Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Chuyên đề Nhà nước và pháp luật Việt Nam thời trung đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (768.42 KB, 69 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN



CHUYÊN ĐỀ

LÔÙP CAO HOÏC LÒCH SÖÛ VIEÄT NAM K- 11

Qui Nhơn , tháng 12/2009

-1-


Mục Lục
Chương I. Sự hình thành Nhà nước đầu tiên – Nhà nước Văn Lang – Âu Lạc thời Hùng Vương.
Chương II. Nhà nước và Pháp luật – Giai đoạn đấu tranh chống Bắc thuộc(179 tcn - 905).
Chương III. Nhà nước và Pháp luật - Thế kỷ X (905 - 1009).
Chương IV. Nhà nước và Pháp luật - Thời Lý - Trần - Hồ (từ Thế kỷ XI đến Thế kỷ XV).
Chương V. Nhà nước và Pháp luật phong kiến - Thế kỷ XV(1428 - 1527).
Chương VI. Nhà nước và Pháp luật - Thời kỳ nội chiến phân liệt (từ thế kỷ XVI đến thế kỷ
XVIII).
Chương VII. Nhà nước và Pháp luật thời kỳ Nhà Nguyễn từ đầu thế kỷ XIX đến khi thực
dân Pháp xâm lược (1858).

Tài liệu tham khảo.
1.C.Mác – Ph.Ăngghen – V.I.Lênin: Bàn về các xã hội tiền tư sản. Nxb. KHXH. Hà Nội.
1945.
2.Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV(Nxb Sự thật.
Hà Nội. 1977), lần thứ V (Nxb Sự thật. Hà Nội. 1982), lần thứ VI(Nxb Sự thật. Hà Nội. 1987),
lần thứ VII(Nxb Sự thật. Hà Nội. 1991), lần thứ VIII(Nxb CTTQ. Hà Nội. 1996).
3.Hiến pháp năm 1992 và các luật tổ chức Nhà nước nước CHXHCN Việt Nam. Nxb


CTTQ. Hà Nội. 1993.
4.Trường Hành chính quốc gia: Về cải cách bộ máy quản lí hành chính nhà nước. Nxb Sự
thật. Hà Nội. 1991.
5.Một số vấn đề cơ bản về Hiến pháp Nước CHXHCN Việt Nam 1992 - Học viện Hành
chính quốc gia – Nxb chính trị quốc gia, Hà nội, 1993.
6.Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1946 – 1960, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 1944.
7.Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam: Lịch sử Việt Nam. Nxb Khxh, Hà Nội, tập I(1971); tập
II(1985).
8.Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật: Sơ thảo lịch sử Nhà nước và Pháp lụât (từ Cách
mạng tháng Tám đến nay). Nxb KHXH, Hà nội, 1983.
9.Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật: Những vấn đề lý luận cơ bản về Nhà nước và
Pháp luật. Nxb CTQG, Hà nội, 1995.
10.Trường Đại học Pháp lý Hà Nội: Tập bài giảng lịch sử Nhà nước và Pháp luật Việt Nam,
Nxb CTQG, Hà Nội, 1994.
11.Vũ thị Phụng - Lịch sử Nhà nước và Pháp luật Vịêt nam, Hà nôi, 1993.
ĐỌC THÊM
12.Đào Duy Anh - Đất nước Việt Nam qua các đời. Nxb Sử học, Hà nội, 1964.
13.Nguyễn Đổng Chi - Mấy ý kiến về xã hội thời Hùng Vương, Nghiên cứu lịch sử, tháng
7-1969.
14.Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh - Lịch sử Việt nam, Tập
1,Nxb ĐH và THCN, Hà nội, 1985.
15.Quốc triều hình luật, Nxb pháp lý, Hà nội, 1991.
16.Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn – Lịch sử chế độ phong kiến việt nam, Tập 1, Nxb giáo
dục, hà nội, 1960.
17.Trần Quốc Vượng – Theo dòng lịch sử, Nxb Văn hoá, Hà nội, 1996.
18.Viện Sử học: Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý - Trần, Nxb KHXH, Hà Nội, 1983.

-2-



CHƯƠNG I
SỰ HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC ĐẦU TIÊN:
NHÀ NƯỚC VĂN LANG - ÂU LẠC THỜI HÙNG VƯƠNG
Việc nghiên cứu sự ra đời của nhà nước đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có ý nghĩa rất quan
trọng và cần thiết của khoa học lịch sử nhà nước và pháp luật. Cho đến nay, các tài liệu biên niên
sử và thông sử đều chép lịch sử Việt Nam bắt đầu từ các triều Hùng Vương trị vì “nước” Văn
Lang từ những thời “xa xưa”, một thời đại có vị trí rất quan trọng trong lịch sử nước nhà, song
cũng thật khó xác định chính xác về niên đại.
Những kết quả nghiên cứu bởi nhiều ngành khoa học với các phương pháp hợp tác khoa học
và nghiên cứu liên ngành về giai đoạn lịch sử này giờ đây cho phép chúng ta dựng lại trên những
nét cơ bản về lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và sự hình thành nhà nước đầu tiên trong
lịch sử Việt Nam, nhà nước Văn Lang – Âu lạc.
Với thời đại Hùng Vương, trên đất nước ta đã xuất hiện một nền văn hóa khá cao, một nền
văn minh nông nghiệp phát triển rực rỡ. Quá trình phát triển lâu dài hàng nghìn năm trước đó của
nền văn minh sông Hồng là cơ sở kinh tế - xã hội cho sự ra đời của Nhà nước Văn Lang.
Đó là một thời kỳ được phản ánh không chỉ trong truyền thuyết, trong thư tịch cổ mà còn
được chứng thực qua hàng loạt di tích khảo cổ học, tạo thành một diễn biến văn hóa vật chất liên
tục của thời kỳ đó.
Trước yêu cầu trị thủy, chống xâm lăng và giao lưu kinh tế, văn hóa ngày càng tăng đã nảy
sinh xu hướng tập hợp và thống nhất các bộ lạc sinh sống cận kề nhau. Theo sử cũ, chủ yếu ở
miền trung du và đồng bằng Bắc Bộ lúc bấy giờ có khoảng 15 bộ lạc Lạc Việt sinh sống. Ở miền
Việt Bắc có hàng chục bộ lạc Âu Việt sinh sống.
Ở nhiều nơi khác, người Lạc Việt và người Âu Việt sống xen kẽ nhau, bên cạnh các thành
phần dân cư khác. Trong số các bộ lạc Lạc Việt, có bộ lạc Văn Lang là hùng mạnh hơn cả với
lãnh thổ rộng lớn ở vùng Phong Châu. Thủ lĩnh bộ lạc Văn Lang đã đóng vai trò lịch sử là người
đứng ra thống nhất tất cả các bộ lạc Lạc Việt, dựng lên nước Văn Lang, tự xưng vua mà sử cũ gọi
là Hùng Vương và hậu duệ nhiều đời về sau vẫn truyền mang vương hiệu đó.1
Căn cứ theo 15 bộ của nhà nước Văn Lang và đặc biệt là xét quá trình chuyển hóa lịch sử từ
nước Văn Lang thời Hùng Vương đến nước Âu Lạc thời An Dương Vương, rồi đến hai quận
Giao Chỉ, Cửu Chân thời thuộc Triệu và thuộc Hán, tạm thời có thể xác định địa bàn của nước

Văn Lang tương ứng với vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ của nước ta hiện nay và có thể một phần
Lưỡng Quảng của Trung Quốc. Về thời gian tồn tại của nước Văn Lang có thể xác định là vào
khoảng từ thế kỷ III trước công nguyên (TCN) đến quãng đầu thế kỷ II (TCN). Ở vùng trung tâm
của nước Văn Lang, thuộc lưu vực sông Hồng những thành tựu khảo cổ học cho thấy bốn giai
đoạn hay bốn nền văn hóa khảo cổ học tồn tại, phát triển kế tiếo nhau từ Phùng Nguyên, Đồng
Đậu, Gò mun đến Đông Sơn rất rực rỡ của thời đại Hùng Vương và nhà nước Văn Lang.
Theo GS Trần Quốc Vượng thì: “Thời đại Hùng Vương là một tổng hợp lớn đầu tiên của
lịch sử nước nhà… Thời đại Hùng Vương, thời đại Đông Sơn là một tổng hợp lớn của lịch sử đã
làm nên một Văn Lang, một Âu Lạc, một nước, một nhà nước đầu tiên”.2
Từ giới hạn không gian và thời gian của “nước Văn Lang” trong thư tịch cổ và truyền
thuyết, các nhà khoa học đã xác định, khái quát được bức tranh toàn cảnh của xã hội Hùng
Vương, từ đó, phục hồi bộ mặt của cuộc sống xưa và nhìn nhận quá trình hình thành nước Văn
Lang nằm trong tiến trình lịch sử Việt Nam.
I. TRẠNG THÁI KINH TẾ
Trong thời gian tồn tại khoảng 2.000 năm TCN, thời kỳ Hùng Vương bao quát các giai đoạn
phát triển từ sơ kì thời đại đồng thau đến sơ kỳ thời đại đồ sắt. Vào đầu thời kỳ này, tương ứng
với giai đoạn Phùng Nguyên – xã hội nước Văn Lang là xã hội có một nền kinh tế đã phát triển ở
mức độ nhất định với những chuyển biến quan trọng đã được ghi nhận. Đó là sự phát triển của
nghề trồng lúa nước, nghề chăn nuôi, nghề gốm,… sự phát triển đến mức hoàn hảo của nghề chế
1
2

. Lịch sử Việt Nam, T.1.Nxb KHXH, Hà nội, 1971, tr.45.
. Trần Quốc Vượng, Theo dòng lịch sử, Nxb Văn hóa, Hà nội, 1996, tr.11-12.

-3-


tác đá và nhất là sự xuất hiện của nghề luyện kim đồng thau. Về cơ bản, công cụ sản xuất bằng đá
vẫn hoàn toàn chiếm ưu thế, nền kinh tế vẫn còn mang tính chất nguyên thủy. Trải qua các giai

đoạn Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn, nền kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ và đạt đến một
trình độ khá cao. Công cụ bằng đá được thay thế bằng những công cụ đồng thau, rồi công cụ bằng
sắt xuất hiện. Lúc này, nền kinh tế đã bao gồm nhiều ngành nghề, trong đó, nghề trồng lúa nước
đóng vai trò chủ đạo.
Giai đoạn Gò Mun, Đông Sơn đã đánh dấu một bước tiến lớn trong nông nghiệp.
Trên cơ sở nghề luyện kim phát triển, người ta đã biết sử dụng công cụ bằng đồng vào việc
canh tác, nông nghiệp dùng cày với những lưỡi cày bằng kim loại đã ra đời và phát triển, thay thế
dần cho nông nghiệp dùng cuốc trước đó. Ngoài rìu đồng, được sử dụng để khai phá đất đai,
người ta đã có những lưỡi liềm đồng và lưỡi cày đồng, nhíp đồng, cuốc mai và thuổng bằng sắt.
Đương nhiên còn phải kể đến nhiều công cụ bằng các loại vật liệu khác như tre gỗ không còn
được lưu giữ đến ngày nay. Những công cụ ấy và việc chăn nuôi trâu bò làm sức kéo trong sản
xuất đã thể hiện những tiến bộ vượt bậc trong kỹ thuật canh tác của thời kỳ này.
Cùng với những tiến bộ trong chế tác công cụ bằng kim khí và kỹ thuật canh tác, cư dân
thời Hùng Vương đã mở rộng địa bàn cư trú của mình, đẩy mạnh công cuộc chinh phục vùng
đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ đã hình thành nhưng còn hoang dã, còn nhiều vùng trũng, đầm
lầy, rừng rậm và nhiều vùng biển ăn sâu vào đất liền. Lúc đó, men theo triền những con sông
chưa có đê, có chăng chỉ là những đoạn đê ngắn, đê quai từng vùng nhỏ, nên tới mùa mưa nước
lũ tràn ngập và phủ lên đồng bằng những lớp phù sa màu mỡ. Đó là một trong những yếu tố quan
trọng để phát triển nghề trồng lúa nước. Người ta khai thác đất đai, mở rộng diện tích trồng lúa
nước với những hình thức canh tác phù hợp với từng địa hình và thổ nhưỡng của từng vùng. Nói
chung, ở thời kỳ này có hai hình thức canh tác chính là làm rẫy và làm ruộng.
Ở miền đồi núi cư dân thời đó áp dụng hình thức trồng trọt sơ khai là làm nương rẫy vì địa hình
không thuận lợi cho việc thâm canh, làm thủy lợi. Người ta phát cây, đốt cháy thành tro rồi chọc lỗ,
tra hạt. Hình thức này vẫn còn được bảo tồn lâu dài ở miền núi nước ta cho đến tận ngày nay.
Còn ở vùng đồng bằng, nơi có những chân ruộng phù sa ven sông và chân ruộng ở vùng
thấp trũng quanh các ao đầm người ta làm ruộng nước. Ở những ruộng cày, người ta áp dụng
rộng rãi kỹ thuật cày bằng lưỡi cày đồng thau và sức kéo của trâu bò, hoặc áp dụng các kỹ thuật
như “đao canh, thủy nậu” (cày bằng dao, làm nát bằng nước), “hỏa canh thủy nậu” (cày bằng lửa,
làm nát bằng nước). Ruộng nước là loại ruộng khá cố định, được trồng trọt thường xuyên, mặt
ruộng được cải tạo, có bờ giữ nước, tức là có điều kiện để thâm canh tăng vụ.

Cư dân thời kỳ Hùng Vương đã biết trồng lúa mùa và lúa chiêm, lúa tẻ và lúa nếp với nhiều
giống khác nhau. Lúa là cây trồng chủ yếu và giữ vai trò quan trọng trong đời sống, chiếm tỉ lệ
cao trong thành phần lương thực của cư dân. Ngoài ra, cư dân Văn Lang còn biết trồng các loại
cây lấy củ, quả, trồng dâu nuôi tằm, trồng bông lấy sợi,v.v… Nghề làm vườn phát triển và là một
trong ba hình thức cơ bản của nghề trồng trọt đương thời.
Bên cạnh nghề trồng trọt, cư dân Văn Lang vẫn tiếp tục duy trì hướng kinh tế khai thác như hái
lượm và săn bắn, song lúc này chúng đã bị đẩy xuống hàng thứ yếu. So với hái lượm, săn bắn có vai
trò quan trọng hơn vì ngoài việc bổ sung nguồn thức ăn thịt cho con người, nó còn cung cấp nguyên
liệu (xương, da,…) cho một số nghề thủ công như: chế tác đồ trang sức, đồ dùng, vũ khí,…
Chăn nuôi được phát triển theo hướng tương quan mật thiết với nông nghiệp và không tách
thành một nghề kinh tế độc lập. Gia súc phổ biến quen thuộc của thời kỳ này là chó, lợn, trâu, bò.
Việc chăn nuôi trâu bò vào cuối thời kỳ Hùng Vương không chỉ để cung cấp thịt, mà có lẽ còn để
tạo sức kéo cho nông nghiệp nữa.
Xương, răng cá và các loại như chì lưới bằng đất nung, lưỡi câu bằng đồng thau, mũi lao
đâm cá có ngạch bằng xương,… tìm thấy trong nhiều di chỉ cho thấy vào đầu giai đoạn này nghề
đánh cá còn chưa được phát triển lắm, song sau đó là những tiến bộ đáng kể. Địa hình sông nước
với bờ biển dài, sông ngòi chằng chịt, ao đầm khắp nơi, cũng là một trong những yếu tố thuận lợi
cho sự phát triển của nghề cá nước ngọt và nước mặn. Ngoài ra, tiến bộ kỹ thuật trong nghề đóng
thuyền của giai đoạn Đông Sơn đã đóng góp phần không nhỏ và sự phát triển của nghề này.
-4-


Các ngành nghề thủ công cũng phát triển mạnh mẽ, có nghề phát triển vượt bậc và có tác
động qua lại chặt chẽ với nông nghiệp. Ở đây có thể kể đến nghề chế tác đá, nghề làm gốm, nghề
mộc và đan lát, nghề dệt, nghề sơn, luyện kim loại (đồng, sắt),…
Vào giai đoạn Phùng Nguyên, nghề làm đá đã đạt đến trình độ hoàn mỹ. Song, chẳng bao
lâu sau nó đã nhanh chóng bước vào giai đoạn suy thoái trước sự phát triển mạnh mẽ của nghề
luyện kim. Tuy nhiên, nghề này vẫn được bảo tồn đến ngày nay như một nghề mỹ nghệ.
Ở thời Hùng Vương, nghề gốm vẫn còn ở giới hạn của gốm thô, tuy đã có nhiều tiến bộ. Từ
giai đoạn Phùng Nguyên, kỹ thuật làm gốm bằng bàn xoay đã phát triển.

Xưởng gốm làm bằng đất sét pha với cát và vụn bã động vật, thực vật, để vừa dễ tạo hình,
vừa chịu được nhiệt độ cao, ít bị biến dạng và rạn nứt, khi nung tạo ra lớp áo có độ mịn và nhẵn.
Loại hình phong phú và hoa văn nhiều hình vẽ cho thấy kỹ thuật tạo hình và trang trí đồ gốm đã
có nhiều tiến bộ. Vào cuối thời kỳ Hùng Vương, nghề làm gốm đi theo xu hướng thực dụng, do
đó loại hình đồ gốm đơn điệu và ít được trang trí. Đó là một tất yếu lịch sử khi mà vị trí của đồ
gốm đã bị thay thế bằng đồ đồng thau có giá trị và trở thành đồ dùng bình thường và thông dụng
trong sinh hoạt hàng ngày.
Sự phát triển của nghề luyện kim đã trang bị thêm cho nghề mọc và nghề đan lát những
công cụ bằng kim khí và do đó, tạo thêm đà phát triển mới. Nghề dệt cũng phát triển không
ngừng suốt thời kỳ Hùng Vương. Từ sợi, lưới được dệt ra cung cấp cho nghề đánh cá và dệt vải
để đáp ứng nhu cầu may mặc của con người.
Trong số các nghề thủ công của thời kỳ này, sự ra đời và phát triển của nghề luyện kim (đúc
đồng và luyện sắt) với ý nghĩa của một cuộc cách mạng đã tác động sâu sắc đến toàn bộ nền kinh
tế và dẫn đến những chuyển biến lớn lao trong cơ cấu xã hội. Nghề đúc đồng xuất hiện từ đầu
thời Hùng Vương và phát triển liên tục qua các giai đoạn: Đồng Đậu, Gò Mun, và đạt đến đỉnh
cao rực rỡ vào giai đoạn Đông Sơn. Tiến trình lịch sử đó, cùng với sự phát hiện ra những cục xỉ
đồng và khuôn đúc đồng cho thấy quá trình phát triển lâu dài, tại chỗ và tính chất bản địa của
nghề luyện kim đồng thau ở Việt Nam. Đây là một nghề sản xuất phức tạp, bao gồm nhiều khâu.
Các khuôn đúc tìm thấy hiện nay đều là khuôn hai mang, trong đó có cả khuôn đúc một hiện vật
và khuôn đúc nhiều hiện vật. Mặt khuôn rất nhẵn và kín, trên khuôn có đánh dấu giáp khuôn, có
đầu rót, đậu ngót, có khuôn đậu hơi hay lỗ thông hơi.
Tất cả những điều đó cho thấy nghề đúc đồng thời Hùng Vương đã đạt đến mức độ tinh xảo
với những hiểu biết sâu sắc về sự nóng chảy của kim loại, độ co rút của hợp kim khi nguội, sức
đẩy của nước đồng trong khuôn,… Các hiện vật như trống đồng và thạp đồng là bằng chứng sống
động về tài năng và kỹ thuật tuyệt vời của nghề đúc đồng thời Hùng Vương.
Trên cơ sở nghề đúc đồng phát triển cao, nghề luyện sắt đã xuất hiện và ngày càng phát
triển. Về phần mình, sự phát triển của nghề luyện sắt đã có tác dụng thúc đẩy kỹ thuật đúc đồng
ngày càng được hoàn thiện.
Với sự phát triển của các loại hình hoạt động ngành nghề, tổ chức sản xuất và trao đổi kinh
tế hàng hóa bước đầu cũng được gia tăng.

Tóm lại, nền kinh tế thời đại Hùng Vương trong khoảng 2.000 năm TCN đã trải qua những
bước phát triển mạnh mẽ, lớn lao với quy mô của nền kinh tế sản xuất đa dạng, phong phú và từ đó
tạo nên những thay đổi căn bản trong toàn bộ kết cấu xã hội. Từ nền kinh tế mang dáng dấp nguyên
thủy với công cụ bằng đá còn khá phổ biến ở giai đoạn đầu đã hình thành và phát triển một nền kinh
tế đa dạng, phong phú với những công cụ bằng đồng thau, bằng sắt, lấy nông nghiệp trồng lúa nước
làm cơ sở vào giai đoạn cuối. Cùng với quá trình phát triển kinh tế đó là quá trình di dân từ vùng
bằng phẳng nhỏ hẹp ở đồi núi, vùng trung du và vùng cao xuống khai phá và chiếm lĩnh đồng bằng
sông Hồng, sông Mã, sông Cả rộng lớn, từ đó làm thay đổi cảnh quan địa lý vùng châu thổ và tạo ra
một cục diện mới của cuộc sống văn minh nông nghiệp nước ta.
II. CHUYỂN BIẾN XÃ HỘI
1. Hôn nhân và gia đình
Để hiểu rõ tổ chức và thiết chế xã hội thời đại Hùng Vương, trước hết, cần xem xét xã hội từ
thấp đến cao, bắt đầu từ hôn nhân gia đình trở lên cùng với những quan hệ tương ứng của nó. Sự
phát triển mạnh mẽ về kinh tế của thời kỳ này đã đưa đến những hệ quả quan trọng về mặt xã hội,
-5-


gây nên những chuyển biến sâu sắc trong thể chế hôn nhân và gia đình cũng như trong toàn bộ
kết cấu xã hội.
Có thể thấy là trong suốt thời kỳ Hùng Vương đã diễn ra việc chuyển dần từ chế độ mẫu hệ
sang chế độ phụ hệ, và cho đến cuối thời kỳ này, chế độ phụ hệ đã hoàn toàn được xác lập, mặc
dù những tàn dư của chế độ mẫu hệ vẫn còn đậm nét. Căn cứ vào tượng người đàn ông bằng đá
tìm thấy ở di chỉ Văn Điển (Hà Nội) với những đặc trưng giới tính được diễn tả rõ nét có thể thấy
là vào giai đoạn Phùng Nguyên, chế độ mẫu hệ đã chuyển dần sang chế độ phụ hệ.
Những truyền thuyết Sơn Tinh – Ngọc Hoa, Chử Đồng Tử - Tiên Dung, Trầu Cau,… đều phản
ánh chế độ cư trú bên nhà chồng, một hình thức của hôn nhân phụ hệ. Trong truyền thuyết Hồng
Bàng, ngôi thủ lĩnh cao nhất là Hùng Vương thuộc về nam giới và cha truyền con nối. Dấu ấn về chế
độ mẫu hệ được bảo tồn trong một số tập tục như hôn nhân anh em chồng (anh chết thì em lấy chị
dâu làm vợ, tục này là tàn dư của chế độ quần hôn và không chỉ tồn tại dai dẳng ở miền núi mà còn
thịnh hành ở cả vùng đồng bằng cho đến tận khoảng thế kỷ thứ III); tục ở rể hay tục người phụ nữ đi

lấy chồng nhưng vẫn sống ở nhà bố mẹ đẻ một thời gian và sinh con đầu lòng tại đó.
Các gia đình được xác lập và trở thành đơn vị kinh tế, tế bào xã hội. Với sự xuất hiện của
các tiểu gia đình, quan hệ huyết thống dần dần lỏng lẻo, công xã thị tộc từng bước tan rã và
nhường chỗ cho công xã nông thôn, “tập đoàn xã hội đầu tiên của những người tự do” (theo cách
diễn đạt của C.Mác).3
Theo kết quả điều tra hộ khẩu của nhà Hán vào đầu thời Bắc thuộc thì ở quận Giao Chỉ (Bắc
Bộ) có 92.440 hộ với 746.237 khẩu, trung bình mỗi hộ có 8 người; ở quận Cửu Chân (Bắc Trung
Bộ) có 35.743 hộ với 166.613 khẩu, trung bình mỗi hộ có khoảng 4 đến 5 người. Như vậy, vào
cuối thời Hùng Vương những tiểu gia đình đã ra đời và là đơn vị kinh tế độc lập, những tế bào
của xã hội. Tuy nhiên, các gia đình lớn vẫn tiếp tục duy trì, quan hệ huyết thống của công xã thị
tộc và công xã gia đình vẫn còn những ảnh hưởng trong đời sống xã hội.
2. Công xã nông thôn
Như đã nói ở trên, cùng với sự ra đời và phát triển của tiểu gia đình, công xã thị tộc dần dần
tan rã và nhường chỗ cho công xã nông thôn. Công xã nông thôn là một hình thái xã hội xuất hiện
phổ biến vào giai đoạn tan rã của chế độ công xã nguyên thủy và quá độ sang xã hội có giai cấp.
Theo C.Mác, công xã nông thôn có ba đặc trưng cơ bản khác với công xã thị tộc là:
- Quan hệ huyết thống và sự tồn tại như là “cơ cấu của một cây phả hệ” là đặc trưng cho công
xã thị tộc. trong khi đó, công xã nông thôn là “tập đoàn xã hội đầu tiên của những người tự do”.
- Trong công xã thị tộc, ngôi nhà công cộng và nơi ở tập thể là cơ sở kinh tế; còn trong công
xã nông thôn, nhà ở và sản vật thuộc quyền sở hữu của người lao động.
- Trong công xã thị tộc, lao động chung và sản phẩm được phân phối cho các thành viên.
Còn trong công xã nông thôn, ruộng đất thuộc quyền sở hữu của công xã, các thành viên được
phân chia ruộng đất và được quyền chiếm hữu các sản phẩm lao động của mình.
Dựa vào những di chỉ khảo cổ học thời đại Hùng Vương chúng ta có thể thấy rằng khi đó đã
có những vùng rộng hàng nghìn mét vuông cho đến một vài vạn mét vuông và có tầng văn hóa
khá dầy. Đó là những xòm làng định cư (ít ra là vào giai đoạn cuối), dựa trên cơ sở công xã nông
thôn. Sau này những công xã nông thôn được gọi là làng, xã, tuy nhiên trước đó còn có những tên
gọi cổ xưa hơn như kẻ, chạ chiềng.
Mỗi công xã nông thôn bao gồm một số gia đình sống quây quần trong một khu vực địa lý
nhất định. Trong công xã bên cạnh quan hệ láng giềng, quan hệ huyết thống vẫn được bảo tồn và

đó là một đặc điểm quan trọng của công xã nông thôn nước ta. Đây là loại công xã nông thôn kết
hợp lâu dài với công xã gia đình (hay công xã thị tộc). Đặc điểm này càng gắn bó bền chặt thêm
công xã. Vào thời bấy giờ, ruộng đất tư hữu chưa xuất hiện (bằng cứ là những từ “ruộng lạc” (lạc
điền), “dân lạc” (lạc dân) chép trong thư tịch cổ). Toàn bộ đất đai, sông ngòi, đầm ao,… đều
thuộc quyền quản lý sở hữu của công xã. Chế độ công điền, công thổ của làng xã ở vùng đồng
bằng vẫn tồn tại phổ biến mãi về sau này và cho đến thế kỉ XV còn có những “xã công điền”, tức
là những xã không có ruộng đất tư hữu.
3

. C.Mác: “Thư gửi Vêra Dátxulýt”, Bàn về các xã hội tiền tư bản, Nxb KHXH, Hà nội, 1975, tr.334.

-6-


Ở vùng núi cho đến trước Cách mạng tháng Tám 1945, nhiều vùng dân tộc ít người vẫn
chưa biết đến ruộng đất tư hữu hoặc ruộng đất tư mới chỉ manh nha xuất hiện.
Ruộng đất cày cấy được phân chia cho các gia đình thành viên – đơn vị sản xuất chủ yếu –
sử dụng. Tuy nhiên, ngoài số ruộng đất phân chia cho các thành viên canh tác, công xã có thể giữ
lại một phần ruộng đất để cày cấy chung nhằm sử dụng sản phẩm thu hoạch được vào các chi phí
công cộng. Việc khai hoang, làm thủy lợi và những lao động công ích khác được tiến hành bằng
lao động hiệp tác của toàn thể thành viên công xã.
Có lẽ, cách phân chia ruộng đất thời bấy giờ còn được thực hiện bằng những tục lệ mang
tính chất bình đẳng dân chủ của cộng đồng công xã. Tựu chung lịch sử từng biết đến hai cách
phân chia ruộng đất công của làng xã: phân chia theo định kỳ và phân chia một phần. Vào thời
Hùng Vương vì chưa có ruộng đất tư hữu cho nên cách chia định kỳ chắc chưa được áp dụng, mà
sử dụng phổ biến cách chia một lần.
3. Phân hóa xã hội
Xã hội thời đại Hùng Vương đã có những sự phân hóa nhất định. Vào thời kỳ này, chuyển
biến xã hội quan trọng nhất là sự tan rã của quan hệ cộng động nguyên thủy và sự phân hóa xã
hội. Sự phát triển của sức sản xuất đến mức độ tạo ra sản phẩm thặng dư của xã hội là tiền đề vật

chất có ý nghĩa quyết định cho sự phân hóa xã hội. Trong điều kiện thiên nhiên nhiệt đới gió mùa,
tài nguyên phong phú, đất đai phì nhiêu, con người với những công cụ đòng thau, đã có thể đạt
năng suất lao động cao và sớm có khả năng tạo ra sản phẩm thặng dư. Theo đà phát triển của kỹ
thuật đồng thau và sơ kỳ đồ sắt, năng suất lao động ngày càng được nâng cao và sản phẩm thặng
dư được gia tăng. Sức sản xuất được phát triển cùng với sự phân công lao động xã hội đã dẫn đến
việc trao đổi sản phẩm giữa các địa phương và các tập đoàn người trong xã hội.
Việc thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp là sự phân công lao động xã hội lần thứ hai.
Những nghề thủ công như làm gốm bằng bàn xoay, dệt, chế tác đồ trang sức bằng đá… chừng
mực nào đó có thể đã được chuyên môn hóa, song vẫn chưa tách rời hẳn khỏi nông nghiệp. Riêng
nghề luyện kim (bao gồm cả đúc đồng và luyện sắt) thì do yêu cầu kỹ thuật phức tạp và vị trí kinh
tế của mình thì có thể đã tách khỏi nông nghiệp vào giai đoạn Đông Sơn. Các sản phẩm đạt trình
độ kỹ nghệ cao của văn hóa Đông Sơn (như trống đồng, thạp đồng…) cho thấy tay nghề và trình
độ chuyên môn hóa cao của những người thợ đã chế tạo ra chúng. Đó là những người thợ thủ
công sau này đã tập hợp thành những tập đoàn sản xuất kiểu các phường thủ công nghiệp. Tuy
nhiên, có thể, họ vẫn sống chung trong các công xã nông nghiệp, hay là thành lập riêng những
công xã thủ công nghiệp, những trung tâm luyện kim.
Có thể thấy, vào cuối thời đại Hùng Vương từ việc phân công lao động xã hội và trao đổi
sản phẩm và nguyên liệu giữa các địa phương ngày càng mở rộng, đã manh nha sản xuất và trao
đổi hàng hóa. Một số sản phẩm đặc biệt như trống đồng đã vượt biên giới Văn Lang để đi trao đổi
xuống các nước Đông – Nam Á ở quần đảo Mã Lai. Lúc bấy giờ, hình thức trao đổi chủ yếu là
vật đổi vật, hay thông qua một vật ngang giá trị chung nào đó.
Sự phát triển kinh tế như đã trình bày trên đây đã tạo tiền đề và các điều kiện thiết yếu cũng
như cơ sở cho sự phân hóa xã hội. Những tài liệu mộ táng do khảo cổ học cung cấp cho thấy rõ
nét quá trình phân hóa xã hội trong thời đại Hùng Vương. Cách thức mai táng cùng với số lượng
và giá trị đồ tùy táng phản ánh sự cách biệt giữa các chủ nhân ngôi mộ lúc sinh thời và từ đó là
toàn cảnh bức tranh hiện thực xã hội đương thời. Đó cũng là một tiến trình diễn ra từ từ, và cho
đến cuối thời Hùng Vương của cải và thân phận con người gắn với những của cải ấy được phân
biệt rõ rệt. Tuy nhiên, sự phân biệt này chưa hẳn là sâu sắc và phân hóa cao như hình dung của
chúng ta ngày nay. Số lượng mộ có nhiều hiện vật chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ và phần lớn vẫn được
chôn theo công cụ sản xuất.

Theo Lĩnh nam chích quái thì trong xã hội Văn Lang có một tầng lớp thống trị gồm: Hùng
Vương, Lạc hầu, Lạc tướng, Bố chính, Quan lang, Mị nương… và một tầng lớp lao động thấp
hèn là “thần bộc nô lệ” hay “nô tì”. Những thư tịch cổ xưa nhất của Trung Quốc (như Giao Châu
ngoại vực kí; Quảng Châu kí) chép về tình hình Việt Nam thời Bắc thuộc đã đề cập đến một tầng
lớp cư dân đông đảo gọi là “dân lạc” vốn là những thành viên của công xã nông thôn. Tóm lại,
vào thời kỳ Hùng Vương, ít nhất là vào giai đoạn cuối, đã tồn tại ba tầng lớp xã hội:
-7-


- Tầng lớp quý tộc
- Tầng lớp tự do của công xã nông thôn (các thành viên công xã).
- Tầng lớp nô lệ (hay nô tì).
Tầng lớp quý tộc bao gồm những người trong bộ máy thống trị, vốn là những quý tộc bộ lạc
gồm những tộc trưởng, tù trưởng bộ lạc, thủ lĩnh liên minh bộ lạc. Lớp người này lợi dụng địa vị
và chức năng xã hội của mình chiếm đoạt một phần lớn sản phẩm thặng dư của xã hội làm tài sản
riêng và biến nó thành công cụ bóc lột người lao động. Dần dần, họ tập trung vào tay mình ngày
càng nhiều của cải và quyền lực. Họ trở thành tầng lớp quý tộc thế tập, sống tách biệt tuy chưa
cao, nhưng được phản ánh trong cả cách xưng hô: con trai vua gọi là Quan lang, con gái vua gọi
là Mị nương. Quý tộc bóc lột nô lệ và được quyền “ăn ruộng” của lạc dân, tức là được thu một
phần sản phẩm thặng dư của công xã dưới hình thức cống nạp hay lao dịch.
Tầng lớp tự do của công xã nông thôn (các thành viên công xã) là tầng lớp đông đảo nhất
trong xã hội và giữ vai trò lực lượng sản xuất chủ yếu. Họ là những người tự do, được công xã
chia ruộng đất cho cày cấy, tham gia vào công việc sản xuất chung trên ruộng đất công, nhưng lại
bị Lạc hầu “ăn ruộng”. Với những hình thức bóc lột nhất định, Lạc hầu trên thực tế đã biến công
xã thành cơ sở và đơn vị bóc lột. Tuy nhiên, những đặc điểm và loại hình công xã châu Á vẫn
đảm bảo cho công xã quyền tự trị rộng lớn và đảm bảo cho các thành viên của nó một cuộc sống
tương đối tự do, ổn định và hạn chế xu hương nô lệ hóa và nông nô hóa. Cũng do đó những hình
thức bóc lột cống nạp hay lao dịch không thể là cơ sở để coi các thành viên công xã nông thôn
thời đó là nô lệ hay nông nô thực thụ.
Tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội thời Hùng Vương là tầng lớp nô lệ (hay nô tì). Sử cũ

gọi họ là “hồn”, là “xảo”. Họ vốn xuất thân có thể là từ những thành viên nghèo khổ của công xã
hoặc những người vi phạm tục lệ công xã, bị bắt làm nô tì, hay là những người ngoại tộc bị bán đi
làm nô tì. Tầng lớp nô lệ trong xã hội không nhiều và không giữ vai trò đáng kể trong sản xuất.
Họ không trực tiếp là cơ sở của sản xuất, mà gián tiếp tham gia quá trình này với tính cách là một
nhân tố của gia đình (Ph.Ăngghen).
Như vậy, trong xã hội thời đại Hùng Vương đã hình thành và hiện diện hai tầng lớp cơ bản
là kẻ thống trị và kẻ bị thống trị, mâu thuẫn giữa chúng dần dần xuất hiện và tạo điều kiện để hình
thành các giai cấp, đồng thời là những tiền đề cần thiết để nhà nước đầu tiên trong lịch sử Việt
Nam ra đời.
III. SỰ HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC ĐẦU TIÊN – NHÀ NƯỚC VĂN LANG – ÂU LẠC
VÀ HỆ THỐNG TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN TỪ TRUNG ƯƠNG ĐẾN ĐỊA PHƯƠNG
1. Những nhân tố hình thành nhà nước đầu tiên trong lịch sử Việt Nam
Vấn đề hình thành nhà nước ở thời kỳ Hùng Vương từ thời cận đại cho đến nay vẫn luôn là
đề tài bàn luận chưa ngã ngũ của giới khoa học trong và ngoài nước.
Có ý kiến cho rằng lúc bấy giờ chưa có nhà nước, tuy vậy, xã hội cũng đã có tổ chức chính
trị hẳn hoi, đại thể giống như chế độ “lang đạo” hay “phìa tạo” của các dân tộc Mường, Thái. Các
vị tù trưởng thời ấy có quyền uy về tôn giáo, chính trị, quân sự và cha truyền con nối. Đó là “một
xã hội phân chia thứ bậc và phong kiến với những làng xã định cư, tập hợp thành những cộng
đồng nhỏ, cầm đầu là những tù trưởng thế tập”.4
Có ý kiến khác lại cho rằng xã hội Hùng Vương đã hình thành nhà nước kiểu phong kiến.
Trên có vua, dưới có các lãnh chúa cai trị. Vào lúc người Trung Quốc đặt chân đến miền đất này
(thế kỷ III TCN) thì miền châu thổ sông Hồng đang dưới quyền các vua Lạc.5
Trong mấy thập niên gần đây, các thành tựu mới của các bộ môn khoa học xã hội và khoa
học tự nhiên đã giúp làm sáng tỏ thêm nhiều vấn đề về thời đại Hùng Vương, tuy nhiên vấn đề
vẫn tựu trung ở hai ý kiến:
- Xã hội thời Hùng Vương chưa có nhà nước, mà theo chế độ dân chủ quân sự.
- Xã hội thời Hùng Vương đã có nhà nước, nhưng còn là ở mức sơ khai.
Trong hai quan điểm nêu trên, quan điểm thứ hai được nhiều người tán đồng hơn cả.
4


. H. Maspéro, Le royaume Van Lang, BEFEO, XVIII, q.3, 1918, - Dần theo Thời đại Hùng Vương…, Nxb KHXH, Hà Nội,
1976, tr.149-150.
5
. Theo Ch. Madrolle, Le Tonkin ancien, BEFEO, XXXVII, 1937, - Dần theo Thời đại Hùng Vương… Sđd, tr.150.

-8-


Như ta đã biết, nhà nước là một phạm trù lịch sử của xã hội có giai cấp. Theo Ph.Ăngghen,
nhà nước “là một sản phẩm của cái xã hội đã phát triển tới một giai đoạn nhất định, nó là cái bằng
chứng tỏ ra rằng xã hội đó bị kìm hãm trong một sự mâu thuẫn với bản thân nó mà không sao giải
quyết được, rằng xã hội đó đã bị phân chia thành những phe đối lập không thể điều hòa, mà xã
hội đó không đủ sức trừ bỏ được”.6 Nhà nước ra đời như một sản phẩm tất yếu của một xã hội mà
mâu thuẫn giai cấp đã phát triển đến mức độ không thể điều hòa được. Trong tác phẩm “Chống
Đuyrinh” Ph.Ăngghen cũng nêu lên luận điểm quan trọng sau đây về nhà nước: “Nhà nước mà
những nhóm tự nhiên gồm các công xã trong cùng một bộ lạc đã đi đến chỗ thiết lập ra trong quá
trình tiến triển của họ, lúc đầu chỉ cốt để bảo vệ những lợi ích chung của họ (thí dụ như việc tưới
nước ở phương Đông) và để tự vệ chống kẻ thù bên ngoài, thì từ nay trở đi, cũng lại có luôn cả
mục đích là duy trì bằng bạo lực những điều kiện tồn tại và thống trị của giai cập thống trị chống
lại giai cấp bị trị”.7
Tự bản thân mình nhân tố thủy lợi và tự về không thể sản sinh ra nhà nước và quy định
thêm tính chất, chức năng của nhà nước đó. Trên cơ sở phân hóa xã hội, một tiền đề vật chất
không thể thiếu được, yêu cầu tổ chức công trình tưới nước và đấu tranh tự vệ làm cho nhà nước
lúc ban đầy vốn là “chức năng xã hội” tiêu biểu cho lợi ích chung của cộng đồng, rồi chuyển sang
“địa vị độc lập với xã hội”. Đó là con đường hình thành nhà nước của nhiều nước phương Đông.
Vào thời Hùng Vương, sự phát triển của sức sản xuất đã gây ra nhiều biến động xã hội và
đưa đến một tình trạng phân hóa xã hội rõ nét vào giai đoạn Đông Sơn. Sự phân hóa này mặc dù
chưa đạt mức độ sâu sắc, song phần nào đã tạo ra cơ sở xã hội cần thiết cho quá trình hình thành
nhà nước. Thêm nữa, nhân tố thủy lợi và tự vệ cũng đã đóng vao trò quan trọng, nhất là trong
điều kiện cụ thể lúc bấy giờ.

Thời đại Hùng Vương là thời kỳ khi mà cư dân nơi đây mở rộng công cuộc chinh phục thiên
nhiên, chiếm lĩnh vùng đồng bằng châu thổ, phát triển nông nghiệp trồng lúa nước, khai thác
những thuận lợi của thế giới tự nhiên. Đó cũng là lúc diễn ra cuộc đấu tranh nhằm khắc phục
những trở ngại của thiên nhiên để khai phá đất hoang, rừng rậm, chống mưa nguồn, nước lũ,
chống hạn hán, ngập lụt. Nền kinh tế thời đó với nông nghiệp trồng lúa nước là chính đòi hỏi phải
có những công trình tưới tiêu bảo đảm nguồn nước cho cây trồng.
Về mặt địa lý, Việt Nam không ở vào thể cô lập như một số nước khác, mà có vị trí mang
tính chất tiếp xúc của bán đảo Đông Dương và Đông – Nam Á, rất thuận lợi cho việc giao lưu
kinh tế - văn hóa… Song, mặt khác, vị trí địa lý này cũng dễ dẫn đến đụng độ và bị tiến công từ
nhiều phía, do đó buộc phải sớm có tổ chức phòng vệ. Về phương diện này, khảo cổ học cho thấy
một hiện tượng đáng lưu ý: trong giai đoạn Phùng Nguyên, số lượng vũ khí chiếm một tỷ lệ rất
nhỏ so với toàn bộ hiện vật, như ở Văn Điển là 0,28%, Phùng Nguyên là 0.84% và Lũng Hòa là
2,91%. Tỷ lệ thấp, kiểu loại ít và nhiều vũ khí chưa phân hóa với công cụ sản xuất. Nhưng đến
giai đoạn Đông Sơn tỷ lệ vũ khí tăng vụt lên trên 50%: ở Vinh Quang là 50,6%, Thiều Dương là
59,8% và Đông Sơn là 63,29%8. Trong các khu mộ táng, số mộ có chôn vũ khí cũng tăng lên
chiến tỷ lệ cao. Trong ngôi mộ số 2 ở Việt Khê số vũ khí chiếm tỷ lệ 50,8% so với toàn bộ số
hiện vật bằng đồng. Tại khu mộ táng làng Cả, tỷ lệ đó là 65,9%... Không những tỷ lệ vũ khí tăng
lên rõ rệt, mà còn có nhiều kiểu loại vũ khí: vũ khí đánh gần như rìu, giáo, dao găm, kiếm ngắn,
qua…, vũ khí đánh xa như cung, nỏ, lao… và các loại phương tiện phòng hộ như tấm che ngực,
bao tay, bao chân, khiên mộc… Những kết quả khảo cổ học đó chứng tỏ rằng vào cuối thời kf
Hùng Vương, con người sống trong một xã hội đầy biến động và xung đột, phải ra sức sản xuất
và hoàn thiện các loại vũ khí. Chiến tranh thời đó là hiện tượng kịch liệt và phổ biến trong xã hội,
chúng bao gồm cả những cuộc bên trong và bên ngoài. Xung đột bên trong là sản phẩm tất nhiên
của một xã hội đã phân hóa và cũng là hiện tượng không thể tránh khỏi trong quá trình hình thành
nhà nước, cũng như quá trình hợp nhất các địa phương, các tập đoàn cư dân khác nhau thành
cộng đồng quốc gia. Trong các cuộc xung đột này cuộc chiến tranh giữa Hùng và Thục kéo dài
6

. Ph.Ăngghen, Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1961, tr.257.
. Ph.Ăngghen, Chống Đuyrinh, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1971, tr.252.

8
. Trịnh Cao Tưởng, Lê Văn Lan, tìm hiểu về vũ khí và suy nghĩ về một vài vấn đề quân sự. Tr.: Hùng Vương dựng nước, t1,
Nxb KHXH, Hà Nội, tr.293-294.
7

-9-


nhất và cuối cùng đã kết thúc bằng sự hợp nhất giữa hai tộc người Lạc Việt và Âu Việt để mở
rộng và củng cố hơn nữa khối cộng đồng.
Xung đột bên ngoài là những cuộc đấu tranh chống mối đe dọa từ bên ngoài nhằm bảo vệ
lợi ích chung của cộng đồng. Yêu cầu tiến hành chiến tranh tự vệ trong công cuộc chống ngoại
xâm cùng với yêu cầu thủy lợi của nền kinh tế nông nghiệp đã tác động mạnh mẽ vào quá trình
hình thành nhà nước đầu tiên trong lịch sử nước nhà. Sự ra đời của nhà nước này diễn ra có phần
sớm hơn điều kiện chín muồi của sự phân hóa xã hội; và bên cạnh chức năng thống trị, bóc lột
còn phải đảm đương hai chức năng công cộng quan trọng là xây dựng các công trình thủy lợi và
tiến hành hành công tác tổ chức phòng ngự và chiến đấu chống ngoại xâm. “Con trâu và con voi,
con để cày, để thịt và con để cưỡi, để tải đồ đã góp phần, từ thời đại đồ đồng thau sang thời đại
sắt cùng với sự tăng năng suất và khả năng sản xuất sản phẩm thặng dư, đẩy mạnh sự phân hóa xã
hội – GS Trần Quốc Vượng viết – Tầng lớp thủ lĩnh nảy sinh ở các vùng. Chiến tranh cướp bóc
và sự tăng cường trao đổi giữa các vùng cao và vùng thấp, giữa núi rừng và đồng bằng, miền hải
đảo, càng tăng cường uy thế quân sự và kinh tế của thủ lĩnh địa phương.
Quyền lực chính trị tiền nhà nước (Pouvoir préétatique) nhô lên dần từ hệ thống chức năng
phục vụ cộng đồng và dần dần phủ định chúng”9.
Đương nhiên, đây vẫn còn đang là nhà nước phôi thai, chưa có bộ máy đầy đủ và hoàn thiện
để thực hiện mọi chức năng của nó như hiện nay chúng ta quan niệm, nhà nước phôi thai này
không phải là nhà nước chiếm hữu nô lệ vì số lượng nô lệ không phải là lực lượng sản xuất chủ
đạo, cũng không phải là nhà nước quân chủ chuyên chế phương Đông vì tinh thần dân chủ còn để
lại tính truyền thống khá mạnh. Đây là hình thức nhà nước mang dáng dấp chế độ “lang đạo” hay
“phìa tạo” của các dân tộc Mường, Thái. Đó là một thứ chính quyền sơ khai mang sắc thái của

thời kỳ quá độ với chức năng trấn áp, bóc lột chưa nghiêm ngặt, với những nét truyền thống của
thời kỳ dân chủ quân sự còn phảng phất. Dẫu vậy, nó vẫn mang tính chất chính quyền tập trung
của một quốc gia và cũng có những thủ đoạn cưỡng chế nhân dân theo ý chí của mình.
2. Sự ra đời và hình thành Nhà nước Văn Lang
Việt sử lược, một bộ sử xưa nhất của nước ta còn lại đến ngày nay đã chép về sự thành lập
Nhà nước Văn Lang như sau: “Đến thời Trang Vương nhà Chu (696-681) TCN ở bộ Gia Ninh có
người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang,
hiệu nước là Văn Lang, phong tục thuần hậu, chất phác, chính sự dùng lối kết nút. Truyền được
18 đời đều gọi là Hùng Vương”.10
Việc xác định sự ra đời của nhà nước Văn Lang với tư cách một nhà nước phôi thai vào
khoảng thế kỷ VII, tức là vào đầu giai đoạn Đông Sơn là phù hợp với những kết quả nghiên cứu
hiện nay và được nhiều người tán đồng. Đương nhiên, trước đó là cả một quá trình chuẩn bị các
điều kiện cho sự hình thành này – quá trình tập hợp các bộ lạc thành nhiều liên minh bộ lạc, rồi
chuyển hóa dần thành nhà nước.
Theo GS Trần Quốc Vượng thì “Quanh đề Hùng còn lưu giữ nhiều địa danh Tày – Thái cổ.
Tấm bia Lê Trịnh ở đền Hùng còn ghi Nà (Ruộng) là những ruộng tế của đền Hùng… Huyền
thoại khởi nguyên của vùng Việt Trì – ngã ba Bạch Hạc là huyền thoại sau được ghi lại muộn
màng trong Lĩnh Nam chích quái (truyện Mộc tinh) về cây đại thụ vũ trụ “cao hơn ngàn dặm”,
cành là xum xuê, không biết che rợp tới mấy ngàn dặm. Có chim hạc đậu nên đất chỗ đó gọi là
Bạch Hạc.
Chim trắng là biểu tượng của người Tày Khao – nay còn ngụ cư lẻ tẻ đôi bờ sông Thao phía
trên Phú Thọ. Người Tày Khao gọi sông Hồng là Nậm Tao và có huyền thoại về nơi xuất phát di
cư của họ ngược lên phía bắc là vùng pá Tè Tao (ngã ba nậm Tè (sông Đà) nậm Tao (sông
Thao)). Đấy cũng là nơi tụ hồn của người chết trước khi lên trời theo tổ tiên: đất Bạch Hạc là
trung điểm tâm linh của người Tày Khao. Đấy cũng là thủ đô Văn Lang của các vua Hùng.
… Việt Trì – Bạch Hạc trung du là trung tâm địa – chính trị của nhà nước Việt Nam cổ đại
thời cách mạng luyện kim đồng – sắt.
9

. Trần Quốc Vượng, Theo dòng lịch sử, Nxb Văn hóa, Hà Nội 1996, tr.50-51.

. Việt sử lược, Nxb Văn sử địa, Hà Nội, 1960, tr.14.

10

- 10 -


Đấy là nhà nước sớm nhất của Bắc Việt Nam, này sinh từ trung du và sẽ khai triển xuống
đồng bằng cao châu thổ ở những thế kỷ sau”.11
Tổ chức nhà nước Văn Lang phôi thai còn hết sức đơn sơ. Đứng đầu nhà nước là Hùng
Vương, Hùng Vương là vua, là người đứng đầu nhà nước về mặt chính trị, cha truyền con nối,
đồng thời, là người chỉ huy quân sự và chủ trì các nghi lễ tôn giáo. Thoạt đầu, có thể, Hùng
Vương vốn là tù trưởng của bộ lạc Văn Lang – bộ lạc mạnh nhất cư trú trên một địa bàn trải rộng
hai bên bờ sông Hồng từ chân núi Ba Vì đến chân núi Tam Đảo, và đóng vai trò trung tâm hợp
tác các bộ lạc khác và trở thành thủ lĩnh liên minh bộ lạc, rồi chuyển hóa thành người đứng đầu
một tổ chức nhà nước. Dân chúng tin rằng Vua là người gần gũi với thần linh.
Dưới vua và giúp việc hoặc cho nhà vua có các Lạc hầu. Lạc hầu là những tướng tá to nhỏ
với quân đội trong tay, sẵn sàng trấn áp các địa phương không chịu thuần phục. Lạc hầy còn thay
mặt vua giải quyết các công việc trong nước. Vua và các lạc hầu đóng tại một trung tâm của đất
nước, nơi có giao thông thuận lợi.
Dưới Lạc hầu là các Lạc tướng. Theo sử cũ thì nước Văn Lang được chia thành 15 bộ. Theo
Việt sử lược thì 15 bộ đó vốn là 15 bộ lạc. Đứng đầu mỗi bộ lạc là Lạc tướng, mà theo truyền
thuyết và thần tích còn gọi là Bộ chúa, Bộ tướng, Phụ đạo.12
Một khi vốn là bộ lạc thì phù đạo hay lạc tướng vốn là tù trưởng bộ lạc rồi chuyển hóa thành
người đứng đầu một “vùng – bộ lạc” của nước Văn Lang. Lạc tướng cai quản các địa phương với
chức vụ thế tập được vua và Lạc hầu thừa nhận. Nhiệm vụ của Lạc tướng là phân bổ và đốc thúc
việc cống nạp, truyền đạt mệnh lệnh từ trên xuống và tổ chức lực lượng khi xảy ra chiến tranh
chống ngoại xâm.
Dưới bộ là các công xã nông thông (kẻ, chạ, chiềng) với sự kết hợp các quan hệ xóm làng
với quan hệ họ hàng, quan hệ láng giềng với quan hệ huyết thống. Đứng đầu công xã là bố chính,

có nghĩa là Già làng. Bên cạnh già làng có thể có một Hội đồng công xã gồm những người do các
thành viên công xã cử ra để giải quyết và định đoạt mọi hoạt động của công xã. Mỗi công xã có
một ngôi nhà công cộng làm nơi hội họp và là trung tâm sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của cộng
đồng. Những công xã gần nhau có thể liên minh, kết nghĩa với nhau, giúp nhau trong khai hoang,
làm thủy lợi, chống thú dữ, giao hiếu với nhau trong các sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng. Mối quan
hệ giữa nhà nước và công xã là kiểu quan hệ mang tính chất công xã lưỡng hợp: nhà nước và đại
diện cho công xã vừa bóc lột công xã. Hình thức bóc lột này có tên là “ăn ruộng”. Như thế cũng
có nghĩa là về đại thể công xã được tự trị, nhưng phải thuần phục tuyệt đối nhà nước, mọi nhu
cầu của nhà nước và của tầng lớp thống trị đều chia cho các công xã gánh vác, nhà nước chỉ tiết
có tập thể công xã mà không cần đếm xỉa đến các cá nhân thành viên.
Thời Hùng Vương đã có tổ chức quân đội, tuy mới chỉ là sơ khai. Ua, Lạc hầu, Lạc tướng
có những đơn vị thân binh làm nhiệm vụ hộ vệ và chủ lực trong các cuộc chiến tranh. Tuy vậy,
mỗi lần có chiến tranh, nhân dân các công xã vẫn là lực lượng chiến đấu và hậu cần chính để nhà
nước dựa vào.
Như vậy, nhà nước Văn Lang được hình thành vào cuối thời Hùng Vương là một hình thái
nhà nước phôi thai còn in đậm dấu ấn của chế độ bộ lạc – công xã đang trong quá trình chuyển
hóa từ xã hội nguyên thủy tan rã sang xã hội phân hóa giai cấp sơ kỳ với những đặc trưng chung
của cái gọi là “phương thức sản xuất châu Á” theo cách gọi của C.Mác. Tuy nhiên đó vẫn là một
bước tiến quan trọng trong tiến trình lịch sử Việt Nam, bởi lẽ nó xác nhận quá trình dựng nước
thời Hùng Vương và đặt nền móng cho sự ra đời và hình thành một loại hình cộng đồng tộc
người mới: cộng đồng quốc gia, cộng đồng bộ tộc có ít nhiều tính dân tộc.
IV. SỰ THAY THẾ NHÀ NƯỚC VĂN LANG – NƯỚC ÂU LẠC RA ĐỜI
Nước Âu Lạc trong lịch sử Việt Nam được coi là bước phát triển kế tục nước Văn Lang trên
cùng một cơ sở kinh tế - xã hội – văn hóa và thời An Dương Vương được coi cùng thuộc một
thời kỳ lịch sử với Hùng Vương. Tuy nhiên, xung quanh lịch sử nước Âu Lạc với An Dương
Vương là nhân vật trung tâm thì cho đến nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa được làm sáng tỏ và gây
11

. Trần Quốc Vượng, Theo dòng lịch sử, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1996, tr.81-82.
. Phụ đạo là từ Hán phiên âm từ tiếng Việt côt gần như từ “đạo” trong tiếng Mường, “tạo” trong tiếng Tày, Thái, “mơ tao, pơ

tao, batao” trong các tiếng Giarai, Êđê, Bana,… đều có nghĩa là tù trưởng, thủ lĩnh, người đứng đầu một vùng.
12

- 11 -


nhiều tranh luận, trong đó, trước hết là vấn đề căn bản nhất về nguồn gốc Thục Phán và sự thành
lập nước Âu Lạc.
Theo thư tịch cổ và những truyền thuyết dân gian, cùng với những thành tựu nghiên cứu có
được đến hiện nay, chúng ta có đủ cở sở để khẳng định rằng nước Âu Lạc là một thực tế lịch sử
và An Dương Vương là nhân vật có thật trong lịch sử với một tiến trình tạm xác lập như sau: cư
dân Âu Lạc thời Hùng Vương chủ yếu là người Lạc Việt và bao gồm một bộ phận người Tây Âu
(hay Âu Việt) sinh sống ở miền rừng núi phía Bắc nước Văn Lang, nơi là địa bàn cư trú của
người Tây Âu với những nhóm Lạc Việt sống xen kẽ. Lạc Việt và Tây Âu là hai nhóm phía Nam
của Bách Việt sống gần nhau, có nhiều quan hệ mật thiết về kinh tế - văn hóa. Thục Phán là một
thủ lĩnh của một liên minh bộ lạc người Tây Âu ở phía Bắc nước Văn Lang với địa bàn cư trú khá
rộng lớn từ Nam Trung Quốc đến Bắc Việt Nam ngày nay.
Vào cuối đời Hùng Vương, giữa Hùng và Thục đã xảy ra cuộc xung đột kéo dài. Cuộc xung
đột đang tiếp diễn thì nước Văn Lang, người Lạc Việt, người Tây Âu, cũng như toàn bộ các
nhóm người Việt trong khối Bách Việt đứng trước một mối đe dọa cực kỳ nguy hiểm: nạn ngoại
xâm với quy mô lớn của đế chế Tần. Vào khỏang năm 241 TCN nhà Tần tiến hành chiến tranh
xâm lược nước ta và xâm phạm trước hết đến lãnh thổ cư trú của người Tây Âu. Với vai trò thủ
lĩnh liên linh bộ lạc Tây Âu, Thục Phán đã đứng ra tổ chức, chỉ đạo cuộc kháng chiến. Các thủ
lĩnh người Việt do yêu cầu của cuộc kháng chiến đã suy tôn Thục Phán lên làm người chỉ huy cao
nhất. Cuộc kháng chiến kéo dài chừng 5-6 năm đã thắt chặt quan hệ đoàn kết giúp đỡ gắn bó vốn
có của người Tây Âu và người Lạc Việt, và cũng do đó, đã chuẩn bị điều kiện cho sự thành lập
nhà nước Âu Lạc thay thế nhà nước Văn Lang. Qua cuộc kháng chiến này, trên thực tế, đã hình
thành cộng đồng cư dân Lạc Việt – Tây Âu và cuộc xung đột tất yếu đã được giải quyết thắng lợi.
Thục Phán đã giành được vai trò thủ lĩnh lập ra nước Âu Lạc gồm hai thành tố Âu và Lạc.
Dưới triều vua Thục, ngoài Vua ra vẫn có Lạc hầu, ở các đại phương vẫn do các Lạc tướng cái

quản. Chế độ chính trị thời này về căn bản vẫn là chế độ chính trị, xã hội của Văn Lang tuy được
tăng cường hơn trước. Kinh đô được dời xuống đồng bằng – trung tâm của đất nước, và được xây
dựng với quy mô to lớn hơn (thành Cổ Loa). Lực lượng quân đội khá đông (Việt sử lược chéo là
có đến một vạn), được rèn luyện chu đáo và có kỹ thuật cao về cung nỏ.
Đất đai Âu Lạc được chia thành từng khu vực (các bộ). Dưới các bộ, đơn vị cơ sở của nước
Âu Lạc cũng như nước Văn Lang là công xã nông thôn (làng, chiềng, chạ). Trong xã hội các tầng
lớp chính vẫn như ở nhà nước Văn Lang: tầng lớp quý tộc thống trị, tầng lớp nông dân công xã tự
do đông đảo và một bộ phận nhỏ nô lệ (có thể số lượng nhiều hơn thời kỳ trước, nhưng chủ yếu
vẫn chỉ là nô lệ gia đình).
V. TÌNH HÌNH PHÁP LUẬT
Đến nay, hầu như không tìm thấy tài liệu nào nói về pháp luật của nhà nước Văn Lang.
Theo như lời tấu của Mã Viện với vua Hán Quang Vũ thì “Luật Việt khác với luật Hán hơn mười
điều”, như vậy là ở xã hội Hùng Vương và trước đó đã có pháp luật. Song đó có lẽ là một thức
luật tục hay tập quán pháp, là luật chung của người Lạc Việt, chắc chắn chưa phải là luật riêng
của một địa phương.
Theo tài liệu dân tộc học, ở xã hội các cư dân Tây Nguyên, cũng như ở các xã hội sơ khai
khác, mỗi cộng đồng tộc người đều có luật tục (hoặc thành văn, hoặc truyền miệng). Chỉ có điều
pháp luật thời đó mang tinh thần bình đẳng dân chủ thời xưa cộng với phép tắc, tín ngưỡng cổ
truyền, nhưng ít ra cũng đã thể hiện tính nghiêm khắc của chính quyền trung ương.
Trang phục trong nghi thức lễ hội đã có những quy định phân biệt bắt buộc mọi người phải
tuân theo. Nô tỳ và những người làm công việc phục dịch chỉ được mặc “khố dây” chứ không
được mặc “khố thả đuôi dài ở phía sau” như những người giàu có (hình ảnh tìm thấy ở một số
tượng đồng tại Tràng Kênh – Hải Phòng). Thân phận của nô tỳ thuộc về các thủ lĩnh từ đời này
đến đời khác nếu không có cách gì chuộc mình (truyện Mai An Tiêm).
Về hôn nhân và gia đình trong Lĩnh Nam chích quái có ghi lại chế độ tập tục hôn nhân từ
thời Hùng Vương. Đó là chế độ hôn nhân một vợ một chồng mà thời ấy đã là một quy định
nghiêm ngặt. Trong truyện về “Tiên Dung và Chử Đồng Tử” có nói đến chế độ hôn nhân hà khắc
thời ấy buộc người nghèo khó không được lấy kẻ giàu sang.
- 12 -



Về luật dân sự và tranh chấp dân sự dưới thời Hùng Vương cũng đã có những quy định bắt
buộc. Con trai đến tuổi trưởng thành thì làm lễ thành đinh với những nghi thức nhất định. Sau lễ
công nhận đó, làng xã sẽ đảm bảo cho họ một số lợi ích để phát huy tài năng, cống hiến sức lực
cho công việc chung, Tuy nhiên, những nghi thức bắt buộc đó mang nặng tính tập tục chức chưa
hẳn là luật pháp như chúng ta hiện nay quan niệm.
Cũng ở thời kỳ này, lối bóc lột lực dịch và cống nạp đã hình thành trong một số trường hợp.
Ở từng bộ lạc đã có những tập tục cống nạp nhất định. Trong tranh chấp dân sự đã có những quy
định về việc chia tài sản cho người chết. Ở địa vị giàu có, nếu người chết mà không được chia tài
sản cho họ theo đúng quy định thì xã hội sẽ lên án. Về hình luật, cho đến nay, vẫn chưa có được
tài liệu nào nói đến việc quý tộc có quyền giết nô tỳ hoặc áp dụng hình phạt hà khắc đối với họ,
mặc dù, trong thực tiễn việc đó hoàn toàn có thể xảy ra ở mức độ nghiêm trọng. Chỉ biết rằng An
Dương Vương giết Mị Châu khi biết nàng đã tiếp tay cho giặc, như vậy có thể nghĩ rằng thời ấy
tập quán pháp đã điều chỉnh nâng lên mức phạm tội nặng nhất là phản bộ lợi ích giống nòi và
quốc gia, đồng thời, cũng thấy được tính nghiêm minh của pháp luật thời đó. Truyện kể về “Tiên
Dung và Chử Đồng Tử” cho hay nếu người ta lấy nhau trái với quy định (quy ước?) chung thì sẽ
bị liệt vào tội chết (cho nên mới phải trốn đi).
Như vậy, chế độ chính trị thời Hùng Vương là sản phẩm của thời kỳ dựng nước, khi trong
quá trình đoàn kết chống ngoại xâm và xây dựng một nền kinh tế ngày càng lớn mạnh để đáp ứng
nhu cầu sinh tồn đã thai nghén một chính quyền trung ương lấy công xã làm cơ sở. Từ gia đình,
công xã đến chình quyền trung ương đều hình thành từng bước những yếu tố của chế độ mới,
những yếu tố tuy còn thô sơ, đơn giản, nhưng sẽ góp phần tạo nên những thượng tầng kiến trúc
đặc biệt ở nước ta sau này.
*
* *
Tóm lại, sự ra đời nhà nước Văn Lang – Âu Lạc trong thời kỳ Hùng Vương – An Dương
Vương, đã đánh dấu sự phát triển vượt bậc về mọi mặt của tiến trình lịch sử dân tộc từ thời đại
mông muội, dã man sang thời đại văn minh – một nhà nước sơ khai đầu tiên xuất hiện. Điều này
có ý nghĩa lớn lao nhất của thời đại dựng nước trong lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, nhà nước Âu
Lạc tồn tại không được bao lâu thì Triệu Đà tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta. Nhân dân đã

anh dũng đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến, song, cuối cùng nền độc lập đã bị ngoại bang
tước đoạt, đất nước ta lâm vào thảm họa hơn 1000 năm Bắc thuộc, đầy gian lao, đau thương và
thử thách khắc nghiệt.
Mặc dù vậy, thời đại Hùng Vương – An Dương Vương với sự phát triển rực rỡ của nền văn
minh sông Hồng và sự xuất hiện một hình thái nhà nước sơ khai “không những chứng tỏ nền văn
minh lâu đời, lịch sử dựng nước sớm của dân tộc ta, mà còn tạo lập một nền tảng vững bền cho
toàn bộ sự sinh tồn và phát triển của quốc gia – dân tộc Việt Nam. Từ đây, người Việt trên cơ sở
kinh tế - xã hội gắn bó trong một thể chế nhà nước sơ khai, một lối sống mang sắc thái riêng biểu
thị trong một nền văn minh – văn hóa chung, đã tự khẳng định sự tồn tại của mình như một quốc
gia văn minh có đủ điều kiện và đủ khả năng vững vàng tiến lên, vượt qua mọi thử thách bão táp
của lịch sử”.13
CÂU HỎI
1. Trạng thái kinh tế nước ta thời Hùng Vương? Những điều kiện xã hội để hình thành nhà
nước Văn Lang – Âu Lạc.
2. Sự hình thành nhà nước Văn Lang. Việc thay thế nhà nước Văn Lang diễn ra như thế
nào?
3. Tình hình pháp luật thời Hùng Vương?

13

. Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng, Lương Ninh, Lịch sử Việt Nam, t1, Nxb ĐH và THCN, Hà Nội, tr.164.

- 13 -


Chương II
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT GIAI ĐOẠN ĐẤU TRANH CHỐNG
BẮC THUỘC (179 TCN - 905)
Năm 179 TCN, cuộc kháng chiến chống Triệu Đà của An Dương Vương thất bại, Âu Lạc bị
sáp nhập vào Nam Việt. Từ đó đến năm 905, các triều đại phong kiến Trung Hoa thay nhau đô hộ

Âu Lạc và thi hành chính sách đồng hóa toàn diện, thâm độc và ráo riết nhằm thủ tiêu chủ quyền
quốc gia, xóa bỏ lãnh thổ Âu Lạc, biến dân tộc Việt thành một bộ phận dân cư dân Hán. Nhưng
nhân dân Âu Lạc đã cố kết với nhau để vừa giữ gìn bản sắc dân tộc mình, vừa đấu tranh lật đổ
chính quyền đô hộ thực dân, giành độc lập dân tộc, xây dựng chính quyền độc lập tự chủ. Trong
thời gian lịch sử hơn 10 thế kỷ, sự tồn tại chính quyền đô hộ là chủ yếu và xen vào đó, trong
những giai đoạn lịch sử dài ngắn khác nhau có tồn tại những chính quyền độc lập tự chủ - thành
quả của phong trào đấu tranh giải phóng của nhân dân Âu Lạc.
Trong cuộc đấu tranh chống Bắc thuộc, nền văn hóa dân tộc từng bước bị phá vỡ, nền văn
hóa Hán được du nhập và truyền bá vào đất nước ta vừa tự nhiên, vừa cưỡng bức, trong đó xu
hướng cưỡng bức là chủ yếu. Trên cơ sở nền văn minh nông nghiệp và xóm làng, nhân dân ta tiếp
thu có chọn lọc những tinh hoa của nền văn hóa Trung Hoa. Chính vì vậy, ở giai đoạn này có hai
khuynh hướng đối lập nhau trong tiến trình văn hóa Việt Nam (Hán hóa và Việt hóa). Trong đó,
khuynh hướng Việt hóa là chủ yếu.
Nhà nước đế chế tổ chức chính quyền đô hộ theo quận huyện. Trong quá trình đô hộ, từng
bước cũng có những thay đổi và xu thế chung là ngày càng tăng cường và chặt chẽ hơn. Nhân ta
ta chú ý bảo tồn và củng cố cộng đồng làng xóm, để trên cơ sở đó chống lại âm mưu đồng hóa,
giành lại nền độc lập dân tộc.
I. TỔ CHỨC NHÀ NƯỚC
1. Chính quyền đô hộ từ 179 TCN đến năm 39
Thôn tính sau Âu Lạc, Triệu Đà sáp nhập Âu Lạc vào Nam Việt và chia Âu Lạc thành hai
quận là quận Giao Chỉ (gồm miền đồng bằng và trung du Bắc Bộ) và quận Cửu Chân (vùng
Thanh – Nghệ - Tĩnh hiện nay). Ở mỗi quận có một viên quan cai trị gọi là quan sứ hay điền sứ
với tư cách là sứ giả của nhà vua. Các lạc tướng đều dưới quyền kiểm soát của hai viên quan sứ.
Ngoài ra, bên cạnh các viên quan sứ còn có một viên chức quan võ (tả tướng) và một số quân đồn
trú để kiềm chế các lạc tướng. Bên dưới cấp quận, chưa hề có một tổ chức hành chính nào khác.
Chính quyền đô hộ thông qua các viên quan cai trị bản xứ mà thu cống nạp, bắt nhân dân thuộc
quốc lao dịch. Theo Thủy Kinh chú và Tiền Hán thư đã biết được số đồ cống nạp của Triệu Đà
cho Hán Vũ Đế phần lớn là các loại sản vật quý vơ vét ở nước ta thời bấy giờ.
Từ năm 111 TCN, sau khi chinh phục được Nam Việt, nhà Tây Hán đã thay nhà Triệu cai
trị Âu Lạc. Năm 106 TCN, nhà Tây Hán đặt châu Giao Chỉ để thống suất 7 quận miền lục địa.

Trụ sở của châu đặt ở quận Giao Chỉ là quận lớn nhất, tại đất Mê Linh. Đừng đầu châu là một
viên thứ sử, phụ trách thanh tra công việc của các quận. Ở lãnh thổ Âu Lạc cũ, nhà Tây Hán đặt
thêm quận Nhật Nam (từ đèo Ngang đến khoảng Quảng Nam – Đà Nẵng). Tại mỗi quận, nhà Tây
Hán đặt một viên thái thú quản lý hành chính – dân sự và một viên đô úy chỉ huy quân sự. Dưới
cấp quận là cấp huyện từ các bộ chuyển thành. Các Lạc tướng vẫn nắm quyền cai trị và vẫn được
thế tập nhưng đổi gọi là huyện lệnh. Tuy nhà Hán đã áp đặt được bộ máy đô hộ ở cấp châu, cấp
quận nhưng ở cấp huyện và cấp cơ sở, bộ máy quản lý hành chính cổ truyền của người Việt hầu
như vẫn được giữ nguyên.
Từ năm 23 đến năm 220 (sau công nguyên), nhà Đông Hán thay thế nhà Tây Hán cai trị Âu
Lạc và tổ chức bộ máy đô hộ hoàn thiện hơn. Đứng đầu châu Giao Chỉ là chức châu mục, đến
năm 42 đổi thành thứ sử. Trước đây, cứ đến tháng tám, Thứ sử đi tuần hành các quận và cuối năm
về Kinh đô tấu trình. Sang thời Đông Hán, Thứ sử phải ở luôn tại trụ sở làm việc và được cử
người thay mặt mình về triều đình báo cáo. Giúp việc châu mục có các lại viên gọi là tòng sự sử
gồm bảy người, như công tào tóng phụ trách việc tuyển bổ quan lại và các viện dân sự. Khi có
hoạt động quan sự, châu mục đặt thêm binh tào tòng sự. Bạc tào tòng sự phụ trách việc tài chính.
Các tòng sự sử khác đốc thúc công việc giấy tờ sổ sách của các quận. Khi châu mục đi tuần hành
- 14 -


các quận có biệt giá tòng sự theo giúp việc. Ngoài ra, còn có chức giả tá phụ trách các việc như
văn thư, môn đình, thời tiết, tế tự, pháp luật…
Ở quấn quận, ngoài viên thái thú, nhà Đông Hán đặt thêm chức quận thừa giúp việc và thay
thế khi thái thú vắng mặt.
Ở những quận biên giới đặt một viên thừa (ngạch quan văn) làm trưởng sử giúp thái thú.
Đến năm 38, các quận biên giới bỏ chức thái thú và quận thừa, tất cả quyền hành tập trung vào
thừa trưởng sử. Thái thú nắm cả quyền quản lý hành chính, xét xử và chỉ huy quân sự. Bộ máy
hành chính cấp quận chia thành các tào với nhiều nhân viên giúp việc, đứng đầu là các duyên sử.
Ngoài ra, tùy từng nơi, mỗi quận có các chức quan chuyên trách như diêm quan, thu thuế muối,
thiết quan, phụ trách đúc chế sắt, công quan, thu thuế thủ công nghiệp, thủy quan, thu thuế đánh
cá, đầm ao…

Ở cấp huyện, huyện to có viên huyện lệnh ăn lương 1000 thạch lúa/năm; huyện nhỏ có viên
huyện trưởng ăn lương 400 thạch lúa/năm. Ở nước ta, huyện lệnh, huyện trưởng vẫn do các lạc
tướng nắm giữ. Dưới huyện lệnh là một viên thừa (quan văn) và hai viên úy (quan võ) giúp việc.
Bộ máy hành chính cấp huyện cũng chia thành các tào chuyên trách. Nhiệm vụ chủ yếu của
huyện là thu thuế vào mùa đông và báo cáo lên quận.
Tóm lại, qua nghiên cứu về tổ chức bộ máy chính quyền đô hộ này ta thấy:
- Từ nhà Triệu đến nhà Đông Hán, bộ máy chính quyền đô hộ ngày càng phát triển và hoàn
thiện hơn nhằm đẩy mạnh hơn nữa chính sách cai trị và bóc lột ráo riết nhân dân Âu Lạc.
- Chính quyền đô hộ đã dùng chính sách “Dĩ di công di” trong tổ chức bộ máy hành chính
cai trị. Điều đó thể hiện ở việc các lạc tướng vẫn giữ chức huyện lệnh, huyện trưởng ở cấp huyện.
Chính sách này, một mặt, nói lên sự thâm độc, xảo quyệt của chính quyền đô hộ; mặt khác, cũng
bộc lộ sự hạn chế, non kém của chính quyền đô hộ trong việc khống chế nhân dân Âu Lạc.
2. Chính quyền tự chủ thời Hai Bà Trưng (từ năm 40 đến năm 43)
Nhân dân Giao Châu chống lại ách thống trị của nhà Đông Hán, bắt đầu từ cuộc khởi nghĩa
to lớn của nhân dân Giao Chỉ cùng với các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố dưới sự lãnh
đạo của Hai Bà Trưng. Mùa xuân năm 40, cuộc khởi nghĩa đã dành được thắng lợi nhanh chóng.
Sau khi chiếm được Liên Lâu (Luy Lâu), trụ sở của thái thú Giao Chỉ, quân khởi nghĩa đã chiếm
được hầu hết đất đai trên lãnh thổ nước ta lúc bấy giờ và thiết lập được chính quyền tự chủ trên
lãnh thổ đó.
Sau khi khởi nghĩa thắng lợi, giành được “56 thành”, các quý tộc Âu Lạc cũ đã suy tôn
Trưng Trắc làm Vua, đóng đô tại Mê Linh. Trên thực tế, chính quyền Hai Bà chỉ cai quản được
hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân là địa vực Âu Lạc cũ thời các Vua Hùng, Vua Thục. Thủy Kinh
chú cũng cho biết chính quyền Hai Bà đã thu được thuế hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân. Trưng
Vương xá thuế hai năm liền cho nhân dân hai phận. Song, vì chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn,
chính quyền Hai Bà chưa thể xây dựng một hệ thống chính quyền quy mô, hoàn thiện. Các Lạc
tướng vẫn cai trị các bộ. Tuy vậy, chính quyền Hai Bà vẫn là chính quyền độc lập dân tộc đầu
tiên sau hơn hai thế kỷ Bắc thuộc.
3. Tổ chức chính quyền đô hộ sau năm 43 đến năm 905
Sau khi đàn áp khởi nghĩa Hai Bà Trưng, lập lại nền thống trị ở Âu Lạc, nhà Đông Hán đã
thi hành những thay đổi căn bản trong bộ máy chính quyền đô hộ, đặc biệt là ở cấp huyện.

Ở cấp châu và cấp quận, bộ máy cai trị vẫn giữ nguyên như trước. Riêng cấp huyện, chế độ
lạc tướng thế tập giữ chức huyện lệnh bị bãi bỏ. Các huyện lệnh là người Trung Hoa do triều đình
Hán bổ nhiệm trực tiếp. Đồng thời, Mã Viện chia lại đơn vị hành chính huyện, chia nhỏ huyện to,
sáp nhập huyện nhỏ. Huyện Tây Vu là đất cư của Tây Vu Vương, con cháu An Dương Vương đã
bị chia làm ba huyện Tây Vu, Phong Khê, Vọng Hải. Điều đó chứng tỏ bằng cải tổ cấp huyện,
Mã Viện muốn phá tan cơ sở vật chất – xã hội của các quý tộc Lạc Việt.
Song song với cải tổ khu vực hành chính, Mã Viện cho xây đắp thành lũy; tăng số quân đồn
trú ở các huyện, củng cố và mở rộng các cứ điểm thống trị. Quận Giao Chỉ có 12 thành ở 12
huyện, quận Cửu Chân, Nhật Nam mỗi quận có 5 huyện đều xây 5 thành. Ngoài ra, các lại viên
giúp việc thái thú, thứ sử đều là người Trung Hoa.
- 15 -


Như vậy, từ sau năm 43, nhà Đông Hán đã thi hành chế độ thực trị trong việc tổ chức chính
quyền đô hộ; xóa bỏ chính sách “Dĩ di công di”. Điều đó nói lên một bước phát triển và củng cố
hơn nữa của chính quyền đô hộ, nhưng cũng đánh dấu sự thất bại của chính sách “dùng người
Việt trị người Việt”.
Từ năm 220, sau khi nhà Hán diệt vong ở Trung Quốc (220-280, Tam Quốc), các triều đại
phong kiến khác nhau thay nhau thống trị Âu Lạc, các đơn vị hành chính cũng có nhiều thay đổi.
Năm 271, Thứ sử châu Giao Chỉ của nhà Ngô là Đào Hoàng đã lập thêm quận Cửu Đức (Đức
Thọ - Nghệ Tĩnh). Năm 280, sau khi nhà Tấn diệt nhà Ngô, Châu Giao thuộc sự thống trị của nhà
Tấn (280-420). Từ năm 420-479, nhà Tống thống trị Âu Lạc. Năm 471, nhà Tống đặt thêm hai
quận Nghĩa Xương và Tống Bình thuộc khu vực Hà Nội ngày nay. Nhà Tống chia Châu Giao làm
8 quận (Giao Chỉ, Vũ Bình, Tân Xương, Cửu Chân, Cửu Đức, Nhật Nam, Nghĩa Xương, Tống
Bình), 53 huyện. Trụ sở Châu Giao đặt ở Long Biên.
Cuối đời Tống, do suy yếu về nhân sự, anh em Lý Trường Nhân, Lý Thúc Hiền là hào
trưởng người Việt đã tự xưng là thứ sử Châu Giao, xây dựng chính quyền tự chủ. Đầu năm 485,
nhà Tề sau khi thay nhà Tống đã cử quân sang chiếm lại Châu Giao (Âu Lạc cũ). Đến năm 502,
nhà Lương (502-557) thay nhà Tề thống trị Châu Giao. Nhà Lương tiến hành cải tổ đơn vị hành
chính, chia nhỏ các châu, nâng cấp một số quận huyện thành châu. Năm 523, nhà Lương chia nhỏ

Châu Giao, đặt Châu Ái ở Thanh Hóa, đổi quận Cửu Đức thành Châu Đức, lập thêm hai châu mới
là Châu Lợi, Châu Minh. Năm 533, nhà Lương cắt một phần đất ở ven biển quận Giao Chỉ lập ra
Châu Hoàng (Quảng Ninh ngày nay). Đến thời kỳ này, nước ta gồm 6 châu: Giao (Bắc Bộ), Ái
(Thanh Hóa), Hoàng (Quảng Ninh), Đức, Lợi, Minh (Nghệ - Tĩnh). Việc chi nhỏ đơn vị hành
chính chứng tỏ bước phát triển mới của chính quyền đô hộ nhằm kiểm soát chặt chẽ nhân dân Âu
Lạc, đàn áp phong trào đấu tranh giải phóng đạt hiệu quả hơn.
Trong thời kỳ này (220-557), do sự suy yếu của chính quyền trung ương Trung Quốc vì
phân tranh nội bộ và khởi nghĩa nông dân, chính quyền đô hộ ở Âu Lạc, trên thực tế là một chính
quyền cát cứ.
Năm 603, nhà Tùy chinh phục Châu Giao. Năm 607, nhà Tùy bỏ đơn vị hành chính châu,
chia Châu Giao thành 6 quận trực thuộc triều đình trung ương.
Năm 618, nhà Đường thiết lập sự thống trị của triều đại mình ở Trung Quốc. Năm 622, nhà
Đường bãi bỏ các quận do nhà Tùy lập, khôi phục hệ thống các châu nhỏ thời Lương. Nhà Đường
lập Châu Giao đô hộ phủ để khống chế toàn bộ đất nước ta. Khâu Hòa được phong tước Đàm
Quận Công, làm Đại Tổng quận Châu Giao. Năm 679, nhà Đường đổi Châu Giao thành An Nam
đô hộ rồi Trấn Nam đô hộ phủ (757-768), sau lại đổi thành An Nam. Viên quan đứng đầu An
Nam đô hộ phủ, tùy theo những giai đoạn được gọi là kinh lược sứ, tổng quản kinh lược sứ, đô hộ
tổng quản kinh lược chiêu thảo sứ, tiết độ sứ. Những viên quan này có quyền rất lớn. Trị sở đô hộ
phủ đặt ở Tống Bình. Các viên quan đứng đầu đô hộ phủ đều là người Hán, thỉnh thoảng mới có
người Việt giữ chức phó đô hộ.
Đô hộ phủ là cơ quan cai trị bằng bạo lực quân sự các thuộc quốc của đế chế Đường, tức
khu vực “ngoại địa”. Vì vậy, việc lập An Nam đô hộ phủ đánh dấu sự thất bại sau 700 năm thực
hiện chính sách đồng hóa toàn diện nhằm biến nước ta thành “nội địa” Trung Quốc của chính
quyền đô hộ. Mặt khác, đó cũng là thủ đoạn chiến lược mới nhằm dập tắt hoặc làm mai một ý chí
giành độc lập của nhân dân ta.
Nhà Đường chia đô hộ phủ An Nam làm 12 châu, 59 huyện. Đó là các châu: Châu Giao,
Châu Phong, Châu Trường, Châu Ái, Châu Diễn, Châu Hoan, Châu Phúc Lộc, Châu Thang, Châu
Chỉ, Châu Võ, Châu Võ Nga, Châu Lục. Đứng đầu mỗi châu là một viên thứ sử và ngày càng
nhiều người Việt nắm giữ cương vị này.
Ở dưới huyện, nhà Đường chia thành các hương. Tiểu hương từ 70 đến 150 hộ, đại hương

từ 160 đến 540 hộ. Tất cả có 159 hương. Dưới hương là xã. Tiểu xã từ 10 đến 30 hộ; đại xã từ 40
đến 60 hộ.
Ở miền núi, nhà Đường đặt các châu “Ky my”. An Nam đô hộ phủ có 41 châu “Ky my”
(ràng buộc lỏng lẻo).
- 16 -


Năm 791, nhà Đường lập Châu Phong đô đốc phủ (Sơn Tây, Hưng Hóa cũ) kiêm quản các
châu “Ky my” miền thượng lưu sông Hồng và Châu Hoan đô hộ phủ (Nghệ - Tĩnh) kiêm quản
các châu “Ky my” vùng Bắc Trường Sơn giáp Lào (bấy giờ thuộc đất Lục Chân Lạp).
Đứng đầu huyện là một huyện lệnh, có nhiệm vụ chính là thu thuế, thu cống nạp, trưng
tuyển quân lính. Ở hương và xã có hương trưởng, xã trưởng đứng đầu. Từ chức huyện trở lên đều
do chính quyền trung ương Trung Hoa bổ nhiệm.
Ngoài tổ chức hành chính cai trị, lực lượng quân đội luôn được nhà Đường tăng cường. Phủ
thành Tống Bình (Hà Nội) có 4.200 quân đồn trú. Vùng biên giới An Nam có các vệ quân đóng
giữ như ở miền Lâm Tây, Chân Đăng (Hưng Hóa cũ) hàng năm có tới 6.000 quân “phòng Đông”
chống sự xâm lấn của Nam Chiếu.
Quân lính đồn trú lúc đầu là người Trung Hoa nhưng từ thế kỷ VIII đã tuyển thêm người
Việt vào các túc vệ trên cơ sở xét hạnh kiểm, tài cán. Chính quyền đô hộ cũng tăng cường xây
đắp thành lũy ở phủ thành Tống Bình (Hà Nội) và ở các Châu Ái, Châu Hoan… để trấn áp phong
trào giải phóng của nhân dân ta và sự tấn công của các nước láng giềng.
Như vậy, từ sau năm 43 đến năm 905, đặc biệt với việc cải tổ bộ máy quản lý hành chính
của nhà Đường, tổ chức chính quyền đô hộ ngày càng hoàn thiện hơn. Việc cải tổ đơn vị hành
chính cơ sở và đặt thêm cấp hành chính trung gian (hương) nói lên bước phát triển mới của hệ
thống chính quyền đô hộ, đồng thời, bộc lộ âm mưu và tham vọng của chúng nhằm tấn công và
làm suy yếu các làng xã cổ truyền bền vững của nhân dân Âu Lạc; từ đó, tạo điều kiện thực hiện
ở mức độ cao hơn chính sách đồng hóa toàn diện.
II. HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN ĐÔ HỘ
Cùng với sự phát triển của hệ thống chính quyền đô hộ, chính sách đồng hóa toàn diện,
thâm độc của chúng cũng được thực hiện với quy mô ngày càng lớn hơn, mức độ ngày càng sâu

sắc hơn.
Về chính trị:
Các triều đại phong kiến Trung Hoa đã xóa bỏ chủ quyền quốc gia của Âu Lạc, sáp nhập
lãnh thổ Âu Lạc vào đất Trung Hoa. Tùy từng thời kỳ, Âu Lạc, được gọi là các quận hoặc châu
hoặc phủ như những đơn vị hành chính địa phương trực thuộc triều đình phong kiến Trung Hoa.
Đồng thời, tổ chức hành chính địa phương cổ truyền của người Việt bị xóa bỏ, thay vào đó là tổ
chức hành chính cai trị theo chế độ quận, huyện của Trung Hoa.
Song song với chính sách đồng hóa về tổ chức hành chính cai trị, chính quyền đô hộ tiến
hành trấn áp phong trào đấu tranh giải phóng của người Việt. Đặc biệt, các quý tộc Lạc Việt có
tinh thần yêu nước, có uy tín trong dân chúng bị trấn áp triệt để. Đồng thời, chính quyền đô hộ
dùng thủ đoạn chia để trị, lôi kéo, mua chuộc một số quý tộc Lạc Việt tham gia vào bộ máy chính
quyền đô hộ các cấp để dễ bề khống chế, đàn áp, bóc lộc nhân dân Âu Lạc. Thủ đoạn này còn
nhằm mở rộng cơ sở xã hội – chính trị cho hệ thống chính quyền đô hộ.
Về kinh tế:
Các chính quyền đô hộ đã du nhập và áp đặt quan hệ sở hữu phong kiến vào Âu Lạc. Đất
đai Âu Lạc, về danh nghĩa thuộc quyền sở hữu của hoàng đế Trung Hoa nhưng trên thực tế, các
quan lại người Hán đã bao chiếm, lập trang trại tư nhân. Không những thế, chúng còn đưa cả gia
tộc đến sinh sống lập nghiệp và chiêu tập những quý tộc phong kiến Trung Hoa lánh nạn do
những xung đột nội bộ triều chính tạo thành tầng lớp địa chủ người Hán. Những đối tượng này
dựa vào thế lực chính quyền đô hộ đã chiếm đoạt ruộng đất, lập điền trang. Đó là các trường hợp
Hoàn Việp thời Đông Hán, Bùi Trung, Đào Hoàng thời Ngô, họ Cố, Nguyễn Phu, Đỗ Viện thời
Tấn… Đồng thời các chính quyền đô hộ cũng chiếm đoạt ruộng đất, lập đồn điền. Biện pháp để
lập đồn điền là di dân nghèo người Hán hoặc các tù nhân bị đày đến Giao Chỉ, giao đất hoang cho
họ khai khẩn và thu tô. Các châu, quận cũng được phép cho “đại quân tạp sĩ” lĩnh canh ruộng đất
và nộp tô cho chính quyền đô hộ.
Quan hệ bóc lột phong kiến cũng được áp đặt vào Âu Lạc. Từ năm 780 trở về trước, các
chính quyền đô hộ áp đặt chế độ bóc lột tô (thuế ruộng), dung (lao dịch), điệu (thuế thủ công
nghiệp đánh theo hộ, thường quy nộp vải lụa). Sau đó, chế độ bóc lột theo phép lưỡng thuế (thuế
- 17 -



đánh theo ruộng đất và thu hoạch, một năm thu hai lần vào mùa hè và mùa thu) được áp dụng.
Chính quyền đô hộ thời Đường, dựa theo tài sản, chia các hộ làm ba loại:
- Thượng hộ nộp một thạch hai đấu.
- Thứ hộ nộp 8 đấu.
- Hạ hộ nộp 6 đấu.
Ngoài loại thuế chính đó, chúng còn đặt ra nhiều loại thuế gọi là “ngoại xuất”.
Ngoài ra, các chính quyền đô hộ còn thi thành thủ đoạn bóc lột truyền thống là cống nạp.
Hàng năm các châu thuộc Âu Lạc cũ phải nộp cống cho triều đình Trường An nhiều lâm thổ sản
quý, nhiều sản phẩm thủ công đẹp. Cống phẩm của mỗi châu trị giá bằng 50 tấm lụa.
Chính sách bóc lột và khai thác kinh tế của chính quyền đô hộ ở Âu Lạc rất nặng nề, sử
Trung Quốc cũng phải chép: ở Giao Chỉ “phí phú liễm nặng”, quan lại thì “tham ăn hối lộ, phú
thuế bạo ngược”.
Về văn hóa – tư tưởng:
Từ thời Hùng Vương, người Lạc Việt đã có một nền phong hóa riêng giản dị, chất phác,
biểu hiện ở phong tục, tập quán, tín ngưỡng… Sau khi chinh phục Âu Lạc, các chính quyền đô hộ
đã ra sức truyền bá các luồn tư tưởng, tôn giáo lớn của Trung Hoa, Ấn Độ như Đạo Nho, Đạo
Lão, Đạo Phật và Âu Lạc, đặc biệt là Đạo Nho. Nho giáo là một hệ thống quan điểm về triết học,
chính trị, đạo đức… đã có ở Trung Hoa từ đời Tam đại (Hạ - Thương - Chu), đến cuối đời Xuân
Thu (thế kỷ VI-V TCN), được Khổng Tử và các môn đệ của ông hệ thống lại và sau này ổn định
trong Tứ thư (Luận ngữ, Đại học, Trung dung, Mạnh tử), Ngũ kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân
Thu). Đến thời Hán, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống của giai cấp phong kiến Trung
Hoa. Nội dung cơ bản của Nho giáo là ngũ luân, trong đó quan trọng nhất là tam cương (quan hệ
vua-tôi, cha-con, chồng-vợ). Cùng với ngũ luân là ngũ thường trong đó quan trọng nhất là chữ lễ.
Ngũ thường là năm tiêu chuẩn đạo đức và phép ứng xử. Lễ được hiểu theo nghĩa nghĩa chung
nhất là trật tự xã hội, trật tự đẳng cấp phong kiến hiện hành là sử khắc kỷ để tu thân. Các chính
quyền đô hộ coi Nho giáo là công cụ cơ bản để thực hiện chính sách đồng hóa về văn hóa, tư
tưởng nhân dân ta.
Đầu công nguyên, hai Thái thú Tích Quang và Nhâm Diên đã mở trường học để dạy chữ
Hán và lễ nghi Nho giáo ở Giao Chỉ, Cửu Chân. Đến thế kỷ III, khi Sĩ Nhiếp làm Thái thú Giao

Chỉ, việc học Nho được phát triển rộng rãi hơn. Đồng thời với việc tích cực truyền bá Đạo Nho
và các đạo khác, các chính quyền đô hộ cấm những tín ngưỡng cổ truyền của người Việt, bắt
nhân dân ta phải từ bỏ phong tục tập quán cổ truyền, tiếp thu phong tục, lối sống Hán và lễ nghi
Nho giáo. Việc nghiên cứu, chú giải và phổ biến Kinh lễ rất được chú trọng. Từ thời Tống (thế kỷ
V), lễ giáo được xem là yếu tố chủ yếu của Nho giáo. Trong một chừng mực nào đó, Đạo Nho và
tư tưởng – văn hóa Trung Hoa đã thâm nhập ít nhiều vào xã hội ta.
Qua hơn 10 thế kỷ thống trị và thực hiện chính sách đồng hóa toàn diện, chính quyền đô hộ
đã hoàn toàn thất bại. Nhân dân Âu Lạc cố kết trong làng xã cổ truyền đã đấu tranh chống đồng
hóa, giữ gìn bản sắc dân tộc và dưới sự lãnh đạo của các quý tộc Lạc Việt yêu nước đã liên tiếp
khởi nghĩa giành độc lập dân tộc, xây dựng các chính quyền độc lập tự chủ.
TÌNH HÌNH PHÁP LUẬT
Với những tài liệu ít ỏi và tản mạn, chúng ta không thể biết một cách đầy đủ, chi tiết về tình
hình pháp luật ở nước ta suốt hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc. Nhưng chắc chắn pháp luật hiện hành ở
nước ta lúc đó là pháp luật của nhà nước phong kiến Trung Hoa qua nhiều triều đại khác nhau.
Từ năm 179 TCN đến năm 23, nhà Triệu và nhà Tây Hán đều “dùng tục cũ mà cai trị”, cho
nên có thể nói thời kỳ này, tập quán pháp của người Việt còn điều chỉnh chủ yếu các quan hệ xã
hội, nhất là trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình và dân sự. Luật pháp của nhà Triệu và Tây Hán nếu
đã được áp dụng ở Âu Lạc thì chủ yếu chỉ điều chỉnh quan hệ quản lý hành chính giữa các cấp
quận và cấp bộ (thời Triệu), cấp huyện (thời Tây Hán) và cũng chỉ có hiệu lực ở mức độ hạn chế
“ước thức” các lạc tướng mà thôi. Công cụ thống trị chủ yếu có hiệu quả để trấn áp và bóc lột
nhân dân Âu Lạc của chính quyền đô hộ lúc này chưa phải là luật pháp mà là quân đội đồn trú.
Từ sau năm 23, thái thú Tô Định đã thi hành luật Hán chặt chẽ và phổ biến hơn ở Âu Lạc. Đặc
biệt sau năm 42, Mã Viện cùng với việc thủ tiêu chế độ lạc tướng thế tập đã xin vua Hán “làm
- 18 -


sáng tỏ cựu chế đối với người Việt”. Đó chính là việc áp dụng luật Hán có chiếu cố tập quá pháp
của người Việt để xoa dịu phần nào sự phản kháng của nhân dân Âu Lạc.
Như vậy, việc áp dụng và thi hành luật pháp của các chế độ phong kiến Trung Hoa ở Âu
Lạc qua từng thời kỳ có khác nhau, nhưng nhìn chung, cùng với sự mở rộng, củng cố và hoàn

thiện chính quyền đô hộ, pháp luật phong kiến Trung Hoa ngày càng được áp dụng phổ biến và
có hiệu lực hơn. Các tư liệu cho chúng ta biết đôi nét về các ngành luật như sau:
1. Luật hình sự
Những lãnh tụ nghĩa quân đều bị chính quyền đô hộ ghép vào tội “phản loạn”, “phản
nghịch” và hình phạt phổ biến của tội này là tử hình hoặc đi đày. Để trấn áp phong trào giải
phóng của nhân dân, Triệu Đà còn áp dụng những hình phạt tàn ác như cắt mũi, thích chữ vào
mặt…
Đối với tội phạm về chức vụ, luật nhà Hán có 6 điều quy định cụ thể (14). Ngoài ra, sau nhà
Hán, trong nhóm tội này đã thấy xuất hiện các tội danh “tham nhũng”, “tham ô”, “ăn hối lộ”.
Hình phạt phổ biến cho nhóm tội này là bãi chức, riêng tội “ăn hối lộ” có kèm thêm hình phạt
“tịch thu của cải”. Chẳng hạn như Trương Khôi, thái thú Giao Chỉ thời Đông Hán phạm tội “ăn
hối lộ” một nghìn vàng, đô hộ Châu Giao, Lý Thị đời Đường phạm tội “tham nhũng”, Lý Tượng
Cổ phạm tội “tham ô”…
Nhà nước phong kiến Trung Hoa thi hành chính sách độc quyền mua bán các sản vật quý
của các vùng “ngoại địa” và để hạn chế thế lực của các viên đô hộ những vùng này, chính quyền
đô hộ đã cấm không mua bán nô tỳ. Vì vậy, những hành vi mua bán, tàng trữ sản vật quý và nô tỳ
của tư nhân bị coi là phạm tội. Thời Tây Hán, thái thú Cửu Chân là Ích Xương can tội “trộm sai
người mua sừng tê và nô tỳ”. Trong nhóm tội phạm về kinh tế, những hành vi bán muối, sắt, làm
muối trái phép đều bị coi là phạm tội vì đã xâm phạm đến độc quyền muối, sắt của chính quyền
đô hộ. Song những hình phạt về kinh tế như thế nào thì chúng ta chưa được biết.
2. Luật dân sự
Từ năm 170 TCN, lãnh thổ Âu Lạc, về danh nghĩa, thuộc quyền sở hữu tối cao của hoàng đế
Trung Hoa. Các chính quyền đô hộ là người thay mặt hoàng đế thực hiện quyền sở hữu đó. Trên
thực tế, chế độ sở hữu phong kiến (15) được áp đặt vào Âu Lạc dưới hai hình thức: sở hữu nhàn
nước, sở hữu tư nhân.
Quyền sở hữu nhà nước (ở Âu Lạc là quyền sở hữu của chính quyền đô hộ) có đầy dủ ba
quyền năng: chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Để thực hiện các quyền năng này, chính quyền đô
hộ đã tiến hành chính sách di dân nghèo người Hán và các tội nhân xuống Châu Giao lập đồn
điền. Đồn điền thường gọi là ruộng quốc khố do chính quyền đô hộ trực tiếp quản lý. Chính sách
đồn điền được đẩy mạnh dưới thời Mã Viện. Đời Ngô có chức “điển nông đô úy” và “đô úy” để

trông coi kinh tế đồn điền. Hoa lợi của đồn điền phần lớn thuộc sở hữu của chính quyền đô hộ,
một phần nhỏ các nông nô cày cấy đồn điền được hưởng dụng.
Thu địa tô đất đai thuộc quyền quản lý của làng xã. Thời Hán, địa tô “tùy đất đai đó sản xuất
vật gì thì tạm thời thu thuế vật đó, không có phép tắc luật lệ cố định”. Đến thời Đường (thế kỷ
VII), địa tô thu theo chế độ Tô, Dung, Điệu, trong đó, tô ruộng đất định 5 năm, mỗi năm nộp hai
thạch lúa. Từ năm 780, địa tô thu theo phép lưỡng thuế.
Đặt lệ cấp đất thưởng cho kẻ có công trấn áp phong trào đấu tranh giải phóng của người
Việt.
Quyền sở hữu tư nhân chỉ tồn tại trong phạm vi rất hẹp và hạn chế về các quyền năng. Các
chủ sở hữu ruộng đất chỉ có thể là các quan lại và địa chủ người Hán đã chiếm đoạt đất đai để lập
trang trại dựa vào thế lực của chính quyền đô hộ, quyền chiếm hữu và sử dụng các sở hữu chủ có lẽ
được chính quyền đô hộ tôn trọng, bảo vệ. Nhưng quyền năng định đoạt rất hạn chế. Chúng ta chưa
tìm thấy một tư liệu nào cho biết có sự mua bán, thừa kế, chuyển nhượng… đất đai thuộc sở hữu tư
nhân trong thời kỳ này. Có lẽ ngay cả những kẻ được chính quyền đô hộ cắt đất thưởng vì có công
trấn áp phong trào đấu tranh của người Việt cũng chỉ được quyền chiếm hữu sử dụng đất đai.
14
15

. Xem: Trần Quốc Vương – Hà Văn Tấn: Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam; t.1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1980, tr.34.
. Ở đây chỉ đề cập đến quyền sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu là ruại vng đất.

- 19 -


Như vậy, luật dân sự của chính quyền đô hộ thời kỳ này chủ yếu điều chỉnh các quan hệ sở
hữu ruộng đất nhằm xác lập, củng cố, bảo vệ quyền sở hữu đất đai của chính quyền đô hộ và của
quan lại, địa chủ người Hán.
3. Luật hôn nhân và gia đình
Các viên thái thú Đông Hán như Tích Quang, Nhâm Diên rất tích cực truyền bá nghi lễ Nho
giáo vào Âu Lạc. Từ thời Đông Hán, chính quyền đô hộ đã buộc dân Việt từ bỏ phong tục kết

hôn giản dị của mình, bắt kết hôn theo hạng tuổi và phải có đồ sính lễ. Con trai tuổi từ 20 đến 50,
con gái từ 15 đến 40 tuổi được phép kết hôn nhưng phải tùy theo hạng tuổi. Chính quyền đô hộ
đặt ra chức mối quan để kiểm soát việc thực hiện kết hôn theo đúng nghi lễ Nho giáo, mở đầu thủ
tục hôn nhân phong kiến phiền phức, tốn kém.
Dưới thời Đường, chắc chắn bộ luật Đường (653) đã được áp dụng ở Âu Lạc nhưng với
phạm vi và mức độ như thế nào thì chúng ta chưa có tài liệu.
Ngoài ra, các chế độ tài chính, thuế khóa của Trung Hoa đều được các chính quyền đô hộ
thi hành ở Âu Lạc. Tiêu biểu nhất là chế độ Tô, Dung, Điệu và phép lưỡng thuế ở thời Đường.
4. Nhà nước Vạn Xuân 544-602
Năm 542, Lý Bí là một hào trưởng được sự ủng hộ của nhân dân đã lật đổ ách thống trị của
nhà Lương. Năm 544, Lý Bí chính thức lên ngôi hoàng đế, tự xưng là Việt đế (theo sử Trung
Quốc), Nam đế (theo sử Nam) gọi là Lý Nam Đế. Ông đặt tên nước là Vạn Xuân và đóng đô ở
Hà Nội ngày nay. Ông đã bỏ lịch Trung Hoa, đặt hiệu là Thiên Đức, đồng thời, ông cho đúc tiền
Thiên Đức.
Lúc này, tổ chức nhà nước còn rất đơn giản. Ở triều đình, ngoài hoàng đế đứng đầu còn hai
ban văn, võ. Tinh Thiều được cử làm tướng văn, Phạm Tu làm tướng võ, Triệu Túc làm Thái phó,
Lý Phục Man làm tướng quân coi giữ một miền biên cảnh từ Đỗ Động đến Ba Vì.
Lý Bí còn cho xây đài Vạn Xuân để làm nơi văn võ bá quan triều hội, bỏ tiền xây dựng chùa
Khai Quốc (tiền thân của chùa Trấn Quốc).
Tất cả những hoạt động trên của Nhà nước Vạn Xuân nói lên sự trưởng thành của ý thức
dân tộc, lòng tự tin vào sức mạnh dân tộc và sự phủ định quyền “bá chủ thiên hạ” của hoàng đế
Trung Hoa.
Mùa hè năm 545, nhà Lương tổ chức đợt phản công, chinh phục lại Âu Lạc cũ. Cuộc chiến
chống xâm lược kéo dài, gay go, ác liệt. Năm 548, Lý Nam Đế mất, những lực lượng còn lại của
Nhà nước Vạn Xuân vẫn tiếp tục cuộc kháng chiến. Đến tháng 1 năm 603, nhà Tùy đem quân
chinh phục Vạn Xuân, cuộc kháng chiến của hậu Lý Nam Đế (Lý Phật Tử) thất bại. Nước ta lại
rơi vào ách đô hộ của nhà Tùy – Đường (603-905).
Sự tồn tại của hai chính quyền độc lập tự chủ tuy ngắn ngủi song đó là bước chuẩn bị đầu
tiên cho sự nghiệp giành lại độc lập dân tộc và xây dựng nên nhà nước độc lập dân tộc của nhân
dân Lạc Việt vào thế kỷ X.

Tóm lại: suốt hơn 10 thế kỷ nô dịch nước ta, các triều đại phong kiến Trung Quốc kế tiếp
nhau đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm củng cố nền thống trị của chúng trên mọi miền đất nước
ta, nhằm thực hiện âm mưu đồng hóa cưỡng bức, biến đất nước ta thành nội địa Trung Hoa. Để
thực hiện âm mưu đó, một mặt, chúng tiến hành một số hoạt động kích thích sự phát triển kinh tế
xã hội trên một số lĩnh vực, chủ yếu là để phục vụ cho lợi ích của chúng, mặt khác, chúng thi
hành các chính sách bóc lột ráo riết và tàn khốc với chế độ thuế má phức tạp, nặng nề, vơ vét của
cải ở những vùng chúng thống trị. Chúng từng bước đưa vào các các luật pháp nghi lễ của Hán
tộc, lợi dụng tôn giáo, các hệ tư tưởng, lợi dụng cả thần quyền và mê tín để củng cố nền thống trị
của chúng. Nhưng nhân dân ta với tinh thần quật khởi, bất khuất của một dân tộc có ý thức sâu
sắc về quyền độc lập thiêng liêng, quyền bảo vệ lối sống của mình, với những thành quả rực rỡ từ
thời các vua Hùng, vua Thục, từ thời Văn Lang-Âu Lạc, dù mất nước vẫn giữ được xóm làng của
mình, đã cùng nhau đoàn kết và cố kết lại để khi thời cơ đến là vùng dậy giành lại quyền tự chủ,
giành lại độc lập tự do. Chính vì vậy, trong 10 thế kỷ ấy các triều đại phong kiến Trung Quốc
không dễ gì áp đặt nền thống trị theo ý đồ của chúng. Cuộc đấu tranh bền bỉ, quyết liệt của nhân
dân ta đã làm “gián đoạn” và “bẻ gãy” từng bước âm mưu thâm độc của các đế chế Trung Hoa và
kết thúc bằng trận “chung kết toàn thắng” của Ngô Quyền năm 938.
- 20 -


CÂU HỎI
1. Chính quyền đô hộ phong kiến Trung Hoa đã áp đặt tổ chức nhà nước như thế nào tại Âu
Lạc trong thời kỳ Bắc thuộc?
2. Hoạt động của chính quyền đô hộ và tình hình pháp luật thời Bắc thuộc tại Âu Lạc ra
sao?
3. Những chính quyền tự chủ Âu Lạc trong thời kỳ Bắc thuộc là những chính quyền nào? Ý
nghĩa lịch sử của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng và Lý Bí.

- 21 -



Chương III
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT THẾ KỶ X (905-1009)
Thế kỷ X là một cái mốc quan trọng trong lịch sử Việt Nam, nó khép lại hơn 10 thế kỷ Bắc
thuộc và mở đầu kỷ nguyên độc lập dân tộc.
Nhà nước dân tộc và độc lập Việt Nam thế kỷ X đã trở thành nền tảng ban đầu của các nhà
nước quan liêu Lý, Trần, Lê Sơ sau này và các nhà nước sau bổ sung, hoàn thiện mô hình của nó.
Nhà nước Việt Nam thế kỷ X – Nhà nước độc lập dân tộc đầu tiên sau hơn 10 thế kỷ Bắc
thuộc – được xây dựng trong một hoàn cảnh lịch sử, kinh tế - xã hội đặc biệt phức tạp.
I. TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI, CHÍNH TRỊ
Tình hình kinh tế - xã hội, chính trị Việt Nam thế kỷ X là sản phẩm trực tiếp của các thế kỷ
trước. Trong suốt hơn 10 thế kỷ thống trị Việt Nam, chính quyền đô hộ đã dùng mọi biện pháp để
du nhập phương thức sản xuất phong kiến vào Việt Nam. Nhất là từ thời thuộc Đường (thế kỷ VI)
thực hiện chính sách di dân lập ấp, mộ dân khẩn hoang lập làng mới thư thông Nguyễn Quốc Oai
(Hà Nội); làng Đường An – Cấm Bình (Hải Hưng); làng Cổ Định – Nông Cống (Thanh Hóa);
chính sách lưỡng thuế… Một số trang trại tư nhân người Việt có thể đã hình thành từ cuối thế kỷ
IX, đầu thế kỷ X như trại của Lê Dương (Châu Ái), Ấp Ràng của Trương Đình Nghệ (Châu Ái),
trại của Hồ Hưng Dật ở Bâu Đột (Bào Giang, Quỳnh Lưu, Nghệ Tĩnh)… những trang trại đó đã
biến thành những điểm phong kiến trên đất nước ta ở nửa đầu thế kỷ X, được các làng mới thành
lập làm hậu thuẫn.
Những biện pháp của chính quyền đô hộ nhằm phong kiến hóa Việt Nam từ cơ sở kinh tế
đến ý thức hệ tư tưởng văn hóa, đứng trước kết cấu kinh tế - xã hội nội tại của công xã nông thôn
bền vững và sự trì trệ cố hữu của “phương thức sản xuất châu Á” tại nước ta thời đó không đạt
được kết quả nào đáng kể. Yếu tố tư hữu ruộng đất có thể đã xuất hiện trong thời Bắc thuộc tại
các trang trại của một số quan lại, địa chủ người Hán những tỷ trọng của nó còn nhỏ bé và nó
được du nhập vào nước ta bằng quyền lực của chính quyền đô hộ ngoại bang. Do vậy, mặc dù đã
phát triển ở một mức độ nào đó, nó cũng không thể làm thay đổi được nền tảng của chế độ sở hữu
ruộng đất công xã tồn tại vững chắc, phổ biến; chưa tác động bao nhiêu vào tập quán cổ truyền
của nhân dân ta lúc bấy giờ là không chấp nhận quyền sở hữu tư nhân về ruộng đất.
Áp dụng các chính sách của mình, đặc biệt là chế độ “bình quân thuế ruộng” của chính
quyền họ Khúc, các chính quyền độc lập dân tộc đã bước đầu xác lập quyền sở hữu trên danh

nghĩa nhà nước đối với ruộng đất công xã. Do đó ta thấy, các nhà nước độc lập dân tộc ở Việt
Nam thế kỷ X đã chấp nhận và tôn trọng quyền sở hữu ruộng đất trên thực tế của công xã.
Từ quan hệ sở hữu như vậy trong quan hệ bóc lột đã không có sự bóc lột trực tiếp giữa một cá
nhân thuộc giai cấp này đối với cá nhân thuộc giai cấp khác mà hiện hữu quan hệ bóc lột giữa một
tập thể này với một tập thể khác. Nhà nước bóc lột các công xã bằng việc thu thuế ruộng đất. Việc
phân tích chính sách cải cách của chính quyền họ Khúc sau này sẽ cho thấy rõ hơn các quan hệ bóc
lột giữa Nhà nước – với tư cách là kẻ bóc lột và các công xã với tư cạc là những đơn vị bị bóc lột.
Do vậy, về quan hệ sở hữu, cho đến thế kỷ X, chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất đã được
xác lập trên danh nghĩa, bao trùm lên sở hữu công xã về ruộng đất trên thực tế, sở hữu tư nhân
nếu có cũng chỉ chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ; về quan hệ bóc lột, các công xã phải nộp tô thuế cho
nhà nước. Địa tô mà các công xã nộp cho nhà nước có đặc điểm là: “Khác với các quan hệ tư bản
chủ nghĩa, ở đây, việc chiếm hữu lao động thặng dư ấy không do trao đổi làm môi giới, mà có cơ
sở của nó là sự thống trị bằng bạo lực của một bộ phận xã hội này với một bộ phận khác” 16.
Phù hợp với chế độ kinh tế nói trên đã diễn ra sự phân hóa xã hội tương ứng. Cơ cấu xã hội
lúc đó, trên những nét lớn, gồm ba tầng lớp xã hội.
- Tầng lớp thống trị gồm quý tộc, quan lại và các “thổ hào”, “hào trưởng”, “cư tộc”, “lệnh
tộc” – là tầng lớp giầu có và quyền thế ở một địa phương. Họ có một uy thế chính trị, một quyền
lực kinh tế nhất định, trên cơ sở đó trở thành người có uy tín và khả năng tập hợp cầm đầu dân cai
trị những vùng rộng hẹp khác nhau. Có thể dẫn ra một vài trường hợp điển hình: Ngô Quyền,
Khúc Thừa Dụ, Dương Đình Nghệ, Đinh Bộ Lĩnh, Trần Lãm, Đỗ Cảnh Thạc…
16

. Ph.Ăngghen: Bàn về xã hội tiền tư bản; Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1975, tr.255.

- 22 -


Tầng lớp này từ việc hoàn thành xuất sắc vai trò lịch sử giải phóng dân tộc của mình đã
bước lên vũ đài lịch sử với vị trí là một giai cấp cầm quyền. Từng bước, họ lãnh đạo nhân dân
xây dựng một quốc gia quân chủ độc lập, nhà nước độc lập dân tộc đầu tiên.

- Tầng lớp nông dân công xã đông đảo giữ vai trò là lực lượng sản xuất chủ yếu, trong đó
bao gồm cả một số thợ thủ công và người buôn bán nhỏ chưa hoàn toàn tách khỏi nông nghiệp.
- Tầng lớp nô tỳ, chủ yếu phục dịch trong gia đình và không có vị trí đáng kể trong sản xuất.
Với chế độ kinh tế - xã hội nói trên, cục diện chính trị thế kỷ X là bên cạnh cuộc đấu tranh
giành và giữ độc lập dân tộc, còn có cuộc đấu tranh chống xu hướng cát cứ, xây dựng và củng cố
chính quyền tập trung.
Về cơ sở kinh tế - xã hội nhà nước, tập quyền và các thế lực cát cứ đều dựa trên nền tảng
công xã nông thôn. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh lịch sử Việt Nam, yêu cầu chinh phục thiên nhiên
và chống ngoại xâm đã buộc các công xã hoặc địa phương không thể tồn tại riêng lẻ, biệt lập như
nhiều công xã nhiều nước phương Đông khác, mà trái lại, phải sớm tập hợp và liên kết lại trong
một quốc gia với nhà nước tập quyền vững mạnh. Đây là nguyên do chính dẫn đến ưu thế của xu
hướng tập quyền.
II. TỔ CHỨC NHÀ NƯỚC
Khi bắt tay vào việc xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước, ở thế kỷ X, những người cầm
quyền đã đứng trước một thể chế chính trị phát triển cao độ và khá hoàn chỉnh, đó là các triều đại
phong kiến phương Bắc. Vì vậy, về phương diện thiết chế, họ đã tiếp thu ít nhiều cách tổ chức
chính quyền đô hộ của nhà Đường và mô phỏng quan chế của nhà Tống.
Thời kỳ đầu, họ Khúc tuy vẫn giữ chức tiết độ sứ là chức đứng đầu An Nam đô hộ phủ đời
Đường, song đối với tổ chức chính quyền địa phương đã thi hành nhiều cải cách đang kể. Khúc
Hạo chia lại các đơn vị hành chính địa phương nhằm xây dựng một chính quyền độc lập thống
nhất tác khỏi phạm vi thế lực của chính quyền phong kiến trung ương Trung Quốc. Theo Khâm
định Việt sử thông giám cương mục và An Nam chí nguyên, cả nước lúc đó được chia thành lộ,
phủ, châu, xã, và đổi hương làm giáp. Việc đổi đơn vị hành chính hương làm giáp là cải cách
quan trọng nhất của họ Khúc. Ngoài những hương cũ đổi thành giáp, họ Khúc đặt thêm nhiều
giáp mới, tất cả có 314 giáp. So với 159 hương đời Đường thì con số 314 giáp của chính quyền
họ Khúc chứng tỏ một bước phát triển đáng kể của chính quyền vừa giành được. Đơn vị hành
chính thấp nhất là xã có chức chánh lệnh trưởng, tá lệnh trưởng, có phó tri giáp giúp việc. Như
vậy, nếu ở cấp trung ương, họ Khúc vẫn giữ chức phong của nhà Đường về danh nghĩa, thì đối
với các đơn vị hành chính địa phương, đặc biệt là cấp cơ sở, họ Khúc đã xóa bỏ về thực chất bộ
máy chính quyền đô hộ, chế độ chính quyền độc lập dân tộc thực sự.

Năm 930 nhà Nam Hán – một trong 10 nước cát cứ của Trung Quốc đã chiếm lại Âu Lạc và
cử Thứ sử cai trị. Chính quyền họ Khúc chấm dứt. Song, sang năm 931, Dương Đình Nghệ là
một tướng của Khúc Hạo đã lãnh đạo nhân dân đánh bại quân Nam Hán và giành được độc lập.
Ông vẫn tự xưng là Tiết độ sứ. Con rể ông là Ngô Quyền trấn thủ Châu Ái đã tiến quân ra Bắc
trừng phạt Kiều Công Tiễn. Kiều Công Tiễn cầu cứu Nam Hán. Nhân cơ hội đó, vua Nam Hán
tiến công xâm lược Âu Lạc. Được sự ủng hộ của nhân dân, Ngô Quyền đã giết được Kiều Công
Tiễn và nhanh chóng tổ chức kháng chiến chống xâm lược. Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 là
cái mốc quan trọng chấm dứt hoàn toàn ách đô hộ hơn 1000 năm Bắc thuộc, mở ra kỷ nguyên
mới, kỷ nguyên độc lập lâu dài của đất nước.
Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa và xây dựng một chính quyền trung
ương tập quyền. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Quyền “đặt trăm quan chế định triều nghi,
phẩm phục” và qua đó “có thể thấy được quy mô của đế vương”.
Năm 944, Ngô Quyền mất. Lợi dụng sự suy yếu của chính quyền trung ương, các thế lực địa
phương nổi dậy cát cứ gây ra loạn 12 sứ quân, đi ngược lại nguyện vọng thống nhất đất nước
nhân dân. Trước tình hình đó, năm 968, Đinh Bộ Lĩnh đã đánh bại các sứ quân, thống nhất đất
nước, lập ra nhà Đinh.
Đinh Bộ Lĩnh tự xưng hoàng đế, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, dựng đô mới ở Hoa Lư. Về tổ
chức nhà nước, Đinh Tiên Hoàng đã “bắt đầu định giai phẩm cho các quan văn võ và tăng đạo”
(Đại Việt sử ký toàn thư). Trong triều đình, một số quan văn võ như: sĩ sư, tướng quân, nha hiệu,
- 23 -


phó mã đô úy… và các chức tăng quan như đại sứ, lục đạo sĩ, sùng chân uy nghi. Các hoàng tử
được phong vương: con cả Đinh Liễn được phong làm Nam Việt Vương, con thứ Đinh Toàn làm
vệ vương… Thời Đinh, Nhà nước lấy đạo Phật làm quốc giáo nên ngạch tăng quan có vai trò lớn
trong việc tham dự triều chính. Đại sư Ngô Chân Lưu – người đứng đầu tăng quan có quyền hành
như tể tướng, là một cố vấn cho nhà vua.
Ở địa phương, nhà Đinh chia nước ra làm 10 đạo nhưng không một tài liệu nào cho biết tên
các đạo và những đơn vị hành chính dưới cấp đạo.
Về tổ chức quân đội, Đinh Tiên Hoàng phiên chế quân đội thành 10 đạo, mỗi đạo có 10

quân, mỗi quân 10 lữ, mỗi lữ 10 tốt, mỗi tốt 10 ngũ, mỗi ngũ 10 người. Chỉ huy quân đội là thập
đạo tướng quân.
Trước tình hình đất nước mới thống nhất, nguy cơ cát cứ chưa bị loại trừ hoàn toàn, nhà
Đinh đã coi mỗi đơn vị hành chính là một đơn vị quân sự, kết hợp chặt chẽ hoạt động quản lý
hành chính vứi chỉ huy quân sự trong hoạt động và tổ chức của bộ máy Nhà nước.
Năm 979, Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị ám sát. Nguy cơ cát cứ và nạn ngoại xâm đồng
thời uy hiếp đất nước. Trong tình hình đó, quân sĩ và một số quan lại suy tôn thập đạo tướng quân
Lê Hoàn lên làm vua lập ra đời Tiền Lê. Lê Hoàn vẫn đóng đô ở Hoa Lư. Ở trung ương, nhà Tiền
Lê mô phỏng quan chế của nhà Tống. Trong triều đình có các chức thái sư, thái úy, tổng quản, đô
chỉ huy sứ… Hồng Kính làm thái sư, Phạm Cự Lượng làm thái úy, Đinh Thừa Chính làm nha nội
đô chỉ huy sứ. Ngoài ra còn có các chức đại tổng quản trị quân dân có quyền hành gần như tể
tướng do Từ Mục giữ. Năm 1008, Lê Long Đĩnh đã sửa đổi lại quan chế văn – võ, tăng đạo theo
đúng như nhà Tống.
Về tổ chức quân đội, nhà Tiền Lê chia nước thành các lộ, phủ, châu là các chức quan An
phủ sứ, Tri phủ, Tri châu. Các quan lại địa phương nắm giữ cả quyền hành pháp và tư pháp.
Với những tư liệu ít ỏi như vậy, ta có thể so sánh tổ chức hành chính dưới các triều Khúc – Đinh –
Tiền Lê với thời thuộc Đường như sau:

Thời độc lập
Đinh
Đạo

Thời thuộc Đường
An Nam đô hộ phủ

Khúc
Tiền Lê
Lộ
Lộ



Châu
Phủ
Phủ



Huyện
Châu
Châu



Hương
Giáp
Giáp
Hương








Như vậy, từ chính quyền họ Khúc đến nhà Tiền Lê tổ chức nhà nước ngày càng được hoàn
thiện, nhất là triều đình trung ương và cấp cơ sở. Tuy nhiên, về cơ bản nó vẫn còn đơn giản, tổ
chức hoạt động của nó cũng như chế độ quan lại chưa được quy định rõ ràng, chặt chẽ.
Tính độc lập tự chủ của nhà nước thế kỷ X thể hiện ở cách xưng danh hiệu của những người
đứng đầu nhà nước qua các triều đại: từ “Tiết độ sứ” thời nhà Khúc, họ Dương đến “Vương” đời

Ngô và “Đế” đời Đinh; thể hiện qua việc thực hiện chức năng đối nội, đối ngoại của nhà nước.
III. HOẠT ĐỘNG NHÀ NƯỚC
1. Đối nội
Các nhà nước độc lập tự chủ thế kỷ X đã nhanh chóng tiến hành những hoạt động tích cực
để thực hiện chức năng đối nội.
Về kinh tế, chính quyền độc lập đã thi hành các chính sách nhằm xóa bỏ ách bóc lột nặng
nề, phi lý dưới chính quyền đô hộ. Tiêu biểu nhất là cải cách của Khúc Hạo. Theo Khâm định
Việt sử thông giám cương mục, Khúc Hạo đã “Bình quân thuế ruộng”, xóa bỏ lực dịch, lập sổ hộ
khẩu, kê rõ họ tên, quê quán…(Trang 62, không rõ chữ). Nguồn thu nhập chủ yếu của nhà nước
là thuế ruộng – thứ thuế đánh đồng đều theo hộ khẩu và ở mức độ nhẹ, điều đó thể hiện thái độ
“khoan dung” của nhà nước. Đồng thời, nhà nước xác lập quyền sở hữu nhà nước tối cao về
- 24 -


ruộng đất trên danh nghĩa. Để thực hiện quyền sở hữu tối cao đó, nhà nước đã tiến hành thu thuế
ruộng đất (địa tô). Ngoài ra, nhà nước còn tiến hành phong cấp đất đai cho thân tộc và quan lại.
Việc phong cấp đất đai theo chế độ thái ấp được thi hành từ thời Ngô Quyền nhưng đến đời Tiền
Lê, chính sách phong cấp đã hệ thống hơn. Năm 991, Lê Đại Hành phân phong cho các con (12
người). Người được phong thay mặt nhà vua trấn thị một vùng và được thực ấp một số hương
trong vùng.
Ngay từ buổi đầu, nhà nước đã thi hành chính sách “trọng nông”. Nhà Tiền Lê đã tiến hành
nạo vét một số kênh ngòi phục vụ tưới tiêu. Năm 983 đào kênh Tĩnh Gia (Thanh Hóa); năm 1003
vét kênh Đa Cái ở Nghệ Tĩnh; năm 1009 đào sông ở Châu Di (Thanh hóa). Với tính thần coi trọng
và khuyến khích sản xuất nông nghiệp, năm 987 Lê Đại Hành lần đầu tiên làm lễ cày tịch điền.
Nhà nước phục hồi và phát triển các ngành thủ công nghiệp như ngành dệt, đúc kim loại, đồ
gốm.Theo An Nam chí lược, năm 985 Lê Hoàn đã dùng tới một vạn tấm lụa trắng trong nghĩ lễ ngoại
giao với nhà Tống. Điều đó chứng tỏ sự phục hồi và phát triển của các nghề thủ công cổ truyền.
Bước đầu, nhà nước cũng chú trọng đến kinh tế thương nghiệp, bỏ hẳn các loại tiền của các
đời vua Trung Quốc. năm 968, nhà Đinh cho đúc tiền “Thái bình thông bảo”; năm 984, Lê Hoàn
đúc tiền “Thiên phúc” để lưu thông trên thị trường. Một số trung tâm thương nghiệp của những

vùng tương đối rộng lớn đã hình thành như Trường Yên (Kinh đô Hoa Lư), Long Biên, Tống
Đinh…
Các chính sách kinh tế tích cực nêu trên đã góp phần giải phóng sức ao động, phục hồi nhanh
chóng và bước đầu phát triển các ngành kinh tế, tạo cơ sở vững mạnh cho nhà nước độc lập.
Về chính trị, song song với việc xóa bỏ bộ máy chính quyền đô hộ và nhanh chóng xây
dựng chính quyền tự chủ, các nhà nước độc lập luôn chú trọng hoạt động trấn áp các thế lực cát
cứ, bảo vệ sự thống nhất đất nước.
Về văn hóa – tư tưởng, nền văn hóa dân gian mang tính chất cởi mở và thượng võ được
phục hồi và phát triển. Những nghệ nhân như Dương Thị Như Ngọc, Phạm Thị Trâm được phong
chức “ưu bà” dạy binh lính múa hát. Lê Hoàn cho tổ chức hội đua thuyền cổ truyền vào rằm
tháng bảy và coi đó là nghi thức quốc gia khi tiếp sứ nước ngoài. Do đó, chính sách văn hóa tiên
bộ của nhà nước đã mở ra thế kỷ mới (thế kỷ X) “sự nở rộ về văn hóa… mang hình thức dân tộc
và dân gian rõ nét”17.
Cũng vào thời kỳ này, Phật giáo được coi là quốc giáo và chi phối đời sống trong cung đình
Hoa Lư cũng như các tầng lớp lao động nghèo khổ. Suốt hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc, Phật giáo dân
gian đã đóng vai trò như một bức tường thành ngăn cản sự đồng hóa của chính quyền đô hộ, đến
thế kỷ X đã nhập thế, thông qua ngạch tăng quan trong triều đình và phát huy vai trò trong đời
sống chính trị.
2. Đối ngoại
Đối với phong kiến phương Bắc, các Nhà nước độc lập dân tộc thế kỷ X đã tiến hành đường
lối ngoại giao mềm dẻo, chịu tiến cống, nhận chức phong để thực hiện chiến lược giành quyền tự
chủ, bảo vệ và củng cố nền độc lập dân tộc lâu dài nhưng kiên quyết đập tan các cuộc xâm lược
của phong kiến Trung Quốc để bảo vệ độc lập dân tộc, giữ vững chủ quyền quốc gia.
Thực hiện đường lối đối ngoại đó, Khúc Thừa Dụ và sau đó là Khúc Hạo, mặc dù đã giành
quyền tự chủ nhưng vẫn xưng là “Tiết độ sứ”. Năm 907 nhà Hậu Lương buộc phải công nhận.
Khúc Hạo còn cử con là Khúc Thừa Mỹ làm “hoan hao sứ” sang Nam Hán – một triều đình cát
cứ của Trung Quốc ở sát biên giới phía Bắc nước ta.
Năm 972, Đinh Tiên Hoàng đã cử Đinh Liễn đi sứ “để kết hảo” với nhà Tống. Trong 8 năm
(969-977) nhà Đinh đã năm lần cử sứ giả sang nhà Tống và một lần tiếp sứ giả Tống. Trước sách
lược ngoại giao hữu hảo, khiêm nhường không thể bắt bẻ được của nhà Đinh, vua Tống buộc lòng

phải công nhận nền độc lập tự chủ của nước ta dưới hình thức phong vương cho Đinh Tiên Hoàng.
Dưới thời Tiền Lê, sau khi chiến thắng oanh liệt quân xâm lược Tống năm 985, Lê Hoàn
đợi nhà Tống cử sứ giả sang trước rồi mới chịu cử sứ giả sang đáp lễ và “xin lĩnh tiết trấn”. Khi
tiếp sứ, Lê Hoàn “nhận chế rất kính, lễ thất rất hậu” và nhận chức An Nam đô hộ, Tĩnh Hải Tiết
17

. Lê Văn Lan: Có một giai đoạn văn hóa Hoa Lư trong thế kỷ X – Những vấn đề lịch sử, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984,
tr.284-285

- 25 -


×