Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN NINH NHÂN DÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (844.91 KB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Văn Thị Như Ý

BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ
HỌC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
AN NINH NHÂN DÂN
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60 14 05

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. VÕ VĂN NAM

Thành phố Hồ Chí Minh - 2010


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được đề tài, tác giả đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, đóng góp những
ý kiến quý báu của các thầy cô giáo, các bạn bè, đồng nghiệp… Qua đây tác giả xin bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc đến:
- Tiến sĩ Võ Văn Nam, Giáo viên trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã
tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này.
- Quý thầy cô là giáo viên lớp Cao học quản lý giáo dục Khóa 18 đã hướng dẫn tôi
trong quá trình học tập và thực hiện luận văn.
- Ban Giám hiệu, Khoa Tâm lý giáo dục, Phòng Khoa học Công nghệ & Sau đại học
trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá
trình học tập.
- Ban Giám hiệu trường Đại học An ninh nhân dân, Lãnh đạo và cán bộ, giáo viên các


Khoa, Bộ môn, Phòng và Trung tâm đã tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ và đóng góp ý kiến
quý báu cho tôi trong quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn.
- Các anh chị lớp Cao học quản lý giáo dục Khóa 18 đã gắn bó, động viên và chia sẻ
kinh nghiệm trong quá trình học tập và làm việc.
- Gia đình và đồng nghiệp đã luôn động viên và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành luận
văn này.
Văn Thị Như Ý


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu của riêng tôi. Những số liệu, tài
liệu nghiên cứu phục vụ Luận văn là những tài liệu đang được quản lý và sử
dụng, phản ánh đúng với thực tiễn công tác quản lí hoạt động tự học của sinh viên
ở trường Đại học An ninh nhân dân.
Văn Thị Như Ý


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ANND

An ninh nhân dân

CBGV

: Cán bộ

CBQL


: Cán bộ quản lí

CBQLGD

: Cán bộ quản lí giáo dục

CSVC

: Cơ sở vật chất

ĐH

: Đại học

GD – ĐT

: Giáo dục – đào tạo

GV

: Giáo viên

HĐTH

: Hoạt động tự học

KHTH

: Kế hoạch tự học


NCKH

: Nghiên cứu khoa học

NDTH

: Nội dung tự học

PPDH

: Phương pháp dạy học

SV

: Sinh viên


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ những năm 1947, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” [30, tr30], Bác Hồ đã khẳng
định “cách học tập, phải lấy tự học làm cốt, phải biết tự động học tập… ”. Tự học là phương
thức cơ bản để người học tiếp cận và chiếm lĩnh hệ thống tri thức phong phú và thiết thực.
Chỉ có tự học thì giáo dục đào tạo mới thành công, đó chính là tính khách quan, vấn đề có
tính nguyên tắc của quá trình giáo dục đào tạo.
Nhận thức rõ vai trò của giáo dục trong quá trình hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước
ta đã xác định giáo dục là quốc sách hàng đầu, là gốc rễ của sự phát triển xã hội, đầu tư cho
giáo dục là đầu tư cho sự phát triển. Để đáp ứng yêu cầu của giáo dục trong xu thế phát triển
của nền kinh tế tri thức, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương đổi mới giáo dục toàn diện,
trong đó đổi mới phương pháp dạy học (PPDH), đặc biệt chú trọng đến hướng dẫn cho người
học phương pháp tự học, tự nghiên cứu, để họ có thể “học tập suốt đời”.

Điều này một lần nữa được cụ thể hóa trong luật Giáo dục năm 2005: “Phương pháp
đào tạo trình độ đại học, cao đẳng phải coi trọng việc bồi dưỡng ý thức tự giác trong học tập,
năng lực tự học, tự nghiên cứu, phát triển tư duy sáng tạo, tạo điều kiện cho người học tham
gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng” [ 11, tr 45].
Tuy nhiên, giai đoạn học tập ở nhà trường chỉ là một giai đoạn rất ngắn đối với mỗi
người, mà việc học là việc lâu dài, suốt đời như Lênin từng nói: “Học, học nữa, học mãi”.
Chính vì vậy, quá trình giáo dục đào tạo không chỉ giáo dục kiến thức mà còn phải biết giáo
dục phương pháp tự học và hình thành tư duy tự học cho người học. Mặt khác, kết quả học
tập của người học được phản ánh bằng hiệu quả của hoạt động tự học của người học. Thước
đo chất lượng giáo dục đào tạo lại chính là kết quả học tập của người học. Do đó, quá trình
giáo dục đào tạo cần phải biết nâng cao hiệu quả hoạt động tự học cho người học.
Nhận thức được tầm quan trọng của tự học đối với chất lượng của quá trình giáo dục
đào tạo, Đảng ủy, Ban Giám hiệu Trường Đại học An ninh nhân dân (ĐH ANND) trong thời
gian qua đã quan tâm tổ chức quản lí tốt hoạt động tự học của SV nhà trường. Từ đó, đã đem
lại nhiều kết quả khả quan như nhiều SV đã biết nghiên cứu khoa học và đã có công trình đạt
giải nghiên cứu khoa học do Bộ Giáo dục - đào tạo (GD - ĐT) và Thành đoàn TP. HCM tổ
chức, đã có nhiều sáng kiến, cải tiến trong học tập, kết quả học tập đã được nâng lên … Tuy


nhiên, quá trình tổ chức các biện pháp quản lí hoạt động tự học của SV còn gặp những khó
khăn, bộc lộ những hạn chế cũng như chưa được quan tâm đúng mức dẫn đến hiệu quả đạt
được chưa cao, xuất phát từ rất nhiều nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan.
Vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện các biện pháp quản lí hoạt
động tự học của SV do Trường ĐH ANND đã tiến hành để đưa ra những biện pháp quản lí
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tự học của SV, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
đào tạo của Nhà trường là một vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
Từ những lí do trên, tác giả chọn vấn đề “Biện pháp quản lí hoạt động tự học của
sinh viên trường Đại học An ninh nhân dân” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài nhằm mô tả thực trạng công tác quản lí hoạt động tự học của SV và

đề xuất các biện pháp quản lí nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động này ở Trường ĐH ANND.

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
Khách thể: Công tác quản lí hoạt động học tập của SV của Hiệu Trưởng trường ĐH
ANND.
Đối tượng: Công tác quản lí hoạt động tự học của SV của Hiệu Trưởng trường ĐH
ANND.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Các biện pháp quản lí HĐTH của SV Trường ĐH ANND đã được thực hiện tương đối
tốt ở một số mặt và đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, quá trình triển khai các
biện pháp này còn có những khiếm khuyết, hạn chế cần được nghiên cứu tổng kết, rút kinh
nghiệm, bổ sung, điều chỉnh. Khi xây dựng được các biện pháp quản lí phù hợp đối với hoạt
động tự học của SV thì chất lượng đào tạo của Trường ĐH ANND sẽ được nâng lên, do
HĐTH của SV có hiệu quả hơn.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lí luận về hoạt động tự học, quản lýhoạt động tự học để xây dựng cơ sở lý
luận cho đề tài.
- Mô tả thực trạng hoạt động tự học và công tác quản lí hoạt động tự học, đồng thời
phân tích, đánh giá nguyên nhân của thực trạng trên tại trường Đại học ANND.


- Đề xuất các biện pháp quản lí nhằm cải thiện thực trạng.
6. Giới hạn đề tài
Đề tài nghiên cứu thực trạng công tác quản lí hoạt động tự học của SV hệ chính qui tập
trung tại trường của Hiệu Trưởng Trường ĐH ANND trong những năm gần đây (từ năm
2005 đến nay).

7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận: Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm hệ thống - cấu trúc, lịch sử - logic và

thực tiễn.
* Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: phân tích, tổng hợp, qui nạp, diễn dịch, mô hình
hóa, khái quát hóa.
- Phương pháp nghiên cứu thực tế:
+ Quan sát sư phạm: trên cơ sở quan sát đối tượng khảo sát dưới sự tác động của các
biện pháp quản lí để đánh giá thực tiễn kết quả của các biện pháp đã triển khai.
+ Điều tra xã hội học: trên cơ sở xây dựng phiếu trưng cầu ý kiến của đối tượng khảo
sát, chọn mẫu khảo sát để thu thập số liệu, tư liệu và ý kiến về thực trạng công tác quản lí
HĐTH và ý kiến đánh giá về các giải pháp mà đề tài đưa ra.
- Phương pháp toán thống kê: trên cơ sở xây dựng bộ tiêu chí đánh giá, dùng phần mềm
tin học về toán thống kê để xử lý số liệu đã thu thập được.
8. Đóng góp mới của đề tài
- Đưa ra một số giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lí HĐTH của
sinh viên, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của Trường Đại học ANND.
- Có thể làm tài liệu tham khảo cho các trường đại học khác trong ngành Công an.


Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1. 1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tự học là vấn đề đã được rất nhiều tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu và có nhiều
tài liệu tiếp cận với nhiều góc độ khác nhau.
- Cách chúng ta 2500 năm, Heraclitus (530-475 TCN) đã nhận định: “Thực chất của
giáo dục là thắp lên một ngọn đuốc để soi sáng, để người học nhận ra những con đường, tự
mình chọn lấy cho mình một con đường, rồi tự bước đi trên con đường đã chọn, dưới ánh
sáng của ngọn đước ấy”.
- Socrate (470-399 TCN) đã nhấn mạnh đến vai trò nội lực ở người học, khi nêu ra
phương châm nổi tiếng: “Hỡi con người, hãy tự khám phá bản thân mình!”. Để người học tự
khám phá bản thân mình, ông nói: “Mục đích của giáo dục không phải là tách con người ra
khỏi đám đông, càng không phải là làm cho con người ấy mất hút trong đám đông; mục đích

của giáo dục là làm cho con người nhận ra chính mình giữa đám đông”.
- Theo Platon (427-384 TCN) thì mọi người đều phải học và học đến nơi đến chốn. Đặc
biệt là người thầy, để dạy người, anh ta phải được giáo dục đến nơi đến chốn. Để được như
vậy thì vào thời cổ đại, con đường chủ yếu vẫn là TỰ HỌC, tự học thường xuyên, tự học lâu
dài.
- Mạc tử (475-390 TCN) với sự phân biệt 03 loại tri thức: thân tri, văn tri, trí tri, thì
ngoài văn tri – nghe mà biết, còn thân tri – tự nhân nhận biết và trí tri – tự suy luận mà biết
đều do tự chiêm nghiệm, tức là do tự học vậy.
- Sách “Phương pháp dạy và học đại học” [14] của Garry Hess & Steven Nriedland, Lê
Nết (biên dịch) đã chỉ ra bản chất học hỏi của người lớn có yếu tố tự giác, họ có động cơ học
tập rõ ràng và sẵn sàng tham gia vào nhiều phương thức đào tạo.
- Sách “Biển học vô bờ” [23] của GS-TS. Nguyễn Cảnh Toàn đã chỉ ra phương pháp và
phong cách học tập, kinh nghiệm tự tổ chức học tập, trong đó nêu rõ trong học tập, người
học phải tự làm lấy, khi nào đã cố gắng cao nhất mà vẫn không hiểu thì mới nhờ người dạy
giúp đỡ.
- Sách “Quá trình dạy - tự học” [25] do các tác giả Nguyễn Cảnh Toàn (chủ biên) đã
luận giải vấn đề "thầy dạy, trò tự học" với các nội dung: mô hình, chu trình, quy trình dạy -


tự học, hệ phương pháp dạy - học tích cực lấy người học làm trung tâm, cần phải hướng dẫn
cho người khác tự học thông qua tài liệu hướng dẫn tự học. . .
- Sách “Tuyển tập tác phẩm: tự học, tự giáo dục, tự nghiên cứu” [26] của tác giả
Nguyễn Cảnh Toàn đã luận bàn về vấn đề tự học, nêu ra các phương châm cơ bản để đảm
bảo thắng lợi của tự học, những cản trở của việc tự học và kinh nghiệm khắc phục.
- Sách “Tự học, một nhu cầu thời đại” [9] của Nguyễn Hiến Lê đã nghiên cứu sâu về
vấn đề tự học với các nội dung: thế nào là tự học, các điều kiện để tự học, những cách tự học.
- Sách “Phương pháp học tập, nghiên cứu của SV cao đẳng, đại học” [20] của tác giả
Phạm Trung Thanh, đã xác lập mô hình về phương pháp học tập - nghiên cứa của SV gồm
các thành phần: xác định mục đích, động cơ thái độ việc học ở trên lớp, việc học tập nghiên
cứu ở nhà, việc học tập, nghiên cứu ở tập thể, việc học tập nghiên cứu qua kiểm tra - thi. . .

- Sách “Tự học của sinh viên” [1] của PGS. TS. Hoàng Anh - PGS. TS. Đỗ Thị Châu đã
nêu khái quát chung về hoạt động học tập – tự học của SV bao gồm khái niệm, hình thức,
chu trình, hoạt động học tập – tự học, các yếu tố tâm lí ảnh hưởng đến hoạt động này.
- Luận án Tiến sĩ “Tư tưởng tự học của Hồ Chí Minh và sự vận dụng vào việc nâng cao
ý thức tự học cho sinh viên đại học sư phạm” [13] của tác giả Võ Văn Nam đã nêu rõ: Bác
Hồ không chỉ là lãnh tụ vĩ đại của dân tộc mà còn là tấm gương sáng, điển hình về học tập,
nhất là tự học. Bác đã khái quát nên một quy luật đúng cho tất cả mọi người: “Về cách học,
phải lấy tự học làm cốt” [12]. Với quan điểm và phương châm đó, ngày nay có tác giả nêu
lên phương châm “năm mọi” trong học và tự học, đó là mọi lúc, mọi nơi, mọi người, mọi
cách, mọi nội dung. Trong Sửa đổi lề lối làm việc [30], Bác Hồ đã đề cao tinh thần học tập là
“phải biết tự động học tập”.
Khi xuất hiện lý thuyết lấy người học làm trung tâm vào cuối thế kỷ XVIII đến nay ở
các nước phương Tây đã làm nảy sinh những quan niệm mới về cách dạy, cách học. Những ý
tưởng và chủ trương của lý thuyết này là đề cao, khuyến khích, tạo điều kiện cho người học
thực hiện việc học thông qua cách thức và kinh nghiệm học, tự thể hiện và chịu trách nhiệm
về hành động cũng như kết quả học tập của chính mình.
- Tháng 5/1997 ra đời Trung tâm nghiên cứu phát triển tự học và cho ra mắt tạp chí “Tự
học” từ năm 1999, tạp chí đăng tải những kết quả nghiên cứu, là diễn đàn trao đổi về vấn đề
tự học và phương pháp tự học.


- Ở một số trường Đại học của Việt Nam đã có những công trình nghiên cứu vấn đề tự
học của SV và quản lí tự học dưới những góc độ khác nhau như: Luận văn thạc sĩ Giáo dục
học của Trần Bá Khiêm về “Các biện pháp quản lí hoạt động tự học của SV trường Sỹ quan
lục quân 2” [8]; Luận văn thạc sĩ Quản lí giáo dục của Phạm Thị Thu Thủy về “Một số biện
pháp quản lí của Hiệu trưởng nhằm nâng cao năng lực tự học cho SV trường Cao đẳng sư
phạm Mẫu giáo Trung ương 3” [22]; Luận văn thạc sĩ Khoa học giáo dục của Vũ Quang Hải
“Rèn luyện các kỹ năng tự học cơ bản cho học viên Học viên kỹ thuật quân sự: Thực trạng
và một số biện pháp quản lí” [5].
Trong các đề tài trên các tác giả đã đề cập đến vấn đề tự học của SV dưới góc độ: Biện

pháp quản lí hoạt động tự học, biện pháp quản lí nhằm nâng cao năng lực tự học, biện pháp
quản lí nhằm rèn luyện kỹ năng tự học cho SV và vai trò, trách nhiệm của nhà quản lí trong
công tác quản lí của mình nhằm tạo ra cho SV có những kỹ năng, phương pháp, năng lực tự
học tốt, để họ có thể tự học trong nhà trường cũng như tự học suốt đời.
Qua các công trình nghiên cứu về tự học đã nêu ở trên, có thể rút ra một số nhận xét sau
đây:
+ Vấn đề tự học đã được các nhà GD bàn tới từ rất sớm trong lịch sử. Tự học được tiếp
cận ở cả hai phạm vi rộng và hẹp. Ở phạm vi rộng tự học gắn liền với tự học thường xuyên,
tự học tập suốt đời, tự học không có người hướng dẫn. Ở phạm vi hẹp, tự học gắn với quá
trình học tập, đào tạo tại Nhà trường, có sự hướng dẫn của GV, có sự tác động của nhà quản
lí.
+ Vấn đề tự học của SV đại học ở Việt Nam, đã có nhiều công trình, đề tài nghiên cứu
với các góc độ khác nhau. Nhưng vấn đề quản lí HĐTH chưa có tác giả nào nghiên cứu sâu
và viết thành lí luận.
+ Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá trình và kết quả của HĐTH như động cơ, mục
đích tự học, phương pháp, kế hoạch và phương tiện tự học… Do vậy, muốn người học tự học
có hiệu quả tốt thì phải quản lí mục đích, động cơ học tập, tính tích cực, tự giác của người
học, phương pháp, kế hoạch tự học đồng thời phải đảm bảo điều kiện phục vụ tự học như
CSVC, phương tiện phục vụ cho việc tự học, thời gian và việc kiểm tra tự học.
+ Vấn đề tự học và quản lí HĐTH của SV Trường ĐH ANND chưa có công trình nào
nghiên cứu, từ đó chưa giải quyết được đòi hỏi của thực tiễn mà nhiệm vụ đào tạo của một


trường Đại học phải thực hiện. Vì vậy, cần phải có các biện pháp quản lí HĐTH của SV Nhà
trường trong giai đoạn hiện nay, và xem đây là một mục tiêu, nhiệm vụ để nâng cao chất
lượng đào tạo của Trường ĐH ANND.
1.2 Một số khái niệm liên quan
1.2.1 Khái niệm Quản lí
Theo tự điển Tiếng Việt thông dụng (Nxb Giáo dục, 1998) “Quản lí là tổ chức, điều
khiển hoạt động của một đơn vị, cơ quan” [17].

H. Koontz khẳng định Quản lí là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những
nỗ lực hoạt động cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm (tổ chức).
Một số nhà quản lýđã quan niệm về quản lýnhư sau: quản lýlà điều khiển, chỉ huy và
kiểm tra. Vì thế quản lýcó đặc điểm là không được xa rời quyền uy và điều khiển trong quá
trình quản lý. Theo nghĩa rộng, quản lí là hoạt động có mục đích của con người. Nhiều người
cho rằng quản lí chính là các hoạt động do một hoặc nhiều người điều phối hành động của
những người khác nhằm thu được kết quả mong muốn.
Quản lí là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lí tới đối tượng quản
lí nhằm đạt mục tiêu đề ra [6, tr 12].
Quản lí là chủ thể quản lí bằng các biện pháp, cách thức, luật lệ, pháp chế tác động đến
khách thể, đưa khách thể quản lí vào mục tiêu [19].
Từ các khái niệm trên chúng tôi thấy rằng quản lí là một hoạt động có các đặc trưng
sau:
- Là quá trình có mục đích, mọi hoạt động của nhà quản lí đều hướng tới mục tiêu của
tổ chức. Mục tiêu của quản lýlà hình thành một môi trường mà trong đó mỗi người có thể
hoàn thành được mục đích của mình, của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất
mãn cá nhân ít nhất.
- Hoạt động của nhà quản lí là khai thác các nguồn lực một cách tối đa. Do đó, cần có
một quy trình hợp lý, sắp xếp nhân sự phù hợp với khả năng của từng người, từng nhóm
người.
- Tùy theo đặc điểm của tổ chức mà có cách quản lí riêng. Vì vậy, ta cần lựa chọn cách
tiếp cận để thâm nhập vào hệ thống quản lí cho phù hợp.


Đối với tất cả các hệ thống tổ chức - cơ quan nói chung đều có các nhân tố cấu thành
sau:
+ Mục đích, mục tiêu (nhân tố nền tảng) mà hệ thống hướng tới, đó là lý do tồn tại của
hệ thống.
+ Các chương trình, phương pháp hoạt động để đạt mục đích.
+ Kế hoạch hoạt động để hoạt động có hiệu quả và huy động các nguồn lực cần thiết.

+ Thủ lĩnh tiến hành các hoạt động quản lí giúp cho cơ quan đạt được các mục đích đề
ra.
Nhà quản lí phải nghiên cứu, nắm vững hệ thống mình đang quản lí để tiếp cận và tiến
hành các hoạt động quản lí một cách có hiệu quả nhất nhằm đạt mục tiêu đề ra. Quản lí được
tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội, tức là hoạt động quản lí chỉ cần thiết và
tồn tại đối với một nhóm người, còn đối với một cá nhân người ta tự điều khiển hoạt động
của chính mình, như C. Mác đã viết: “Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy
mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”. Có thể nói hệ thống quản lí là sự tác
động tương hỗ biện chứng giữa chủ thể và khách thể quản lí. Quản lí là một trong những loại
hình lao động quan trọng nhất trong các hoạt động lao động của con người.
Sau khi xem xét các khái niệm về quản lí, có thể sử dụng khái niệm quản lí dưới đây
trong hoạt động quản lí nhà trường: Quản lí là quá trình ra quyết định, tổ chức, chỉ đạo và
kiểm tra công việc của các bộ phận, các thành viên thuộc một hệ thống đơn vị và việc sử
dụng các nguồn lực phù hợp để đạt được mục đích đã định.
Quản lí vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Quản lí là khoa học vì nó là lĩnh vực tri thức
được hệ thống hoá và là đối tượng nghiên cứu khách quan đặc biệt, có hệ thống lí luận làm
cơ sở để người quản lí vận dụng nhằm đưa ra các quyết định phù hợp với điều kiện khách
quan. Quản lí là nghệ thuật bởi lẽ nó là hoạt động đặc biệt, hoạt động này đòi hỏi vận dụng
hết sức khéo léo, linh hoạt những kinh nghiệm đã quan sát được, những tri thức đã được đúc
kết cho phù hợp với từng tình huống và đối tượng quản lí khác nhau để đem lại hiệu quả tốt
nhất. Người quản lí thông qua tri thức và kinh nghiệm áp dụng những kỹ năng cần thiết vào
tổ chức con người và công việc. Tính nghệ thuật của quản lí xuất phát từ tính đa dạng, phong
phú, muôn hình, muôn vẻ của sự vật hiện tượng trong kinh tế xã hội và trong quản lí. Tính
khoa học và nghệ thuật không loại trừ nhau mà ngược lại chúng còn phụ trợ cho nhau.


Quản lí có những chức năng của nó, đó chính là một dạng hoạt động quản lýsinh ra một
cách khách quan từ hoạt động của khách thể quản lý. Các chức năng mà bất kỳ chủ thể quản
lýnào, ở bất kỳ ngành nào, cấp bậc nào cũng thực hiện theo qui trình quản lí đó là lập kế
hoạch (hay là quyết định), tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra các công việc của các thành viên

trong tổ chức và của việc sử dụng tất cả các khả năng, cách tổ chức để đạt được mục tiêu và
tổ chức đã đề ra.
- Ra quyết định: Ra quyết định bao gồm việc lựa chọn phương hướng, đường lối, hành
động mà tổ chức và các bộ phận của nó phải tuân theo nhằm hoàn thành các mục tiêu của tổ
chức. Ra quyết định là giải pháp cho một vấn đề - là tìm giải pháp tối ưu để giải quyết tình
huống có vấn đề. Ra quyết định là hoạt động mang tính sáng tạo, hay nói cách khác nó là
biến dạng của hoạt động nhận thức trong đó bản chất của nó là quá trình tư duy. Sản phẩm
của quá trình ra quyết định là quyết định. Trong các quyết định, thì quyết định quan trọng,
phổ biến nhất là kế hoạch.
Lập kế hoạch là công việc liên quan đến việc thiết lập các mục tiêu cần thiết cho sự
phấn đấu của tổ chức. Lập kế hoạch là nền tảng của quản lí. Nếu chỉ tuyên bố về các mục
tiêu đã lựa chọn thì nó vẫn chỉ là những ước muốn và hy vọng, mặc dù có tính toán, nghiên
cứu kỹ lưỡng. Muốn biến các mục tiêu thành hiện thực thì phải lập kế hoạch.
- Tổ chức: Tổ chức là sự sắp đặt một cách khoa học những yếu tố, những lượng người,
những dạng hoạt động thành một hệ toàn vẹn nhằm bảo đảm cho chúng tương tác với nhau
một cách tối ưu đưa hệ tới mục tiêu. Hệ bao gồm chủ thể quản lí và khách thể quản lí. Tổ
chức bao gồm việc xác định một cơ cấu định trước. Tổ chức là hoạt động cần thiết để đạt
được mục tiêu, là công cụ của quản lí.
Hoạt động tổ chức trước hết và chủ yếu là xây dựng cơ cấu tổ chức. Cơ cấu tổ chức
quản lí giáo dục bao gồm các công việc sau: Xác định những hoạt động cần thiết để đạt mục
tiêu; Nhóm gộp các hoạt động này thành các bộ phận; Giao hoạt động cho một người quản lí;
Giao phó quyền hạn cho người quản lí thực hiện nhiệm vụ; Chuẩn bị đầy đủ cho sự phối hợp
hoạt động, quyền hạn, thông tin ngang, dọc.
- Chỉ đạo: Chỉ đạo thể hiện tính tích cực của người chỉ huy trong hoạt động của mình.
Chỉ đạo thực hiện kế hoạch là có sự theo dõi và giám sát công việc để chỉ huy, ra lệnh cho
các bộ phận và các hoạt động của nhà trường diễn ra đúng hướng, đúng kế hoạch, tập hợp
được các lực lượng giáo dục trong một tổ chức và phối hợp tối ưu với nhau. Là quá trình tác


động đến con người, điều khiển họ, làm cho họ tự giác nỗ lực phấn đấu đạt được mục tiêu đề

ra của tổ chức. Muốn chỉ đạo tốt cần thu thập thông tin chính xác, biết phân tích, xử lý các
nguồn thông tin và đưa ra các quyết định đúng đắn. Điều đó nếu thực hiện tốt sẽ nâng cao uy
tín của người chỉ đạo, còn ngược lại sẽ làm giảm uy tín. Nguồn thu tập thông tin quan trọng
là kiểm tra, kiểm kê, thanh tra, đánh giá.
- Kiểm tra: Là việc đánh giá kết quả, là đo lường và điều chỉnh các hoạt động của việc
nhằm tìm ra những ưu, nhược điểm. Thông qua việc kiểm tra phát huy cái tốt, hạn chế tồn tại
hoặc để điều chỉnh việc lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo. Kiểm tra là một chức năng cơ bản và
quan trọng của quản lý. Chỉ đạo mà không kiểm tra thì coi như không chỉ đạo. Theo lý
thuyết hệ thống kiểm tra chính là thiết lập mối quan hệ ngược trong quản lý. Kiểm tra trong
quản lýmột nỗ lực có hệ thống nhằm thực hiện ba chức năng: phát hiện, điều chỉnh và
khuyến khích. Nhờ có kiểm tra mà người CBQL có được thông tin để đánh giá được thành
tựu công việc và uốn nắn, điều chỉnh hoạt động một cách đúng hướng nhằm đạt mục tiêu.
1.2.2 Biện pháp quản lí
Theo từ điển tiếng Việt năm 2003 của viện ngôn ngữ học thì: "Biện pháp là cách làm,
cách giải quyết một vấn đề cụ thể".
Từ khái niệm quản lí và khái niệm biện pháp, ta có thể hiểu: "Biện pháp quản lí là cách
làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể trong quá trình tổ chức và điều khiển các hoạt động
theo những yêu cầu nhất định ".
1.2.3 Hoạt động tự học
* Khái niệm hoạt động
“Hoạt động là nội dung cuộc sống của con người, là phương thức của sự tồn tại và phát
triển của con người” [16, tr 29].
“Hoạt động là quá trình tác động qua lại giữa con người với thế giới xung quanh để tạo
ra sản phẩm về phía thế giới và sản phẩm về phía con người” [21, tr 49].

Cấu trúc của hoạt động bao gồm sáu thành tố chia làm hai hàng tương ứng từng thành
tố như sau:


Động cơ

Hoạt động cụ thể

Mục đích

Phương tiện, điều kiện

Hành động

Thao tác

Cấu trúc hoạt động gồm ba cấp bậc từ thấp đến cao: cấp bậc thao tác; cấp bậc hành
động và cấp bậc hoạt động. Hoạt động nào cũng được thúc đẩy bởi động cơ tương ứng, đó
chính là cái đích cuối cùng mà con người muốn vươn tới, động cơ thực chất là mục đích tổng
quan. Hoạt động được cấu thành bởi nhiều hành động bộ phận, cái mà hành động nhằm đạt
tới là mục đích, mục đích chính là bộ phận của động cơ. Mục đích bộ phận phải được cụ thể
hóa thêm một bước nữa và nó được qui định bởi các phương tiện, điều kiện cụ thể nơi diễn
ra hành động. Thao tác (động tác) là những phương thức để giải quyết các nhiệm vụ trong
điều kiện cụ thể đó, hay nói cách khác nó là phương thức để thực hiện hành động.
Hoạt động có những đặc điểm cơ bản thể hiện bản chất của nó, đó là:
- Tính có đối tượng: bản thân khái niệm hoạt động đã nói lên nó có tính đối tượng, vì
hoạt động là quá trình tác động vào thế giới, cụ thể là một cái gì đó. Hoạt động học tập là
nhằm vào tri thức, kỹ năng, kỹ xảo để chủ thể lĩnh hội chúng đưa thành vốn kinh nghiệm của
bản thân.
- Tính chủ thể: hoạt động bao giờ cũng do chủ thể tiến hành. Nói đến hoạt động là nói
ngay đến do một chủ thể nào đó thực hiện. SV là chủ thể của hoạt động học tập, GV là chủ
thể của hoạt động dạy.
- Tính mục đích: Hoạt động bao giờ cũng có tính mục đích nhất định. Trong mọi hành
động của con người đều nổi lên tính mục đích rõ rệt. Học tập để có tri thức, kỹ năng, kỹ xảo,
thỏa mãn nhu cầu nhận thức, để chuẩn bị hành trang khi bước vào công việc, bước vào giai
đoạn mới của cuộc sống.


* Khái niệm Hoạt động tự học
Theo Từ điển Tiếng Việt “tự học là học lấy một mình trong sách chứ không có thầy
dạy” [17].
Nguyễn Hiến Lê cho rằng: “Tự học là không ai bắt buộc mà tự mình tìm tòi, học hỏi để
hiểu biết thêm. Có thầy hay không ta không cần biết. Người tự học hoàn toàn làm chủ mình.
Muốn học môn nào tùy ý, muốn học lúc nào cũng được: đó mới là điều kiện quan trọng” [9].


Theo PGS. TS Hoàng Anh và Võ Thị Châu thì: “Tự học là hoạt động đòi hỏi có ý thức
tự giác cao, mang tính độc lập, cá nhân phải có thái độ đúng, có hệ thống kỹ năng tự học. Tự
học thể hiện sự tìm tòi, sáng tạo, tự điều khiển, tự điều chỉnh, tự kiểm tra việc học của chính
mình” và “Tự học của SV đại học là một hoạt động mà ở đó SV giữ vai trò chủ động, tích
cực, tự giác cao trong việc học tập và nghiên cứu nhằm lĩnh hội tri thức khoa học theo một
ngành nghề nhất định, hình thành kỹ năng, kỹ xảo tương ứng để tạo ra sự phát triển nhân
cách của SV đại học - những chủ nhân tương lai của đất nước đáp ứng được yêu cầu của xã
hội trong thời kỳ mới” [1].
Tự học cũng là một trong những hoạt động chủ yếu của SV. Đó là hình thức người học
tự tổ chức hoạt động nhận thức của cá nhân nhằm nắm vững tri thức, hình thành kỹ năng
nghề nghiệp cần thiết dưới sự hướng dẫn, tổ chức điều khiển và điều chỉnh của GV để phát
triển và hoàn thiện nhân cách.
Theo Đặng Hữu Hoạt, Hà Thị Đức: "Tự học là một hình thức tổ chức dạy học cơ bản ở
đại học. Đó là một hình thức hoạt động nhận thức của cá nhân, nhằm nắm vững hệ thống tri
thức và kỹ năng do chính bản thân người học tiến hành ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp, theo
hoặc không theo chương trình và sách giáo khoa đã quy định" [7].
Theo GS. TS Nguyễn Cảnh Toàn: "Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các
năng lực trí tuệ và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của
mình rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh vực đó thành
sở hữu của mình" [25]. GS đã cho rằng: cốt lỗi của sự học ở người là tự học. Hễ có học là có
tự học. Khi nói đến học là nói đến mối quan hệ giữa người học với người dạy - ngoại lực,

còn khi nói đến tự học là nói đến chính những yếu tố bên trong của người học - nội lực.
Trong dạy học để đạt được hiệu quả thì ngoại lực phải biết tác động đến nội lực và tạo nên sự
cộng hưởng với yếu tố nội lực.
Theo TS Võ Quang Phúc: "Học, một khi được hiểu như là sự chiếm lĩnh kinh nghiệm
của nhân loại, thì tự nó bao gồm cả HĐTH. Nói khác đi, tự học là bộ phận của học, nó cũng
được tạo thành bởi những thao tác, cử chỉ, ngôn ngữ, hành động của người học trong hệ
thống tương tác của hoạt động dạy học. Tự học phản ánh rõ nhất nhu cầu bức xúc về học tập
của người học, phản ánh năng lực tổ chức và tự điều khiển của người học nhằm đạt kết quả
nhất định trong hoàn cảnh nhất định với một nội dung học tập nhất định"[18].


Học là quá trình con người nỗ lực lĩnh hội hệ thống tri thức khoa học, kỹ năng, kỹ xảo.
Quá trình này đòi hỏi phải có hai điều kiện: Thứ nhất, người học phải tự giác về mục đích
học tập và tích cực thực hiện mục đích đó. Thứ hai, quá trình đó phải được thực hiện dưới sự
điều khiển, hướng dẫn của nhà giáo dục. Ở điều kiện thứ nhất thể hiện trong quá trình học,
người học phải biết tự học – tự giác phát huy hết phẩm chất và năng lực của mình để chiếm
lĩnh tri thức.
Qua các khái niệm trên, với những góc độ tiếp cận khác nhau cho thấy, tự học là hình
thức tổ chức hoạt động nhận thức có tính chất cá nhân để chiếm lĩnh hệ thống tri thức mà cá
nhân muốn đạt được và có ý nghĩa rất rộng: có thể là tự học có thầy hay không có thầy
hướng dẫn, tự học trong hay ngoài giờ lên lớp, nó diễn ra khi còn ngồi trên ghế nhà trường
và cả khi đã ra trường. Biểu hiện ở việc cá nhân tự thực hiện những nội dung sau: Xác định
mục tiêu chiếm lĩnh kiến thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo; Lập kế hoạch tự học; Xác định nội
dung, nhiệm vụ tự học; Lựa chọn phương pháp, sử dụng phương tiện tự học phù hợp; Tự
kiểm tra - đánh giá và điều chỉnh việc học của bản thân.
HĐTH của SV được biểu hiện ở nhiều mặt (như quan niệm, động cơ, thái độ, ý chí,
phương pháp và kỹ năng học tập) và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố chủ quan và khách
quan (như tài liệu, phương tiện học tập, bạn bè, tập thể, GV, gia đình, nhà trường, xã hội).
HĐTH là quá trình tổ chức nhận thức độc lập, tự phát huy năng lực cá nhân một cách
tích cực, tự giác, tự lực chiếm lĩnh tri thức khoa học. HĐTH về bản chất là sự tiếp thu, tự xử

lý thông tin, chủ yếu bằng các thao tác trí tuệ.
Cấu trúc của hoạt động tự học:
+ Động cơ: là những hiện tượng, sự vật trở thành cái kích thích, thúc đẩy tính tích cực
học tập ở người SV nhằm đạt kết quả nhận thức và hình thành phát triển nhân cách. Động cơ
là yếu tố quyết định đến kết quả học tập của người học. Những động cơ phù hợp sẽ kích
thích chủ thể tiến hành hoạt động học tập có mục đích. Đó chỉ có thể là những động cơ gắn
liền với nội dung học tập hay nói cách khác là động cơ hoàn thiện bản thân.
+ Nội dung: là hệ thống tri thức, kỷ năng, kỹ xảo cần chiếm lĩnh. Nội dung của tự học
rất phong phú, bao gồm toàn bộ những công việc học tập do cá nhân và có khi do tập thể SV
tiến hành ngoài những giờ học chính khóa, hoặc do bản thân SV độc lập tiến hành ngay cả
trong giờ học trên lớp, như chỉnh lí lại vở ghi, đọc sách, làm bài tập, chuẩn bị sêmina, làm thí


nghiệm, tham gia các hoạt động thực tế, thực tập…
+ Kế hoạch tự học: là bảng phân chia nội dung tự học dựa trên yêu cầu nhiệm vụ tự
học, khả năng bản thân và các điều kiện bảo đảm để đạt được mục tiêu đề ra.
+ Phương pháp tự học: là cách thức chiếm lĩnh nội dung tự học.
+ Hình thức tự học: là các kiểu diễn ra HĐTH (tự học một mình, theo nhóm, theo lớp. .
. ).
+ Năng lực tự học: là những phẩm chất trí tuệ mà hiệu quả học tập phụ thuộc vào đó
(tính định hướng, bề rộng, độ sâu. . . ).
+ Tự kiểm tra - đánh giá: là hoạt động kiểm tra của cá nhân đối với kết quả tự học, phát
hiện sai lệch, giúp người học điều chỉnh, làm cơ sở cho HĐTH tiếp theo.
+ Phương tiện tự học: sách vở, thiết bị dạy học, thư viện, phòng học và thực hành và
điều kiện CSVC khác.
1.2.4 Sinh viên
Theo từ điển Tiếng Việt của nhóm tác giả Viện ngôn ngữ học thuộc ủy ban KHXH Việt
Nam: “Học viên là người lớn tuổi học ở những trường lớp không thuộc hệ thống giáo dục
phổ thông hay đại học” [17, tr.477]. Trong trường đại học, SV hoặc học viên là danh từ
chung chỉ những người tiếp thu sự giáo dục của giảng viên, không phân biệt người này với

người khác. SV có nghĩa vụ tham gia vào hoạt động học tập, rèn luyện mà nhà trường tổ
chức. Học là hoạt động chủ yếu và là nhiệm vụ của SV.
Theo Thông tư số 50/2009/TT-BCA(X11) ngày 01/9/2009 của Bộ Trưởng Bộ CA ban
hành “Quy định về công tác quản lí, giáo dục học viên các Học viện, trường đại học, cao
đẳng và trung cấp CAND” tại khoản 2 của điều 1, Học viên được định nghĩa như sau:
“Người đang học tập theo hình thức tập trung, không tập trung, vừa làm, vừa học, các
lớp bồi dưỡng tại các trường CAND (được gọi chung là học viên) gồm: người học để được
cấp bằng Tiến sỹ (Nghiên cứu sinh), cấp bằng Thạc sỹ (học viên Cao học), cấp bằng Đại
học, Cao đẳng (SV), cấp bằng trung cấp (học sinh) và các lớp bồi dưỡng ngắn hạn (học
viên)”.
Như vậy theo quy định trên đây của Bộ Công An học viên là tên gọi chung cho người
học ở các hệ đào tạo, các trường thuộc ngành CAND, đây là tên gọi chung được dùng trong
các văn bản có liên quan đến công tác đào tạo, quản lí của Ngành. Tuy nhiên, về thực chất


người học để được cấp bằng đại học, cao đẳng vẫn được gọi là SV. Đề tài này nghiên cứu,
khảo sát trên đối tượng là SV hệ chính qui được đào tạo để cấp bằng đại học.
1.3 Vai trò của tự học trong giáo dục và đào tạo
- Tự học giúp người học chiếm lĩnh và nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo trong nghề
nghiệp tương lai một cách nhanh chóng và bền vững. Trong dạy học người học đóng vai trò
là chủ thể nhận thức và mối quan hệ giữa việc dạy và tự học là quan hệ ngoại lực – nội lực.
Chính vì vậy, cho dù người dạy có giỏi đến đâu cũng chỉ là người hướng dẫn, là chất xúc tác
để người học tự nhận thức, tự chiếm lĩnh tri thức, tự học mới là yếu tố nội lực quyết định đến
tính chất và tốc độ của quá trình chiếm lĩnh tri thức của người học. Ở đây, SV đã thể hiện ở
mức độ cao vai trò của chủ thể nhận thức và kết hợp thống nhất, hài hòa giữa vai trò là chủ
thể nhận thức với vai trò là đối tượng điều khiển trong dạy học. Hoạt động học gắn chặt với
HĐTH, tự học là cốt lõi của việc học. Qua tự học sẽ giúp người học tự kiểm tra mức độ kết
quả lĩnh hội kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo để người học tự điều chỉnh hoạt động học tập của
mình.
- Tự học còn giúp SV hình thành niềm tin khoa học và rèn luyện ý chí phấn đấu, đức

tính kiên trì, óc phê phán, bồi dưỡng hứng thú học tập, lòng say mê nghiên cứu khoa học.
Qua HĐTH SV mới tìm ra những vấn đề cần nghiên cứu sâu, có những chính kiến của bản
thân và tìm những luận cứ để chứng minh hay phản biện các vấn đề khoa học, từ đó hình
thành những đức tính tốt đối với một nhà khoa học thực thụ. Những đức tính đó không thể
được truyền từ người dạy qua người học mà chính người học phải tích cực lao động bằng trí
óc mới có thể hình thành.
- Tự học không những giúp SV không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả học tập
từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường mà còn có thể hình thành phương pháp, niềm tin, thái độ
tự học, tự nghiên cứu suốt đời để thích ứng với sự biến đổi nhanh chóng, toàn diện, tốc độ
cao của xã hội.
- Tự học giúp nâng cao chất lượng GD - ĐT của nhà trường. Mục tiêu của giáo dục đào
tạo là biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Quá trình đào tạo phải tạo ra những
người biết tự học, có phương pháp tự học và tự học một cách có hiệu quả chứ không phải
dạy học một cách nhồi nhét, thụ động, áp đặt. Nhất là trong dạy học ở bậc đại học thì mục
tiêu đó càng trở nên quan trọng và có ý nghĩa, vì thực chất học ở đại học là học phương pháp


và chỉ học những kiến cơ bản mang tính chất nền tảng. Tự học một cách sáng tạo sẽ giúp
nâng cao chất lượng và hiệu quả học tập của người học, từ đó sẽ nâng cao chất lượng của quá
trình GD - ĐT.
Như vậy, tự học đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình nhận thức của cá
nhân, góp phần nâng cao chất lượng GD – ĐT. Vấn đề là HĐTH có cần được quản lýkhông?
Nếu có thì phải quản lýnhư thế nào cho phù hợp? Những vấn đề này sẽ làm sáng tõ trong
phần tiếp theo: phần Quản lýhoạt động tự học.
1. 4 Quản lí hoạt động tự học
* Quản lí trường học
Quản lí trường học là sự quản lí của chủ thể quản lí (Hiệu trưởng) đối với khách thể
quản lí (là toàn bộ những con người, những hoạt động, những tổ chức và những phương tiện
vật chất, kỹ thuật, tài chính của nhà trường) để đạt được mục tiêu GD – ĐT của trường học
đó. Hoạt động trung tâm của nhà trường là hoạt động dạy - học. Vì vậy, quản lí nhà trường

thực chất là quản lí hoạt động dạy - học.
1.4.1 Quản lí hoạt động dạy - học
Dạy - học bao gồm hai hoạt động: hoạt động dạy và hoạt động học.
GV với hoạt động dạy có chức năng tổ chức, điều khiển tối ưu quá trình người học
chiếm lĩnh tri thức, qua đó hình thành và phát triển nhân cách người học.
Hoạt động học của trò là quá trình tự giác, tích cực, tự lực chiếm lĩnh tri thức dưới sự
điều khiển sư phạm của thầy. Như vậy, hoạt động học có chức năng là lĩnh hội thông tin dạy
của thầy và tự điều khiển quá trình chiếm lĩnh tri thức khoa học của mình một cách tự giác,
tích cực, tự lực. Hai hoạt động này luôn gắn bó mật thiết với nhau, tồn tại cho nhau và vì
nhau. Dạy học là một quá trình tác động qua lại giữa người dạy và người học, là quá trình
người dạy kích thích và điều khiển tính tích cực bên ngoài và bên trong của người học để họ
lĩnh hội những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp tương lai. Chính vì vậy, quản lí hoạt
động dạy và học là một công việc khó khăn, phức tạp, luôn đòi hỏi người quản lí phải nắm
vững bản chất, diễn biến của quá trình dạy học để có kế hoạch chỉ đạo thực hiện mục tiêu đã
đề ra, góp phần quản lí tốt HĐTH của người học.
Hoạt động dạy học là đối tượng quản lí quan trọng nhất trong công tác quản lí trường


học, là hoạt động trọng tâm, xuyên suốt chi phối mọi hoạt động khác trong quá trình đào tạo
của nhà trường.
* Nội dung quản lí hoạt động dạy - học
- Quản lí hoạt động của GV trong việc tổ chức nhận thức cho học sinh thực hiện kế
hoạch đào tạo, nội dung chương trình, giảng dạy theo đúng tiến độ thời gian quy định. Trong
đó chú trọng quản lí PPDH của GV giúp cho người học có phương pháp tự học tốt.
- Quản lí hoạt động của người học trong việc tiếp thu, xử lý thông tin chủ yếu thông qua
quá trình tích cực, tự giác, tự lực của bản thân, từ đó có được tri thức khoa học và thái độ
mới.
- Việc chấp hành các quy định (điều lệ, chế độ, nội quy, qui định... ) về hoạt động dạy
học của người dạy và hoạt động học tập của người học đảm bảo cho quá trình dạy học được
tiến hành có nề nếp, ổn định, có hiệu quả và chất lượng cao.

Chức năng chủ yếu của nhà trường là dạy học và GD học sinh. Chức năng đó cần được
cụ thể hóa một cách chặt chẽ thông qua các chương trình, kế hoạch dạy học, đào tạo, hoạt
động của nhà trường... Từ đó xây dựng nề nếp dạy học, xây dựng môi trường sư phạm lành
mạnh với kỷ luật tự giác, tình cảm và trách nhiệm cao, xây dựng mối quan hệ thân thiện,
giúp đỡ nhau công tác, học tập giữa GV và học sinh cũng như khơi dậy và khuyến khích
tính tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập của người học.
1.4.2 Quản lí hoạt động tự học
1.4.2.1 Đặc điểm quản lí HĐTH
Trong quá trình dạy học của các trường đại học, SV có thể tiến hành hoạt động học tập
dưới nhiều hình thức khác nhau trong những điều kiện khác nhau. Khi người học tự mình
huy động những phẩm chất, năng lực để tiến hành các hành động tìm tòi, khám phá độc lập
nhằm mục đích chiếm lĩnh tri thức – khi đó họ đã tiến hành HĐTH. Hoạt động tự học của
SV có thể diễn ra dưới sự chỉ đạo của GV.
Khi không có GV điều khiển, hướng dẫn trực tiếp, người học tự mình sắp xếp kế hoạch,
huy động các điều kiện vật chất và năng lực của bản thân để củng cố, đào sâu mở rộng và
hoàn chỉnh kiến thức, hoàn thành nhiệm vụ học tập mà GV giao, lĩnh hội một phần kiến thức
mới. Đó là SV tự học dưới sự điều khiển gián tiếp của GV nhằm hoàn thành tốt nhất nhiệm


vụ học tập.
Trong quá trình học tập, ngoài những hoạt động được tiến hành dưới sự tổ chức, điều
khiển của GV theo chương trình của nhà trường, người học còn tiến hành HĐTH nhằm đáp
ứng nhu cầu nâng cao, mở rộng kiến thức hiểu biết riêng. Như vậy, HĐTH của SV có phạm
vi rất rộng: từ tự học trên lớp dưới sự điều khiển trực tiếp của GV, tự học ngoài giờ lên lớp
dưới sự điều khiển gián tiếp của GV và tự học hoàn toàn độc lập không có GV, ngoài
chương trình qui định như trong phần khái niệm tự học đã nêu và phân tích.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi chỉ xem xét việc quản lí HĐTH của SV
Trường ĐH ANND ngoài giờ lên lớp trong quá trình dạy - học và đặt dưới sự điều khiển
gián tiếp của GV, đặt dưới sự tổ chức, quản lí của cán bộ quản lí lớp, nhằm hoàn thành mục
đích, nhiệm vụ dạy học của trường.

HĐTH được đề cập dưới góc độ là quá trình độc lập nổ lực của người học nhằm củng
cố, đào sâu, mở rộng và vận dụng kiến thức đã được lĩnh hội qua các hình thức học tập trên
lớp, là quá trình người học tự tổ chức hoạt động nhận thức của mình một cách tự giác, độc
lập và sáng tạo. Trong quá trình tự học, người học tự xác định mục tiêu, nội dung tự học theo
một trình tự hợp lý, phân phối thời gian cho từng nội dung, lựa chọn phương tiện, vật chất, tự
huy động năng lực cá nhân để hoàn thành công việc, tự kiểm tra và tự điều chỉnh HĐTH của
mình để hoàn thành tốt nhiệm vụ tự học đề ra.
Do vậy, đề tài nghiên cứu quản lí HĐTH dưới góc độ quản lí các hoạt động của người
học trong quá trình tự học ngoài giờ lên lớp và quản lí các điều kiện đảm bảo cho HĐTH
nhằm làm cho HĐTH của người học đạt hiệu quả cao, hoàn thành mục đích, nhiệm vụ dạy học.
1.4.2.2 Nội dung quản lí hoạt động tự học
Xét dưới góc độ cấu trúc hệ thống của HĐTH, thì quản lí HĐTH gồm các nội dung sau:
- Giáo dục động cơ tự học cho SV.
Mọi hoạt động của con người đều là hoạt động có mục đích, được thúc đẩy bởi động cơ
nhất định. Động cơ hoạt động là lực đẩy trực tiếp, là nguyên nhân trực tiếp của hành động,
duy trì hứng thú, tạo ra sự chú ý liên tục giúp chủ thể vượt mọi khó khăn, đạt mục đích đã
định. Vì vậy, động cơ là một yếu tố quan trọng quyết định kết quả của hoạt động đó.


HĐTH của SV bình đẳng như các hoạt động khác, song nó có tính độc lập cao và mang
đậm sắc thái cá nhân, điều này càng khẳng định nó được thúc đẩy bởi hệ thống động cơ học
tập nói chung, động cơ tự học nói riêng. Giống như động cơ hoạt động nói chung, động cơ tự
học cũng có nhiều cấp độ khác nhau, bắt đầu tự sự thỏa mãn nhu cầu phải hoàn thành nhiệm
vụ tự học bắt buộc, tự khẳng định mình trong xã hội, trong học tập và công tác cho tới cấp độ
cao là thảo mãn nhu cầu hiểu biết, nhu cầu khám phá tri thức nhân loại.
- Quản lí nội dung tự học
Để quản lí được nội dung tự học, hướng cho SV xác định nội dung tự học phù hợp mục
tiêu, yêu cầu đào tạo và môn học, GV phải hướng dẫn nội dung tự học cho SV. Nội dung tự
học cơ bản có hai phần:
+ Hệ thống các nhiệm vụ tự học có tính chất bắt buộc (SV bắt buộc phải hoàn thành).

+ Định hướng nghiên cứu, đào sâu, mở rộng trí thức từ các vấn đề trong nội dung học
tập.
- Quản lí kế hoạch tự học
Xây dựng kế hoạch tự học là việc làm quan trọng góp phần nâng cao chất lượng tự học.
Kế hoạch tự học là bảng phân chia nội dung tự học theo thời gian một cách hợp lý dựa trên
yêu cầu nhiệm vụ tự học, khả năng của bản thân và các điều kiện được đảm bảo, nhằm
hướng tới mục tiêu đào tạo, mục tiêu môn học, bài học. Kế hoạch tự học giúp cho người học
thực hiện các nhiệm vụ tự học một cách khoa học, hiệu quả.
Quản lí việc xây dựng kế hoạch và quản lýthực hiện kế hoạch tự học sẽ góp phần nâng
cao chất lượng tự học của SV.
- Quản lí phương pháp tự học
Phương pháp tự học là những cách thức mà cá nhân người học sử dụng để tiếp thu, xử
lý nội dung học tập trong quá trình nhận thức của mình. Phương pháp tự học có mối quan hệ
chặt chẽ với các yếu tố của quá trình dạy học, bị chi phối bởi các yếu tố đó, đặc biệt là
phương pháp dạy. Với chức năng tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức cho người học,
phương pháp dạy có tác dụng định hướng phương pháp tự học cho người học.
Nội dung quản lí phương pháp tự học, gồm:
+ Quản lí tri thức phương pháp tự học: Người học nắm mô hình, chức năng của từng


phương pháp cụ thể và sự sáng tạo phương pháp trong tự học.
+ Quản lí kỹ năng tự học: Nghe (giảng trên lớp, băng đĩa) đọc (giáo trình, tài liệu tham
khảo khác...) ghi chép, trao đổi, xử lý số liệu, phân tích, tổng hợp, so sánh của SV.
- Quản lí các điều kiện đảm bảo cho HĐTH của SV gồm các mặt sau:
+ Quản lí CSVC phục vụ học tập trên lớp và tự học.
+ Quản lí tài liệu, phương tiện kỹ thuật phục vụ tự học.
+ Quản lí các hoạt động đảm bảo thời gian cho HĐTH của SV.
- Quản lí việc kiểm tra - đánh giá kết quả HĐTH của SV.
+ Kiểm tra, đánh giá tinh thần, thái độ tự học trong tổng thể đánh giá kết quả học tập.
+ Chọn hình thức kiểm tra phù hợp, có hình thức kiểm tra những nội dung tự học đã

giao cho SV.
+ Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch tự học theo các mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ tự học.
Phát hiện sai lệch, giúp người học điều chỉnh HĐTH.
Tóm lại, dù HĐTH là hoạt động của SV, do chính SV “tự động học tập, tự động tiến
hành”, nhưng khi được quản lýtác động thì chắc chắn hoạt động này sẽ có hiệu quả hơn.


Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SV
Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN NINH NHÂN DÂN.
2.1 Một số nét khái quát về địa bàn nghiên cứu
Trường ĐH ANND được thành lập theo Quyết định số 164/2003/QĐ-TTg ngày
30/7/2003 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở Phân hiệu Học viện ANND. Tiền thân của
Trường ĐH ANND là trường An ninh Trung ương Cục Miền Nam được thành lập ngày
09/10/1963 tại căn cứ địa cách mạng Tây Ninh trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước theo chỉ thị
của Trung ương Cục và Bộ Công An. Trường ĐH ANND đã trải qua các thời kỳ phát triển
với những tên gọi khác nhau sau đây:
Trường An ninh Trung ương cục miền Nam (1963-1975)
Trường Bổ túc Sỹ quan CAND (1976-1984)
Trường Cao đẳng ANND II (1984-1989)
Trường Đại học ANND cơ sở phía Nam (1989-1995)
Phân hiệu Đại học ANND (1995-2001)
Phân hiệu Học viện ANND (2001-2003)
Đại học An ninh nhân dân (2003- đến nay)
Trong bất cứ điều kiện hoàn cảnh nào, cán bộ, GV và sinh viên nhà trường đều vượt
qua những khó khăn, thử thách để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và
Ngành Công an giao phó.
Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, với nhiệm vụ vừa trực tiếp chiến đấu bảo vệ căn cứ,
vừa xây dựng trường, tổ chức đào tạo nhân lực bổ sung cho chiến trường, CSVC tạm bợ,
thường xuyên di dời, đội ngũ cán bộ GV nhà trường chưa qua đào tạo về nghiệp vụ sư phạm,
chủ yếu là những cán bộ lãnh đạo chỉ huy an ninh dày dạn kinh nghiệm chiến đấu vừa đúc

kết kinh nghiệm từ thực tiễn chiến đấu vừa giảng dạy truyền thụ cho học viên. Học viên vừa
học vừa chiến đấu, vận dụng kiến thức học được vào công tác thực tiễn. Nhưng cũng chính
trong điều kiện đó, cán bộ, GV và học viên nhà trường đã phát huy tinh thần tự học cao để
hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên giao. Trong thời kỳ này, nhà trường đã đào tạo được 70
khóa học gồm 5. 000 học viên với đa dạng chuyên ngành: điệp báo, an ninh chính trị, an ninh
vũ trang, an ninh nội bộ, an ninh cơ sở…đã biên soạn được 56 chương trình môn học, đề


×