Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

TIỂU LUẬN tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về CÁCH LÃNH đạo TRONG tác PHẨM sửa đổi lối làm VIỆC ý NGHĨA đối với CÔNG tác xây DỰNG, CHỈNH đốn ĐẢNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.65 KB, 16 trang )

1

TƯ TƯỞNG CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH LÃNH ĐẠO

TRONG TÁC PHẨM “SỬA ĐỔI LỐI LÀM VIỆC”. Ý
NGHĨA ĐỐI VỚI
CÔNG TÁC XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG TA HIỆN
NAY
Là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, sinh thời Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã không ngừng chăm lo xây dựng, rèn luyện Đảng ta thành một
Đảng mácxít thật sự vững mạnh để lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi các
mục tiêu, lý tưởng cách mạng. Từ nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn,
Người đã khái quát nên một hệ thống các luận điểm có tính quy luật về xây
dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cùng với sự nghiệp cách mạng vĩ đại của mình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nhiều tác phẩm có giá trị
to lớn. Đặc biệt, mỗi khi cách mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn
mới, Người lại có những bài nói, bài viết và tác phẩm quan trọng, thể hiện
một tư duy thống nhất, biện chứng, xuyên suốt về công tác củng cố đội ngũ
của đội tiên phong của dân tộc. Trong đó, tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc" của
Người đã đáp ứng kịp thời cho công tác xây dựng Đảng trong điều kiện mới.
Từ sau cách mạng Tháng Tám - 1945, Đảng ta trở thành Đảng cầm
quyền, nhiệm vụ của Đảng có sự thay đổi căn bản, Đảng vừa lãnh đạo toàn
dân tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, vừa lãnh đạo phát triển
kinh tế, xây dựng cuộc sống mới ở những vùng giải phóng, thực hiện "diệt
giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm". Điều đáng quan tâm hơn, trở thành Đảng
cầm quyền nên phần lớn đảng viên có chức, có quyền, do vậy chưa đầy một
năm những bệnh tật của một Đảng cầm quyền như V.I.Lênin từng cảnh báo
đã nảy sinh như: Bệnh địa phương chủ nghĩa, óc bè phái, óc quân phiệt quan
liêu, óc hẹp hòi, ham chuộng hình thức, làm việc lối bàn giấy, ích kỷ kiêu



2

ngạo...Trước tình hình đó Người đã viết hai bức thư quan trọng: "Thư gửi các
đồng chí Bắc Bộ" (tháng 3/1947) và "Thư gửi các đồng chí Trung Bộ" 1.
Trong hai bức thư trên, Người căn dặn: “Trong lúc dân tộc đang ở ngã
tư đường, chết hay sống, mất hay còn, mỗi đồng chí và toàn cả Đoàn thể phải
đem tất cả tinh thần và lực lượng ra để đưa toàn dân quay về một hướng,
nhằm vào một mục đích đánh đuổi thực dân Pháp làm cho nước nhà thống
nhất và độc lập. Mỗi đồng chí và toàn cả Đoàn thể phải: Sáng suốt, khôn
khéo, cẩn thận, kiên quyết, siêng năng, nhất trí...Trong lúc này tư tưởng và
hành động của mỗi một đồng chí là rất có quan hệ đến toàn quốc. Nếu một
người sơ suất, một việc sơ suất là có thể hỏng việc to; sai một ly đi một
dặm”2. Đồng thời, Người đã chỉ ra những khuyết điểm trên và yêu cầu phải
kiên quyết khắc phục thì cách mạng mới chắc chắn đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Tiếp theo các bức thư, để quán triệt chủ trương thực hiện cuộc kháng
chiến toàn dân, toàn diện thì cần phải xây dựng các nhân tố, đặc biệt nhân tố
quan trọng nhất, quyết định nhất bảo đảm cho kháng chiến thắng lợi là củng
cố, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Vào tháng 10/1947, trên đường cùng
Trung ương Đảng trở lại chiến khu Việt Bắc để lãnh đạo toàn dân tiến hành
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
viết tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc". Đây là một tác phẩm quan trọng về xây
dựng đảng cầm quyền, có giá trị lịch sử và ý nghĩa lý luận, thực tiễn to lớn.
Đầu năm 1948, tác phẩm được in lần đầu và nhanh chóng trở thành cuốn sách
gối đầu giường của cán bộ, đảng viên.
Với mục đích của tác phẩm là nhằm nâng cao trình độ lý luận, nâng
cao tư tưởng và tình cảm cách mạng, nâng cao phẩm chất cách mạng, cách
lãnh đạo của Đảng, tác phong công tác của người cán bộ cách mạng để đáp
ứng yêu cầu mới của tình hình và nhiệm vụ cách mạng. Trong tác phẩm "Sửa
1

2

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr.71-76.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, 1995,tập 5, tr.71.


3

đổi lối làm việc", Chủ tịch Hồ Chí Minh phê phán "Chủ nghĩa cá nhân" vì đó
là một thứ "vi trùng rất độc" nó sinh ra các khuyết điểm nghiêm trọng như
bệnh tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, ham địa vị, thiếu kỷ luật, óc lãnh tụ,
bệnh "hữu danh vô thực", kéo bè, kéo cánh, không biết nhìn xa, trông rộng. ..
Đồng thời, người vạch ra nguyên nhân và phương hướng khắc phục. Có như
vậy, Đảng mới thực sự là lực lượng tiên phong, ưu tú nhất của xã hội, là đầu
tàu của lịch sử.
"Sửa đổi lối làm việc" là một tác phẩm quan trọng bàn về công tác xây
dựng Đảng với nhiều nội dung, phương diện khác nhau. Trong đó, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã dành hẳn một chương (chương V), để trình bày về "Cách
lãnh đạo”, về phương thức lãnh đạo của một Đảng cầm quyền. Đây là vấn đề
có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn sâu sắc, là một đóng góp xuất sắc trong
học thuyết xây dựng Đảng của Người.
"Cách lãnh đạo" - phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cộng sản Việt Nam đầu tiên phát
hiện. Ngay từ năm 1927, trong tác phẩm "Đường cách mệnh", Nguyễn Ái
Quốc - Hồ Chí Minh đã nói đến phương pháp, phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với các hội, các giới bằng khái niệm "cách tổ chức". Tổng kết kinh
nghiệm cách mạng Tháng Tám, những năm đầu kháng chiến chống thực dân
Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu vấn đề "Đảng dùng cách gì và làm thế nào
để lãnh đạo" và Người đã trả lời: "1, Đảng đã truyền bá lý luận Mác - Lênin
vào trong nhân dân ta... 2, Trong mỗi giai đoạn cách mạng, Đảng căn cứ vào

tình hình trong nước và trên thế giới, đề ra những khẩu hiệu, mục tiêu và kế
hoạch đấu tranh... 3, Kinh qua đảng viên và các tổ chức của Đảng..." 1. Tuy
thật ngắn gọn, giản dị nhưng chứa đựng một nội dung sâu sắc, đặt nền móng
hình thành nguyên tắc phương thức lãnh đạo của Đảng.
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, 2000, t.7, tr.231 - 233.


4

Ở chương V của tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc", Chủ tịch Hồ Chí
Minh bàn chuyên về "Cách lãnh đạo" của Đảng, của mỗi cán bộ, đảng viên.
Người đã đưa ra một quan niệm hết sức đầy đủ, xác thực về "lãnh đạo đúng".
Theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh đạo đúng nghĩa là:
"1. Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì
nhất định phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng. Vì dân chúng chính là
những người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta.
2. Phải tổ chức sự thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân
chúng giúp sức thì không xong.
3. Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải
có quần chúng mới giúp được"1.
Từ quan điểm trên, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết để có nghị
quyết lãnh đạo đúng phải khắc phục tình trạng quan liêu, xa rời thực tiễn cuộc
sống. Người chỉ rõ: "Những người lãnh đạo chỉ trông thấy một mặt của công
việc, của sự thay đổi của mọi người: trông từ trên xuống. Vì vậy sự trông thấy
có hạn"3. Do đó, muốn giải quyết vấn đề cho đúng, ngoài kinh nghiệm, người
lãnh đạo phải phát huy kinh nghiệm của đảng viên, dân chúng. Một nghị
quyết có khả năng thực hiện được hay không, điều đó tuỳ thuộc một cách
quyết định vào thái độ, sự đồng tình của nhân dân. Một nghị quyết dù có hay

đến mấy, mà không phản ánh được nhu cầu nguyện vọng của nhân dân đều
không giành được sự hưởng ứng của họ. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Sự lãnh đạo
trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở
lại nơi quần chúng"2. Tuy nhiên với tư cách là lực lượng lãnh đạo, Đảng
"không nên theo đuôi quần chúng".
Thứ hai, trên thực tế một nghị quyết dù là đúng đắn, cũng chưa dễ
được chấp nhận ngay. Do đó, đòi hỏi phải thường xuyên tổ chức quán triệt,
1 ,3
2

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, 1995, t.5, tr..285, 286
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, 2000, t.5, tr. 290


5

giáo dục cho nhân dân, đồng thời phải không ngừng đấu tranh với mọi biểu
hiện vi phạm nghị quyết. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nghị quyết của Đảng
được thực hiện không chỉ bằng nỗ lực của cán bộ, đảng viên mà trước hết
phải bằng sức mạnh của toàn dân. Vì vậy, phải nâng cao tính chủ động của
nhân dân, bám sát dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, kịp thời bổ sung
những chủ trương biện pháp đúng. Có như vậy, mới "phá tan cách lãnh đạo
lờ mờ, quan liêu, chủ quan, bàn giấy".
Thứ ba, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Muốn chống bệnh quan liêu,
bệnh bàn giấy; muốn biết các nghị quyết có được thi hành không, thi hành có
đúng không; muốn biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách, là
khéo kiểm soát. Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa
kiểm soát khéo về sau khuyết điểm sẽ bớt đi" 1. Để kiểm tra, kiểm soát có
hiệu quả, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu phải kết hợp chặt chẽ làm từ trên
xuống, làm từ dưới lên, kết hợp sự kiểm tra kiểm soát của tổ chức đảng với sự

giám sát phê bình góp ý của quần chúng. Đối với tổ chức đảng phải tăng
cường tự phê bình và phê bình; đối với quần chúng phải phát huy quyền dân
chủ.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về "Cách lãnh đạo" còn chỉ ra
rằng: Một là, sau khi có đường lối, chính sách đúng thì việc lựa chọn, bố trí
cán bộ phù hợp với yêu cầu, nội dung, tính chất của nhiệm vụ, công việc có ý
nghĩa quan trọng đối với việc thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách. Theo
người: "Chọn người và thay người cũng là vấn đề quan trọng của việc lãnh
đạo" 2. Theo quan điểm của Người, việc bổ nhiệm cán bộ có lên có xuống là
chuyện bình thường, trong đó cần chú ý tới 3 hạng cán bộ và cách xử lý đối
với từng hạng: Người có năng lực yếu quan liêu, không làm được việc thì
phải thải; người mắc bệnh công thần, vô ý thức tổ chức kỷ luật thì phải thi
1
2

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, 1995, t.5, tr.287
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, 1995, t.5, tr.286


6

hành kỷ luật và bố trí ở cương vị thấp hơn cương vị đang đảm nhận; người chỉ
nói mà không làm, tuy thật thà, trung thành, nhưng không có năng lực làm
việc cũng không nên dùng.
Hai là, nắm vững đường lối, chính sách của Đảng để tuyên truyền,
giải thích và tổ chức quần chúng thực hiện, nhưng phải từ "điểm" đến "diện",
coi trọng xây dựng và phát huy vai trò lực lượng nòng cốt trong cán bộ và
trong quần chúng. Đường lối, chính sách của Đảng là phương hướng hành
động của quần chúng, là cơ sở để thống nhất tư tưởng và hành động chung
cho phong trào quần chúng, nên bất kỳ việc gì, nếu không có chính sách

chung, kêu gọi chung, thì không thể động viên khắp quần chúng. Đồng thời,
căn cứ vào tình hình, hoàn cảnh cụ thể để "giải quyết việc gì là chính của từng
thời kỳ nào" và làm việc có trọng tâm, trọng điểm, việc chính, việc gấp thì
làm trước, “không nên luộm thuộm, không có kế hoạch, gặp việc nào làm việc
ấy, thành thử việc nào cũng là việc chính" 1.
Ba là, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh việc tổng kết rút kinh nghiệm, tổng
kết thực tiễn cũng là vấn đề cực kỳ quan trọng của phương pháp lãnh đạo để
bổ sung hoàn chỉnh và và phát triển đường lối. Người chỉ rõ phải: "Gom góp
ý kiến và kinh nghiệm trong sự chỉ đạo từng bộ phận, đem làm ý kiến chung.
Rồi lại đem ý kiến chung đó để thí nghiệm trong các bộ phận. Rồi lại đem
kinh nghiệm chung và mới, đúc thành chỉ thị mới. Cứ như thế mãi. Biết làm
như vậy mới thật là biết lãnh đạo"2.
Khi nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về "cách lãnh đạo"
trong tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc", chúng ta không thể không tìm hiểu tư
tưởng của Người về phong cách làm việc của người cán bộ, đảng viên.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cán bộ, đảng viên trước hết phải
có phong cách phê phán. Người cho rằng, đã là cán bộ cách mạng thì phải có
1
2

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, 1995, t.5, tr 292
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, 1995, t.5, tr 291


7

óc phê phán và tinh thần phê phán. Đối với tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao vấn đề phê bình và tự phê bình. Tư tưởng cốt
lõi của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phê bình là "phê bình việc chứ không
phải phê bình người". Đồng thời, phê bình hay phê phán bao giờ cũng gắn với

tự phê bình, tự phê phán. Người viết: Để chữa những bệnh tật kia, ta phải tự
phê bình ráo riết và phải lấy lòng thân ái, lấy lòng thành thật mà ráo riết phê
bình đồng chí mình. Hai việc đó phải đi đôi với nhau. Người đòi hỏi mỗi cán
bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê phán, tự sửa chữa như
mỗi ngày phải rửa mặt, tức là đưa việc tự phê bình, tự kiểm điểm thành nhu
cầu cần thiết thường xuyên.
Thứ hai là, người cán bộ đảng viên phải có phong cách quần chúng.
Trong tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc", Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải quyết
nhiều vấn đề cơ bản của phong cách quần chúng, từ việc yêu cầu cán bộ phải
học hỏi quần chúng, lắng tai nghe ý kiến của đảng viên, của nhân dân, của
những người không quan trọng, đến phải có mối liên hệ chặt chẽ với quần
chúng. Trong nhiều hình thức kiểm soát, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, cách
dùng quần chúng để kiểm soát lãnh đạo là cách tốt hơn cả. Nói cách khác, phải
dùng phương pháp quần chúng trong lãnh đạo, mà nội dung cơ bản của nó là:
"Từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng", và phải "đi đúng đường lối
quần chúng".
Thứ ba là, người cán bộ phải có phong cách dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí
Minh là người đầu tiên đưa nguyên tắc "tập trung, dân chủ” trong sinh hoạt
Đảng thành nội dung của phong cách làm việc của cán bộ nhà nước và sáng tạo
một kiểu phong cách cán bộ mới: phong cách dân chủ. Với việc đưa ra kiểu
phong cách dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện sự phủ định phong
cách quan liêu, độc đoán, gia trưởng vốn bám rễ lâu đời trong các tầng lớp
quan lại phong kiến, công chức thực dân của xã hội Việt Nam trước đây, thậm


8

chí cả trong ý thức, tâm lý của các tầng lớp nhân dân lao động. Như vậy, Chủ
tịch Hồ Chí Minh không những đã giải phóng nhân dân lao động Việt Nam về
mặt thân phận, địa vị xã hội, mà còn đã giải phóng họ về mặt tinh thần, về lối

sống và phong cách.
Thứ tư là, người cán bộ phải có phong cách thực tiễn. Theo Chủ tịch
Hồ Chí Minh, có phong cách thực tiễn là người cán bộ phải biết đem lý luận áp
dụng vào công việc thực tế, học phải đi đôi với hành, học để làm việc chứ
không phải để phô trương bằng cấp. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là
lý luận cùng thực hành phải luôn đi đôi với nhau. Không những thế, người cán
bộ, đảng viên và Nhà nước còn phải biết dựa vào điều kiện thiết thực và kinh
nghiệm cách mạng ở các nước, ở trong nước và ở địa phương để đề ra nội dung
lãnh đạo cho đúng, cho sát, cho phù hợp, cho chắc chắn. Hồ Chí Minh yêu cầu
cán bộ, trong lúc học lý thuyết phải nghiên cứu công việc thực tế, kinh nghiệm
thực tế, vì có như vậy, lý luận mới có sức mạnh, mới thiết thực.
Thứ năm là, người cán bộ phải có phong cách làm việc khoa học.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong cách khoa học của người cán bộ trước hết
phải nắm vững lý luận vì lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng
cho chúng ta trong công việc thực tế. Vì kém lý luận cho nên gặp mọi việc
không biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng, xử trí cho khéo, do đó kết quả
thường thất bại. Chủ tịch Hồ Chí Minh kết luận: "đó là chứng bệnh kém lý
luận trong bệnh chủ quan". Người đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải tích cực học
tập lý luận và phải đem áp dụng lý luận vào công việc thực tế hàng ngày.
Đồng thời, người cũng nhắc nhở, khi làm việc gì cũng phải có kế hoạch, có
chuẩn bị, có điều tra kỹ càng, đến nơi, đến chốn, có so sánh, đối chiếu, phải
có thông tin cụ thể. Phải thực sự, thực tế, tai nghe, mắt thấy, nếu chưa điều tra
rõ ràng thì không nên nói, không nên viết. Cán bộ phải học cách nói của quần
chúng, học cách làm của quần chúng, nhưng không theo đuôi quần chúng. Đó


9

mới chính là khoa học, là phong cách làm việc khoa học.
Tóm lại, qua nghiên cứu những vấn đề cơ bản của tư tưởng Hồ Chí

Minh về "Cách lãnh đạo" của Đảng nói chung và phong cách của người cán
bộ, đảng viên nói riêng. Ta thấy đây là sự phát triển tư duy của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về phương thức lãnh đạo của Đảng và phong cách của người cán bộ
cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo bằng đường lối và đường lối
đó phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và phù hợp với sức dân. Phải triển
khai, tổ chức thực hiện tốt. Phải qua kiểm tra, kiểm soát, không có kiểm tra
coi như không có lãnh đạo. Trong tất cả các khâu lãnh đạo của Đảng, cũng
như phong cách của người cán bộ, đảng viên đều nổi bật lên vấn đề mà được
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định là bất kỳ công việc gì cũng phải dùng hai
cách lãnh đạo sau đây: Một là, liên hợp chính sách chung với sự chỉ đạo
riêng; hai là, liên hợp người lãnh đạo với quần chúng. Có như vậy, Đảng mới
thu phục được quần chúng, mới nắm giữ được quyền lãnh đạo, mới hoàn
thành nhiệm vụ của đội tiên phong.
Hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, lãnh đạo toàn
xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường và tình hình quốc tế có những biến
động phức tạp. Đảng ta càng ý thức rất rõ trách nhiệm và vinh dự của mình
đối với đất nước và dân tộc. Đảng cầm quyền có nghĩa là Đảng nắm vai trò
lãnh đạo chính quyền, củng cố chính quyền thật vững mạnh, lãnh đạo toàn xã
hội, chịu trách nhiệm trước nhân dân, trước dân tộc. Khi đã trở thành đảng
cầm quyền, Đảng không chỉ đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân, mà
còn đại biểu cho lợi ích của toàn thể nhân dân lao động, trở thành đội tiên
phong chính trị của cả dân tộc.
Qua 20 năm tiến hành đổi công cuộc đổi mới, phương thức lãnh đạo
và phong cách công tác của Đảng ta, từ Trung ương đến cơ sở, của mỗi cán
bộ, đảng viên đã có những đổi mới rất quan trọng theo hướng dân chủ tập thể


10

hơn, đúng nguyên tắc, sâu sát cơ sở, bám sát thực tiễn hơn, vừa bảo đảm sự

lãnh đạo chặt chẽ và có hiệu quả của Đảng, vừa phát huy vai trò chủ động của
cơ quan nhà nước và các đoàn thể nhân dân. Tuy nhiên, chúng ta phải thừa
nhận thực tế là chất lượng lãnh đạo và hiệu quả hoạt động của không ít cấp uỷ
còn chưa chuyển kịp theo yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ mới. Tổ chức bộ
máy vẫn còn nặng nề, cồng kềnh. Phương hướng lãnh đạo và phong cách
công tác còn chậm đổi mới. Nhiều nơi, nhất là ở cơ sở, vẫn lúng túng chưa
phân định rõ chức năng, nhiệm vụ giữa Đảng và chính quyền; cán bộ còn xa
dân, quan liêu, hách dịch. Bên cạnh khuynh hướng bao biện, làm thay, cũng
có khuynh hướng coi nhẹ, hạ thấp vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội đã chỉ ra phương thức lãnh đạo của Đảng. Văn kiện Đại hội VII
cũng xác định: Phải "đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng
theo phương hướng mà Cương lĩnh đề ra... Quy định cụ thể mối quan hệ về
lề lối làm việc giữa Đảng với Nhà nước và các đoàn thể nhân dân ở các cấp,
trước hết là ở Trung ương". Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành
Trung ương Đảng (khoá VII) nhấn mạnh: "Tiếp tục đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng. Là đảng cầm quyền, Đảng ta có trách nhiệm lãnh đạo tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong tình hình mới, cần có phương
thức thích hợp để nâng cao chất lượng và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, phát
huy mạnh mẽ vai trò, hiệu lực của Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, xây
dựng một hệ thống chính trị hoạt động năng động, có hiệu lực và hiệu quả",
"Cần có quy chế về phương thức lãnh đạo, quan hệ công tác giữa Đảng và
các cơ quan Nhà nước". Báo cáo chính trị của BCH Trung ương Đảng khoá
IX tại Đại hội X của Đảng cũng xác định rõ: “Tập trung đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng
đường lối, quan điểm, các nghị quyết; lãnh đạo thể chế hoá, cụ thể hoá thành


11


Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch, các chương trình công tác lớn của Nhà
nước; bố trí đúng cán bộ và thường xuyên kiểm tra việc tổ chức thực hiện.
Đảng lãnh đạo nhưng không bao biện, làm thay Nhà nước; trái lại, phát huy
mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo của Nhà nước trong quản lý đất nước và
xã hội....Đổi mới phương thức lãnh đạo gắn với đổi mới phong cách và lề lối
làm việc thật sự dân chủ, thiết thực, nói đi đôi với làm”.
Như vậy, trong giai đoạn hiện nay, đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng có nghĩa là Đảng phải làm đúng chức năng lãnh đạo, đồng thời phát huy
mạnh mẽ vai trò của cơ quan chính quyền và đoàn thể quần chúng. Các cấp
uỷ đảng không làm thay những công việc thuộc chức năng quản lý, điều hành
của chính quyền. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là làm cho Nhà
nước thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, một Nhà nước vững mạnh,
có hiệu quả, hoạt động năng động theo đúng chức trách và thẩm quyền, theo
đúng đường lối, quan điểm của Đảng và gắn bó chặt chẽ với nhân dân.
Đảng lãnh đạo không phải là Đảng thay thế Nhà nước quản lý, điều
hành các công việc hay thay thế nhân dân làm chủ Nhà nước, mà để phát huy
mọi sáng tạo của nhân dân, tổ chức nhân dân xây dựng Nhà nước của mình và
dùng Nhà nước để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng và Nhà nước bảo đảm và
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, phấn đấu vì lợi ích của nhân dân.
Với những thủ đoạn của chiến lược "Diễn biến hoà bình", hiện nay
các thế lực thù địch đang mưu toan kích động nhằm chia rẽ Đảng với Nhà
nước, đối lập Đảng, Nhà nước với nhân dân, thực hiện ý đồ xoá bỏ sự lãnh
đạo của Đảng, lật đổ chính quyền, thủ tiêu chế độ xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải luôn cảnh giác với những mưu toan này.
Không thể tách rời hoặc đối lập Đảng với Nhà nước, cũng không thể đồng
nhất Đảng với Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo hệ thống chính
trị nhưng đồng thời Đảng lại là một bộ phận của hệ thống chính trị, một thành


12


viên của Mặt trận Tổ quốc. Đảng lãnh đạo Nhà nước định ra Hiến pháp, pháp
luật, đồng thời Đảng và cán bộ, đảng viên của Đảng hoạt động theo đúng
Hiến pháp, pháp luật.
Phương thức lãnh đạo của Đảng còn phải bảo đảm phát huy dân chủ,
tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, khắc phục mọi biểu hiện vi phạm
quyền làm chủ của dân. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, chống dân
chủ hình thức, dân chủ cực đoan; phải dựa vào lực lượng của dân, phát huy
sức mạnh và ý chí của nhân dân, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia, kiểm
soát và giám sát các hoạt động quản lý của Nhà nước; tạo mọi điều kiện để
nhân dân tham gia xây dựng Đảng. Do vậy, phải xây dựng các đoàn thể, các
tổ chức quần chúng sao cho thiết thực, phản ánh và đáp ứng đúng, kịp thời
nhu cầu của nhân dân. Phải quán triệt và vận dụng đúng đắn, sáng tạo các
quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước vào việc
xây dựng tổ chức và hoạt động của quần chúng, thích hợp các đặc điểm có
tính đặc thù của các tầng lớp nhân dân.
Đối với bản thân tổ chức Đảng cũng cần đổi mới nội dung sinh hoạt
và phương thức hoạt động theo hướng dân chủ, kỷ cương; tăng cường khâu
kiểm tra, sâu sát cơ sở, gần gũi quần chúng. Đảng viên được cử vào các cơ
quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế và các đoàn thể quần chúng phải hoạt
động theo Cương lĩnh, đường lối của Đảng và nguyên tắc tập trung dân chủ,
gương mẫu thực hiện nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước,
thường xuyên làm công tác vận động, thuyết phục người ngoài Đảng. Cơ
quan của Đảng từ Trung ương đến cơ sở cần tiếp tục kiện toàn theo hướng
tính gọn, hoạt động năng động, có hiệu lực, phù hợp với cơ chế quản lý mới.
Đối với mỗi cán bộ, đảng viên, phải sửa đổi phong cách làm việc, đi
sâu, đi sát thực tế, phải khắc phục kiểu làm việc theo lối hành chính quan liêu,
giấy tờ, hội họp quá nhiều, ít điều tra nghiên cứu thực tế, thiếu tổng kết kinh



13

nghiệm sáng tạo của quần chúng. Một biện pháp quan trọng nữa là phải
nghiêm túc thực hiện chế độ bắt buộc cán bộ ở mỗi cương vị công tác, trước
hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý, thường xuyên đi sát cấp dưới và cơ sở để
tìm hiểu tình hình, lắng nghe ý kiến của quần chúng, của cấp dưới và cơ sở,
nghiên cứu và tổng kết những kinh nghiệm sáng tạo của quần chúng, của địa
phương và cơ sở.
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về "Cách lãnh đạo" trong tác
phẩm "Sửa đổi lối làm việc" cũng là những căn cứ quý báu để xây dựng nội
dung, yêu cầu về phong cách, tác phong công tác của đội ngũ cán bộ chính trị,
chính uỷ, chính trị viên trong quân đội ta hiện nay. Trên thực tế, một bộ phận
cán bộ chính trị còn biểu hiện những hạn chế như: Việc quán triệt, nhận thức
đường lối, nghị quyết, chính sách của Đảng chưa chắc; có lúc còn thiếu tin
tưởng vào khả năng tổ chức thực hiện của tổ chức đảng, năng lực cụ thể hoá
chủ trương, nghị quyết thành kế hoạch tổ chức thực hiện cụ thể còn nhiều hạn
chế. Khả năng tư duy còn nặng nề giáo điều, máy móc; công tác tổ chức thực
tiễn còn mang tính chủ quan, mệnh lệnh, thiếu dân chủ, độc đoán, chủ nghĩa
kinh nghiệm... Do vậy, đặt ra vấn đề cấp thiết phải tổ chức bồi dưỡng, rèn
luyện phương pháp, tác phong cho đội ngũ cán bộ chính trị, chính uỷ, chính
trị viên trong quân đội để đáp ứng yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ mới. Nhất
là trong tình hình hiện nay, toàn quân đang triển khai thực hiện Nghị quyết
Đại hội X của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ VIII và
Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị (khoá IX) “Về việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế
lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế
độ chính uỷ, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam”.
Trước hết, phải bồi dưỡng kiến thức toàn diện, năng lực tiến hành
công tác đảng, công tác chính trị kết hợp với xây dựng phương pháp tư duy
biện chứng. Công tác bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho đội ngũ cán bộ



14

chính trị cần quan tâm bồi dưỡng một cách toàn diện, đặc biệt là những vấn
đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; lý luận và thực
tiễn hoạt động công tác đảng, công tác chính trị phù hợp với chức trách,
nhiệm vụ cụ thể. Tránh bồi dưỡng, trang bị những vấn đề mang tính dàn trải,
toàn diện nhưng không chuyên sâu.
Hai là, đội ngũ cán bộ chính trị trong quân đội, đặc biệt cán bộ cấp cơ
sở, đòi hỏi phải bồi dưỡng và rèn luyện tác phong nói đi đôi với làm, lý luận
gắn chặt với hoạt động thực tiễn, sát tình hình đơn vị, sát nhiệm vụ; phát huy
dân chủ đi đôi với giữ vững nguyên tắc và tăng cường ý thức tổ chức, kỷ luật.
Cho nên phải thường xuyên đưa cán bộ vào hoạt động thực tế xây dựng, huấn
luyện, sẵn sàng chiến đấu và thử thách trong các nhiệm vụ ở đơn vị, qua đó để
không ngừng bồi dưỡng, rèn luyện các kỹ năng, phương pháp, tác phong công
tác có tính đặc thù của đội ngũ cán bộ chính trị trong quân đội. Tiến hành các
mặt công tác kiểm tra, thực hiện kế hoạch điều tra, giám sát cán bộ, chiến sĩ
trong đơn vị là một chức trách của người cán bộ. Kiên quyết đấu tranh khắc
phục bệnh quan liêu, xa rời quần chúng của một số cán bộ chính trị ở cơ sở
hiện nay.
Bà là, triển khai tổ chức thực hiện có chất lượng, hiệu quả các nghị
quyết, mệnh lệnh, chỉ thị, các kế hoạch trong mỗi đơn vị. Từng cấp lãnh đạo,
chỉ huy đến các cơ quan ở đơn vị cần phải tuân thủ và thực hiện đúng các chế
độ, các quy trình và quy chế làm việc được ban hành. Cấp uỷ các cấp phải đổi
mới việc ra nghị quyết lãnh đạo, khi ra nghị quyết phải theo hướng thiết thực,
cụ thể, tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả những chủ trương, nghị quyết
đã được thông qua. Đồng thời, tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng sinh
hoạt của các tổ chức đảng theo hướng thiết thực và những hình thức phù hợp
với tính chất hoạt động của đơn vị.
Bốn là, thường xuyên nâng cao chất lượng của việc tổ chức chỉ đạo



15

điểm, coi trọng công tác sơ kết, tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm, qua đó
mà bồi dưỡng, nâng cao trình độ, phẩm chất, năng lực cho đội ngũ cán bộ
chính trị các cấp. Khắc phục việc tổng kết, rút kinh nghiệm mang tính hình
thức, kém hiệu quả, gây mất thời gian, công sức và kinh phí.
"Sửa đổi lối làm việc" là một tác phẩm quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về công tác xây dựng Đảng. Đây là tác phẩm có tính lý luận, tính chiến
đấu và tính thực tiễn sâu sắc. Mặc dù tác phẩm không dài lắm nhưng đã bao
quát những vấn đề rộng lớn trong toàn bộ các mối quan hệ và các nguyên tắc,
phương pháp, lề lối, cách thức làm việc của Đảng, Nhà nước và của cán bộ,
đảng viên mà trung tâm là mối quan hệ giữa người với người. Người cán bộ,
đảng viên được coi như là khâu trung tâm của các mối quan hệ ấy. Đảng viên,
cán bộ là những chiến cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Mọi việc
thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. "Sửa đổi lối làm việc" là
khắc phục khuyết điểm, phát huy ưu điểm của đội ngũ cán bộ, đảng viên, là
sửa đổi “Cách lãnh đạo”, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để xây
dựng mối quan hệ tốt hơn giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Kết luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh là di sản tinh thần vô cùng quý báu
của Đảng và dân tộc ta. Bước vào thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí
Minh cũng như chủ nghĩa Mác - Lênin càng trở nên quan trọng và cần thiết
hơn bao giờ hết. Học tập, quán triệt những quan điểm cơ bản và vận dụng có
hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn quá trình lãnh đạo, đặc biệt là tư
tưởng về “Cách lãnh đạo” nhằm không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng là nhân tố
quyết định thắng lợi của toàn bộ sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo.



16

******************



×