Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Soạn giảng Quy luật lượng chất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.98 KB, 22 trang )

CHƯƠNG II: PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
QUY LUẬT CHUYỂN HÓA TỪ NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ
LƯỢNG THÀNH NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI
I. Mục tiêu bài học
1. Về kiến thức
- Giúp học sinh hiểu được khái niệm quy luật và phân loại được các quy
luật.
- Hiểu được các khái niệm cơ bản như chất, lượng, độ, điểm nút, bước
nhảy trong triết học.
- Nắm được quan hệ biện chứng giữa chất và lượng, ý nghĩa phương
pháp luận rút ra từ quy luật.
- Biết được vị trí, vai trò của quy luật đối với sự phát triển của sự vật,
hiện tượng trong tự nhiên.
2. Về kỹ năng
- Học sinh có được kỹ năng phân tích, đánh giá đúng đắn và toàn diện sự
vật, hiện tượng trong giới tự nhiên.
- Phân tích được rõ ràng 2 mặt lượng, chất của sự vật trong thực tiễn.
3. Về thái độ
- Tôn trọng quy luật khách quan về cách thức vận động của sự vật, hiện
tượng.
- Nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện, trung thực.


- Xem xét, đánh giá khách quan sự vật, hiện tượng, không vội vàng, chủ
quan dẫn đến sai lầm; không bảo thủ, trì trệ.
II. Tài liệu dạy và học
- Giáo trình: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, NXB
Chính trị quốc gia, 2011.
- Tài liệu tham khảo: Triết học Mác - Lênin, NXB Chính trị quốc gia,
2006.
III. Phương tiện dạy học


- Bảng, phấn, máy chiếu
VI. Phương pháp dạy học
Sử dụng phương pháp thuyết trình, đàm thoại, nêu vấn đề.
V. Tổ chức hoạt động lên lớp
GV giới thiệu bài mới
Ở bài trước các em đã học và hiểu được những phạm trù cơ bản của phép
biện chứng duy vật. Bài học hôm nay cô và các em cùng tìm hiểu những nội
dung tiếp theo trong chương II đó là các quy luật cơ bản của phép biện chứng
duy vật. Quy luật đầu tiên đó là quy luật từ những thay đổi về lượng thành
những biến đổi về chất và ngược lại hay còn gọi là quy luật lượng chất.
2. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
a) Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những biến
đổi về chất và ngược lại


GV thuyết trình: Trước khi đi vào tìm hiểu những nội dung cơ bản của
quy luật lượng chất chúng ta phải hiểu được chất là gì? Lượng là gì?
* Khái niệm chất, khái niệm lượng
GV thuyết trình: Trong cuộc sống chúng ta thường nhắc tới chất và
lượng như chiếc áo này có chất rất tốt hay chất lượng hàng hóa ở siêu thị này
tốt lắm nhưng không phải ai cũng có cách hiểu đúng đắn về chất và lượng.
Chúng ta thấy rằng, đường là một nguyên liệu, một gia vị rất quen thuộc
với chúng ta. Vậy theo các em đường có những thuộc tính nào? Và trong những
thuộc tính đó thì đâu là những thuộc tính cơ bản để phân biệt đường với các
chất khác như muối chẳng hạn? (màu sắc, trạng thái, vị…)
SV suy nghĩ trả lời
GV nhận xét và giảng giải: Như vậy chúng ta thấy rằng, bằng thị giác
quan sát thì ta thấy đường có màu trắng hoặc màu vàng tùy theo loại, khi chúng
ta lấy một thìa đường khuấy vào nước thì thấy đường là, một chất tan trong
nước, trong trạng thái bình thường thì đường ở thể rắn. Trong quan hệ với vị

giác, nếm đường chúng ta thấy có vị ngọt (vị giác của con người). Trong những
đặc điểm trên chúng ta thấy rằng những đặc điểm về màu sắc, trạng thái là nững
thuộc tính không cơ bản vì có nhiều chất khác cũng có những đặc điểm như
vậy. Còn đặc điểm có vị ngọt của đường là thuộc tính cơ bản. Và tổng hợp
những thuộc tính cơ bản và không cơ bản trên của đường tạo nên chất của
đường.
GV đàm thoại: Qua những phân tích trên về đặc điểm của đường và tìm
hiểu giáo trình các em hãy cho cô biết chất là gì?
SV suy nghĩ trả lời.


GV nhận xét và kết luận: Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biệt
chứng cho rằng:
Chất là khái niệm dung để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật và hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ giữa các thuộc tính cấu thành
nó, phân biệt nó với sự vật hiện tượng khác.
GV đàm thoại: Đó là cách hiểu đơn giản vầ đầy đủ nhất về khái niệm
chất. Trong khi tìm hiểu khái niệm này chúng ta phải chú ý những điểm sau:
+ Thứ nhất: chất của sự vật là khách quan phổ biến
GV giải thích: Điều này có thể hiểu là chất của sự vật tồn tại khách quan
phổ biến, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, con người
không thể bắt nó là như vậy, nó tồn tại ở rất nhiều sự vật và hiện tượng. Nếu
chúng ta làm mất đi những thuộc tính của nó thì nó không còn là nó nữa.
Ví dụ như: Vị ngọt, tính tan trong nước là nhứng thuộc tính cơ bản của
đường, nếu mất đi vị ngọt thì đường không còn là đường nữa mà nó sẽ là một
chất khác. Con người cũng không có thể bắt đường có vị ngọt được, càng không
thẻ lấy ý muốn chủ quan cho đường là một vị khác được.
Hay chúng ta có thể thấy rằng: Muối ăn có vị mặn và tan trong nước là
những thuộc tính quy định nó là muối, mất đi vị mặn thì nó không còn là muối
nữa, con người không thể bắt nó có vị mặn được, cũng không thể vì thiếu muối

hay cần muốn mà con người quy một vị mặn của một chất khác thành muối
được. Bởi vị mặn, tính tan trong nước, thể rắn là những thuộc tính cơ bản của
muối ăn.
+ Thứ hai, chất của các sự vật bao gồm các thuộc tính (thuộc tính là
biều hiện một khía cạnh nào đó về chất của sự vật được bộc lộ ra khi tác


động qua lại các sự vật khác. Đó có thể hiểu là chất, trạng thái, yếu tố…của
sự vật): Có thuộc tính cơ bản và không cơ bản, tổng hợp những thuộc tính
cơ bản tạo nên chất của sự vật, khi những thuộc tính cơ bản của sự vật thay
đổi thì chất của sự vật cúng thay đổi.
GV đàm thoại: Như đã phân tích ở trên về những thuộc tính cơ bản và
không cơ bản của một chất, một em hãy lấy ví dụ về chất của sự vật và chỉ ra
thuộc tính cơ bản và không cơ bản?
SV suy nghĩ trả lời
GV nhận xét và giảng giải ví dụ
GV dẫn dắt: Ngoài hai đặc tính trên chất của sự vật còn được xác định
bởi:
Thứ ba, chất của sự vật còn được xác định bởi cấu trúc và phương
thức liên kết giữa các yếu tố cấu thành sự vật đó. Do đó chất của sụ vật
không chỉ thay đổikhi những yếu tố cấu thành chúng thay đổi mà còn phụ
thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tố đó.
GV đàm thoại: Một em hãy so sánh cấu trúc và phương thức lien kết của
các nguyên tử Cacbon giữa than chì và kim cương để thấy được sự khác nhau
giữa chúng?
SV suy nghĩ trả lời
GV nhận xét và phân tích: Qua ý kiến của bạn, chúng ta thất rằng kim
cương và than chì đều là những sự vật do Cacbon tạo thành. Như do phương
thức liên kết giữa các nguyên tử cacbon trong mối chất có sự khác nhau nên
giữa kim cương và than chì có sự khác nhau cơ bản. Kim cương có đặc điểm rất



cứng có thể cắt được hầu hết các kim loại, đẹp và có giá trị kinh tế rất cao.Còn
than chì cũng có cấu trúc từ các nguyên tử cacbon nhưng phương thức liên kết
khác với kim cương nên than chì có đặc điểm là mền, không đẹp, giá trị kinh tế
thì không cao bằng kim cương được.
꞊> Như vậy có thể thấy rằng những sự vật cố yếu tố cấu thành giống
nhau nhưng phương thức liên kết khác nhau thì chất của sự vật cũng khác
nhau.
Hay trong cuộc sống có rất nhiều sự vật có đặc tính này như giữa hai lớp
trong cùng một khoa, chúng ta thấy rằng tất cả các lớp đểu được cấu thành từ
những sinh viên. Nhưng giữa hai lớp có sự khác nhau. Ví dụ như tập thể lớp A
học rất tốt và phong trào đoàn trường rất mạnh. Còn tập thể lớp B khác học tập
không tốt, phòng trào hoạt động còn non yếu. Ở đây chúng ta thấy rằng sự liên
kết giữa các thành viên trong hai lớp có sự khác nhau nên vì vậy mà chất của
mỗi lớp có những đặc điểm khác nhau.
+ Đặc điểm thứ tư của chất đó là: Chất của sự vật tương đối ổn định (ít
thay đổi).
Nước ở các thể rắn, lỏng, khí (là chất của nước). Nó tương đối ổn định
khi tang nhiệt độ từ 40 lên 50 độC thì vẫn chưa làm thay đổi chất của nước, nó
vẫn giữ ở thể lỏng.
Hay tương tự như Fe: với nhiệt độ từ 100 đến 1000 độ C thì chưa làm
thay đổi trạng thái của sắt mà phải >1536 độ C thì Fe mới nóng chảy.
Một điều quan trong không thể thiếu khi tìm hiểu vầ chất của sự vật đó
là:


+ Thứ năm, mỗi sự vật có nhều chất, nếu chúng ta đặt trong quan hệ
này thì nó là chất này, còn nếu đặt trong quan hệ khác thì nó lại là chất
khác.

GV giảng giải: Điều này có nghĩa là, cùng một sự vật đó, nếu chúng ta
đặt chúng trong quan hệ này thì nó là chất này, còn chúng ta đặt trong quan hệ
khác nó lại thay đổi là một chất khác. Điều này thể hiện cách nhìn nhận biện
chứng về chất của sự vật.
GV đàm thoại: Theo các em chất của một con người biểu hiện ra là
những thuộc tính gì?
SV suy nghĩ trả lời
GV nhận xét và phân tích: Có thể thấy rằng chất của một con người đó
là: con người là một động vật bậc cao, biết lao động, giao tiếp với nhau thông
qua ngôn ngữ và biết tư duy…
Đó là những chất cơ bản của một con người. Trong mối quan hệ so sánh
giữa con người với các loài động vật khác thì chất của con người được thể hiện
đó là (con người biết lao động và chế tạo công cụ lao động, giao tiếp với nhau
bằng ngôn ngữ và biết tư duy). Còn trong mối quan hệ giữa con người với con
người thì những đặc điểm mà chúng ta vừa nêu trên là những thuộc tính chung.
Vậy trong mối quan hệ con người với con người thì chất của con người là
gì?
SV suy nghĩ trả lời
GV nhận xét và phân tích: Trong những mối quan hệ khác nhau thì chất
cũng biểu hiện khác nhau, xét trong mối quan hệ giữa con người với con người


thì chất được biểu hiện ra đó là hình dáng của mối người có sự khác nhau, có
thể phân biệt một người béo với một người gầy, một người cao với một người
thấp hay giọng nói của mỗi người cũng có sự khác nhau cơ bản…
=> Như vậy qua ví dụ này chúng ta thấy rằng, mối sự vật đều có nhiều
chất khác nhau xét trong từng mối quan hệ cụ thể để thấy nhiều chất của sự vật
Ngoài ra chúng ta thấy rằng, chất của sự vật theo quan niệm của chủ
nghĩa duy vật biện chứng rộng hơn đầy đủ hơn so với chất thông thường trong
đời sống. Chất ở đây có nghĩa là tổng hợp các thuộc tính của sụ vật để phân biệt

sự vật này với sự vật khác.
GV chuyển ý: Thông qua sự phân tích trên chúng ta đã biết được chất là
gì và những đặc trưng cơ bản về chất của sự vật. Ngoài ra, mỗi sự vật ngoài tính
quy định về chất còn có những tính quy định về lượng.
GV đàm thoại: Trong cuộc sống khi nói về lượng chúng ta thường nhắc
tới những nội dung gì?
SV suy nghĩa trả lời
GV nhận xét và giảng giải: Trong cuộc sống khi nói về lượng người ta
thường nghĩ tới số lượng, khối lượng, trọng lượng…v…v nhưng trong triết học
khi nhắc tới lượng của một sự vật người ta phải nói tới các yếu tố cấu thành từ
những gì? Quy mô, tốc độ, nhịp điệu ra sao? Trình độ như thế nào?...
GV đàm thoại: Khi nói tới lượng dân số của mỗi quốc gia các em thường
nghĩ tới những yếu tố nào?
SV suy nghĩ trả lời


GV nhận xét và phân tích: Khi nhắc tới lượng dân số của một quốc gia
nào đó người ta thường phải biết những yếu tố cấu thành của dân số của quốc
gia đó (được hợp thành từ những dân tộc nào), quy mô tốc độ tăng dân số là bao
nhiêu? Trình độ dân trí của người dân thế nào? …
GV đàm thoại: Từ việc phân tích ví dụ trên, các em hãy trình bày cách
hiểu của mình về lượng?
SV suy nghĩ trả lời
GV nhận xét và kết luận:
=> Lượng là khái niệm dung để chỉ tính khách quan vốn có của sự vật
hiện tượng về các phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của
sự tồn tại, tôc độ nhịp điệu của các quá trình vận động, phát triển của sự vật
hiện tượng.
Qua khái niệm này chúng thấy rằng lượng trong triết học khái quát và
rộng hơn khái niệm triết học trong đời thường.

Trong khái niệm lượng cần chú ý một số điểm sau:
+ Thứ nhất, lượng của sự vật mang tính chất khách quan phổ biến.
GV thuyết trình: Lượng của sự vật luôn mang tính khách quan, nó không
phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, con người không thể bắt sự vật
hiện tượng tuân theo một lượng nào đó mà con người muốn mà con người chỉ
có thể tác động vào nó theo những hướng nhất định chứ không thể làm phá vỡ
cấu trúc bên trong về lượng của sự vật. Đó là một trong những đặc trưng để
phân biệt sự vật hiện tượng này với sự vật hiện tượng khác.


GV đàm thoại: Trên cơ sở tính khách quan phổ biến về lượng của sự vật,
một em hãy nêu ví dụ làm sáng tỏ nội dung này?
SV suy nghĩ trả lời
GV nhận xét và phân tích: Lượng của một người được thể hiện đó là
chiều cao, cân nặng, tốc độ phát triển nhanh hay chậm…Một đứa trẻ mới sinh
ra chúng ta không thể quy định lượng của bé đó là 5kg hay 7kg, chiều cao là
90cm hay 1m, quá trình phát triển phải thật là nhanh…Mà lượng đó là khách
quan vốn có của mối con người. Trong quá trình mang thai mỗi bà mẹ có chế
độ chăm sóc khác nhau nên lượng biểu thị bên ngoài không giống nhau.
+ Thứ hai, lượng của sự vật không chỉ được xác định bằng những đại
lượng chính xác mà còn biểu thị dưới dạng trừu tượng khái quát.
GV giảng giải: Lượng của sự vật không chỉ biểu hiện bằng những con số
cụ thể như chiều cao, cân nặng, tốc độ tăng trưởng bao nhiêu %...Đó là những
con số mang tính định lượng cụ thể. Nhưng thế giới các sự vật hiện tượng vô
cùng đa dạng và phong phú chính vì vậy mà không phải lúc nào chúng ta cũng
có thể dùng những con số cụ thể về mặt số lượng để diễn tả mà cần phải trừu
tượng hóa chúng về mặt đình tính của sự vật.
GV hỏi SV: Các em hãy lấy ví dụ thể hiện lượng của sự vật hiện tượng
được thể hiện dưới những dạng trừu tượng và khái quát?
SV suy nghĩ trả lời

GV nhận xét và phân tích: Trong lớp học của chúng ta các bạn cố gắng
chăm chỉ học tập, tham gia nhiệt tình các phong trào của đoàn trường và đạt
được thành tích cao thì lúc này thường được khen là phong trào của lớp là đang


lên cao hay có nhiều tiến bộ chứ không thể nói phong trào của lớp này tăng lên
1 tạ, 2 tạ hay tăng cao lên 5m hay 10m được.
+ Thứ ba, lượng là mặt thường xuyên biến đổi của sự vật.
GV thuyết trình: Khi tìm hiểu vầ chất chúng ta thấy rằng chất của sự vật
là mặt tương đối ổn định, nhưng lượng của sụ vật thì không giống vậy nó là yếu
tố thường xuyên biến đổi. Trong từng điều kiện và hoàn cảnh cụ thể thì sụ biến
đổi về lượng của sự vật cũng không giống nhau. Ví dụ như: Trường Đại học
Nông nghiệp Hà Nội chất đó là một trường đại học, bao gồm những sinh viên
thi trúng tuyển vào trường…đó là những yếu tố ổn định. Còn xét về mặt lượng
thì nó thường xuyên biến đổi điều này được thể hiện ở chỗ về số lượng tuyển
sinh đầu vào và quy mô ngành nghề có sự thay đổi nhanh chóng và rõ
rệt………………………………………………………………………
GV đàm thoại: Một em hãy lấy ví dụ thể hiện lượng là mặt thường xuyên
biến đổi?
SV suy nghĩ trả lời
GV nhận xét và phân tích ví dụ
+ Sự phân biệt giữa chất và lượng cũng chỉ là tương đối, cái trong mối
quan hệ này được coi là chất thì trong mối quan hệ khác nó lại được coi là
lượng.
GV giảng giải: Mối sự vật hiện tượng đều tồn tại mặt chất và mặt lượng,
mà sự phân biệt giữa chất và lượng thì không cững nhắc, trong những trường
hợp khác nhau, những mối quan hệ khác nhau thì chất và lượng của sự vật cũng
có sự thay đổi.



GV đàm thoại: Từ cách hiểu trên, các em hãy lấy ví dụ thể hiện sự phân
biệt tương đối giữa chất và lượng?
SV suy nghĩ trả lời câu hỏi
GV nhận xét và phân tích: Ví dụ như khi nói tới trình độ học vẫn của
một con người có những bằng như cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ, phó giáo sư tiến sĩ,
giáo sư – điều này thể hiện về mặt lượng các bằng cấp của một con người.
Nhưng để phân biệt trình độ học vấn của người này so với người khác thì bằng
cử nhân sẽ là chất so với bằng tốt nghiệp cấp 3, bằng Thạc sĩ sẽ là chất so với
bằng cử nhân, bằng tiến sĩ là chất so với bằng thạc sĩ…
Chất của sinh viên có sự thay đổi theo từng mối quan hệ. Trong mối quan
hệ với các sinh viên khác thì bạn là một sinh viên giỏi, trong quan hệ với gia
đình chất của sinh viên lại là một người con ngoan…Như vậy chất chất khác
nhau trong những mối quan hệ khác nhau càng có nhiều mối quan hệ thì càng
có nhiều chất. Chính vì vậy mà trong cuộc sống chúng ta phải biết linh hoạt biết
mình là ai trong cuộc sống.
GV chuyển ý: Phần vừa rồi các em đã hiểu được những khái niệm cơ bản
chất là gì, lượng là gì và những đặc trưng cơ bản của chúng. Để đi sau tìm hiểu
nội dung quy luật lượng chất Cô và các em cùng tìm hiểu nội dung tiếp theo
quan hệ biện chứng giữa chất và lượng.
* Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
Chất và lượng là hai mặt không thể tách dời trong một sự vật. Trong quá
trình phát triển thì chất và lượng của sự vật luôn không đứng im, chúng luôn
vận động nhưng không phải biệt lập với nhau mà luôn tác động qua lại theo
những quy luật nhất định đó là mối quan hệ biện chứng. Điều này được thể hiện


đó là những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại sự thay
đổi về chất dẫn đến sự thay đổi về lượng.
- Những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất
+ Mỗi sự vật hiện tượng đều thống nhất giữa hai mặt chất và lượng

(chất nào lượng ấy, lượng nào chất ấy)
Điều này thể hiện tính thống nhất vật chất của các sự vật hiện tượng
trong thế giới. Bất kì sự vật hiện tượng nào khi mới hình thành cũng đã tồn tại
hai mặt chất và lượng. Ví dụ như sự thống nhất giữa chất và lượng trong phân
tử NaCl chất đó chính là sự thống nhất các thuộc tính khách quan vốn có của sự
NaCl: màu trắng, vị mặn, tan trong nước. Còn lượng của phân tử NaCl được
cấu tạo từ hai nguyên tử Natri và Clorua.
GV hỏi: Các em hãy nêu ví dụ thể hiện sự thống nhất giữa chất và lượng
trong cùng một sự vật?
SV trả lời câu hỏi
GV nhận xét và phân tích: Chất của cái bảng đó là một phương tiện hỗ
trợ trong quá trình dạy học, làm bằng gỗ trơn có thể viết phấn lên…còn lượng
của cái bảng đó là chiều dài và chiều rộng của cái bảng, chu vi, diện tích của cái
bảng.
GV chuyển ý: trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng
thì trong bản thân chúng đều có những thay đổi nhất định, sự thay đổi đó thể
hiện quá trình phát triển của sự vật từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ
kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Nhưng không phải sự biến đổi nào cũng tạo
nên sự biến đổi về chất. Cụ thể đó là:


GV yêu cầu SV quan sát sơ đồ sự biến đổi trạng thái của nước dưới tác
động biến thiên nhiệt độ từ môi trường

SV quan sát
GV giảng giải:
Trong khoảng nhiệt độ từ 0 độ C đến dưới 100 độ xét về cấu tạo chất thì
chất của nước vẫn không thay đổi. Tương tự như vậy trong khoảng nhiệt độ nhỏ
hơn 0 độ C nước vẫn ở trạng thái rắn và trên 100 độ C nước vẫn ở trạng thái
hơi. Những sự thay đổi này chưa làm biến đổi về chất của sự vật đó được gọi là

độ. Vậy theo các em độ là gì?
SV trả lời câu hỏi
GV nhận xét và kết luận:
+ Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn mà trong
đó những thay đổi về chất chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật.


GV đàm thoại: Từ khái niệm về độ trên các em hãy lấy một ví dụ thể
hiện sự biến đổi về lượng chưa làm thay đổi về chất ủa sự vật?
SV suy nghĩ trả lời
GV nhận xét và phân tích: Các giai đoạn biến đổi trong tình yêu. Đó là
quá trình trải qua các giai đoạn từ tình bạn đến tình yêu và đến hôn nhân. Thời
điểm từ khi là bạn đến trước khi hai bạn nhận lời yêu nhau được coi là độ bởi
trong thời điểm này tình bạn có sự biến đổi thân thiết hơn nhưng chưa trở thành
tình yêu. Giai đoạn từ khi hai bạn nhận lời yêu nhau đến trước khi đăng kí kết
hôn cũng được coi là một độ bởi lúc này mặc dù tình yêu đã mặn nồng, thắm
thiết hơn nhưng chưa thể làm thay đổi vầ chất của sự vật giữa hai người.
GV yêu cầu sinh viên quan sát sơ đồ sự biến đổi trạng thái của nước
dưới tác động biến thiên của nhiệt độ môi trường:

SV chú ý quan sát
GV giảng giải: Qua sơ đồ trên chúng ta thấy rằng: Khi nhiệt độ đạt tới
mốc 0 độ C thì làm thay đổi chất của nước đó là từ thể lỏng sang thể rắn và khi
nhiệt độ đạt mốc 100 độ C thì đây là điểm làm thay đổi trạng thái của nước từ


thể lỏng sang thể khí. Và sự thay đổi nhiệt độ đến mốc 0 độ C và 100 độ C dẫn
đến sự thay đổi căn bản về chất của nước như trên thì những mốc trên của nhiệt
độ được gọi là điểm nút.
Vậy điểm nút là gì?

SV suy nghĩ trả lời
GV nhận xét và kết luận:
+ Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ dẫn đến sự thay
đổi về chất, giới hạn đó chính là điểm nút. Điểm nút dùng để chỉ thời điểm
mà tại đó sự thay đổi về lượng đẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật.
GV hỏi: Từ khái niệm điểm nút trên, các em hãy lấy ví dụ về điểm nút
của sự vât?
SV suy nghĩ trả lời câu hỏi
GV nhận xét và phân tích: Tương tự ví dụ ở trên chúng ta thấy rằng thời
điểm sự biến đổi về tình cảm của hai người dẫn đến tình yêu, và thời điểm khi
hai người đăng kí kết hôn được coi là điểm nút. Bởi ở hai giai đoạn này sự thay
đổi về lượng đã tạo nên sự biến đổi cơ bản về chất.
GV chuyển ý: Một khái niệm quan trọng trong khi nghiên cứu mối quan
hệ sự thay đổi về lượng dẫn đên sự biến đổi về chất đó là khái niệm bước nhảy.


+ Sự thay đổi về chất do những thay đổi về lượng trước đó gây ra gọi
là bước nhảy. Nói cách khác bước nhảy là kết thúc một giai đoạn phát triển
của sự vật là điểm khởi đầu của một giai đoạn phát triển mới.
GV đàm thoại: Một em hãy phân tích những bước nhảy trong quá trình
học tập của con người nói chung?
SV suy nghĩ trả lời
GV nhận xét và phân tích: Trong quá trình học tập của mỗi con người
đều phải trải qua những biến đổi về chất nhất định. Trải qua mười hai năm học
phổ thông chất ở đây là học sinh, trong giai đoạn này mối học sinh được tích
lũy đủ lượng kiên thức và vượt qua những điểm nút khác nhau, nhưng điểm nút
quan trọng nhất đánh dấu bước nhảy vọt về chất và lượng mà học sinh nào cũng
muốn vượt qua đó là kì thì đại học. Vượt qua kì thi tốt nghiệp cấp 3 đã là một
điểm nút quan trọng nhưng vượt qua được kì thi đại học còn làm một điểm nút
quan trọng hơn, việc vượt qua kì thi này chứng tỏ học sinh đã có sự tích lũy đầy



đủ về lượng để tiến hành bước nhảy vọt về chất, mở ra một thời kì phát triển
mới cho cả chất và lượng từ chất học sinh trở thành chất sinh viên.
Cũng giống như những năm học ở phổ thong, khi học đại học sinh viên
muốn nhận được tấm bằng đại học cũng phải tích lũy đày đủ số lượng các học
phần đã quy định theo quy định của nhà trường. Các học phần mà sinh viên tích
lũy chính là độ, còn các kì thi chính là điểm nút, việc vượt qua các kì thi chính
là bước nhảy và bước nhảy quan trọng nhất của sinh viên đó là kì thi tốt nghiệp,
hay khóa luận. Vượt qua được kì thi tốt nghiệp đại học và nhận được bằng cử
nhân đưa sinh viên vượt sang một thời kì mới khác về chất so với giai đoạn
trước.
Tiếp tục quá trình học tập trên khi muốn học lên cao học mỗi sinh viên
phải vượt qua kì thi lên cao học vượt qua kì thi này thì sinh viên sẽ chuyển sang
một chất mới đó là học viên cao học. Ba năm học viên cao học sẽ tích lũy
những kiến thức cơ bản về chuyên ngành vượt qua các kì thi chuyên đề chính là
độ, và hoàn thành luận văn cao học chính là điểm nút.
GV chuyển ý: mối quan hệ giữa chất là lượng là mối quan hệ biện chứng.
Khi chất mới ra đời sẽ dẫn tới sự thay đổi về lượng.
- Những thay đổi về chất dẫn đến sự thay đổi về lượng
GV thuyết trình: Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi về
lượng mới (làm thay đổi quy mô, nhịp điệu, tốc độ phát triển của sự vật). Như
vậy, không chỉ sự thay đổi về lượng gây nên những thay đổi về chất mà cả sự
thay đổi về chất cũng gây nên những thay đổi về lượng.
Ví dụ như: nhịp điệu vận động của xã hội dưới cơ chế thị trường nhanh
hơn nhịp điệu vận động của xã hội dưới cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp;
hay quy mô làm ăn và hợp đồng kinh tế của công ty lớn sẽ nhiều hơn quy mô
của một xí nghiệp nhỏ; hay khi trở thành cử nhân thì tốc độ đọc hiểu sẽ tốt hơn
khi là sinh viên.



Áp dụng quy luật lượng chất vào thực tiễn nền giáo dụng của nước ta còn
có nhiều bất cập, có trường hợp cho học sinh lớp 7 mà chưa đánh vần viết thạo;
bác sĩ thú y không biết cầm kim tiêm như thế nào, mổ sẻ ra sao? Việc chạy
thep bệnh thành tích là vấn đề đáng báo động của nền giáo dục nước ta mặc dù
sự tích lũy về lượng của học sinh, sinh viên chưa đủ nhưng vẫn tạo điều kiện
cho học sinh, sinh viên thực hiện “bước nhảy”. Không học mà vẫn đỗ, học
không được mà vẫn có bằng. Dẫn đến việc đạo tạo nhân lực “không đủ lượng
mà cũng chẳng có chất”.
- Các hình thức của bươc nhảy: Bước nhảy toàn bộ, bước nhảy cục
bộ…
Tóm lại, sự thống nhất giữa chất và lượng trong sự vật tạo thành độ của
sự vật. Những thay đổi về lượng dần dẫn đến giới hạn nhất định thì xảy ra bước
nhảy, chất cũ bị phá vỡ chất mới lại ra đời cùng với độ mới. Đó chính là cách
thức phát triển của sự vật. Quá trình này diễn ra liên tục làm cho sự vật không
ngừng vận động, biến đổi.
GV chuyển ý: Nhận thức đúng đắn môi quan hệ biện chứng giữa thay đổi
về lượng và thay đổi về chất chúng ta sẽ rút ra được những ý nghĩa phương
pháp luận quan trọng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Vì bất kỳ sự vật, hiện tượng nào đó cũng có phương diện chất và
lượng tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, tác động và làm chuyển hóa lẫn
nhau, do đó, trong nhận thức và thực tiễn cần phải coi trọng cả hai loại chỉ
tiêu về phương diện chất và lượng, tạo nên sự nhận thức toàn diện về sự vật,
hiện tượng.
Ví dụ: Trong nền giáo dục nói chung và đại học nói riêng nước ta có thể
thấy rằng việc, chất lượng nguồn nhân lực không cao, ra trường sinh viên đứng


trước nguy cơ thất nghiệp, không thì cũng đi vào làm trái ngành nghề ở những

công ty sản xuất, trong khi đó thì các trường đại học không ngừng mở rộng quy
mô tuyển sinh. Ở đây chúng ta thấy rằng nền giáo dục nước chưa có sự cần
bằng hài hòa nhất định giữa hai mặt chất và lượng nên còn nhiều bất cập.
- Vì những thay đổi về lượng của sự vật, hiện tượng có khả năng tất
yếu chuyển hóa thành những thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng và
ngược lại, do đó, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, tùy theo mục đích
cụ thể, cần từng bước tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi về chất; đồng
thời, có thể phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi về
lượng của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Khi vượt qua kì thi tuyển sinh đại học, chuyển một chất mới là
sinh viên. Mục đích của chúng ta là có một tầm bằng đẹp để sau này ra trường
có một công việc tốt, chính vì vậy khi chất mới ra đời chúng ta phải biết cách
làm thay đổi về lượng bằng cách có phương pháp học tập và ôn thi đúng đắn,
tích lũy khối lượng kiến thức cơ bản để có thể lập nghiệp về sau.
- Trong hoạt động thực tiễn cần tránh rơi vào “tả khuynh” – nhấn
mạnh bước nhảy khi chưa đủ sự tích luỹ về lượng; bởi lẽ, khi ấy rất dễ rơi
vào phiêu lưu, mạo hiểm. Đồng thời, phải tránh “hữu khuynh” – tuyệt đối
hoá sự tích luỹ về lượng, không dám thực hiện bước nhảy khi đã tích lũy đủ
về lượng, khi ấy dễ rơi vào bảo thủ, trì trệ, ngại khó. Khi tích luỹ về lượng đã
đủ thì phải thực hiện bước nhảy.
Ví dụ như: Quen nhau mấy ngày, chưa tìm hiểu gì về nhau mà đã nhận
lời yêu nhau là quá vội vã rơi vào khuynh hướng tả khuynh. Ngược lại đãcó
suwk yimf hiểu kĩ lưỡng về đối tượng trong suốt 4 năm đại học, mặc dù bạn gái
đã rất nhiều lần bật đẽnanh cho chàng trai, nhưng chàng trai luôn lo sợ, tự ti về


bản thân nên không dám ngỏ lời dẫn dến việc mất cơ hội, tích lũy đầy dủ về
lượng nhưng chưa dám thực hiện bước nhay về chất.
-> Một số vấn đề thực tiễn: Trái cây ăn non (xanh) hoặc già (chín) quá
liệu có ngon hay không? Vừa học đại học năm thứ nhất muốn tốt nghiệp có

được không (lượng non)?…
- Vì bước nhảy của sự vật đa dạng, phong phú cho nên trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn phải vận dụng linh hoạt các hình thức bước
nhảy cho phù hợp với từng điều kiện, lĩnh vực cụ thể.
Ví dụ: Trong quá trình học tập của học sinh lên sinh viên đại học đó là
một bước nhảy làm thay đổi về chất của mỗi người học. Ở một môi trường học
tập mới quá trình học tập diễn ra từ những thay đổi cục bộ đến toàn bộ. Cụ thể
đó là khi lên là một sinh viên đại học chúng ta phải có sự thay đổi một số mặt
như phải xác định được một phương pháp học tập mới để có thể tích lũy vốn
kiến thức, thay đổi cách tuy duy phải nhạy bén hơn…để từ đó thực hiện những
bước nhảy toàn bộ về sau.
F. CỦNG CỐ BÀI HỌC
Giáo viên hướng học sinh tập trung vào quan điểm của Chủ nghĩa mác –
Lênin về khái niệm lượng – chất, nội dung quy luật chuyển hóa từ những sự thay
đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại, ý nghĩa phương pháp
luận rút ra từ quy luật.
G. NHIỆM VỤ CỦA HỌC SINH
- Nghiên cứu tài liệu ở nhà
- Đọc trước quy luật mâu thuẫn và quy luật phủ định của phủ định




×