Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

TIỂU LUẬN NHÂN tố KHÁCH QUAN và CHỦ QUAN TRONG VIỆC HÌNH THÀNH tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.14 KB, 17 trang )

1
Nh©n tè kh¸ch quan vµ chñ quan trong viÖc h×nh thµnh t tëng Hå ChÝ Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho có truyền
thống yêu nước, cuộc đời và sự nghiệp của người là tấm gương đạo đức
sáng ngời, đức hy sinh cao cả cho độc lập dân tộc, thống nhất nước nhà.
Nghị quyết của UNESCO về kỷ niệm một trăm năm ngày sinh chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đánh giá người là “Một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm
của cả một dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của
các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội...Sự
đóng góp quan trọng về nhiều mặt của chủ tịch Hồ Chí Minh trong các
lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của truyền thống hàng
ngàn năm của nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện
thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc
dân tộc của minh và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho nhân dân ta một kho tàng vô giá, đó
là di sản tư tưởng của người. Những tư tưởng khoa học và cách mạng của
Hồ Chí Minh trên nhiều lĩnh vực mãi mãi là ngọn đèn soi sáng con đường
cách mạng Việt Nam.
Thực tiễn cách mạng việt nam đã và đang khẳng định những di sản
của lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh có sức sống mãnh liệt và
trường tồn, cho dù thế giới có đổi thay thì tư tưởng Hồ Chí Minh về cách
mạng Việt Nam, về con đường xây dựng đất nước Việt Nam tiến liên chủ
nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh
vẫn mãi là nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho mọi hành động của đảng ta.
Trong lịch sử dân tộc việt Nam đã trải qua một chặng đường dài
hàng nghìn năm ở một môi trường thiên nhiên khắc nghiệt của vùng nhiệt
đới ẩm ướt với mưa nguồn, nước lũ, bão tố phong ba, nắng hạn sâu keo,
dịch bệnh...thiên tai thường xuyên đe dọa cuộc sống của nhân dân ta, một



2
Nh©n tè kh¸ch quan vµ chñ quan trong viÖc h×nh thµnh t tëng Hå ChÝ Minh

cư dân nông nghiệp trồng lúa nước mà công cuộc dựng nước gắn liền với
công cuộc khai hoang mở đất. Cuộc đấu tranh trong lao động gian khổ và
lâu dài đòi hỏi nhân dân ta không những phải có nghị lực phi thường mà
còn phải thương yêu, đùm bọc, liên kết với nhau, chung lưng đấu cật,
đồng cam cộng khổ. Nước ta lại ở một vị trí có ý nghĩa chiến lược của
vùng Đông - Nam á, lại có tài nguyên phong phú nên rất sớm đã trở thành
mục tiêu xâm lược của các đế chế phương Bắc, rồi đến bọn thực dân đế
quốc phương Tây và như vậy, công cuộc lao động gian khổ để dựng nước
và chống ngoại xâm để giữ nước trở thành hoạt động thường xuyên, nội
tại có tác động mạnh mẽ đến mọi hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, làm nảy sinh và hun đúc nên những truyền thống tươi đẹp của nhân
dân Việt Nam.
Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, Dân tộc Việt Nam
đã tạo lập cho mình một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với
những truyền thống tốt đẹp và cao quý.
Trước hết nổi bật là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần nhân ái cố kết
dân tộc đã được hun đúc qua hàng nghìn năm đấu tranh kiên cường, bất
khuất, tự lực, tự cường, thông minh sáng tạo chống giặc ngoại xâm, bảo
vệ độc lập của dân tộc và bảo tồn nền văn hiến của đất nước, chống mọi
âm mưu đồng hóa của ngoại bang.
Đất nước Việt Nam đã trở thành tổ quốc thiêng liêng của mỗi người
Việt Nam, tinh thần yêu nước đã trở thành đạo lý sống, niềm tự hào và là
một nhân tố đứng đầu trong bảng giá trị tinh thần của con người Việt
Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết ‘‘Dân ta có một lòng nồng nàn yêu
nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ
quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô

cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự hiểm nguy, khó khăn, nó nhấn


3
Nh©n tè kh¸ch quan vµ chñ quan trong viÖc h×nh thµnh t tëng Hå ChÝ Minh

chìm tất cả bè lũ bán nước và lũ cướp nước. Chúng ta có quyền tự hào vì
những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo,
Lê Lợi, Quang Trung, chúng ta phải ghi công lao của các vị anh hùng dân
tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng’’1.
Truyền thống yêu nước đó không chỉ là một tình cảm, một phẩm
chất tinh thần, mà đã phát triển thành một chủ nghĩa - Chủ nghĩa yêu
nước, chủ nghĩa dân tộc chân chính xuyên suốt lịch sử dân tộc. Chính
truyền thống yêu nước ấy đã thúc đẩy Nguyễn Sinh Cung, sau này là
Nguyễn Tất Thành, đi tìm đường cứu nước. Đó cũng chính là động lực tư
tưởng, tình cảm chi phối mọi suy nghĩ, hành động của người trong suốt cả
đời mình. Người đặt cho mình cái tên Nguyễn ái Quốc để luôn nhắc nhở,
cổ vũ bản thân và cổ vũ quốc dân đồng bào.
Vì vậy có thể nói truyền thống văn hóa Việt Nam, nổi bật là chủ
nghĩa yêu nước, tinh thần nhân ái cố kết dân tộc là một trong những
nguồn gốc chủ yếu của Tư tưởng Hồ Chí Minh. Đúng như người đã nêu:
“Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ không phải chủ nghĩa cộng
sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo quốc tế thứ ba”2
Ngoài truyền thống văn hóa dân tộc Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh
còn chịu ảnh hưởng của văn hóa Phương đông Nho giáo, Lão giáo, Phật
giáo, Người đã tiếp thu và kế thừa có phê phán tư tưởng dân chủ, nhân
văn của văn hóa Phục hưng, của thế kỷ ánh sáng, của cách mạng tư sản
phương Tây và của cách mạng Trung Quốc.
Trên con đường học hỏi, Hồ Chí Minh đã biết làm giàu vốn trí tuệ
của mình bằng những di sản quý báu của văn hóa nhân loại. Người biết kế

thừa các học thuyết đó có một cách có phê phán, chọn lọc, không bao giờ
sao chép, máy móc, cũng không bao giờ phủ định một cách giản đơn mà
1
2

Hồ Chí Minh, Sđd, t.6, tr.171-172
Hồ Chí Minh, Sđd, t.10, tr.128


4
Nh©n tè kh¸ch quan vµ chñ quan trong viÖc h×nh thµnh t tëng Hå ChÝ Minh

có sự phân tích sâu sắc để tìm ra những yếu tố tích cực, làm giàu thêm
vốn kiến thức và hành trang tư tưởng của mình. Nói về thái độ của mình
đối
với một số học thuyết và tôn giáo, Người viết “Học thuyết Khổng Tử có
ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm là
lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp là
phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là
chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Mác,
Tôn Dật Tiên chẳng phải đã có những điểm chung đó sao? Họ đều muốn
“Mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội”. Nếu hôm nay,
họ còn sống trên đời này, nếu họ họp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định
chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố
gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy” Lời nói trên đã chứng minh Hồ
Chí Minh đã biết kế thừa có phê phán, chọn lọc mọi tinh hoa văn hóa
nhân loại để làm giàu cho tư tưởng của mình.
Ngay từ thuở ấu thơ - tuổi của sự hình thành nhân cách, Hồ Chí
Minh đã được học chữ hán với những nhà nho yêu nước, đã tiếp thu triết
lý và đạo đạo đức Khổng Tử và Mạnh Tử qua những sách kinh điển của

Nho giáo, đã được sống trong nền nếp gia phong của gia đình nội ngoại,
chịu ảnh hưởng của vùng quê Nghệ Tĩnh nghèo nhưng hiếu học và yêu
nước, nổi tiếng là quê hương của nhiều anh hùng dân tộc, văn nhân, hào
kiệt trong lịch sử. Người cũng đã từng sống ở kinh thành Huế, nơi ngự trị
của vua chúa phong kiến nhà Nguyễn vốn sùng bái Nho giáo, thấy rõ tính
chất thủ cựu ươn hèn của chúng và cảm nhận sâu sắc tấm lòng nhân ái,
nghĩa tình của người dân xứ Huế.
Những kiến thức Hán học mà người tiếp thu được từ nhỏ đã ăn sâu
vào trí nhớ, để lại những dấu ấn sâu sắc về tư tưởng, tình cảm đến mức


5
Nh©n tè kh¸ch quan vµ chñ quan trong viÖc h×nh thµnh t tëng Hå ChÝ Minh

mãi sau này người có thể làm thơ bằng chữ hán, tiêu biểu là tập thơ nổi
tiếng Nhật ký trong tù. Vì vậy không có gì lạ, trong nhiều bài nói và viết
của mình, Người đã từng sử dụng có cải biên các khái niệm, các mệnh đề
tích cực của Nho giáo để diễn đạt tư tưởng của mình.
Nho giáo khi vào nước ta, thì đã bắt gặp chủ nghĩa yêu nước là dòng
chủ lưu cơ bản của tư tưởng Việt Nam, do đó đã hình thành nên một trào
lưu Nho giáo yêu nước, một thứ Nho giáo đã Việt Nam hóa. Nguyễn Tất
Thành được học chữ hán với các thày vốn là những nhà nho yêu nước,
đạo đức Nho giáo thấm vào tư tưởng, tình cảm của Anh không phải là
những giáo điều “Tam cương” “Ngũ thường” nhằm bảo vệ tôn ty trật tự
phong kiến mà tinh thần “nhân nghĩa”, đạo “tu thân”, sự ham học hỏi, đức
tính khiêm tốn, “ôn hòa”, cách xử thế “có tình có lý” mà chúng ta đã thấy
ở Chu Văn An, Nguyễn Trãi. Ngoài những yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản
động, nho giáo cũng có những yếu tố tích cực. Nó đề cao những mệnh đề
“Trung - Hiếu”, “Nhân Nghĩa”, “Tứ hải giải huynh đệ”, “Dân vi quý, xã
tắc thứ chi, quân vi khinh”.

Khổng giáo là sản phẩm tư tưởng của thời Xuân Thu chiến quốc; do
đó, bên cạnh những nội dung tích cực nhất định, đạo Khổng tất nhiên
phản ánh xã hội phong kiến, phân chia “Quân tử với tiểu nhân” coi
thường lao động chân tay; đặc biệt coi khinh phụ nữ, những luận điểm đó
hoàn toàn xa lạ với tư tưởng Hồ Chí Minh; đấu tranh cho một xã hội bình
đẳng, dân chủ; tôn trọng lao động cả lao động trí óc và lao động chân tay,
tôn trọng phụ nữ, chủ trương nam nữ bình quyền. Trong khi tiếp thu, sử
dụng những yếu tố tích cực của Nho giáo, Hồ Chí Minh đã phê phán, loại
bỏ những yếu tố thủ cựu, tiêu cực của học thuyết này. Người chỉ rõ “Đạo
đức cũ và đạo đức mới khác nhau nhiều. Đạo đức cũ như người đầu
ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân


6
Nh©n tè kh¸ch quan vµ chñ quan trong viÖc h×nh thµnh t tëng Hå ChÝ Minh

đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời” 3 và chính người đã đảo lại
thế đứng đó, như Mác-Angghen đã tiếp thu phép biện chứng duy tâm của
Hêghen và đặt lại phép biện chứng đó trên cái nền duy vật. Ngoài nho
giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thiếp thu triết lý của Phật giáo, Lão giáo
đến chừng mực nào đó.
Trong ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Hồ Chí
Minh sống chủ yếu ở châu âu nên cũng chịu ảnh hưởng rất sâu rộng của
nền văn hóa dân chủ và cách mạng của phương Tây. Ngay từ lúc còn đang
học ở trường tiểu học Pháp - Việt và Trường Quốc học Huế, Anh đã từng
biết đến khẩu hiệu “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” của đại cách mạng tư sản
Pháp, được tiếp xúc với những tờ báo tiếng Pháp có su hướng tự do qua
những người lính lê dương tiến bộ. Văn minh phương Tây với những
thành tựu của khoa học kỹ thuật đã khơi gợi tư duy của người thanh niên
yêu nước Nguyễn Tất Thành, khiến Anh muốn đi sang các nước phương

tây để tìm hiểu những gì ẩn giấu đằng sau khẩu hiệu ấy. Người cho biết:
vào tuổi 13 lần đầu tiên tôi đã được nghe những từ Pháp tự do, bình đẳng,
bác ái. Trong gần mười năm bôn ba, khảo sát ở các nước tư bản lớn như
Mỹ, Anh, Pháp và các thuộc địa của họ, Anh đã tìm hiểu qua sách báo, tài
liệu, qua tiếp súc với các nhà chính trị - xã hội có tiếng, và cả qua xem xét
thực tế cuộc sống của dân chúng, trực tiếp hoạt động trong các tổ chức
chính trị - xã hội ở các nước đó, rút ra những nhận xét, đánh giá, để tìm ra
những gì là “Tinh hoa” tốt đẹp cần tiếp thu và những gì còn hạn chế cần
khắc phục. Thời gian dừng chân ở Mỹ khoảng cuối năm 1912 đến cuối
năm 1913, Anh đã ở Brúclin, đến thăm khu Háclem nghèo khổ, Anh phẫn
nộ đến cùng cực trước hành động hung ác của bọn phân biệt chủng tộc ở
Mỹ. Chủ nghĩa tư bản làm sống lại chế độ nô lệ ngay trên nước Mỹ, người
da đen mà anh được tận mắt thấy phải chịu đựng những nổi thống khổ ghê
3

Hồ Chí Minh, Sđd, t.6 tr.320-321.


7
Nh©n tè kh¸ch quan vµ chñ quan trong viÖc h×nh thµnh t tëng Hå ChÝ Minh

gớm về tinh thần và vật chất, bị bọn đế quốc tra tấn, hành hạ: Một đám
đông người da trắng lôi ra một người da đen, xô đẩy, đấm đá, giày xéo,
đánh đập chửi rủa, trói người da đen vào gốc cây, tưới dầu xăng vào
người, gí miếng sắt nung đỏ vào lưỡi rồi châm lửa đốt. Người da đen bị
nướng chín, thui vàng, cháy thành than trong tiếng vỗ tay reo hò của bọn
giết người. Những người da trắng nào dám bênh vực người da đen cũng bị
đối xử tàn nhẫn như thế. Anh Thành phải thốt lên: “Văn minh là như vậy
đó”. Người đã chiêm ngưỡng tượng Thần tự do, xứ sở mới mẻ này đã gây
cho anh bao ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc. Anh đã đọc bản Tuyên ngôn độc

lập 1776 của nước Mỹ, trong đó đề cập đến “quyền bình đăng”, “quyền
sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc” của con người, quyền của
nhân dân kiểm soát chính phủ “hễ chính phủ nào mà có hại cho dân
chúng, thì dân chúng phải đập đổ chính phủ ấy đi và gây lên chính phủ
khác”4. Anh khâm phục ý chí giành độc lập, tự do của nhân dân Mỹ,
khâm phục những tư tưởng vĩ đại của Oasinhtơn, Jepphepson, Lincôn
nhưng đồng thời anh cũng phát hiện những nghịch lý: nghèo đói của hàng
triệu người lao động, là điều kiện sống khủng khiếp của người da đen, là
nạn nhân phân biệt chủng tộc ghê gớm.
Đến với quê hương của lý tưởng tự do, bỡnh đẳng, bác ái, Hồ Chí Minh
được tiếp xúc trực tiếp với tác phẩm của các nhà tư tưởng khai sáng: Von-te,
Rút-xô, Mông-tét-xki-ơ,…những lý luận gia của đại cách mạng Pháp 1789, như
Tinh thần pháp luật của Mông-tét-xki-ơ, Khế ước xó hội của Rút-xô, v.v…tư
tưởng dân chủ của các nhà khai sáng đó cú ảnh hưởng tới tư tưởng của Người.
Ngoài ra, Người cũn hấp thụ được tư tưởng dân chủ và hỡnh thành được phong
cách dân chủ của mỡnh từ trong cuộc sống thực tiễn. Rừ ràng là, ở Pháp, Người
đó cú thể hoạt động và đấu tranh cách mạng một cách tương đối tự do, thuận
lợi hơn ở trên đất nước mỡnh, dưới chế độ thuộc địa. ở Pari, thủ đô nước
4

Hồ Chí Minh, Sđd, t.2, tr.270.


8
Nh©n tè kh¸ch quan vµ chñ quan trong viÖc h×nh thµnh t tëng Hå ChÝ Minh

Pháp nơi Hồ Chí Minh sống thời gian ở nước ngoài dài ngày nhất, để lại
cho anh nhiều ấn tượng và bài học sâu sắc trên hành trình cứu nước. Chủ
nghĩa nhân văn, tư tưởng “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” trong tác phẩm
thời đại phục hưng, của thế kỷ ánh sáng, rồi những tư tưởng mới mẻ của

cách mạng tư sản Pháp 1789. Đặc biệt, những tư tưởng của bản tuyên
ngôn nhân quyền và dân quyền đã được Người đi sâu nghiên cứu và phân
tích.
Nhờ được rèn luyện trong phong trào công nhân Pháp và sự cổ vũ, dỡu
dắt trực tiếp của nhiều nhà cách mạng và trí thức tiến bộ Pháp như M. Ca-sanh,
P.V. Cu-tuya-ri-ê, G. Mông-mút-xô…mà Hồ Chí Minh đó từng bước trưởng
thành. Con người ấy, trờn hành trỡnh cứu nước, đó làm giàu trớ tuệ của mỡnh
bằng vốn trí tuệ của thời đại, Đông và Tây, vừa tiếp thu, vừa gạn lọc để có thể
từ tầm cao của tri thức nhân loại mà suy nghĩ và lựa chọn, kế thừa và đổi mới,
vận dụng và phát triển. Kế thừa lũng nhõn ỏi, đức hy sinh của Thiên chúa giáo:
Nói đến việc kết hợp văn hóa Đông, Tây trong con người Hồ Chí Minh, không
thể không đề cập đến sự kế thừa lũng nhõn ỏi, đức hy sinh, những giá trị cơ bản
của Thiên chúa giáo. Người đó cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc, giải phóng nhân dân lao động khỏi ách áp bức, bóc lột; đó là hiện thân
của lũng nhõn ỏi và đức hy sinh cao cả. Sau này, Người luôn luôn giáo dục cán
bộ, đảng viên về lũng thương người, thương dân, thương các chiến sỹ ngoài
mặt trận - đó là những tư tưởng thấm đậm những giá trị cao cả mang tính nhân
loại mà Thiên chúa giáo đó khởi xướng và răn dạy. Người lên án gay gắt những
kẻ “giả danh Chúa” để thực hiện những “hành vi ác quỷ”: dẫn đường cho đội
quân viễn chinh; cướp của cải, đánh đập, bắt giết người (đặc biệt là trẻ em);
chiếm ruộng đất canh tác, v.v…Người coi những hành động đó là sự đi ngược
lại và phản bội lũng nhõn ỏi cao cả của Chúa, làm hoen ố tư tưởng lớn của
Ngài là muốn mưu cầu phúc lợi cho xó hội. Người viết: “Nếu Chúa bất hạnh đó
chịu đóng đanh trên cây thánh giá trở về cừi thế này, thỡ chắc Ngài sẽ vô cùng
ngao ngán khi thấy “các môn đồ trung thành” của mỡnh thực hiện đức khổ


9
Nh©n tè kh¸ch quan vµ chñ quan trong viÖc h×nh thµnh t tëng Hå ChÝ Minh
hạnh như thế nào”. Người lên án những giáo sĩ đại diện cho chủ nghĩa tư bản

phương Tây, những kẻ nhân danh Chúa để quan hệ mật thiết với thế lực thực
dân, tham gia vào guồng máy của chủ nghĩa thực dân, xâm nhập về kinh tế và
quân sự, áp đặt nền văn hóa thực dân, làm xuất hiện nguy cơ bá quyền văn hóa,
v.v…

Trong khi khẳng định những giá trị chân chính, nhân tố tích cực
tiến bộ của cách mạng dân chủ tư sản, nhất là tư tưởng “Tự do - Bình
đẳng - Bác ái” tư tưởng nhân văn, giải phóng con người khỏi thần quyền
và sự thống trị của những quan hệ phong kiến, Người cũng đồng thời
đánh giá đúng những hạn chế của nó. Trong đường cách mệnh, người viết
về cách mạng Mỹ: “tuy rằng cách mệnh đã thành công hơn 150 năm nay,
nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ hai.
ấy là vì cách mệnh Mỹ là cách mệnh tư bản, mà cách mệnh tư bản chưa
phải là cách mệnh đến nơi”, về cách mệnh Pháp, người cũng đánh giá
“Cách mệnh pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản,
cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì
nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa…”, người kết luận
“Cách mệnh An nam nên nhớ những điều ấy”. chính vì không thỏa mãn
với con đường cách mạng tư sản, người đã tìm đến chủ nghĩa Mác Lênin.
Về ảnh hưởng của chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn. Lúc
thiếu thời Nguyễn Tất Thành cũng đã từng được nghe những từ “Dân
sinh” “Dân quyền”, “Dân quốc” do các nhà nho nói đến trong khi đàm
luận cùng với cụ Nguyễn Sinh Sắc, nhưng có lẽ phải sau khi về tới quảng
châu - trung tâm của cách mạng Trung Quốc lúc bấy giờ (1924) Nguyễn
ái Quốc mới có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với chủ nghĩa Tam Dân của
Tôn Trung Sơn. Lúc này là thời kỳ Tôn Trung Sơn cải tổ Quốc Dân Đảng
Trung Quốc, thực hiện chính sách: “Thân Nga, liên cộng, phù trợ công


10

Nh©n tè kh¸ch quan vµ chñ quan trong viÖc h×nh thµnh t tëng Hå ChÝ Minh

nông”. Người đã đánh giá đúng đắn về Tôn Trung Sơn và chủ nghĩa Tam
Dân. Người đã viết trong bài các nước đế quốc chủ nghĩa và Trung Quốc:
“Tôn Dật Tiên, “người cha của cách mạng Trung Quốc”, người đứng đầu
chính phủ Quảng Châu, thì luôn luôn trung thành với những nguyên lý
của mình, ngay cả trong những lúc khó khăn nhất. Cương lĩnh đó gồm
những điều khoản chống Đế quốc và chống quân phiệt một cách rõ rệt.
Đảng đó lớn tiếng tuyên bố đoàn kết với các dân tộc bị áp bức ở các nước
thuộc địa và giới giai cấp vô sản quốc tế. Đảng đó đồng tình với cách
mạng Nga”5
Nguyễn ái Quốc đã thấy ở chủ nghĩa Tam Dân và chính sách “thân
nga, liên cộng, phụ trợ công nông” của Tôn Trung Sơn có những tư tưởng
tiến bộ, tích cực và có thể vận dụng vào cách mạng Việt Nam. Người đã
nhận xét: Chủ nghĩa ấy thích hợp với chúng ta. Tuy nhiên chủ nghĩa Tam
Dân của Tôn Trung Sơn cơ bản vẫn là tư tưởng dân chủ tư sản nằm trong
hệ tư tưởng tư sản nên có nhiều hạn chế. Người thấy rõ những hạn chế ấy,
cho nên, khi cụ Phan Bội Châu định chuyển Việt Nam Quang Phục hội
thành Việt Nam Quốc dân đảng, theo cương lĩnh của Tôn Trung Sơn thì
Nguyễn ái Quốc đã có lời khuyên chân tình là không thể dừng lại ở những
chủ trương của Quốc dân đảng. Hơn nữa, khi vận dụng “Chính sách” mà
người cho là thích hợp với Việt Nam như khẩu hiệu “Độc lập - Tự do Hạnh phúc” rút ra từ chủ nghĩa Tam Dân và tư tưởng “Tự do - Bình đẳng
- Bác ái” của cách mạng tư sản Pháp, thành tiêu ngữ của nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa, thì người đã phát triển khái niệm “Độc lập - Tự do Hạnh phúc” lên một trình độ mới, mang tính giai cấp, tính nhân dân, tính
dân tộc và tính cách mạng triệt để của một cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa
Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng.
5

Hồ Chí Minh, Sđd, t.1, tr.319.



11
Nh©n tè kh¸ch quan vµ chñ quan trong viÖc h×nh thµnh t tëng Hå ChÝ Minh

Nguồn gốc lý luận quyết định bước phát triển mới về chất của tư
tưởng Hồ Chí Minh là chủ Nhĩa Mác-Lênin. Đây là bước ngoặt cơ bản
trong quá trình tìm đường cứu nước và quá trình phát triển tư tưởng Hồ
Chí Minh. Chủ nghĩa yêu nước đã gắn liền với chủ nghĩa xã hội; giác ngộ
dân tộc đã phát triển và kết hợp với giác ngộ giai cấp; cách mạng giải
phóng dân tộc gắn liền với cách mạng vô sản. Bước ngoặt đó đánh dấu sự
định hình và khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng giai cấp
vô sản, chủ nghĩa Mác-Lênin, mang bản chất cách mạng khoa học và triệt
để. Mùa hè năm 1920 tại ngôi nhà số 9 ngõ Côngpoanh, anh Nguyễn đọc
tác phẩm của Lênin Sơ thảo lần thứ nhất những lluận cương về các vấn đề
dân tộc và thuộc địa đăng trên báo Nhân đạo số ra ngày 16 và 17-7-1920.
Trong văn kiện đó đã luận giải ngắn ngọn, sáng tỏ những nội dung chính
yếu về cách mạng giải phóng dân tộc, soi tỏ hướng đi và biện pháp, Lê
Nin phê phán các luận điểm sai lầm của những người cầm đầu Quốc tế hai
về vấn đề dân tộc và thuộc địa, lên án mạnh mẽ tư tưởng sô vanh, tư
tưởng dân tộc hẹp hòi, ích kỷ, đồng thời nhấn mạnh nhiệm vụ của Đảng
cộng sản là phải giúp đỡ thực hiện phong trào cách mạng của các nước
thuộc địa và phụ thuộc, nhấn mạnh sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản ở các
nước tư bản với người lao động của tất cả các dân tộc để chống kẻ thù
chung là đế quốc và phong kiến. Tác phẩm của Lênin đã giải đáp cho
Nguyễn ái Quốc con đường giành độc lập cho dân tộc và tự do cho đồng
bào. Anh cảm động phấn khởi, tin tưởng rất nhiều. Ngồi trong buồng ở,
anh nói to lên “Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! đây là cái cần thiết cho
chúng ta, là con đường giải phóng chúng ta!” Nguyễn ái Quốc viết thư
bằng tiếng Pháp gửi Quốc tế cộng sản cho biết luận cương Lênin đã ảnh

hưởng rất lớn đến sự hình thành thế giới quan của anh và anh dứt khoát đi
theo Quốc tế III.


12
Nh©n tè kh¸ch quan vµ chñ quan trong viÖc h×nh thµnh t tëng Hå ChÝ Minh

Qua tác phẩm trên Hồ Chí Minh đã tìm thấy cho dân tộc mình một
chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất, đã nhận biết
một tổ chức chính trị mà mình cần tham gia, Quốc tế III do Lênin sáng lập
và lãnh đạo, rất coi trọng vấn đề giải phóng thuộc địa và tiến hành đấu
tranh giải phóng giai cấp vô sản, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp
bức, như câu trả lời của người khi nữ đồng chí Rôdơ hỏi:
“Tại sao đồng chí lại bỏ phiếu cho Quốc tế III ?.
Rất giản đơn. Tôi không hiểu chị nói thế nào là chiến lược, chiến
thuật, vô sản và nhiều điểm khác. Nhưng tôi hiểu rõ một điều: Quốc tế III
rất chú ý đến vấn đề giải phóng thuộc địa...Tự do cho đồng bào tôi, độc
lập cho tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những
điều tôi hiểu” Hồ Chí Minh đã tiếp thu lý luận Mác-Lênin theo phương
pháp nhận thức mác xít, đồng thời theo lối “Đắc ý, vong ngôn” của
phương đông, cốt nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất chứ không bị trói
buộc vào cái vỏ của ngôn ngữ. Người vận dụng lập trường, quan điểm và
phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin để tìm ra những chủ trương, giải
pháp thích hợp với hoàn cảnh cụ thể, từng thời kỳ cụ thể của cách mạng
Việt Nam, chứ không đi tìm những kết luận có sẵn trong các sách của các
nhà kinh điển.
Ngoài những yếu tố về lý luận trên thì yếu tố về thực thiễn có
nguồn gốc rất quan trọng đối với sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư
tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam ra đời
do yêu cầu khách quan và là sự giải đáp những nhu cầu bức thiết do cách

mạng Việt Nam đặt ra.
Vào giữa những năm 40 của thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa đã thống trị ở Anh, Pháp, Đức và một số nước Tây âu khác.
Chủ nghĩa tư bản đưa lại sự phát triển to lớn về lực lượng sản xuất, thúc


13
Nh©n tè kh¸ch quan vµ chñ quan trong viÖc h×nh thµnh t tëng Hå ChÝ Minh

đẩy tiến bộ xã hội so với xã hội phong kiến; song nó đã bộc lộ những mâu
thuẫn cơ bản vốn có trong lòng nó, trong mâu thuẫn cơ bản đó, mâu thuẫn
giữa giai cấp vô sản và tư sản trở nên gay gắt, dẫn tới những xung đột giai
cấp, giai cấp vô sản và giai cấp tư sản thúc đẩy tiến bộ xã hội. Đến cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển lên giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa; chủ nghĩa xét lại trong phong trào công nhân trở thành
hiện tượng phổ biến. Sự phát triển của thực tiễn cách mạng đồi hỏi phải
có một đường lối chiến lược và sách lược mới cho các Đảng cộng sản
kiểu mới ra đời, thúc đẩy tiến trình cách mạng ở nước Nga và trên thế
giới. Chủ nghĩa Lenin xuất hiện, giải đáp những vấn đề của cách mạng vô
sản và cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa trong thời đại đế quốc chủ
nghĩa. Cũng thời kỳ này, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc- thực
dân diễn ra sôi nổi ở một số nước thuộc địa và phụ thuộc ở phương đông
như Trung Quốc và ấn Độ.
Từ năm 1958 đến cuối thế kỷ XIX, nước ta bị thực dân Pháp xâm
lược, các phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp liên tục nổi lên,
dâng cao và lan rộng trong cả nước từ Trương Định, Nguyễn Trung
Trực... ở Nam Bộ, Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Xuân Ôn, Phan
Đình Phùng...ở Miên Trung đến Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quang
Bích...ở Miền Bắc. Tuy nhiên do chưa có một đường lối kháng chiến rõ
ràng, dựa trên ý thức hệ phong kiến, nên các phòng trào vũ trang đều thất

bại.
Bước sang đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam bắt đầu có sự chuyển
biến và phân hóa, tầng lớp tiểu tư sản và mầm mống của giai cấp tư bản
bắt đầu xuất hiện, ảnh hưởng của cuộc vận động cải cách của Khang Hữu
Vi, Lương Khai Siêu ở Trung Quốc có tác động, ảnh hưởng đến Việt
Nam. Phong trào yêu nước chống thực dân Pháp của nhân dân ta chuyển


14
Nh©n tè kh¸ch quan vµ chñ quan trong viÖc h×nh thµnh t tëng Hå ChÝ Minh

dần xu hướng dân chủ tư sản với sự xuất hiện của các phong trào Đông
Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, Việt Nam Quang Phục Hội... do
các sĩ phu phong kiến có tư tưởng duy tân truyền bá và dẫn dắt, nhưng do
bất cập trước lịch sử nên không trách khỏi thất bại.
Những năm đầu thế kỷ XX thực dân Pháp thẳng tay đàn áp các
phong trào yêu nước của nhân ta. Trường Đông Kinh Nghĩa thục bị đóng
cửa, cuộc biểu tình chống sưu thuế ở Huế và các tỉnh miền Trung bị đàn
áp, vụ Hà Thành đầu độc bị thất bại và bị tàn sát, căn cứ của nghĩa quân
Yên Thế bị bao vây và đánh phá, phong trào Đông Du bị tan rã, Phan Bội
Châu và các đồng chí của ông bị trục xuất khỏi nước Nhật, các lãnh tụ của
phong trào Duy Tân Trung Kỳ, người bị lên máy chém (Trần Quý Cáp,
Nguyễn Hằng Chi...), người bị đày ra Côn Đảo (Phan Châu Chinh, Huỳnh
Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên Cẩn...) Tình Hình đó cho thấy,
phong trào cứu nước của nhân dân ta muốn giành được thắng lợi phải đi
theo một con đường cách mạng mới, chính hoàn cảnh đó đã thôi thúc
Nguyễn Tất Thành ra đi tìm con đường cứu nước mới (1911).
Hồ Chí Minh được sinh ra trong một gia đình nhà nho có truyền
thống yêu nước, ngay từ khi còn nhỏ Người đã được dạy, học cách làm
người, đối nhân xử thế… do hoàn cảnh gia đình trắc trở mẹ mất sớm, điều

kiện kinh tế khó khăn và phải chứng kiến cảnh nước mất, nhà tan, nhân
dân lầm than khổ cực, lớn lên trong điều kiện đó nhưng Hồ Chí Minh là
người sống có hoài bão, có lý tưởng yêu nước thương dân sâu sắc, nhất là
đối với những người cùng khổ bị áp bức bóc lột, có bản lĩnh kiên định, có
khí tiết kiên cường trong đấu tranh thực hiện mục tiêu, lý tưởng đã lựa
chọn. Khi 18 tuổi nguyễn Tất Thành học sinh trường Quốc học Huế đã
tham gia biểu tình chống thuế, năm 1909 Nguyễn bỏ học theo cha vào
tỉnh Bình Định, anh bỏ học trường Tây vì lẽ chính trị trước cảnh nước mất


15
Nh©n tè kh¸ch quan vµ chñ quan trong viÖc h×nh thµnh t tëng Hå ChÝ Minh

nhà tan, nhân dân bị nô lệ, phận trai phải làm gì? Phải đi đường nào, chắc
chắn là không phải qua thi cử, thi Nho đang còn thi tây đang thịnh, anh bỏ
học là vì muốn xuất dương bỏ học là vì xem việc học trường quốc học là
vì ngõ cụt, và rồi cơ hội xuất dương, thời cơ cũng đã đến khi đó Người
mới 21 tổi. Bản thân Nguyễn, năm 1923, ở Matxcơva, đã trả lời phỏng
vấn của nhà thơ Nga Omandenstan rằng “vào trạc tuổi mười ba, lần đầu
tiên tôi được nghe những từ Pháp tự do, bình đẳng, bác ái...và từ thuở ấy,
tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì
ẩn giấu đằng sau những từ ấy”. Trong những mẩu chuyện về đời hoạt
động của Hồ Chủ Tịch, Trần Dân Tiên nói rõ hơn: “Tôi muốn đi ra nước
ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế
nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta. Nhưng nếu đi một mình, thật ra
cũng có điều mạo hiểm, ví như đau ốm...anh muốn đi với tôi không”
Nguyễn hỏi một người bạn và người bạn ấy hỏi lấy đâu ra tiền mà đi, anh
Thành vừa nói vừa giơ hai bàn tay - chúng ta sẽ làm việc, chúng ta sẽ làm
bất cứ viêc gì để sống và để đi.
Chúng ta thấy ở Hồ Chí Minh một con người đặc biệt thông minh,

sắc sảo, nhạy bén với cái mới, ham học hỏi; có tư duy độc lập sáng tạo, có
trí tuệ uyên bác, kiến thức sâu rộng, biết nhiều ngoại ngữ, do đó có điều
kiện tiếp xúc với văn hóa của nhiều dân tộc, Hồ Chí Minh là một con
người có lòng tin mãnh liệt ở nhân dân; có ý chí, nghị lực phi thường; có
đầu óc thực tiễn, thiết thực cụ thể, lý luận gắn liền với thực tiễn, nói đi đôi
với làm. Người đã sống ở Mỹ vào cuối năm 1923 và Anh vừa đi làm thuê
để kiếm sống vừa tìm hiểu đời sống của người lao động Mỹ, đặc biệt là
đời sống của người da đen trên nước Mỹ. Cuối năm 1913 Nguyễn rời Mỹ
sang nước Anh, ở đây Anh làm việc cào tuyết cho một trường học, đốt lò
thay than trong lò, nhưng cũng ngay từ những ngày đầu tiên đến nước


16
Nh©n tè kh¸ch quan vµ chñ quan trong viÖc h×nh thµnh t tëng Hå ChÝ Minh

Anh Nguyễn Tất Thành đã bắt tay ngay vào việc học tiếng anh với một
giáo sư người Italia, sau nghề đốt lò, Anh đến làm thuê ở một số khách
sạn nổi tiếng. Năm 1917 Anh trở về pháp và ở đây Người đã ra sức học
tiếng Pháp đến trình độ chẳng những đọc thông mà còn viết thạo, viết báo,
viết truyện ngắn, viết kịch, viết sách, được sự giúp đỡ của các nhà báo
lớn, song tự học và học trong công tác cách mạng vẫn là chính.
Người là một bậc đại nhân, đại trí, đại dũng, mẫu mực về đạo đức
cách mạng; tác phong giản dị, chân tình, khiêm tốn, gần gũi với quần
chúng, có sức cảm hóa lớn đối với mọi người.
Những tư chất và phẩm chất ấy được phát huy trong suốt cuộc đời
hoạt động của người. Nhờ vậy, giữa vô vàn lý thuyết, học thuyết khác
nhau, đối lập nhau, đúng và sai, thật và giả đan xen lẫn lộn trong khi
nhiều chí sĩ cách mạng từ Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng đến Phan
Chu Trinh, Văn Văn Trường... không phát hiện được ở đâu là quy luật, là
chân lý, thì Hồ chí Minh đã tìm ra được mục tiêu, lý tưởng cách mạng

đúng đắn và con đường để đi tới mục tiêu, thực hiện lý tưởng ấy.
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường thắng lợi cho cách mạng Việt
Nam hơn 80 năm qua, ngày nay dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, tư tưởng
Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho hành động, tiến lên xây dựng một nước Việt Nam dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, định hướng xã hội chủ
nghĩa. Từ khi hình thành đến nay, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là cơ sở lý
luận và thực tiễn cho thắng lợi của đường lối chính trị đúng đắn của Đảng
ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh là di sản tinh thần vô cùng quý báu của dân tộc
ta. Bước vào thời kỳ tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh


17
Nh©n tè kh¸ch quan vµ chñ quan trong viÖc h×nh thµnh t tëng Hå ChÝ Minh

cũng như chủ nghĩa Mác-Lênin càng trở nên quan trọng và cần thiết hơn
bao giờ hết.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng xác định, tư tương
Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản trong cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta,
kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại.



×