi trước Bùi
Thiên Thai chưa thấy có ý kiến nào cho rằng sử thi M’nông là sử thi anh hùng.
Như trên đã nói, Đỗ Hồng Kỳ thì xếp sử thi M’nông thuộc tiểu loại sử thi thần
thoại, Ngô Đức Thịnh thì cho rằng sử thi M’nông có tính sáng thế đậm, còn
Phan Đăng Nhật lại rất thận trọng khi xem xét vấn đề thể loại của sử thi
M’nông. Đến đây, vấn đề nhận thức về đặc trưng thể loại của sử thi M’nông đã
có những quan niệm khác nhau. Vậy Ot Ndrong thuộc tiểu loại nào? Điều này
sẽ được chúng tôi giải quyết trong luận án.
Trên Tạp chí Nguồn sáng dân gian, số 2 năm 2006, có bài của Trần Thị
An giới thiệu về sử thi Rôch, Rông bắt hồn Lêng. Ở bài này, Trần Thị An nhấn
mạnh đến chất thô sơ trong miêu tả của sử thi M’nông, tác giả viết: Tính chất
thô sơ được thể hiện man mác khắp tác phẩm sử thi này. Trước hết, có thể thấy,
trong trận đánh, các động tác mà nhân vật anh hùng phô diễn sức mạnh của
mình là “vật”, “đè”, “ôm”, “đẩy tay”, “móc chân”, “lôi”, “ôm chặt”, “ôm
dính”… Đoạn miêu tả này cho thấy trí tưởng tượng của nghệ nhân dân gian
quả là chưa được cất cánh. Khó có thể hình dung đây là sự phô diễn của các
anh hùng đại diện cho hai bon làng hùng mạnh. Vũ khí mà họ sử dụng từ đầu
đến cuối, ngoài lao, dao gươm (thực ra ít thấy họ sử dụng) còn có chài, đơm,
các loại dây (rất hay được sử dụng và rất có hiệu quả). Các loại vũ khí này xem
ra vẫn khá thô sơ và việc “đơm” một người anh hùng như Yang không khác xa
việc đơm một con cá. Người hát/kể vẫn mang những hiểu biết của mình trong
đời sống hàng ngày thật thà kể lên trong bài hát/kể mà chưa có gia công nghệ
thuật bao nhiêu.
Tháng 10 năm 2008, tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Dak Lăk, Viện
Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam)
phối hợp với Uỷ ban nhân dân tỉnh Dak Lăk tổ chức Hội thảo quốc tế Sử thi
17



Việt Nam. Hội thảo đã thu hút được đông đảo các học giả trong nước và ngoài
nước như Ấn Độ, Lào, Đài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản… tham gia. Tại Hội
thảo này, một lần nữa vấn đề phân loại sử thi lại được bàn đến nhiều và có
những quan niệm khác nhau. Trước khi diễn ra Hội thảo, ở Việt Nam, do ảnh
hưởng quan niệm của các nhà nghiên cứu Liên Xô nên đã phân sử thi thành hai
loại: sử thi cổ sơ và sử thi cổ điển (còn gọi là sử thi cổ đại). Ở Hội thảo này tác
giả Triều Qua Kim (người Trung Quốc) đã giới thiệu một cách phân loại nữa,
ông viết: Cùng với sự phát triển không ngừng của truyền thống sử thi các dân
tộc, các quốc gia trên toàn thế giới, giới nghiên cứu đã dần dần chấp nhận cách
phân loại mới về sử thi: 1. Sử thi truyền miệng dân gian; 2. Sử thi do văn nhân
sáng tác (được ghi chép thành sách); 3. Sử thi nằm giữa hai loại nói trên, tức
“lấy truyền thống làm kim chỉ nam” hoặc “chuẩn ghi chép thành sách”. Theo
Triều Qua Kim những tác phẩm sử thi truyền miệng tiêu biểu của thế giới là
Mahabharata và Ramayana của Ấn Độ, Iliat và Ođixê của Hy Lạp; các tác
phẩm sử thi tiêu biểu cho loại sử thi do văn nhân sáng tác như Gerusalemme
giải phóng của nhà thơ người Ý Torquato Tasso và tác phẩm Thần khúc của
Dante; còn tác phẩm Kalevala của Phần Lan lại được coi là thiên sử thi “chuẩn
ghi chép thành sách” điển hinh [128/315]. Bên cạnh đó, các học giả người
Trung Quốc cũng giới thiệu kết quả phân loại các sử thi tồn tại và lưu truyền
trên đất nước họ, bao gồm sử thi sáng thế, sử thi di cư và sử thi anh
hùng[128/316].
Năm 2009, trên Tạp chí Nguồn sáng dân gian, số 2, tác giả Nguyễn Thị
Mỹ Lộc cho đăng bài Hệ thống nhân vật anh hùng của sử thi Mơ Nông. Ở bài
viết này, tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc đã có những nhận xét và so sánh rất xác
đáng, chỉ có điều số lượng tác phẩm Ot Ndrong mà tác giả khảo sát trong bài
này là hơi ít (9 tác phẩm, chiếm gần 1/3 số lượng sử thi M’nông đã được công
bố) vì vậy có thể nói những nhận xét và so sánh đó chưa thật sự thuyết phục và
chưa mang tính phổ quát, bao trùm về sử thi M’nông. Nguyễn Thị Mỹ Lộc xếp

sử thi M’nông thuộc tiểu loại sử thi cổ sơ - thiết chế xã hội, tác giả viết: Sử thi
M’nông cũng như của các dân tộc anh em khác ở Việt Nam, theo nhận định
18


của giới nghiên cứu, “tuyệt đại bộ phận là sử thi cổ sơ - thiết chế xã
hội”[56/57].
Năm 2011, Nguyễn Việt Hùng đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ Công
thức truyền thống trong sử thi - Ot Ndrong. Trong luận án của mình, ngoài
phần Tổng quan về đề tài và lý thuyết công thức truyền thống, Nguyễn Việt
Hùng tập trung vào hai chương, chương một nghiên cứu về Mô hình công thức
truyền thống và cấu trúc tự sự tác phẩm sử thi M’nông và chương hai nghiên
cứu về Vai trò của công thức truyền thống đối với việc diễn xướng và với qúa
trình văn bản hoá sử thi - Ot Ndrong. Đóng góp của công trình này là đã cung
cấp những khái niệm cơ bản của phương pháp nghiên cứu thể loại truyền
miệng từ các công thức truyền thống. Sau khi cung cấp những khái niệm cơ
bản về phương pháp nghiên cứu từ công thức truyền thống, Nguyễn Việt Hùng
đi vào nghiên cứu hệ thống công thức truyền thống của sử thi M’nông trên các
bình diện: Cấu trúc hình thức thể loại, qúa trình hình thành văn bản truyền
miệng - văn bản viết, mối quan hệ giữa văn bản và nghệ nhân, quá trình diễn
xướng sử thi M’nông để đưa ra những kết luận về bản chất của thể loại Ot
Ndrong. Tiếp đó tác giả nghiên cứu về vai trò của văn hoá dân gian nói chung
và Ot Ndrong nói riêng trong đời sống cộng đồng của người M’nông, vai trò
của nghệ nhân dân gian trong việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá truyền
thống của dân tộc M’nông. Từ những kết quả nghiên cứu, Nguyễn Việt Hùng
đã góp thêm tiếng nói quan trọng khẳng định những giá trị to lớn của sử thi
M’nông. Bên cạnh đó, trong luận án của mình, Nguyễn Việt Hùng đã đề xuất
những ý kiến quan trọng trong công tác nghiên cứu sử thi M’nông nói riêng và
sử thi nói chung đó là lập hồ sơ về những công thức truyền miệng của sử thi
M’nông cũng như của các dân tộc khác. Việc lập hồ sơ hệ thống công thức của

từng loại sử thi sẽ là những bộ mã quan trọng để góp phần xác lập tính truyền
thống của mỗi loại. Ở phần cuối luận án, những băn khoăn, lo ngại của Nguyễn
Việt Hùng cũng như của rất nhiều nhà khoa học là làm sao tạo được môi
trường diễn xướng cho các tác phẩm sử thi trong bối cảnh xã hội hiện nay.
Nguyễn Việt Hùng đã đề xuất phương án truyền dạy hát - kể sử thi thông qua
19


việc mô hình hóa các tác phẩm sử thi bằng các công thức truyền thống và theo
tác giả nếu làm được như vậy việc truyền dạy và tiếp nhận sử thi sẽ trở nên gọn
nhẹ và dễ dàng hơn. Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với tác giả Nguyễn Việt Hùng
về những đề xuất trên. Theo chúng tôi, việc khó nhất hiện này là làm sao đưa
được những tác phẩm sử thi về với đời sống của cộng đồng, làm sao để những
tác phẩm đó được sống một cách tự nhiên như vốn nó đã tồn tại trong đời sống
cộng đồng của các cư dân bản tộc. Sau nhiều năm tìm hiểu, nghiên cứu, thâm
nhập cuộc sống của người M’nông nói riêng và của các dân tộc bản địa Tây
Nguyên, chúng tôi nhận thấy đây là một vấn đề cực kỳ hóc búa và khó giải
quyết. Chúng ta đang đứng trước sự mâu thuẫn gay gắt giữa việc bảo tồn
những giá trị văn hoá truyền thống với việc phát triển kinh tế - xã hội, phải làm
sao để dung hoà được hai mặt của một thực tế đầy nghiệt ngã này?
Như chúng tôi đã nói, vấn đề nhận diện và phân loại sử thi Việt Nam nói
chung và sử thi M’nông nói riêng đang còn có những ý kiến khác nhau. Theo
Võ Quang Nhơn và một số nhà khoa học khác thì ở Việt Nam có hai loại sử thi
đó là sử thi thần thoại và sử thi anh hùng. Theo Phan Đăng Nhật, nếu lấy tiêu
chí đặc điểm lịch sử - xã hội để phân loại thì trên thế giới có hai loại sử thi là sử
thi cổ sơ và sử thi cổ đại, nếu lấy tiêu chí chức năng, nhiệm vụ của nhân vật
trung tâm của tác phẩm thì có hai loại: sử thi sáng tạo thế giới (gọi tắt là sử thi
sáng thế) và sử thi thiết chế xã hội (gọi tắt là sử thi thiết chế), cách phân loại
này được Phan Đăng Nhật và một số nhà khoa học tiếp thu từ các tác giả người
Trung Quốc (cụ thể là Nông Quán Phẩm).

Việc phân loại sử thi M’nông đang có những quan niệm khác nhau.
Ngoài cách phân loại theo những tiêu chí quen thuộc của các nhà nghiên cứu
Việt Nam trong mấy chục năm gần đây (sử thi cổ sơ, sử thi cổ đại hay cách
phân loại khác là sử thi thần thoại, sử thi anh hùng; sử thi sáng thế, sử thi thiết
chế xã hội) còn có cách phân loại của các học giả người Trung Quốc như Triều
Qua Kim đã giới thiệu tại Hội thảo quốc tế Sử thi Việt Nam vào tháng 10 năm
2008 và nếu cách phân loại này được tiếp nhận thì việc phân loại sử thi Việt
20


Nam nói chung và sử thi M’nông nói riêng sẽ như thế nào? Đó là những vấn đề
cần được giải quyết một cách thấu đáo và thận trọng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về sử thi M’nông đạt được những kết
quả to lớn. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đi trước, về cơ bản mới khảo sát một
cách khái quát những giá trị về nội dung và hình thức của sử thi M’nông mà
chưa nhiều người đi vào nghiên cứu một cách toàn diện về hệ thống nhân vật
và vấn đề thể loại của Ot Ndrong. Mục đích của luận án là khảo sát một cách
có hệ thống các nhân vật trong sử thi M’nông để thấy được các thủ pháp nghệ
thuật, những quan niệm thẩm mỹ của người M’nông đã được thể hiện như thế
nào trong các tác phẩm sử thi của họ, trên cơ sở đó có được những cứ liệu quan
trọng xác định tiểu loại của sử thi M’nông.
Hiện nay việc xác định tiểu loại sử thi M’nông đang còn một số ý kiến
khác nhau, nhiệm vụ của luận án là khảo sát một cách có hệ thống các tác phẩm
sử thi M’nông trên các phương diện môi trường diễn xướng, chức năng sinh
hoạt, quan niệm thẩm mỹ, nội dung và thi pháp, đặc điểm xã hội để xác định
đặc trưng thể loại của nó. Những kết qủa nghiên cứu sẽ là cơ sở quan trọng để
xác định sử thi M’nông thuộc tiểu loại sử thi nào - sử thi thần thoại hay sử thi
anh hùng hay là trong kho tàng sử thi M’nông vừa có những tác phẩm là sử thi
thần thoại lại vừa có những tác phẩm là sử thi anh hùng?

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận án sẽ đi vào khảo sát 32 tác phẩm sử thi M’nông đã được xuất bản
để có thể tóm tắt một cách khái quát về nội dung tác phẩm và thống kê sơ bộ về
hệ thống nhân vật của Ot Ndrong (Xin xem phụ lục 2 và phụ lục 3). Tiếp theo
chúng tôi tập trung tìm hiểu kỹ những tác phẩm như Bông, Rŏng và Tiăng; Đẻ
Tiăng; Đẻ Lênh; Lênh nghịch đá thần của Yang; Mùa rẫy bon Tiăng; Cây nêu
thần; Đi giành lại đàn Ndring; Cướp chiêng cổ bon Tiăng; Cướp Djăn, Dje;
Con diều lá cướp Bing con Jri; Bắt con lươn ở suối Dak Hŭch... Đó là những
tác phẩm thể hiện tập trung nhất hệ thống các nhân vật; những vấn đề khái quát
21


về nội dung và các thủ pháp nghệ thuật của sử thi M’nông. Những kết qủa
nghiên cứu sẽ là cơ sở tin cậy cho việc đưa ra được những đánh giá khái quát
về hệ thống nhân vật trong sử thi M’nông.
Bên cạnh việc khảo sát hệ thống nhân vật trong sử thi M’nông, luận án
còn dựa vào hệ thống lý thuyết về phân loại sử thi của các nhà khoa học để
nghiên cứu về đặc điểm thể loại của sử thi M’nông trên các khía cạnh môi
trường diễn xướng, chức năng sinh hoạt, quan niệm thẩm mỹ, những vấn đề cơ
bản về nội dung và hình thức, cơ sở xã hội của sử thi M’nông để xác định tiểu
loại của Ot Ndrong.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Sử thi là một thể loại mang tính nguyên hợp cao, dung chứa trong đó
nhiều vấn đề về điều kiện tự nhiên cũng như đời sống xã hội thời cổ xưa, là
bách khoa thư của con người thời cổ đại. Vì vậy khi tiếp cận, nghiên cứu sử thi
M’nông chúng tôi kết hợp phương pháp nghiên cứu của nhiều ngành khoa học
khác nhau (phương pháp liên ngành), cụ thể như sau:
5.1. Phương pháp tiếp cận hệ thống: Tiếp cận các tác phẩm sử thi
M’nông đã xuất bản để dựng được bức tranh toàn cảnh về hệ thống nhân vật
của sử thi M’nông,

5.2. Phương pháp thống kê, phân loại: Phân loại, xác định được hệ
thống nhân vật trong sử thi M’nông, tiếp đó là phân loại Ot Ndrong thuộc tiểu
loại nào.
5.3. Phương pháp điền dã dân tộc học: Tìm hiểu về chức năng, vai trò,
giá trị của Ot Ndrong trong đời sống của cộng đồng người M’nông.
5.4. Phương pháp so sánh, đối chiếu: So sánh, đối chiếu để tìm ra những
nét tương đồng cũng như khác biệt giữa sử thi M’nông với sử thi của các dân
tộc khác để thấy được những đặc điểm cơ bản của sử thi M’nông.
5.5. Phương pháp phân tích văn học: Phân tích làm nổi bật những giá trị
nội dung và hình thức của sử thi M’nông, các thủ pháp nghệ thuật, những quan
niệm thẩm mỹ và nhận thức của người M’nông qua các tác phẩm sử thi của họ.
22


5.6. Phương pháp liên ngành: Sử thi là thể loại văn học có tính nguyên
hợp, ngoài những giá trị về văn học nghệ thuật, nó còn chứa đựng những tư
liệu quý về lịch sử, tư tưởng, văn hoá, phong tục tập quán v.v... Vì vậy khi
nghiên cứu về sử thi M’nông, chúng tôi vận dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu của các ngành khoa học liên quan (phương pháp liên ngành) để có
thể hỗ trợ, bổ sung lẫn nhau, giúp cho chúng tôi sẽ làm sáng rõ những vấn đề
được nghiên cứu trong luận án.
6. Đóng góp mới của luận án
Các công trình nghiên cứu trước đây mới chỉ nghiên cứu một cách khái
quát về nhân vật trung tâm của sử thi M’nông mà chưa nghiên cứu một cách
tổng thể về hệ thống nhân vật trong sử thi M’nông. Chúng tôi khảo sát một
cách có hệ thống thế giới nhân vật trong sử thi M’nông để thấy được các thủ
pháp nghệ thuật, những quan niệm thẩm mỹ của người M’nông đã được thể
hiện như thế nào trong các tác phẩm sử thi của họ, trên cơ sở đó có được những
cứ liệu quan trọng chứng minh sử thi M’nông là sử thi thần thoại.
Vấn đề thể loại của sử thi M’nông hiện nay đang còn một số ý kiến khác

nhau. Năm 1995, Đỗ Hồng Kỳ đã xác định sử thi M’nông là sử thi thần thoại,
tuy nhiên do tư liệu chưa nhiều, số lượng tác phẩm sưu tầm được còn ít nên
ông chưa có điều kiện khảo sát một cách có hệ thống để chứng minh cho luận
điểm của mình. Một số người thì cho rằng Ot Ndrong là sử thi phổ hệ, là sử thi
có tính sáng thể đậm, là sử thi anh hùng… Dựa trên những kết qủa nghiên cứu
của luận án, chúng tôi khẳng định sử thi M’nông là sử thi thần thoại.
Khẳng định thêm những giá trị về văn học, lịch sử, văn hoá và chức năng
văn hoá - nghệ thuật của sử thi M’nông và đặc biệt là vị trí, vai trò của nó đối
với đời sống của cộng đồng người M’nông hiện nay, là cơ sở tin cậy cho công
tác bảo tồn kho tàng Ot Ndrong nói riêng và văn hoá dân gian của dân tộc
M’nông nói chung.

23


7. Cấu trúc của luận án
Luận án gồm phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận, phần thư mục
tham khảo và phần phụ lục. Phần nội dung gồm 3 chương:
Chƣơng 1.
TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Chƣơng 2.
HỆ THỐNG NHÂN VẬT TRONG SỬ THI M’NÔNG
Chƣơng 3.
VẤN ĐỀ THỂ LOẠI CỦA SỬ THI M’NÔNG

24


DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Triệu Văn Thịnh (2007), “Lễ cưới truyền thống của người M’nông”, Tạp
chí Văn hoá nghệ thuật (11), tr 95-98.
2. Triệu Văn Thịnh (2008), “Một số nghi thức trong lễ tang của người
M’nông”, Tạp chí khoa học của Trường Đại học Tây Nguyên (3), tr 38-43.
3. Triệu Văn Thịnh (2008), “Thủ pháp “trì hoãn” trong các sử thi M’nông”,
Tạp chí khoa học của Trường Đại học Tây Nguyên (3), tr 44-49.
4. Triệu Văn Thịnh (2009), “Một số vấn đề về luật tục hôn nhân và gia đình
của người M’nông trong đời sống hiện nay (Qua khảo sát ở xã Đắk
Ndrung, huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông)”, Tạp chí khoa học của Trường
Đại học Tây Nguyên (5), tr 77-86.
5. Triệu Văn Thịnh (2010), “Hệ thống nhân vật phụ trong sử thi M’nông”,
Tạp chí khoa học của Trường Đại học Tây Nguyên (7), tr 105-112.
6. Triệu Văn Thịnh (2010), “Những nét tương đồng trong thủ pháp xây dựng
nhân vật anh hùng trong sử thi Êđê và sử thi M’nông (Qua cái nhìn so
sánh)”, Tạp chí khoa học của Trường Đại học Tây Nguyên (7), tr 113-122.
7. Triệu Văn Thịnh (2012), “Hình ảnh cộng đồng trong sử thi M’nông”, Tạp
chí Khoa học xã hội Tây Nguyên (6), tr 71-74.
8. Triệu Văn Thịnh (2013), “Môi trường diễn xướng và chức năng tín ngưỡng
của sử thi M’nông”, Tạp chí Khoa học xã hội Tây Nguyên (11), tr 40-43.
9. Triệu Văn Thịnh (2014), “Xác định đặc điểm thể loại của sử thi M’nông
(Nhìn từ phương diện môi trường diễn xướng và chức năng sinh hoạt)”, Tạp
chí khoa học của Trường Đại học Tây Nguyên (11), tr 113-119.
[1/],[ 2/],[ 3/],[ 4/],[ 5/],[ 6/],[ 7/],[ 8/],[ 9/],[ 10/],[ 11/],[ 12/],[ 13/],[ 14/],[ 15/],[ 16/],[ 17/],[ 18/],[ 19/],[ 20/],[ 21/],[ 22/],[ 23/],[ 24/],[ 25/],[
26/],[ 27/],[ 28/],[ 29/],[ 30/],[ 31/],[ 32/],[ 33/],[ 34/],[ 35/],[ 36/],[ 37/],[ 38/],[ 39/],[ 40/],[ 41/],[ 42/],[ 43/],[ 44/],[ 45/],[ 46/],[ 47/],[ 48/],[
49/],[ 50/],[ 51/],[ 52/],[ 53/],[ 54/],[ 55/],[ 56/],[ 57/],[ 58/],[ 59/],[ 60/],[ 61/],[ 62/],[ 63/],[ 64/],[ 65/],[ 66/],[ 67/],[ 68/],[ 69/],[ 70/],[ 71/],[
72/],[ 73/],[ 74/],[ 75/],[ 76/],[ 77/],[ 78/],[ 79/],[ 80/],[ 81/],[ 82/],[ 83/],[ 84/],[ 85/],[ 86/],[ 87/],[ 88/],[ 89/],[ 90/],[ 91/],[ 92/],[ 93/],[ 94/],[
95/],[ 96/],[ 97/],[ 98/],[ 99/],[ 100/],[ 101/],[ 102/],[ 103/],[ 104/],[ 105/],[ 106/],[ 107/],[ 108/],[ 109/],[ 110/],[ 111/],[ 112/],[ 113/],[ 114/],[
115/],[ 116/],[ 117/],[ 118/],[ 119/],[ 120/],[ 121/],[ 122/],[ 123/],[ 124/],[ 125/],[ 126/],[ 127/],[ 128/],[ 129/],[ 130/],[ 131/],[ 132/],[ 133/],[
134/],[ 135/]


25


×