Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

TIỂU LUẬN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN lực một yêu cầu cấp THIẾT TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP hóa HIỆN đại hóa gắn với PHÁT TRIỂN KINH tế TRI THỨC ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.36 KB, 15 trang )

1

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC – MỘT YÊU CẦU
CẤP THIẾT CỦA QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) là con đường cơ bản và duy
nhất để phát triển nền kinh tế - xã hội đối với bất cứ quốc gia nào, nhất là các
nước chậm và đang phát triển. Chỉ có CNH, HĐH mới có thể rút ngắn được thời
gian phát triển kinh tế - xã hội so với những nước “đi trước”. Và nước ta không
phải là ngoại lệ.
Trong công cuộc CNH, HĐH, nguồn nhân lực (xét ở phạm vi lực lượng
lao động gồm những người từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế
quốc dân và những người trong độ tuổi lao động đang thất nghiệp) - với tư cách
là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội, chính là yếu tố quyết định quan trọng
nhất, là động lực cơ bản nhất.
Đề cập tới vai trò của nguồn nhân lực, Mác và Ăngghen đã từng chỉ ra
rằng, muốn nâng sản xuất công nghiệp và nông nghiệp lên đến mức độ cao mà
chỉ có phương tiện cơ giới và hóa học phù trợ thì không đủ, mà còn cần phải phát
triển một cách tương xứng năng lực của con người sử dụng những phương tiện
đó nữa. Người nông dân và người công nhân, sau khi được thu hút vào đại công
nghiệp, đã thay đổi toàn bộ lối sống của họ và bản thân họ đã trở thành những
con người hoàn toàn khác hẳn. Trong xã hội tương lai cũng vậy, việc tiến hành
sản xuất tập thể bằng lực lượng của toàn xã hội và sự phát triển mới của nền sản
xuất do việc đó mang lại, sẽ cần đến những con người hoàn toàn mới và sẽ tạo
nên những con người mới.
Thực tế đã chứng minh, nguyên nhân đưa tới sự thành công của các quốc
gia và vùng lãnh thổ có nền công nghiệp phát triển ở châu Á như: Nhật Bản, Hàn



2

Quốc, Sin-ga-po, Hồng Công…không chỉ bắt nguồn từ phát triển khoa học công nghệ, mà chủ yếu là dựa vào nguồn nhân lực có hàm lượng chất xám cao.
Vì thế, có thể khẳng định, nguồn nhân lực đã trở thành yếu tố quan trọng nhất, có
ảnh hưởng mang tính quyết định đối với sự thịnh vượng của quốc gia dân tộc
trong quá trình tồn tại và phát triển.
Đảng ta đã xác định nhân tố con người - chính xác hơn là vốn con người,
vốn nhân lực, bao gồm cả sức lao động, trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống
của dân tộc - là vốn quý nhất, quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ
đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH. Nhân tố này nếu được giải phóng sẽ trở thành
nguồn nội lực vô tận để phát triển đất nước. Vì thế, giải phóng tiềm năng con
người để phát huy tối đa nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH, HĐH là một
trong những quan điểm đổi mới có tính đột phá trong đường lối phát triển kinh tế
- xã hội của Đảng ta trong thời kỳ mới. Con người Việt Nam trong giai đoạn
cách mạng mới, đã được Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá VIII xác định xây dựng với những tiêu chí: “lao động chăm chỉ
với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của
bản thân, tập thể và xã hội; thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ
chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực…”.
Quán triệt tinh thần đó, Đảng và nhà nước ta luôn chú ý quan tâm đến
việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ những người lao
động nhằm đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH. Những năm gần đây, chỉ số
giáo dục của nước ta đã bằng và vượt một số nước trong khu vực. Cơ cấu và
trình độ đào tạo nghề đối với người lao động cũng biến đổi theo chiều hướng tích
cực. Theo đó, tỷ lệ lao động kỹ thuật đã tăng mạnh, số lượng lao động qua đào
tạo nghề tham gia lao động ngày càng tăng, góp phần làm ra nhiều của cải cho


3


đất nước và đưa nền kinh tế tăng trưởng trên 7%, đồng thời tăng thu nhập cho
người lao động.
Tuy nhiên, nguồn nhân lực hiện nay của Việt Nam vẫn đang có những
tồn tại đáng quan tâm như: tỷ lệ lao động được đào tạo còn ít, trình độ chuyên
môn của người lao động thấp, chưa đáp ứng được với yêu cầu thực tiễn. Tức là,
thách thức lớn nhất gắn liền với chất lượng nguồn nhân lực không chỉ trong
tương lai mà ngay cả hiện tại - sự nghiệp CNH, HĐH đất nước chính là chất
lượng lao động (xét trên các mặt: quy mô tốc độ tăng, trình độ văn hóa và
chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động).
- Quy mô và tốc độ tăng lực lượng lao động
Theo thống kê, năm 2005 ở nước ta, số người từ 15 tuổi trở lên là 62,433
triệu (nữ chiếm 51,7%), trong đó số người trong độ tuổi lao động (15 – 60) là
52,567 triệu người (nữ chiếm 49,35%). Số người tuổi từ 15 trở lên hoạt động
kinh tế là 44,385 triệu người, trong đó người trong độ tuổi (15 – 60) hoạt động
kinh tế là 41,815 triệu người. Tỷ trọng lực lượng lao động khu vực thành thị
trong tổng lực lượng lao động cả nước tăng chậm, từ 23,3% năm 2001 lên 24,4%
năm 2004. Theo nhóm tuổi, lực lượng lao động ở nhóm tuổi 15 – 24 chiếm
21,48%, nhóm tuổi 25 – 34 chiếm 25,29%, nhóm tuổi 35 – 44 chiếm 27,09%,
nhóm tuổi 45 – 54 chiếm 18,4% và nhóm tuổi từ 55 tuổi trở lên chiếm 7,74%.
Nhìn chung, lực lượng lao động của cả nước đang có xu hướng tăng tỷ trọng lao
động ở các nhóm tuổi từ 25 trở lên và giảm lao động nhóm tuổi dưới 25, nguyên
nhân là do gia tăng số người ở độ tuổi 15 – 24 đi học trung học phổ thông và đào
tạo nghề nghiệp.
Gia tăng quy mô lực lượng lao động đặt ra yêu cầu bức xúc về mở rộng
quy mô đào tạo, phát triển lao động chuyên môn kỹ thuật để đáp ứng nhu cầu sử


4

dụng của các ngành, lĩnh vực, tạo cơ sở để không ngừng nâng cao hiệu quả sử

dụng nguồn nhân lực phạm vi toàn bộ nền kinh tế.
- Trình độ văn hóa của lực lượng lao động
Đánh giá chung thì trình độ văn hóa của nguồn nhân lực nước ta chưa
cao, so với các nước có nền kinh tế khá phát triển (Hàn Quốc, Malaixia…) và
nền kinh tế phát triển (Nhật Bản, Mỹ, Anh, Pháp…) còn ở khoảng cách khá xa.
Năm 2005, trong lực lượng lao động của cả nước có 5% mù chữ, 12% chưa tốt
nghiệp tiểu học, 29,09% tốt nghiệp tiểu học, 32,58% tốt nghiệp THCS và
21,22% tốt nghiệp PTTH. Có sự cách biệt khá lớn về trình độ học vấn phổ thông
của lực lượng lao động giữa các vùng lãnh thổ. Năm 2004, ở đồng bằng sông
Hồng cơ cấu của lực lượng lao động như sau: 27% tốt nghiệp PTTH, 51% tốt
nghiệp THCS, 19% tốt nghiệp tiểu học, 3% mù chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học;
trong khi ở đồng bằng sông Cửu Long, các chỉ số tương ứng là 11, 16, 40 và 33;
Tây Bắc là 12, 23, 30 và 35; Tây Nguyên là 16, 26, 32 và 26. Nhìn chung, trình
độ học vấn phổ thông của lực lượng lao động các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và
đồng bằng sông Cửu Long thấp hơn so với các vùng khác.
Nâng cao trình độ văn hóa là cơ sở để phát triển đào tạo lao động chuyên
môn kỹ thuật, nếu không tăng nhanh số người tốt nghiệp THCS và THPT, đặc
biệt là THPT thì nguồn đầu vào cho đào tạo lao động chuyên môn kỹ thuật trình
độ cao sẽ rất khó khăn, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nguồn nhân lực và
quá trình CNH, HĐH đất nước.
- Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động
Trình độ chuyên môn kỹ thuật là sự hiểu biết, kiến thức và kỹ năng thực
hành về một nghề nghiệp nhất định. Để đánh giá tổng quan trình độ chuyên môn
kỹ thuật của nguồn nhân lực, người ta thường dùng các tiêu chí như: tỷ lệ giữa số
lao động đã qua đào tạo trong nguồn nhân lực; cơ cấu lao động đã qua đào tạo


5

theo cấp trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực và tương quan sử

dụng lao động các cấp trình độ chuyên môn kỹ thuật trong nền kinh tế.
Thực tế ở nước ta cho thấy, năm 2002, chỉ có khoảng 15% dân số từ 15
tuổi trở lên có trình độ chuyên môn kỹ thuật - một con số quá thấp so với yêu
cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tình trạng này còn trầm trọng hơn ở
khu vực nông thôn, với trên 90% dân số không có bất kỳ trình độ chuyên môn kỹ
thuật nào1. Tính đến hết năm 2004, tỷ lệ lao động qua đào tạo trong lực lượng lao
động cả nước là 22,5%. Trong đó, tỷ lệ đã qua đào tạo sơ cấp, đào tạo nghề là
13,3%; tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp là 4,4%; tốt nghiệp cao đẳng, đại học
trở lên là 4,8%, tăng 1,5% so với 2003 (bảng 1).
BẢNG 1: Cấp trình độ lao động qua đào tạo (1. A) và tỷ lệ lao động

chuyên môn kỹ thuật (1. B)
1. A: Số người từ 15 tuổi trở lên có chuyên môn kỹ thuật
Đơn vị tính: ngàn người

1999
2004

Sơ cấp, chứng chỉ
nghề, CMKT không
bằng
1453,05
4680,94

CMKT có
bằng

THCN

CĐ, ĐH trở

lên

889,03
1543,07

1593,55
2306,29

1306,09
2431,66

1. B: Tỷ lệ lao động chuyên môn kỹ thuật các loại
Đơn vị tính: %

1999
11

Sơ cấp, chứng chỉ
nghề CMKT
không bằng
27,72

CMKT có
bằng

THCN

CĐ, ĐH trở
lên


Tsố
(%)

16,96

30,4

24,92

100

Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương: Tài liệu phục vụ nghiên cứu Kết luận Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr 59


6

2004

42,7
14,07
21,03
22,2
100
Nguồn: Thống kê Lao động - việc làm, Bộ Lao động thương binh và xã

hội, 1999 – 2004
Qua bảng 1 cho ta thấy, ở nước ta số người từ 15 tuổi trở lên có trình độ
chuyên môn kỹ thuật thấp; trong cơ cấu lao động chuyên môn kỹ thuật của cả
nước thì tỷ trọng công nhân kỹ thuật lành nghề cao (bậc III) ít và không tăng.

Đến hết năm 2005, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo ở nước ta xấp xỉ 1/ 4
(24,79%), tương đương với 11 triệu người, trong đó 15,22% có chứng chỉ, có
bằng công nhân kỹ thuật, 4,3% tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp, 5,27% tốt
nghiệp cao đẳng, đại học và trên đại học (tỷ lệ này ở các nước trong khu vực là
trên 50%). Thêm vào đó, là sự cách biệt khá lớn giữa thành thị và nông thôn;
giữa vùng núi, vùng sâu, vùng xa với các vùng đồng bằng. Trong 8 vùng lãnh
thổ thì vùng có tỷ lệ lao động qua đào tạo cao nhất là đồng bằng sông Hồng
(31,9%) và Đông Nam Bộ (31,8%), tiếp đến là Duyên hải Nam Trung Bộ
(25,4%), thấp nhất là vùng Tây Bắc (11,3%), các vùng khác tỷ lệ này từ 14 –
18%.
Cơ cấu trình độ đào tạo giữa cao đẳng, đại học trở lên/ THCN/ CNKT
(công nhân kỹ thuật) còn bất hợp lý, năm 1996: 1/ 1,7/ 2,4; năm 2004: 1/ 0,91/
2,75. Cơ cấu này biểu hiện trên thị trường lao động thiếu nghiêm trọng công
nhân kỹ thuật lành nghề và lành nghề cao. Trong khi đó, những năm qua, chúng
ta lại chưa khai thác được một cách đầy đủ tiềm năng của lao động chuyên môn
kỹ thuật, năm 2004 tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động ở khu vực thành thị
là 5,6%. Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động đã qua đào tạo rất đáng kể,
năm 1999 là 2,96%, năm 2000 là 2,32%, năm 2004 khoảng 2,74% trong lực
lượng lao động của cả nước. Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông
thôn chưa cao, năm 2001 là 74,37%, năm 2002 là 75,41%, năm 2003 là 77,66%,


7

năm 2004 là 78,75%, ước tính năm 2005 là 80%, tương đương với 20% - 25%
thời gian bị lãng phí.
Tính theo thang điểm quốc tế, trình độ chuyên môn của người lao động
Việt Nam chỉ đạt 17,86/ 60 điểm (điểm tối đa)…Vì thế, đó đây đã xuất hiện tình
trạng “thừa thầy”, nhưng phần lớn người sử dụng lao động vẫn phải đào tạo lại
khi sử dụng.

Những số liệu nêu trên cho thấy, chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta
thấp, còn khoảng cách khá xa so với một số nước châu Á (bảng 2).
BẢNG 2: Chỉ số chất lượng nguồn nhân lực của một số nước châu á và

của Việt Nam
Số
T
T
01
02
03
04
05
06
07
08
09
10
11
12

Mức độ sẵn Mức độ sẵn
Mức độ
Sự
Tên nước, có lao động có các cán sẵn có cán thành
lãnh thổ
sản xuất
bộ hành
bộ quản lý
thạo

chất lượng
chính chất chất lượng tiếng
cao
lượng
cao
Anh
Hàn Quốc
7,00
8,00
7,50
4,00
Singapo
6,83
5,67
6,33
8,33
Nhật Bản
8,00
7,50
7,00
3,50
Đài Loan
5,37
5,62
5,00
3,86
Ấn Độ
5,25
5,50
5,62

6,62
Trung Quốc 7,12
6,19
4,12
3,62
Malaixia
4,50
7,00
4,50
4,00
Hồng Công 4,23
5,24
4,24
4,50
Philippin
5,80
6,20
5,60
5,40
Thái Lan
4,00
3,37
2,36
2,82
Việt Nam
3,25
3,50
2,75
2,62
Inđônêxia

2,00
3,00
1,50
3,00
Ghi chú: Các nước được xếp hạng theo thang điểm mười và

Sự thành
thạo
công
nghệ cao
7,00
7,83
7,50
7,62
6,50
4,37
5,50
5,43
5,00
3,27
2,50
2,50
điểm 0 là

thấp nhất
Nguồn: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ VI, Ban
chấp hành Trung ương khóa IX (2002), Nxb Chính trị quốc gia, H, tr.69


8


Do chất lượng nguồn nhân lực thấp nên không những ít có khả năng
nghiên cứu sáng tạo những công nghệ mới, mà ngay cả việc tiếp thu, ứng dụng
những tiến bộ công nghệ hiện đại của khu vực và trên thế giới cũng gặp rất nhiều
khó khăn, kéo theo là năng suất lao động, năng suất một số cây trồng của nước ta
nhìn chung ở mức thấp hơn nhiều so với nhiều nước trong khu vực. Tốc độ tăng
năng suất lao động bình quân của khu vực công nghiệp và xây dựng của thời kỳ
1986 – 2003 khoảng 7,3%/ năm. Còn năng suất lao động khu vực nông, lâm, ngư
nghiệp (tính bằng giá trị sản xuất/ số lao động làm việc của khu vực này, giá so
sánh năm 1994) năm 2003 chỉ đạt 2,8 triệu đồng, tốc độ tăng năng suất lao động
bình quân hàng năm của ngành này thời kỳ 1986 – 2002 cũng chỉ là 2,7%/ năm.
Theo khảo sát của FAO năm 2004, năng suất sắn của ta thấp hơn của Trung
Quốc 1,6 lần, ngô 2,1 lần, đậu tương 1,5 lần, dứa 1,6 lần, mía 2,6 lần (bảng 3).
BẢNG 3: So sánh năng suất một số cây trồng của Việt Nam và các nước.

Đơn vị tính: tạ/ ha
Trung Quốc

Việt Nam

Inđônêxia

Malaixia

Philippi

Thái Lan

n
Sắn

Ngô
Đậu
Dứa
Mía

152,3
93,8
122,2
103,3
45,3
21,1
23,8
20,4
15,9
10,2
11,4
139,9
84,4
110,5
96,0
139,4
53,9
109,6
95,4
Nguồn: Nghiên cứu Kinh tế số 333 – Tháng 2/ 2006

83,7
14,8
11,3
73,4

72,4

148,1
30,4
13,7
135,5
135,1

Năng suất lao động của công nhân ngành da giày Việt Nam cũng thấp
hơn so với Trung Quốc và Inđônêxia. Trong khi ca làm việc 8 giờ, 1 công nhân
Việt Nam sản xuất được 10 đôi giày thì công nhân Trung Quốc là 12,5 đôi và
Inđônêxia là 11,5 đôi.


9

Hiện nay, trong khi ở các nước phát triển như: Nhật Bản, Italia…nguồn
nhân lực chiến trên 80% trong tổng số các nguồn lực; các nước đang phát triển,
phần đóng góp của lao động và năng suất các nhân tố tổng hợp (khoa học - công
nghệ) vào tăng trưởng kinh tế khoảng 90%; ở các nước trong khu vực ASEAN
như Thái Lan, Philippin, Inđônêxia, Malaixia… cũng ở mức 60 – 70%. Thì ở
nước ta mức đóng góp này, nhất là nguồn nhân lực rất nhỏ bé (xem bảng 4). Qua
đây cho thấy, tăng trưởng kinh tế ở nước ta vẫn chủ yếu dựa vào tăng số lượng
các yếu tố đầu vào như vốn, tài nguyên (trong khi các yếu tố này có giới hạn).
Nếu chúng ta cứ tiếp tục tăng trưởng kinh tế theo kiểu này, thì nguy cơ cạn kiệt
tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường và kinh tế không bền vững là khó
tránh khỏi.
BẢNG 4: Đóng góp của các yếu tố sản xuất vào tăng trưởng kinh tế Việt

Nam

1993 - 1997
8,8

1998 - 2002
6,2

1. Tốc độ tăng trưởng GDP (%)
Trong đó đóng góp của:
- Lao động
1,41
- Vốn
6,07
- Năng suất các nhân tố tổng hợp
1,32
2. Tỷ trọng đóng góp vào GDP (%)
100
Trong đó đóng góp của:
- Lao động
16,0
- Vốn
69,0
- Năng suất các nhân tố tổng hợp
15,0
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam, Kinh tế 2004 – 2005,

1,24
3,57
1,40
100
20,0

57,5
22,5
Việt Nam và

thế giới.
Do nhiều nguyên nhân, trong đó có chất lượng nguồn nhân lực thấp đã
dẫn đến khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và sản phẩm của
nước ta rất yếu (Xem bảng 5). Theo báo cáo cạnh tranh toàn cầu 2002/ 2003 của


10

Diễn đàn kinh tế thế giới, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nước ta xếp thứ
65/ 79 nước, trong đó xếp hạng chỉ số công nghệ ở nước ta rất thấp, 68/79 nước,
chỉ số thể chế khu vực công cũng rất thấp, 62/79 nước và chỉ số môi trường kinh
tế vĩ mô có khá hơn, 38/79 nước. Cũng theo báo cáo này, xếp hạng chỉ số cạnh
tranh của doanh nghiệp nước ta cũng trong tình trạng rất thấp, 60/79 nước, trong
đó xếp hạng chiến lược và hoạt động của doanh nghiệp xếp 67/79 nước và xếp
hạng môi trường kinh doanh quốc gia là 58/79 nước.
Theo báo cáo của Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2004 và 2005, khả năng
cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam không những không được cải thiện mà còn
tụt giảm. Năm 2004, xếp hạng 77/104 nước. Năm 2005, tụt xuống thứ 81/104
nước. Trong khi đó, năm 2004, xếp hạng của Trung Quốc là 47, Malaixia là 23,
Thái Lan là 36, Inđonêxia là 44…
Đánh giá về khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nước ta gần đây nhất,
trong báo cáo mội trường kinh doanh do WB và công ty tài chính quốc tế (IFC)
công bố ngày 6/ 9/ 2006, thì Việt Nam xếp thự 104 trong số 175 nền kinh tế
được đánh giá và xếp hạng. So với tháng 9/ 2005 chúng ta tụt 6 bậc.
Có thể khẳng định rằng, trong bối cảnh quốc tế hóa đời sống kinh tế và
sự phát triển mạnh mẽ của của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện nay,

thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta đang trở thành mối lo ngại lớn, nếu không
có sự nhìn nhận một cách đầy đủ, nghiêm túc về vai trò vị trí cũng như chất
lượng nguồn lực này từ đó có các giải pháp khắc phục kịp thời thì rõ ràng làm
ảnh hưởng trực tiếp đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, quá
trình CNH, HĐH nói riêng.
BẢNG 5: Khả năng cạnh tranh của Việt Nam và một số nước trong khu

vực (so với 79 quốc gia năm) 2002/2003


11

Chỉ số khả năng cạng tranh Chỉ số khả năng cạnh tranh của
của nền kinh tế
doanh nghiệp
Việt Nam
65
60
Trung Quốc
33
38
Nhật Bản
13
11
Inđônêxia
67
64
Hàn Quốc
21
23

Malaixia
27
26
Thái Lan
31
35
Nguồn: Hội thảo khoa học: Đánh giá tác động của việc ra nhập WTO đối

Nước, lãnh thổ

với Việt Nam, bài “Chính sách ngành sau khi gia nhập WTO”, tr.3,4.
Với mục tiêu là đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước
chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển,
sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ X đã xác định: “Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và
tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước theo
định hướng XHCN gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu
tố quan trọng của nền kinh tế và CNH, HĐH. Phát triển mạnh các ngành và sản
phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức…”. Nội dung cơ bản
của quá trình này được Đại hội X của Đảng chỉ ra là: “phát triển mạnh các
ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; coi
trọng cả số và chất lượng tăng trưởng kinh tế; xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại
và hợp lý; giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả các
ngành…”.
Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức trong điều kiện
hiện nay là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với xu thế và quy luật
khách quan. Song kết quả của quá trình này lại phụ thuộc rất lớn vào chất lượng
nguồn nhân lực và khoa học công nghệ (nếu không nói là nhân tố quyết định).
Trong khi đó, chất lượng nguồn nhân lực lại phụ thộc nhiều vào công tác giáo



12

dục đào tạo. Vì vậy, không có gì quan trọng hơn việc tăng cường công tác giáo
dục đào tạo để qua đó mà nâng dần chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
thực tiễn của đất nước.Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nhắc nhở: “Học
hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác
thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đử rồi, biết hết rồi” 2. Lê-nin, trong
tác phẩm Thà ít mà tốt cũng đã đề cao vai trò của việc học tập khi nhấn mạnh
rằng: “Không có cách nào khác ngoài việc học tập,… học tập, …học tập mãi và
phải làm sao cho việc học tập thực sự ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người, hoàn
toàn và thực tế trở thành một bộ phận khăng khít của cuộc sống” 3.
Kinh nghiệm về giáo dục - đào tạo Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc
cho thấy, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho sự phát triển, điều quan
trọng đầu tiên là vấn đề đào tạo. Sau chiến tranh thé giới thứ hai, Nhật Bản là
nước bại trận, thiếu vốn, tụt hậu về kỹ thuật nhưng quốc gia này vẫn khẳng định
sự lựa chọn truền thống trong giáo dục. Hệ thống giáo dục của Nhật Bản được
ưu tiên đầu tư trên nhiều khía cạnh, được sự quan tâm tạo điều kiện của mỗi gia
đình và toàn xã hội 4. Hàn Quốc bị ảnh hưởng nhiều của nền văn hóa Nho học
nên rất chú trọng phát triển giáo dục và coi trọng người thầy. Nhờ đó, đầu tư cho
giáo dục của Hàn Quốc đã không ngừng tăng lên trong suốt gần 50 năm qua.
Trung quốc có chính sách mạnh dạn tìm người tài. Trước mắt, Trung Quốc đang
thực hiện việc phát hành “thẻ xanh”, một loại thẻ dành cho những kỹ thuật viên,
các nhà đầu tư, các nhà doanh nghiệp với một đặc quyền là vào Trung Quốc sẽ
không cần vi - sa…

2

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 1997, t 8, tr 215
Đỗ Tư: “Thà ít mà tốt – Di chúc chính trị cuối cùng của Lênin”, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 4-2001, tr3

4
Nguyễn Minh Tú: Các chính sách huy động và phân bổ nguồn lực cho phát triển kinh tế Nhật Bản, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr 15
3


13

Để việc giáo dục - đào tạo phát huy được trong sự nghiệp đổi mới, tạo ra
được nguồn lao động có chất lượng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH
gắn với phát triển kinh tế tri thức, theo tôi cần phải làm tốt mấy vấn đề sau:
Thứ nhất, phổ cập trung học cơ sở và phát triển giáo dục trung học phổ
thông nhằm nâng cao trình độ văn hóa cho người lao động. Giải pháp này cần
hướng vào mấy điểm cơ bản sau:
Nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền, gia đình và cá nhân vế tầm
quan trọng của phổ cập trung học cơ sở và phát triển giáo dục trung học phổ
thông. Theo đó, cần bảo đảm các cơ chế khuyến khích học sinh đi học cấp trung
học cơ sở và trung học phổ thông.
Phát triển mạng lưới trường trung học cơ sở, trung học phổ thông, tăng tỷ
lệ học sinh bán công, dân lập ở các thành phố, thị xã, vùng kinh tế phát triển, tạo
điều kiện cho mọi đối tượng trong xã hội đạt được trình độ học vấn trung học cơ
sở và tiến tới đa số đạt trung học phổ thông. Nhà nước tập trung hỗ trợ cho các
địa phương có khó khăn, đặc biệt là miền núi, vùng sâu, vùng xa để hoàn thành
tiêu chuẩn phổ cập trung học cơ sở.
Thứ hai, phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và trung học phổ thông.
Làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục cho mọi thành viên trong xã hội
thấy được sự cần thiết và lợi ích của việc lựa chọn con đường học tập phù hợp
với bản thân và xã hội, tạo môi trường thuận lợi để các thành viên khi có điều
kiện có thể phấn đấu nâng cao trình độ.
Trước mắt, cần tạo mọi điều kiện thu hút khoảng 70% học sinh tốt

nghiệp trung học cơ sở và trung học phổ thông, đáp ứng nhu cầu học tập gia tăng
nhanh và nhu cầu đào tạo lao động chuyên môn kỹ thuật trình độ cao hơn của
người dân. Tiến hành phân luồng bằng các chính sách: ưu tiên cho những học
sinh có chứng chỉ đào tạo nghề được vay vốn để sản xuất kinh doanh. Tôn trọng


14

nguyện vọng và quyền lợi tiếp tục học lên của mọi công dân. Các bằng tốt
nghiệp trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp, bổ túc văn hóa đều được
bình đẳng về cơ hội trong việc thi vào các trường cao đẳng, đại học.
Thứ ba, khắc phục ngay bệnh thành tích và tình trạng hình thức trong
giáo dục; cải cách nội dung, phương pháp giáo dục - đào tạo theo hướng phù hợp
với các yêu cầu của từng cấp đào tạo, bảo đảm tính cơ bản, hiện đại nhưng tinh
giản, vừa sức, tăng tính thực tiễn và thực hành. Các nội dung đào tạo phải cập
nhật các tiến bộ khoa học – công nghệ hiện đại, công nghệ đang được đổi mới áp
dụng trong nền kinh tế và phải đáp ứng cho chính nhu cầu của thực tiễn; xây
dựng các chương trình liên thông giữa các cấp trình độ đào tạo.
Đưa công nghệ thông tin vào trường học bằng cách tận dụng các nguồn
đầu tư để trang bị và xây dựng các phòng máy vi tính, thiết kế các chương trình
môn học máy tính phù hợp cho các loại trường. Tăng cường sử dụng máy vi tính
trong dạy học ở những vùng có điều kiện, tiến tới sử dụng công nghệ thông tin
để thay đổi phương pháp dạy và học; áp dụng các phương pháp tiên tiến và
phương tiện hiện đại vào quá trình dạy và học. Tổ chức cho học sinh, sinh viên
tham gia các hình thức giáo dục thể chất nội, ngoại khoá, các hoạt động văn hoá
xã hội; tăng cường năng lực giao tiếp, kỹ năng và thái độ hợp tác trong công
việc.
Thứ tư, hoàn chỉnh mạng lưới các trường dạy nghề, trung học chuyên
nghiệp, đại học và cao đẳng trong cả nước. Khuyến khích xây dựng các trường
đại học, cao đẳng dân lập, tư thục ở những nơi trường công lập không đáp ứng

đủ nhu cầu đào tạo. Hướng các trường đại học thực hiện các chức năng: giáo dục
- đào tạo, nghiên cứu khoa học và cung cấp dịch vụ cho xã hội. Giảng viên đại
học vừa có nhiệm vụ đào tạo, vừa có nhiệm vụ nghiên cứu và tư vấn chuyển giao
khoa học công nghệ. Có chế độ hợp lý để đảm bảo cho giảng viên tham gia


15

nghiên cứu khoa học và công nghệ có thu nhập tương xứng với kết quả các hoạt
động nghiên cứu, triển khai. Các trường đại học một mặt đầu tư thành lập các tổ
chức sản xuất, kinh doanh và dịch vụ phù hợp với năng lực và sở trường của
mình, mặt khác mở rộng quan hệ liên doanh, liên kết với các trường đại học
khác, với các viện nghiên cứu và các cơ sở sản xuất kinh doanh.
Thứ năm, nâng cao hiệu quả công tác quản lý giáo dục đào tạo. Ở đây
cần nhanh chóng hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp luật về giáo dục đào tạo.
Tăng cường chức năng thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các chính sách và quy
định. Tăng cường quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các trường, thành lập
và khẩn trương triển khai hoạt động của các hội đồng thẩm định chất lượng (nhất
là các trường dạy nghề) để đảm bảo chất lượng đào tạo của các cấp trình độ.
Tổ chức đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên về kiến thức và kỹ năng
quản lý, lập kế hoạch cho cán bộ quản lý các trường; sử dụng các phương tiện,
thiết bị kỹ thuật thích hợp để nâng cao hiệu quả của công tác quản lý.



×