QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN CHỈNH NHẬN THỨC
CỦA ĐẢNG VỀ GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA HAI NHIỆM VỤ
CHIẾN LƯỢC ĐÁNH ĐẾ QUỐC VÀ PHONG KIẾN TRONG CÁCH
MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN.
Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay khi mới ra đời (3/2/1930) trong
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định đúng đắn hai nhiệm vụ chiến lược
của cách mạng Việt Nam và mối quan hệ chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ ấy.
nhiệm vụ, của cách mạng tư sản dân quyền là chống đế quốc và phong kiến
giành độc lập tự do cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày, đồng thời phân hoá
tư tưởng giai cấp địa chủ phong kiến tập trung đánh đế quốc và việt gian tay
sai, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Đồng thời tiến hành hai
nhiệm vụ là “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”, nhằm mục
tiêu “làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập” và đem lại “ruộng đất cho
dân cày nghèo”. Tư tưởng đánh đế quốc và phong kiến thể hiện Đảng ta đã
nắm chắc thực tiễn, đặc trưng cơ bản của xã hội Việt Nam thuộc địa nửa
phong kiến, với sự cấu kết chặt chẽ giữa hai kẻ thù đế quốc và phong kiến
nhằm đàn áp bóc lột nhân dân ta. Hai nhiệm vụ chiến lược đó của cách
mạng Việt Nam tiếp tục được khẳng định trong Đại Hội Đại Biểu Toàn
Quốc của Đảng lần thứ II và được phát triển hoàn chỉnh và bổ sung trong
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cùng với việc xác định nhiệm vụ
xuyên suốt của cách mạng lúc này phải đề cao nhiệm vụ đánh đế quốc
giành độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.
Đó là sự nhận thức đúng tư tưởng của Cương lĩnh đầu tiên của Đảng trong
tình hình mới. Là nhiệm vụ chính trị của cách mạng được khẳng định trong
cương lĩnh đầu tiên của đảng cộng sản việt nam và cũng là phương hướng
chiến lược của câch mạng tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng
để đi tới xã hội cộng sản. Thực chất là thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ lịch sử
cách mạng việt nam, nhưng trong thời kỳ cụ thể nhiệm vụ cụ thể Đảng ta nắm
vững quy luật khách quan, thực tiễn của đất nước để đề ra sách lược, chiến
lược cụ thể để đáp ứng nhiệm vụ cách mạng. Đặc biệt trong cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân trên cơ sở nắm vững chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, vấn đề dân tộc và thuộc địa, mối quan hệ giữa giai cấp và dân
tộc, đánh đế quốc và phong kiến trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
….
Chiến tranh lần thứ hai đã làm chuyển biến sâu sắc tình hình chính trị,
kinh tế - xã hội thế giới,và đã xuất hiện nhiều mâu thuẩn; mâu thuẩn tư bản độc
quyền với nhân dân lao động; mâu thuẩn giữa đế quốc áp bức với nhân dân lao
động thuộc địa, nữa thuộc địa; mâu thuẩn giữa các nước đế quốc với các nước xã
hội chủ nghĩa; Mâu thuẩn giữa đế quốc và đế quốc. Từ tình hình đó đã thúc đẩy
làm xuất hiện tình thế cách mạng ở một loạt nước trên thế giới, nhất là các nước
thuộc địa. Đó là tình thế mà: “dân các nước tư bản đòi giải phóng. Dân tộc các
thuộc địa đòi độc lập”3- và nhận định : “Cách mạng giải phóng dân tộc Đông
Dương sẽ thắng!”4.
Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra đã ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình
Đông Dương và Việt Nam, từ khi tham gia vào cuộc chiến tranh Chính phủ
Pháp đã thi hành chính sách cai trị hết sức phản động không chỉ ở trong nước
mà ở tất cả các thuộc địa của Pháp. Người gánh chịu nặng nề nhất bởi chính
sách cai trị thời chiến là nhân dân lao động thuộc địa. Đặc biệt sau khi Pháp
đầu hàng phát xít Đức; Chính phủ tay sai Pê-tanh đã thực thi chế độ cai trị
phát xít, ngay tại nước Pháp các tổ chức dân chủ tiến bộ, Đảng Cộng sản bị
giải tán, những chiến sĩ cộng sản, những người yêu nước, dân chủ tiến bộ bị
bắt giam. Ở thuộc địa, thực dân Pháp ra sức “phát xít hoá” một cách điên
3
4
4
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 6, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 756
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 6, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 516
cuồng và phản động hơn. Ở Đông Dương chính sách phát xít hoá cũng được
thể hiện khi Nhật nhảy vào chiếm đóng Đông Dương. Nhật muốn lợi dụng cơ
hội Pháp bại trận để xâm lược Đông Dương vơ vét nguồn tài nguyên dồi dào
cung cấp cho chiến tranh, lấy đây là bàn đạp đánh các nước Đông Nam Á.
Nhật chiếm được Đông Dương, nhưng chưa loại bỏ Pháp ngay mà tìm cách
thoả hiệp tạm thời cấu kết với Pháp để cai trị và khai thác Đông Dương một
cách có hiệu quả nhất phục vụ cho chiến tranh.
Pháp - Nhật điên cuồng đàn áp, khủng bố Đảng Cộng sản Đông Dương,
những người yêu nước, tiến bộ. Các cuộc lùng sục do mật thám chỉ điểm đánh
vào tổ chức Đảng từ cơ sở đến Trung ương diễn ra thường xuyên. Nhiều cán bộ,
cơ sở cách mạng bị đánh phá, chúng xây dựng nhiều nhà tù, trại giam trên cả
nước: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ để giam cầm những người cộng sản và quần
chúng giác ngộ. Các tờ báo tiến bộ bị tịch thu và bị đóng cửa. Các tổ chức quần
chúng, đoàn thể cách mạng bị giải tán. Phát xít Pháp - Nhật thi hành chính sách
kinh tế thời chiến với cơ chế chỉ huy độc quyền. Chúng giành độc quyền về
ngoại thương, sử dụng đồng tiền mất giá để thu mua vàng bạc, của cải, đồng
thời tăng cường bóc lột vơ vét sung công tài sản, lương thực, công cụ sản xuất
của nhân dân và các hội, ban hành công trái, bắt nông dân nhổ lúa trồng đay.
Chính sách “Róc xương lột da” làm cho kinh tế Việt Nam vốn nghèo nàn, lạc
hậu lại càng suy thoái hơn. Do đó đời sống nhân dân hết sức khó khăn cực
khổ, nạn đói hoành hành khắp nơi. Nền kinh tế Đông Dương bị sa sút nghiêm
trọng, nông nghiệp suy sụp, công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp tiêu điều.
Như vậy: “chính sách kinh tế chiến tranh của đế quốc Pháp lại sẽ gây nên
những ảnh hưởng khốc liệt làm cho cuộc khủng hoảng hết sức nặng nề và xô
nền kinh tế Đông Dương vào cảnh tiêu tàn, đổ nát”1.
Chúng tăng cường bắt lính để sung vào đội quân chiếm đóng và đưa
đi làm bia đỡ đạn ở các chiến trường Châu Âu và Châu Phi. Bắt hàng vạn
1
Sđd, Tập 6, tr. 521.
người đi phu để xây dựng các công trình quân sự phục vụ chiến tranh. Nhiều
nhà thương, trường học biến thành trại lính: “Nhà thương, trường học chẳng
những không mở thêm, mà lại còn đuổi người đau và một số nhà trường phải
nhường chỗ cho binh lính đóng”2. Khắp nơi bao trùm bầu không khí, quân
sự ngột ngạt, chúng đã biến Việt Nam thành “xã hội trại lính”, phục vụ tích
cực cho chiến tranh mà chúng theo đuổi. Dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân
dân việt nam đã làm nên kỳ tích lich sử một sự kiện trọng đại của dân tộc
cách mạng tháng tám thành công đã mở đầu một kỷ nguyên mới cho lịch sử
dân tộc Việt Nam. Nó đã đập tan sự xâm lược của phát xít Nhật, sự thống trị
hàng trăm năm của thực dân Pháp, xoá bỏ chế độ phong kiến tồn tại mấy
nghìn năm trên đất nước Việt Nam. Trong báo cáo chính trị tại đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ II Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc ngày 11 tháng 2 năm
1951 có đoạn: “ Cách mạng tháng tám đã lật đổ nền quân chủ mấy mươi thế
kỷ, đã đánh tan xiềng xích thực dân gần 100 năm đã đưa chính quyền lại cho
nhân dân, đã xây dựng nền tảng cho nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, độc
lập, tự do, hạnh phúc.”7 Từ đây chính quyền cách mạng được thành lập và
được khẳng định trước nhân dân trên thế giới về một nhà nước công nông “
của dân do dân và vì dân” Với bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà, từ đây dân tộc Việt Nam đã khẳng định trước toàn thế
giới về quyền độc lập của dân tộc mình, khẳng định ý chí quyết chiến, quyết
thắng của một dân tộc Với chân lý “không có gì quý hơn độc lập, tự do”
Cách mạng tháng tám thành công một lần nữa chứng minh cho sự lãnh đạo
của Đảng là đúng đắn và sáng tạo, tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội của chủ tịch Hồ Chí Minh đã đáp ứng được nguyện vọng ngàn
đời của dân tộc Việt Nam, đã đặt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam
vào quỹ đạo của cách mạng vô sản thế giới, một cuộc cách mạng giải phóng
triệt để con người khỏi mọi áp bức bóc lột, đặt nền móng cho việc xây dựng
2
Sđd, Tập 6, tr. 519.
7
Hồ Chí Minh toàn tập tập 6 NxbCTQG,H2002 tr160
một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh cho dân tộc ta hiện nay.Thắng lợi
đó là kết quả tổng hợp của nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan. Nhưng
trước hết đó là kết quả tất yếu của sự lãnh đạo tài giỏi của Đảng Cộng sản
Việt nam với một đường lối, chủ trương đúng đắn, linh hoạt, sáng tạo. Chính
vì vậy mà bọn đế quốc trên thế giới lo sợ và tích cực can thiệp, nguyện làm
cho nó thất bại. Trên thực tiễn chính quyền nhân dân việt nam chưa được
cũng cố thì bọn đế quốc tay sai của chúng bên ngoài can thiệp thực dân pháp
quay trở lại xâm lược bọn phản động trong nước ngóc đầu dậy. Cuộc kháng
chiến chống ngoại xâm bài trừ nội phản diễn ra dân tộc việt nam vừa kháng
chiến vừa kiến quốc dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Cuộc kháng chiến hiện nay là cuộc kháng chiến cách mạng có tính
chất dân tộc và dân chủ nó cũng cố và phát triển chế độ dân chủ nhân dân và
mở đường cho Việt Nam tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào hoà bình dân chủ
xã hội chủ nghĩa thế giới cuộc kháng chiến của nhân dân việt nam được nhân
dân thế giới ủng hộ nhiệt liệt và dân tộc việt Nam có nhiệm có nhiệm vụ rất
lớn đối với thế giới và phát triển chế độ dân chủ nhân dân ở đông Nam
Á.Thuận chiều tiến của nhân dân trên thế giới và phát triển thuận lợi của thế
giới kháng chiến Việt Nam còn gian khổ nhưng nhất định sẽ thành công. Bởi
việt Nam là một nước có bề dày lịch sử, có vị trí địa lý vô cùng quan trọng
đối với khu vực và thế giới. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc độc lập tự
cường vốn cần cù chăm chỉ yêu chuộng văn hoá và tự do, nước ta đã thành
một trong những nước có vị tiền phong của phe dân chủ chống đế quốc và
một căn cứ chiến lược ở đong Nam Á phe đế quốc muốn chiếm giữ để chống
lại phe dân chủ, nhưng Việt Nam căn bản là một nước nông nghiệp, kỷ nghệ
không phát triển không có kỷ nghệ nặng còn có nhiều di tích phong kiến, chế
độ thuộc địa vẫn còn trên một phần đất nước, chế độ dân chủ nhân dân đã
thành lập nhưng trình độ thấp và chưa được phổ biến khắp nước vì đang bị
đế quốc xâm lược. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II xác định: “ là một xã
hội phức tạp và phát triển không đều, có tính chất dân chủ nhân dân một phần
thuộc địa nửa phong kiến hiện chứa chất nhiều mâu thuẫn.; Mâu thuẫn giữa
dân tộc Việt Nam và bọn đế quốc xâm lược; Mâu thuẫn giữa số động nhân
dân với địa chủ phong kiến; mâu thuẫn giữa lao động với tư bản, trong đó
mâu thuẫn giữa đế quốc xâm lược và dân tộc Việt Nam và dân tộc việt nam là
chính”2. Kẻ thù cách mạng Việt Nam là đế quốc xâm lược vì đây là lực lượng
chính đang đẩy xã hội Việt Nam lùi lại, kẻ thù trước mắt của xã hội Việt Nam
là đế quốc Pháp vì nó đang trực tiếp xâm lược Việt Nam. Hòng đặt lại ách
thống trị Việt Nam, đồng thời đảng cũng xác định bên cạnh đế quốc Pháp là
thế lực phong kiến lúc này là phong kiến phản động làm tay sai cho chủ nhĩa
đế quốc.
Vậy nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi đế quốc
xâm lược làm cho Việt Nam hoàn toàn thống nhất và độc lập trong những
nhiệm vụ đó đều có quan hệ mật thiết với nhau vấn đề này được đảng ta từng
bước nhận thức và phát triển để thực hiện Cương lĩnh đầu tiên mà đảng đề ra
mục tiêu cơ bản của cách mạng tư sản dân quyền chống đế quốc và phong
kiến giành độc lập tự do cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày, đồng thời phân
hoá tư tưởng giai cấp địa chủ phong kiến tập trung đánh đế quốc và việt gian
tay sai, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
Ngay từ khi mới ra đời trong hội nghị thành lập Đảng ngày 3 tháng
2/1930.Trong Chính cương vắn tắt của Đảng cũng đã chỉ rõ: Ở Việt Nam cách
mạng dân tộc phải gắn với cách mạng dân chủ, đánh đế quốc đồng thời phải
đánh cả phong kiến.Vì nước ta là là một nước thuộc địa nửa phong kiến. Tính
chất của xã hội Việt Nam đã và đang tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản đó là mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp xâm lược, mâu thuẫn
giữa nhân dân Việt Nam với địa chủ phong kiến. Do đó nhiệm vụ của cách
2
Đảng cộng sản Việt nam Văn kiện đẩng toàn tập tập 12 Nxb CTQG, H 2001 tr73
mạng là phải giải quyết hai mâu thuẫn đó là tất yếu lịch sử vì đánh đế quốc
giành độc lập dân tộc, dân chủ cho nhân dân, đánh phong kiến đẻ giành lại
ruộng đất cho dân cày, đây là vấn đề cơ bản của cách mạng ở một nước thuộc
địa nữa phong kiến là yêu cầu, bức thiết trước mắt là khát vọng ngàn đời của
toàn thể dân tộc Việt Nam.
Nay được Đảng ta xác định có bổ sung và phát triển và thấy được mối
quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và dân chủ khăng khít với nhau. “Song lúc
này, phải tập trung mọi lực lượng để kháng chiến, được hoàn thành giải
phóng dân tộc. Đó là trọng tâm của cách mạng trong giai đoạn hiện tại.
Nhiệm vụ dân chủ cũng phải làm, nhưng chỉ có thể làm, trong phạm vi không
có hại mà lại có lợi cho việc tập trung lực lượng, hoàn thành nhiệm vụ giải
phóng dân tộc”3. Quá trình phát triển hoàn chỉnh nhận thức của đảng trong
việc giải quyết mối quan hệ giũa hai nhiệm vụ chiến lượcchông đế quốc và
phong kiến giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta. Đây là một trong những nội dung
quan trọng đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta . trong
báo cáo “ bàn về cách mạng việt nam”. Đại hội đã phát triển hoàn chỉnh lý
luận về mối quan hệ giữa hai giai đoạn cách mạng cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa; về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ
đánh đế quốc và đánh phong kiến, về lực lượng cách mạng, về đoàn kết quốc
tế, về vấn đề Đảng. Nổi bật là quan điểm lý luận về mối quan hệ hai giai
đoạn cách mạng và hai nhiệm vụ đánh đế quốc và phong kiến.
Trên cơ sở phân tích tính chất mâu thuẫn và yêu cầu nhiệm vụ khách
quan của xã hội việt nam Đảng khẳng định: “ Cần san phẳng tất cả những gì
ngăn cản bước tiến của xã hội Việt Nam, giải quyết mâu thuẫn giữa chế độ
dân chủ nhân dân Việt Nam và lực lực lượng phản động, khiến cho chế độ ấy
phát triển mạnh mẽ và thuận chiều tiến lên chủ nghĩa xã hội” 4. Đường lối
3
4
4
Đảng cộng sản Việt nam Văn kiện đẩng toàn tập tập 12 Nxb CTQG, H 2001 tr76
Đảng cộng sản Việt nam Văn kiện đẩng toàn tập tập 12 Nxb CTQG, H 2001 tr74
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân được xác định đúng dắn ngay sau khi
Đảng mới được thành lập, trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng thông qua hội
nghị thành lập đảng ngày 03 tháng 2 năm 1930, đã xác định: Nhiệm vụ mục
tiêu tư sản dân quyền cách mạng là đánh đổ đế quốc và phong kiến để giành
độc lập dân tộc và ruộng đất dân cày, trong đó sớm hình thành tư tưởng phân
hoá giai cấp địa chủ phong kiến tập trung lực lượng đánh đế quốc và việt gian
tay sai,nhằm thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc.
Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930, tiếp tục khẳng định, trong
cách mạng tư sản dân quyền phải tiến hành chống đế quốc và phong kiến 2
nhiệm vụ đó gắn bó chặt chẽ với nhau. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đồng
thời đánh cả đế quốc và phong kiến nhằm mục tiêu giành quyền dân chủ, tự
do cho nhân dân lao động. Thực tiễn, Đảng đã phát động được một phong trào
cách mạng rộng lớn khắp cả nước mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh. Nghị
quyết ban chấp hành trung ương lần thứ 6 (11/1939) lần thứ 7 (11/1940), lần
thứ 8 (5/1941) của đảng đã tiếp thu và phát triển tư tưởng của Cương lĩnh
đầu tiên về giải phóng giữa hai nhiệm vụ chiến lược chống đế quốc và phong
kiến. Các nghị quyết đã chỉ rõ nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống
phong kiến phải tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẻ với nhau, trong đó
dặt nhiệm vụ chống đế quốc, Việt gian, tay sai, giải phóng dân tộc lên hàng
đầu tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất” để tập trung vào lực lượng thực
hiện nhiệm vụ mục tiêu chủ yếu trước mắt.
Qua thực tiễn tổng kết từ hai phong trào cách mạng 1930-1931 và
1936 -1939 đã giúp cho Đảng ta nhận thức đúng về vấn đề dân tộc, là
vấn đề có ý nghĩa bao trùm và gắn bó chặt chẽ với vấn đề giai cấp. Đánh
giá đúng vị trí vấn đề dân tộc, xác định đúng mục tiêu, đáp ứng đúng
nguyện vọng của toàn thể nhân dân, của dân tộc là yêu cầu quan trọng
hàng đầu để tập hợp lực lượng đông đảo tạo sức mạnh tổng hợp to lớn
cho cách mạng.
Nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ đánh đế quốc tay sai,
giải phóng dân tộc là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là chủ trương hoàn toàn
đúng với thực tiễn tình hình cách mạng thế giới và nước ta trong thời điểm đó.
Trước đòi hỏi bức thiết của nhân dân, đặt ra cho cách mạng Việt Nam lúc này
hơn bao giờ hết phải thực hiện nhiệm vụ cấp bách, trước mắt là đánh đuổi đế
quốc, giành lại độc lập cho dân tộc: “Bước đường sinh tồn của các dân tộc
Đông Dương không có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế
quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để
giành lấy giải phóng độc lập. Đế quốc Pháp còn, dân chúng Đông Dương
chết. Đế quốc Pháp chết, dân chúng Đông Dương còn”1. Nhiệm vụ giải
phóng dân tộc, độc lập cho đất nước là nhiệm vụ thiêng liêng của Đảng và
cách mạng Đông Dương, phù hợp với nguyện vọng chung của tất cả nhân
dân. Bởi vì, thực chất nhiệm vụ giải phóng dân tộc thời kỳ này là trực tiếp
giải quyết một phần vấn đề giai cấp và lợi ích giai cấp, trong giai đoạn hiện
nay ai cũng biết rằng: Nếu không đánh đuổi được Pháp - Nhật thì vận mạng
của dân tộc phải chịu kiếp trâu ngựa muôn đời, mà vấn đề ruộng đất cũng
không làm sao giải quyết được. Nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đặt
nhiệm vụ đánh đế quốc là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, nhiệm vụ chống phong
kiến phải phục vụ cho nhiệm vụ chống đế quốc. Giải thích vấn đề quan hệ giữa
hai nhiệm vụ này, Đảng ta đã chỉ rõ: “Cách mệnh phản đế và điền địa là hai cái
mấu chốt của cách mệnh tư sản dân quyền. Không giải quyết được cách mệnh
điền địa thì không giải quyết được cách mệnh phản đế. Trái lại, không giải quyết
được cách mệnh phản đế thì không giải quyết được cách mệnh điền địa - cái
nguyên tắc chính ấy không bao giờ thay đổi được, nhưng nó phải ứng dụng một
cách khôn khéo thế nào để thực hiện được nhiệm vụ chính cốt của cách mệnh là
đánh đổ đế quốc. Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc
1
Sđd, Tập 6, tr. 536
làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa cũng phải
nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết”2.
Để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, để tập hợp đông đảo nhất
mọi lực lượng chống đế quốc, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất
dân tộc phản đế Đông Dương (đến Hội nghị Trung ương 8, tháng 5/1941 đổi
là Mặt trận Việt Minh) nhằm “Liên hiệp tất cả các dân tộc Đông Dương dưới
nền thống trị của Đế quốc Pháp, tất cả các giai cấp, các đảng phái, các phần tử
phản đế muốn giải phóng do dân tộc” 3 nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đặt
nhiệm vụ đánh đế quốc lên hàng đầu, Đảng chỉ đạo tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ
giai cấp phong kiến” chia ruộng đất cho dân cày. Song Đảng vẫn khẳng định tính
chất của cách mạng Đông Dương vẫn không đổi “tính chất của cách mạng Đông
Dương vẫn là cách mạng tư sản dân quyền”, là “cuộc cách mạng gồm có hai tính
chất: phản đế và thổ địa ấy gọi là cách mạng tư sản dân quyền”. Xác định đặt nhiệm
vụ đánh đế quốc lên hàng đầu song không có nghĩa Đảng bỏ không làm nhiệm vụ
điền địa, “không phải giai cấp vô sản Đông Dương bỏ mất nhiệm vụ điền địa đi
đâu, cũng không phải đi lùi lại một bước, mà chỉ bước một bước ngắn hơn để có
sức mà bước một bước dài hơn”1. Vì quyền lợi của bộ phận, của giai cấp trong lúc
này phải đặt dưới quyền lợi của toàn thể dân tộc, quyền lợi của nông dân và thợ
thuyền phải đặt dưới quyền lợi giải phóng dân tộc của toàn thể nhân dân. Về cách
mạng điền địa (chống phong kiến) trong lúc này Đảng chủ trương chỉ làm một
bước, chỉ đánh một bộ phận phong kiến địa chủ phản động nhất đi theo đế quốc
chống lại quyền lợi dân tộc, chống lại nguyện vọng giải phóng của toàn thể nhân
dân.
Để thực hiện một bước nhiệm vụ điền địa, Đảng ta đã xác định khẩu
hiệu đấu tranh lúc này là: “chống bọn ăn cướp đất...chống địa tô cao, chống vay
nặng lời...”2. Chính sách ruộng đất của Đảng lúc này là “tịch kỳ và quốc hữu hoá
Sđd, Tập 6, tr. 538 - 539
Sđd, Tập 6, tr. 555.
1 Sđd, Tập 6, tr. 542.
2 Sđd, Tập 6, tr. 534.
2
3
ruộng đất của đế quốc thực dân, cố đạo và bọn phản bội dân tộc. Lấy đất của bọn
phản bội, bọn cố đạo, đất công điền, đất bỏ hoang chia cho quần chúng nông dân
cày cấy”3. Chính sách điền địa và khẩu hiệu đấu tranh của Đảng vừa thực hiện
làm trung lập phân hoá kẻ thù, lôi kéo bộ phận lớn địa chủ phong kiến có tinh
thần dân tộc đi theo cách mạng, làm cô lập đế quốc thực dân và tay sai phản
động. Vừa cổ vũ động viên, bồi dưỡng tinh thần cách mạng của đông đảo nông
dân hăng hái cùng giai cấp công nhân làm nòng cốt phong trào chống đế quốc
giải phóng dân tộc. Chính sách điền địa của Đảng đã góp phần tập trung lực
lượng, nhằm đánh đúng kẻ thù chính của cách mạng. Vì theo Đảng ta: “Trong
lúc này kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương là đế quốc chủ nghĩa Pháp,
Nhật. Kẻ thù phụ là phong kiến bản xứ”. Lực lượng cách mạng là đông đảo quần
chúng nhân dân, trong đó “chủ lực cách mạng là giai cấp vô sản; sức dự trữ trực
tiếp của cách mạng là: Trung bần nông...và địa chủ phản đế”1.
Như vậy, chủ trương nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm
vụ đánh đế quốc là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng là hoàn toàn
đúng với thực tiễn kẻ thù của cách mạng Việt Nam, đáp ứng đúng yêu cầu
giải quyết mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu nhất của xã hội Việt Nam: giữa toàn thể
dân tộc Việt Nam với đế quốc tay sai; phù hợp với nguyện vọng bức thiết của
đông đảo quần chúng nhân dân. Thực hiện sự chuyển hướng chỉ đạo chiến
lược, đặt nhiệm vụ chống đế quốc tay sai, giải phóng dân tộc lên hàng đầu,
tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất; được thể hiện qua ba Hội nghị Trung
ương 6,7 & 8(1939-1941). Đảng đã chỉ đạo thực hiện đúng đắn và giành
thắng lợi:
Theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 (05/1941) khẳng định: nhiệm
vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc. Hội nghị xác định:
hình thái khởi nghĩa ở nước ta là đi từ khởi nghĩa từng phần, tiến lên tổng
khởi nghĩa và kết luận: Chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của toàn
3
1
Sđd, Tập 7, tr. 76.
Sđd, Tập 7, tr. 76.
Đảng, toàn dân; xây dựng lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền;
đặc biệt Hội nghị nhấn mạnh: một trong những yếu tố để giành chính quyền
thắng lợi là phải phải đoàn kết toàn dân, toàn dân tham gia Mặt trận Việt
Minh.
Cuối tháng 10/1941, Mặt trận Việt Minh công bố, chương trình và
Điều lệ. Do đó cuối năm 1941 đến 1942 các hội: Công nhân cứu quốc, Nông
dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Tự vệ cứu quốc...đã được thành lập
nhiều nơi trên cả nước. Để chỉ đạo tiến tới chuẩn bị khởi nghĩa, cuối tháng
2/1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Võng La, Đông Anh, Phúc
Yên. Hội nghị chủ trương mở rộng hơn nữa Mặt trận dân tộc thống nhất, tranh
thủ hết thảy mọi lực lượng, huy động mọi khả năng để chống phát xít Nhật Pháp. Chủ trương này của Đảng thể hiện tư tưởng tập trung phát huy sức
mạnh tổng hợp, đoàn kết mọi lực lượng có thể đoàn kết; tranh thủ mọi lực
lượng có thể tranh thủ, hướng vào mục tiêu tối cao trước mắt là: giành độc lập
dân tộc.Trên cơ sở cao trào cách mạng quần chúng phát triển, từ hai căn cứ
địa trung tâm là Cao Bằng và Bắc Sơn - Võ Nhai, nhiều căn cứ địa liên hoàn
đã hình thành nối liền Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Hà
Giang, Bắc Giang, Vĩnh Yên. Nhiều đội du kích ra đời ở khắp các địa
phương.
Đầu năm 1945, mâu thuẫn của hai kẻ thù Pháp - Nhật trở nên đỉnh
điểm do đó tối 09/03/1945 phát xít Nhật đảo chính Pháp, thực dân Pháp đầu
hàng hèn nhát. Ngày 12/03/1945, Thường vụ Trung ương Đảng kịp thời ra chỉ
thị lịch sử: “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Đảng chủ
trương phát động Cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ, làm tiền đề chuẩn
bị Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Thông qua Mặt trậnViệt Minh, Đảng
tổ chức tuyên truyền, tổ chức bãi công chính trị, tổ chức các đội tự vệ, thành
lập Uỷ ban Nhân dân cách mạng ở những vùng quân du kích hoạt động. Đưa
ra những chính sách cần kíp phục vụ nhân dân cứu đói, Đảng đề ra khẩu hiệu:
“Phá kho thóc, giải quyết nạn đói” - Đáp ứng đúng nguyện vọng của nhân
dân, đã huy động được sức mạnh chính trị tinh thần và kinh tế đời sống, thực
sự là khẩu hiệu phát huy được sức mạnh của đông đảo quần chúng nhân dân,
trở thành động lực to lớn của cao trào kháng Nhật cứu nước, chuẩn bị cho
Tổng khởi nghĩa khi có thời cơ.
Ngay trong những ngày tiền khởi nghĩa, có địa phương tuy chưa chính
thức giành được chính quyền về tay nhân dân, nhưng để động viên quần
chúng tham gia cách mạng; Mặt trận Việt Minh đã bước đầu thực hiện chính
sách ruộng đất đối với nông dân ở những nơi có điều kiện như: Khu giải
phóng Việt Bắc; Việt Minh đã tịch thu ruộng đất bọn đế quốc tay sai chia cho
nông dân không có ruộng. Chủ trương giảm một phần địa tô mà địa chủ
thường bắt nông dân nộp trước đây được thực hiện ở nhiều nơi, đã góp phần
động viên hiệu quả các tầng lớp nhân dân và tăng thêm sự tin tưởng của quần
chúng đối với đảng và theo đảng để làm cách mạng .
Cao trào kháng Nhật cứu nước, phát triển lên đỉnh cao khi phát xít
Nhật đầu hàng quân Đồng Minh. Từ ngày 13 đến 18/08/1945 Hội nghị toàn
quốc của Đảng họp ở Tân Trào; Hội nghị nhận định: điều kiện khởi nghĩa đã
chín muồi. Đảng chủ trương đã phát động Tổng khởi nghĩa trước khi quân
Đồng Minh kéo vào Đông Dương - Đây là sự thể hiện tinh thần nhạy bén, linh
hoạt, sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc chuẩn bị thời cơ,
nắm bắt thời cơ, chớp thời cơ trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng.
Đêm 13/08/1945 Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc phát lệnh: Tổng khởi nghĩa.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn hai mươi triệu nhân dân, đã nhất tề đứng lên
giành chính quyền thắng lợi trong cả nước, chỉ với thời gian trong vòng hơn
hai tuần lễ-Đây là thắng lợi to lớn, toàn diện và triệt để, ít tổn thất; thực sự
mẫu mực hiếm có trong cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới.
Ngày 02/09/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập
khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - Nhà nước công nông đầu
tiên ở Đông Nam Á. Đánh dấu bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng nước
ta. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám có nhiều nguyên nhân nhưng trong
đó trước hết và trực tiếp là chủ trương kết hợp đúng đắn nhiệm vụ chống đế
quốc và chống phong kiến; nêu cao nhiệm vụ chống đế quốc tay sai giải
phóng dân tộc lên hàng đầu.
Chủ trương nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ đánh
đế quốc là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng không chỉ đúng với thực
tiễn tình hình cách mạng thế giới, thực tiễn Việt Nam mà đó cũng là thể hiện
sự trung thành và vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn
cảnh Việt Nam của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Cách mạng tháng tám có một ý nghĩa quốc tế vô cùng to lớn trong thế
kỷ XX nó ảnh hưởng to lớn đối với các phong trào giải phóng dân tộc trên
phạm vi khu vực và thế giới. Bởi đây là thắng lợi đầu tiên của các dân tộc
thuộc địa và phụ thuộc thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân và tay
sai phong kiến, đây cũng là thắng lợi của giai cấp công nhân thế giới chứng tỏ
khả năng của mình trong việc lật đổ ách áp bức của chủ nghĩa tư bản để xây
dựng chính quyền dân chủ nhân dân tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khi
nói về ý nghĩa của cách mạng tháng tám năm 1945 chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nêu rõ: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự
hào mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự
hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc và
nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công đã
nắm chính quyền toàn quốc”2.
Sau cách mạng tháng tám năm 1945 bên cạnh những thuận lợi nước ta
đứng trước những khó khăn gay gắt. Đất nước bị các thế lực đế quốc, phản
động bao vây tấn công ở miền Bắc, 20 vạn quân tưởng với danh nghĩa là đồng
minh kéo vào để tước vũ khí quân Nhật, nhưng thực chất là phá hoại cách
2
Hồ chí Minh Toàn Tập, Tập 6 Nxb, CTQG, H 2002 tr.159
mạng và gây khó khăn cho ta, miền Nam 1vạn quân Anh dưới danh nghĩa là
đồng minh vào đóng quân ở nam vĩ tuyến 16 để tước vũ khí quân Nhật, đế
quốc Anh đã tạo điều kiện cho thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta lần thứ
hai quân Nhật đầu hàng đồng minh nhưng vẫn còn 6 vạn trên đất nước ta. Các
thế lực phản động đội lốt tôn giáo vào để chống phá cách mạng nước ta, tình
hình kinh tế chính trị xã hội Việt Nam lúc này ví “như ngàn cân treo sợi tóc”
trước tình hình đó Đảng đề ra chủ trương ban chấp hành trung ương Đảng ra
chỉ thị “kháng chiến kiến quốc” bản chỉ thị nêu rõ: Cuộc cách mạng đông
dương vẫn là cuộc cách mạng giải phóng, khẩu hiệu đấu tranh vẫn là “dân tộc
trên hết” kẻ thù chính lúc này là thực dân Pháp xâm lược.nhiệm vụ chủ yếu
của cách mạng nước ta lúc này là cũng cố chính quyền nhân dân, chống thực
dân pháp xâm lược, bài trừ nội phản cải thiện đời sông nhân dân. Nhiệm vụ
trung tâm bao trùm là bảo vệ chính quyền cách mạng, đây là nhiệm vụ hết sức
khó khăn và nặng nề, để thực hiện chủ trương trên, Đảng vạch ra nhiều biện
pháp cụ thể trên các lĩnh vực như chính trị, kinh tế tài chính, văn hoá giáo
dục, về quân sự và bài trừ nội phản, đấu tranh chống ngoại xâm. Đảng đề ra
đường lối kháng chiến: nội dung đó là: Mục đích của cuộc kháng chiến là
giành độc lập thống nhất thực sự, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, góp
phần đấu tranh cho hoà bình thế giới. Kẻ thù chính của nhân dân ta cần đánh
đổ là thực dân pháp xâm lược và bọn tay sai phản động; phương châm kháng
chiến là toàn dân toàn diện dựa vào sức mình là chính; Đảng cộng sản việt
nam là người lãnh đạo, nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến. Từ
xác định đúng đường lối đó dưới sự lãnh đạo của đảng và chủ tịch Hồ Chí
Minh đã làm nên chiến thắng thu đông năm 1947 và chiến thắng biên giới
năm 1950 trước tình hình thế giới và trong nước có xuất hiện nhiều biến đổi
mới. Đảng đã bổ sung và hoàn chỉnh đường lối cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở việt nam, trong đó nổi lên là sự phát triển và hoàn chỉnh về mối
quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược chống đế quốc và chống phong kiến.
Đại hội tiếp tục khẳng định lại một lần nữa chống đế quốc và phong kiến
giành độc lập cho dân tộc, ruộng đất cho dân cày là hai nhiệm vụ chiến lược
của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, phải tiến hành đồng thời và kết hợp
chặt chẽ với nhau. Đó là vấn đề thuộc về nguyên tắc chiến lược không thay
đổi trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, và cũng nêu ra vị trí của các
nhiệm vụ tuy rằng hai nhiệm vụ phải tiến hành đồng thời; Đặt nhiệm vụ
chống Việt gian tay sai, giải phóng dân tộc lên hàng đầu, nhiệm vụ phong
kiến rãi ra từng bước có kế hoạch phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc, các
bước đánh đế quốc, Việt gian tay sai chia cho dân nghèo, thực hiện giảm tô,
giảm tức xoá nợ cho dân nghèo làm suy yếu giai cấp địa chủ phong kiến,
bước cuối cùng là tiến hành cải cách ruộng đất đánh đổ toàn bộ giai cấp địa
chủ thực hiện triệt để người cày có ruộng .
Qua nghiên cứu qúa trình hoàn chỉnh và bổ sung hoàn thiện đường lối
cách mạng cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nói chung và giải quyết mối
quan hệ htực hiện nhiệm vụ đánh đế quốc và phong kiến ở Đại hội Đảng II ta
thấy Đảng đã đánh dấu sự trưởng thành về năng lực tư duy của Đảng trong
việc giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp trong từng giai đoạn cách
mạng cụ thể, nó chẳng những đáp ứng nhiệm vụ trước mắt của cuộc kháng
chiến chống pháp mà còn đáp ứng yêu cầu lâu dài của cách mạng việt nam.
Chủ trương đúng đắn của Đảng về giải quyết mối quan hệ giữa đánh đế quốc
và phong kiến trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân góp phần làm
phong phú thêm kho tàng lý luận Mác – Lênin về cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở một nước thuộc địa nửa phong kiến mà chưa có tiền lệ trong lịch
sử . đây là sự thể hiện sự sáng tạo của đảng ta khi vận dụng chủ nghĩa MácLênin vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam .
Trên cơ sở kiên định mục tiêu nắm bắt tình hình để phát triển đường
lối phù hợp từng giai đoạn; coi trọng mục tiêu chiến lược, đấu tranh với mọi
biểu hiện đi chệch hướng mục tiêu cách mạng, song trong từng thời kỳ cách
mạng phải có biện pháp chỉ đạo linh hoạt sáng suốt phù hợp từng hoàn cảnh
mỗi thời kỳ. Bài học quý về giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến
lược của cách mạng được Đảng ta tiếp tục phát triển trong kháng chiến chống
Pháp với việc giải quyết đúng mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ đánh đế quốc
và phong kiến, tập trung cho yêu cầu chống Pháp xâm lược, đồng thời Đảng
vẫn tiến hành từng bước nhiệm vụ điền địa như chủ trương giảm tô, giảm tức,
thực hiện cải cách ruộng đất trong kháng chiến (1953) thắng lợi, tạo sức cổ vũ
hết sức mạnh mẽ cho kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Trong thời kỳ 1954 1975, mối quan hệ đó được phát triển biểu hiện ở đường lối tiến hành đồng thời
hai chiến lược cách mạng ở hai miền: Miền Bắc tiến hành cách mạng xã hội
chủ nghĩa, Miền Nam tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tạo sức
mạnh tổng hợp cả trong nước và thế giới, sức mạnh dân tộc và thời đại để đánh
thắng đế quốc Mỹ xâm lược.
Ngày nay, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới hoà bình
xây dựng đất nước. Chúng ta càng cần kiên trì khẳng định con đường chủ
nghĩa xã hội mà Đảng và Bác Hồ đã chọn, phải giải quyết đúng mối quan hệ
chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng là xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, với tinh thần:
trong khi không một phút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, phải đặt lên
hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng và bảo vệ đất nước
phải biết lựa chọn đúng những khâu trọng tâm đột phá, lựa chọn hình thức,
bước đi và cách làm phù hợp nhằm mục tiêu ổn định và phát triển đất nước
bền vững vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Kiên quyết đấu tranh chống lại mọi quan điểm tư tưởng muốn phủ nhận
vai trò của Đảng, phủ nhận thành quả và công lao vĩ đại của Đảng trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cũng như mọi sự xuyên tạc đường lối của
Đảng trong giai đoạn hiện nay. Nhằm bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối đổi mới
đúng đắn, sáng tạo của Đảng, bảo vệ thành quả cách mạng, sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội
công bằng dân chủ văn minh, tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới do đó
phải xác. định đúng vị trí của mỗi nhiệm vụ và thấy được mối quan hệ biện
chứng với nhau không tách rời nhau. Tập trung xây dựng lực lượng vũ trang
cách mạng, chính quy tinh nhuệ từng bước hiên đại đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ trong tình hình mới.