Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tiểu luận Những điểm khác biệt giữa điều kiện bảo hiểm hàng hóa ICC 1982 và ICC 2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.89 KB, 23 trang )

Nhóm 7: Những điểm khác biệt giữa điều kiện bảo hiểm hàng hóa ICC 1982 và ICC 2009

Mục Lục

1


Nhóm 7: Những điểm khác biệt giữa điều kiện bảo hiểm hàng hóa ICC 1982 và ICC 2009

LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta đã có những bước tăng trưởng đáng
khích lệ. Việc trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO vào
cuối năm 2006 đã thúc đẩy ngoại thương phát triển nhanh chóng, đặc biệt là kim ngạch
xuất nhập khẩu. Với điều kiện địa lý chiến lược ở trung tâm Đông Nam Á và đường bờ
biển dài 3200km, vận chuyển bằng đường biển là phương thức vận chuyển chủ yếu trong
hoạt động xuất nhập khẩu, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế nước ta.
Tuy nhiên, cũng như các phương thức vận tải khác, vận tải đường biển không thể
tránh khỏi các rủi ro bất ngờ, gây tổn thất lớn đối với chủ hàng, chủ tàu. Đó là lý do bảo
hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển đã ra đời từ rất sớm và có vai trò hết sức
quan trọng trong hoạt động ngoại thương của các quốc gia. Các điều kiện bảo hiểm hàng
hải ICC do Hiệp hội bảo hiểm Anh ban hành từ năm 1963 và sửa đổi qua các năm 1982,
2009 đã trở thành tập quán thông dụng quốc tế, đòi hỏi các doanh nghiệp, thương nhân
khi tham gia bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển phải nắm rõ những điều
kiện bảo hiểm.
Vì vậy nhóm chúng em đã chọn đề tài: “Những điểm khác biệt giữa điều kiện bảo
hiểm hàng hóa ICC 1982 và ICC 2009” làm đề tài thuyết trình với mong muốn chỉ ra
được những điểm khác biệt, đổi mới của điều kiện bảo hiểm, từ đó giúp chủ hàng có được
lựa chọn phù hợp nhất khi tham gia bảo hiểm.
Do điều kiện kiến thức và thời gian tìm hiểu còn hạn chế, bài thuyết trình của
nhóm không tránh khỏi thiết sót nên rất mong nhận được sự nhận xét góp ý từ cô giáo và
các bạn để hoàn thiện đề tài.


Chúng em xin chân thành cảm ơn!

2


Nhóm 7: Những điểm khác biệt giữa điều kiện bảo hiểm hàng hóa ICC 1982 và ICC 2009

CHƯƠNG I
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ICC 1982 VÀ ICC 2009
1.

Khái quát chung
1.1 Khái niệm bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm
Bảo hiểm (Insurance): là một sự cam kết của người bảo hiểm bồi thường cho
người được bảo hiểm về những mất mát, hư hỏng, thiệt hại của đối tượng bảo hiểm do
những rủi ro đã thoả thuận gây ra với điều kiện người được bảo hiểm đã mua cho đối
tượng đó một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm.
Bảo hiểm ra đời là do sự tồn tại khách quan của các rủi ro nhưng bản chất của bảo
hiểm chính là việc phân chia tổn thất của một hoặc một số Người ra cho tất cả những
Người tham gia bảo hiểm cùng chịu. Người bảo hiểm là Người trung gian đứng ra nhận
lãnh tổn thất và phân chia tổn thất này cho tất cả những Người tham gia bảo hiểm.
Điều kiện bảo hiểm là sự quy định trách nhiệm của Người bảo hiểm đối với đối
tượng bảo hiểm (hàng hoá) về các mặt: rủi ro tổn thất, thời gian, không gian – hay chính
là sự khoanh vùng các rủi ro bảo hiểm.
1.2 Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm
Hoạt động bảo hiểm là cần thiết do có sự tồn tại khách quan của rủi ro .Bảo hiểm
là một ngành dịch vụ rất nhạy cảm , có tác động sâu rộng đến toàn bộ các hoạt động kinh
tế cũng như đời sống xã hội .
Bảo hiểm có tác dụng to lớn đối với nền kinh tế quốc dân và đời sống nhân dân , thể hiện
ở những mặt sau đây:

- Sử dụng các khoản tiền nhàn rỗi một cách có hiệu quả
- Bù đắp những thiệt hại , mất mát về người và tài sản của nhà nước , của các
doanh nghiệp , của các tổ chức kinh tế , xã hội và của cá nhân do các rủi ro gây ra nhằm
khắc phụchậu quả của rủi ro để ổn định sản xuất , kinh doanh và đời sống .
- Tạo ra một nguồn vốn lớn bằng phí bảo hiểm và tập trung vào một số đầu mối để
đầu tư vào những lĩnh vực khác .
- Bổ sung vào ngân sách của Nhà nước bằng lãi của bảo hiểm
- Tăng thu và chi cho cán cân thanh toán quốc gia .
- Tạo ra một tâm lý yên tâm trong hoạt động kinh tế và đời sống .
- Tăng cường công tác đề phòng và hạn chế tổn thất trong mọi lĩnh vực hoạt động
của con người.
1.3 Phân loại bảo hiểm
1.3.1 Căn cứ vào cơ chế hoạt động của bảo hiểm
3


Nhóm 7: Những điểm khác biệt giữa điều kiện bảo hiểm hàng hóa ICC 1982 và ICC 2009

- Bảo hiểm xã hội: có tính bắt buộc, theo luật lệ quy định chung, ko tính đến những rủi ro
cụ thể và không nhằm mục đích kinh doanh.
- Bảo hiểm thương mại: mang tính kinh doanh, kiếm lời, ko bắt buộc, có tính đến từng đối
tượng, từng rủi ro cụ thể, nhằm mục đích kinh doanh.
1.3.2 Căn cức vào tính chất bảo hiểm
- Bảo hiểm nhân thọ: bảo hiểm trọn đời, bảo hiểm sinh kì, tử kì,...
- Bảo hiểm phi nhân thọ: là các bảo hiểm khác như: bảo hiểm sức khỏe tai nạn, bảo hiểm
hàng hải, bảo hiểm trách nhiệm của Người giao nhận, bảo hiểm cháy nổ ...
1.3.3 Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm
- Bảo hiểm tài sản: đối tượng bảo hiểm là tài sản, của tập thể hay cá nhân bao gồm vật có
thực, tiền, giấy tờ có giá….
- Bảo hiểm trách nhiệm: đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm dân sự của Người được bảo

hiểm đối với Người thứ ba hay đối với sản phẩm…
- Bảo hiểm con Người: đối tượng bảo hiểm là con Người hay các bộ phận của cơ thể con
Người hay các vấn đề có liên quan như tuổi thọ, tính mạng, sức khỏe, tai nạn….
1.3.4 Theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam 2000
- Bảo hiểm bắt buộc: bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, của Người vận
chuyển hàng không đối với hành khách, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt
động tư vấn pháp luật, môi giới bảo hiểm, bảo hiểm cháy nổ.
- Bảo hiểm tự nguyện.

2. Tổng quan về bộ điều kiện bảo hiểm ICC 1982 và ICC 2009
Nước Anh có một nền bảo hiểm hàng hải ra đời sớm và rất phát triển. Từ thế kỷ 17
Anh đã có mẫu đơn bảo hiểm đầu tiên (Lloyd’s S.G.form of policy). Luật bảo hiểm hàng
hải 1906 (Marine Insurance Act 1906 – MIA 1906) của Anh đến nay vẫn được nhiều
nước áp dụng. Các điều kiện bảo hiểm hàng hóa cũng như tàu bè của Viện những Người
bảo hiểm Luân Đôn (Institute of London Underwriters – ILU) từ lâu đã trở thành quen
thuộc và được áp dụng rộng rãi trên thị trường bảo hiểm thế giới. Về bảo hiểm hàng hóa,
Ủy ban kỹ thuật và điều khoản thuộc Viện ILU đã soạn thảo và đưa vào sử dụng các điều
kiện bảo hiểm gốc như FPA, WA, AR từ năm 1963 hay các điều kiện A, B, C từ năm
1982 và các điều kiện bảo hiểm thêm như điều kiện bảo hiểm chiến tranh, đình công. Các
điều kiện bảo hiểm này được gọi tắt là các ICC (Institute Cargo Clauses). Cụ thể như sau:
 Bộ điều kiện bảo hiểm ICC 1963
Điều kiện bảo hiểm miễn tổn thất riêng (FPA- Free from Particular Average): Theo
điều kiện này, phạm vi bồi thường của người bảo hiểm được giới hạn như sau: Bồi
4


Nhóm 7: Những điểm khác biệt giữa điều kiện bảo hiểm hàng hóa ICC 1982 và ICC 2009

thường tổn thất toàn bộ hoặc toàn bộ ước tính, bồi thường đóng góp tổn thất chung; bồi
thường tổn thất riêng do 4 nguyên nhân mắc cạn, chìm đắm, đâm va, cháy nổ; bồi thường

mất nguyên kiện hàng trong khi xếp đồ, chuyển tải nhưng không phải mất cắp. Mọi chi
phí chứng minh tổn thất thuộc về chủ hàng (điều kiện này rất phù hợp với những loại
hàng hóa khó hư hỏng khi đổ vỡ).
Điều kiện bảo hiểm tổn thất riêng (WA- With Particular Average): Theo điều kiện
này, phạm vi bảo hiểm của người bảo hiểm hoàn toàn giống trên, ngoài ra, người bảo
hiểm hoàn toàn bồi thường tổn thất riêng do thiên tai gây ra. Trách nhiệm chứng minh tổn
thất thuộc về chủ hàng, đồng thời người bảo hiểm áp dụng chế độ miễn thường rất phù
hợp với hàng nhẹ, hàng rời.
Điều kiện bảo hiểm mọi rủi ro (AR- All Risks): Trừ những rủi ro đặc biệt, phạm vi
bồi thường trong điều kiện này rất rộng nên rất phù hợp với những loại hàng hóa có giá trị
cao, dễ bị mất cắp.
- WR (War Risk): điều kiện bảo hiểm các rủi ro chiến tranh
- SRCC: điều kiện bảo hiểm rủi ro đình công
3 điều kiện bảo hiểm đầu là 3 điều kiện bảo hiểm gốc, điều kiện 4&5 là điều kiện
bảo hiểm các rủi ro đặc biệt.
 Bộ điều kiện bảo hiểm ICC 1982

Bộ điều kiện bảo hiểm này được xuất bản ngày 1/1/1982 cũng có 3 điều kiện cơ bản
được xây dựng trên nền điều kiện ICC 1963 nhưng có chỉnh sửa những điểm hạn chế của
ICC 1963 cho phù hợp với thực tế:
- Điều kiện bảo hiểm C (Institute cargo clauses C- ICC C): phạm vi bảo hiểm tương
đương với FPA. Đây là điều kiện bảo hiểm có phạm vi trách nhiệm hẹp nhất. Theo điều
kiện bảo hiểm này, Người bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm đối với:
+ Mắc cạn, đắm, cháy, đâm va.
+ Dỡ hàng tại một cảng gặp nạn.
+ Phương tiện vận chuyển đường bộ bị lật đổ hoặc bị trật bánh.
+Tổn thất chung và các chi phí hợp lý (chi phí cứu nạn, chi phí đề phòng hạn chế
tổn thất, chi phí giám định, chi phí khiếu nại tố tụng).
+ Ném hàng ra khỏi tàu.
+ Mất tích.


5


Nhóm 7: Những điểm khác biệt giữa điều kiện bảo hiểm hàng hóa ICC 1982 và ICC 2009

+ Phần trách nhiệm mà người được bảo hiểm phải chịu theo điều khoản 2 tàu đâm
va nhau cùng có lỗi.
- Điều kiện bảo hiểm B (Institute cargo clauses B- ICC B): phạm vi bảo hiểm tương
đương với WA. Theo điều kiện bảo hiểm này, ngoài các rủi ro được bảo hiểm theo điều
kiện C, doanh nghiệp bảo hiểm còn bồi thường tổn thất hay tổn hại đối với hàng hóa được
bảo hiểm do:
+ động đất, núi lửa phun, sét đánh.
+ bị nước biển cuốn khỏi tàu.
+ nước biển, nước sông, nước hồ tràn vào tàu, hầm hàng, xà lan, phương tiện vận
chuyển hoặc nơi chứa hàng.
+ tổn thất toàn bộ của bất kỳ một kiện hàng nào do rơi khỏi tàu hoặc rơi trong khi
đang xếp dỡ hàng hóa.
- Điều kiện bảo hiểm A (Institute cargo clauses A- ICC A): phạm vi bảo hiểm tương
đương với AR. Đây là điều kiện có phạm vi rộng nhất, bảo hiểm tất cả những hư hỏng,
mất mát của hàng hóa, kể cả rủi ro cướp biển.
- Điều kiện bảo hiểm chiến tranh: Theo điều kiện này, doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi
thường những mất mát, hư hỏng của hàng hóa do:
+ Chiến tranh, nội chiến, cách mạng, nổi loạn, khởi nghĩa hoặc xung đột dân sự xảy ra
từ những biến cố đó hoặc bất cứ hành động thù địch nào.
+ Chiếm đoạt, bắt giữ, kiềm chế hoặc cầm giữ.
+ Mìn, thủy lôi, bom hoặc các vũ khí chiến tranh khác.
+ Tổn thất chung và chi phí cứu nạn.
Phạm vi không gian và thời gian bảo hiểm đối với rủi ro chiến tranh hẹp hơn các
rủi ro thông thường khác.

- Điều kiện bảo hiểm đình công: Theo điều kiện bảo hiểm này, chỉ bảo hiểm cho những
mất mát, hư hỏng được bảo hiểm do:
+ Người đình công, công nhân bị cấm xưởng hoặc những Người tham gia gây rối loạn
lao động, bạo động hoặc nổi dậy.
+ Hành động khủng bố hoặc vì mục đích chính trị.
Qua thực tế áp dụng, người ta thấy rằng nội dung của các điều khoản ICC 1982
còn nhiều tồn tại đòi hỏi phải có sự đổi mới. Do vậy, để phù hợp với điều kiện thực tế, Ủy
ban kỹ thuật và điều khoản thuộc Viện ILU đã soạn thảo và ban hành bộ điều khoản mới
là ICC 2009 (Institute Cargo Clauses 2009) vào ngày 01/01/2009. Tuy nhiên, trên thực tế

6


Nhóm 7: Những điểm khác biệt giữa điều kiện bảo hiểm hàng hóa ICC 1982 và ICC 2009

bộ điều khoản này chỉ phát triển và cụ thể hóa một số điều kiện còn về cơ bản nội dung
các điều khoản vẫn như trong ICC 1982.

7


Nhóm 7: Những điểm khác biệt giữa điều kiện bảo hiểm hàng hóa ICC 1982 và ICC 2009

CHƯƠNG II
NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT GIỮA ĐIỀU KIỆN BẢO HIỂM
HÀNG HÓA ICC 1982 VÀ ICC 2009
1. Ngôn từ diễn đạt
- Các từ “hàng” (goods) và “hàng hóa” (cargo) được thay thế bởi thuật ngữ “đối tượng
bảo hiểm” (subject-matter insured)
⇒ Đối tượng bảo hiểm mang nghĩa rộng hơn bởi nó bao gồm cả hàng hóa, bao bì đóng gói

-

và nhãn hàng.
“Người ký nhận trách nhiệm thanh toán các hợp đồng bảo hiểm” (underwriters) được thay

thế bằng “Người bảo hiểm” (insurer).
⇒ Underwriter là thuật ngữ để chỉ một cá nhân chịu trách nhiệm đánh giá các rủi ro liên
quan đến việc ký một hợp đồng bảo hiểm. Insurer sẽ dựa vào Underwriter để xem xét kỹ
lưỡng yêu cầu bảo hiểm, các báo cảo cũng như dữ liệu liên quan để quyết định việc có
bảo hiểm hay không, các vấn đề rủi ro và tiền đóng bảo hiểm.
- Thuật ngữ “servants” được thay thế bằng “employees” mang tính sử dụng phổ biến hơn
trên toàn cầu, mặc dù đều mang nghĩa là “những người làm công”.
- Các tiêu đề đặt cạnh các điều khoản được sửa đổi và đặt ở bên trên mỗi điều khoản:
1982
RISKS COVERED
1. This insurance covers all risks of loss of or damage to the subject-matter Risks
insured except as provided in Clause 4,5,6 and 7 below

Clause

2009
RISKS COVERED
Risks
1. This insurance covers all risks of loss of or damage to the subject-matter insured

except as excluded by the provisions of Clause 4, 5, 6 and 7 below.
2.

Về việc đóng gói hoặc chuẩn bị cho đối tượng được bảo hiểm (packing or
preparation)

Trong ICC 2009, từ "kiện gỗ" (liftvan) không còn được sử dụng và thuật ngữ

“servants” được thay thế bởi “employees”, đồng thời làm rõ rằng các nhà thầu độc lập
không được coi là những người làm công.

8


Nhóm 7: Những điểm khác biệt giữa điều kiện bảo hiểm hàng hóa ICC 1982 và ICC 2009

Theo các điều khoản ICC 1982, trừ khi đơn bảo hiểm quy định cụ thể là sẽ bảo hiểm
cả bao bì đóng gói (covers the packaging), không một khiếu nại về thay thế nguyên bao bì
đóng gói vì tổn thất được bồi thường trừ khi hậu quả của sự tổn thất này là do một hiểm
hoạ được bảo hiểm. Trong trường hợp này thông thường người ta áp dụng một tỷ lệ giảm
trị thương mại cho toàn lô hàng mà không đề cập tới bao bì. Tuy nhiên, nếu chứng minh
được tổn thất, tổn hại hay chi phí thật sự do bao bì yếu kém hay không thích hợp thì tổn
thất này không được bồì thường theo ICC. Loại trừ này mở rộng ra bao gồm cả chuẩn bị
hàng hoá được bảo hiểm không thích hợp.
ICC 1982 cũng quy định không bảo hiểm trong trường hợp đóng gói hoặc chuẩn bị
cho đối tượng được bảo hiểm không đầy đủ ngay cả khi nó nằm ngoài tầm kiểm soát của
bên được bảo hiểm và phát sinh ngẫu nhiên sau khi bảo hiểm có hiệu lực. Điều này có vẻ
không phù hợp bởi đó là một nguy cơ nên được Người bảo hiểm chấp nhận và Người
được bảo hiểm cũng muốn được bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm hàng hải. Vì vây, điều
khoản ICC 2009 đã thay đổi phạm vi loại trừ vốn có trong ICC 1982, cụ thể là hàng hóa
sẽ được bảo hiểm khi việc đóng gói được tiến hành bởi bên thứ ba trong thời gian của
hành trình. Theo đó, loại trừ bảo hiểm được áp dụng khi:
- Người được bảo hiểm hoặc những Người làm công cho họ tự chịu trách nhiệm về việc
đóng gói hoặc chuẩn bị không tốt tại bất cứ thời điểm nào tiến hành việc đó, hoặc;
- Việc đóng gói hoặc chuẩn bị được tiến hành trước khi hiệu lực bảo hiểm bắt đầu
Đồng thời, điều khoản sửa đổi trong ICC 2009 cũng đặt ra tiêu chuẩn để đánh giá

thế nào là sự thiếu đầy đủ hay không phù hợp, đó là việc đóng gói hoặc chuẩn bị phải đủ
khả năng “chống chịu được những sự cố thông thường trong hành trình được bảo hiểm”
trong khi ICC 1982 không đề cập đến vấn đề này.
Một trường hợp minh họa cho điều khoản trên là: một máy biến thế cồng kềnh và
nặng được bốc lên một con tàu nhỏ gần Liverpool vào tháng 1 năm 2002 để vận chuyển
đến Rotterdam và từ đó được đưa tới Malaysia bằng tàu chở container. Cả hai chuyến đi
đều gặp phải thời tiết dông bão với gió mạnh cấp 8 và cả hai tàu đều được ghi nhận là
nghiêng và lắc. Khi đến nơi, máy biến thế được phát hiện là bị tổn hại và chi phí sửa chữa
tốn hơn 1 triệu bảng anh. Quan tòa không coi thời tiết xấu gặp phải kéo dài 30 tiếng trong
9


Nhóm 7: Những điểm khác biệt giữa điều kiện bảo hiểm hàng hóa ICC 1982 và ICC 2009

hành trình vào tháng 1 là trường hợp ngoại lệ, do đó kết luận rằng tổn thất gây ra là do
máy biến thế không đủ khả năng chống chịu được những điều kiện thông thường của
hành trình chứ không phải là do sự xảy ra của những điều kiện không mong muốn. Như
vậy, Người được bảo hiểm sẽ không được bồi thường.
Việc đóng gói hoặc chuẩn bị không phù hợp có thể dưới nhiều hình thức , chẳng hạn
như việc sử dụng gỗ ẩm của một công ty chịu trách nhiêm đặt hàng trên pallet, hàng này
đã kết thúc chuyến hành trình nội địa và đang sẵn sàng để được xếp vào các container.
Kết quả là trong hành trình đường biển xảy ra hiện tượng ngưng tụ nghiêm trọng và nước
đọng xâm nhập vào Titanium Dioxide đã được đóng bao. Nếu việc đặt hàng trên pallet
được tiến hành bởi Người được bảo hiểm thì sẽ không có bất kỳ khiếu nại nào, nhưng vì
việc đặt hàng trên pallet đươc tiến hành bởi một bên thứ ba trong hành trình được bảo
hiểm, Người được bảo hiểm sẽ được bồi thường.
3.

Loại trừ bảo hiểm bởi sự chậm trễ (the delay exclusion)
1982

4.5 trong mọi trường hợp bảo hiểm này không bảo hiểm cho mất mát, hư hỏng hay chi
phí trực tiếp gây ra bởi chậm trễ ngay cả khi chậm trễ do một rủi ro được bảo hiểm
(lọai trừ những chi phí được bồi thường theo điều 2 trên)
2009
4.5 trong mọi trường hợp bảo hiểm này không bảo hiểm cho mất mát, hư hỏng hay chi
phí gây ra bởi chậm trễ ngay cả khi chậm trễ do một rủi ro được bảo hiểm (lọai trừ
những chi phí được bồi thường theo điều 2 trên)
Có thể thấy trong Các điều kiện bảo hiểm hàg hóa xuất hập khẩu ICC 1982 và

2009 đều ghi rõ: Trong mọi trường hợp, bảo hiểm này không bảo hiểm cho mất mát, hư
hỏng hay chi phí gây ra bởi sự chậm trễ ngay cả khi chậm trễ do một rủi ro được bảo
hiểm (loại trừ những chi phí được bồi thường theo điều 2 trên).
Tuy nhiên trong ICC 2009, điều khoản này đã được bỏ bớt đi cụm từ khá nhạy cảm
là:“ trực tiếp gây ra”, nội dung còn lại thì không thay đổi so với ICC 1982. Vì khi nguyên
nhân chậm trễ là do rủi ro được bảo hiểm, khi đó có thể rất khó phân biệt “ nguyên nhân
trực tiếp” của tổn hại là do sự chậm trễ hay do rủi ro được bảo hiểm khi cả hai cùng góp
phần tạo nên sự tồn tại.
10


Nhóm 7: Những điểm khác biệt giữa điều kiện bảo hiểm hàng hóa ICC 1982 và ICC 2009

Về vấn đề chậm trễ, MIA 1906 quy định là người bảo hiểm không chịu trách
nhiệm về tổn thất trực tiếp gây ra bởi chậm trễ, cho dù chậm trễ là do một hiểm hoạ được
bảo hiểm. Loại trừ này được diễn tả trong ICC 1982, nhưng nhấn mạnh là tất cả các tổn
thất, hư hại hay chi phí đều bị loại trừ (MIA không nói đến "tổn hại" hay "chi phí"). Chú ý
quan trọng là vì không có lý do bào chữa là chậm trễ là do một hiểm hoạ được bảo hiểm,
do vậy nếu tàu chuyên chở bị chậm trễ do đâm va, và chậm trễ gây ra hư hỏng hàng hoá
thì không thể khiếu nại đối với đơn bảo hiểm về sự hư hỏng này trên cơ sở quy hợp lý cho
đâm va. Loại trừ này không áp dụng cho bất kỳ khoản đóng góp nào mà người được bảo

hiểm phải thực hiện đối với chi phí hay hy sinh tổn thất chung.
4.

Loại trừ bảo hiểm bởi tình trạng mất khả năng tài chính (the insolvency
exclusion)

1982
4.6 Trong mọi trường hợp bảo hiểm này không bảo hiểm cho mất mát, hư hỏng hay chi
phí phát sinh từ tình trạng không trả được nợ hoặc thiếu thốn về tài chính của chủ tàu,
Người quản lý, Người thuê hoặc Người khai thác tàu.

2009
4.6 Trong mọi trường hợp bảo hiểm này không bảo hiểm cho mất mát, hư hỏng hay chi
phí gây ra bởi tình trạng không trả được nợ hoặc thiếu thốn về tài chính của chủ tàu,
ngừơi quản lý, Người thuê hoặc Người khai thác tàu, vào thời điểm đối tượng được bảo
hiểm được bốc lên boong tàu, Người được bảo hiểm biết hoặc trong quá trình kinh doanh
bình thường phải biết, rằng tình trạng không trả được nợ hoặc thiếu thốn về tài chính này
có thể ngăn cản sự tiếp tục hành trình bình thường. Loại trừ này không được áp dụng
trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm đã được chuyển nhượng cho bên tuyên bố đã mua
hoặc đồng ý mua đối tượng được bảo hiểm trên nguyên tắc trung thực theo một hợp đồng
ràng buộc.
Loại trừ này được đưa vào ICC để cản người được bảo hiểm giao hàng cho tàu mà
người điều hành con tàu này đang gặp khó khăn về tài chính. Loại trừ này không được áp
11


Nhóm 7: Những điểm khác biệt giữa điều kiện bảo hiểm hàng hóa ICC 1982 và ICC 2009

dụng trong tường hợp hợp đồng bảo hiểm đã được chuyển nhượng cho bên tuyên bố đã
mua hoặc đồng ý mua đối tượng được bảo hiểm trên nguyên tắc trung thực theo một hợp

đồng ràng buộc.
Nếu được áp dụng một cách khắt khe, loại trừ này có thể áp dụng cho mọi tổn thất
của hàng hoá hay các chi phí mà người bảo hiểm phải gánh chịu xuất phát từ việc mất khả
năng thanh toán của người chuyên chở. Như vậy, nếu người chuyên chở không thể hoàn
tất hành trình và dỡ hàng hoá ở cảng dọc đường, người bảo hiểm sẽ không chịu trách
nhiệm về mọi tổn thất gây ra vì việc dỡ hàng này hay việc bốc lại lên một tàu khác, cũng
như chi phí chuyển tiếp hàng. Cần ghi nhớ rằng điều khoản "chi phí chuyển tiếp"
(forwarding expenses) (điều khoản 12) chỉ được áp dụng cho trường hợp hàng hoá phải
dỡ xuống tại một cảng dọc đường vì một hiểm hoạ được bảo hiểm mà hiểm hoạ được bảo
hiểm không bao gồm mất khả năng tài chính của người chuyên chở. Có thể là dẫn chiếu
đến "vỡ nợ" (financial default) là nhằm vào các trường hợp mà người chuyên chở dùng
hàng hoá làm đảm bảo cho các trách nhiệm tài chính đang tồn đọng (outstanding financial
liabilities), có lẽ để lại hàng hoá tại cảng dọc đường để giải toả tàu khỏi trách nhiệm về
phí cảng. Người chuyên chở dự kiến sẽ quay lại, trả phí cảng, lấy lại hàng hoá và giao;
nhưng, nếu tàu bị mất tích trong thời gian đó, người được bảo hiểm có thể mất hàng hoá
này mà không thể đòi bồi thường theo đơn bảo hiểm của mình.
- Về trường hợp loại trừ này, ICC 2009 có sự sửa đổi và bổ sung khá nhiều so với
năm 1982:
ICC 1982: trong mọi trường hợp, bảo hiểm này không bảo hiểm cho mất mát, hư
hỏng hay chi phí phát sinh từ tình trạng không trả được nợ hoặc thiếu thốn về tài chính
của chủ tàu, Người quản lý, Người thuê hoặc Người khai thác tàu.
ICC 2009: trong mọi trường hợp bao hiểm này không bảo hiểm cho sự mất mát, hư
hỏng hay chi phí gây ra bởi tình trạng không trả được nợ hoặc thiếu thốn về tài chínhcuar
chủ tàu, người quản lý, Người thuê hoặc Người khai thác tàu, vào thời điểm đối tượng
được bảo hiểm được bốc lên boong tàu, Người được bảo hiểm biết hoặc trong quá trình
khinh doanh bình thường phải biết rằng tình trạng không trả được nợ hoặc thiếu thốn về
tài chính này có thể ngăn cản sự tiếp tục hành trình bình thường.
12



Nhóm 7: Những điểm khác biệt giữa điều kiện bảo hiểm hàng hóa ICC 1982 và ICC 2009

=> Điều khoản trong phiên bản ICC 2009 đưa ra điều kiện áp dụng sự loại trừ bảo
hiểm mà ICC 1982 không có, đó là loại trừ này chỉ áp dụng khi bên được bảo hiểm biết
hoặc phải phải biêt rằng sự thiếu thốn về tài chính có thể cản trở hành trình; đồng thời,
loại trừ này không được áp dụng khi hợp đồng bảo hiểm đã chuyển nhượng cho bê thứ 3
một cách trung thực. Do đó, phạm vi loại trừ được thu hẹp sao cho người được bảo hiểm
hoặc người được chuyển nhượng vô tội vẫn được bồi thường theo hợp đồng bảo hiểm
trong trường hợp tình trạng mất khả năng thanh toán hay vỡ nợ của người chuyên chở
khiến hành trình kêt thúc. Vì vậy, yêu cầu bồi thường sẽ không thực hiện được nếu vào
thời điểm bốc hàng, người được bảo hiểm đã biết hoặc đáng lẽ phải biết rằng hành trình
có thể bị ngừng lại do tình hình tài chính của người chuyên chở, Người được bỏ hiểm
không buộc phải phải tiến hành kiểm tra sổ sách kế toán một cách kỹ lưỡng song phải thể
hiện trình độ cần phải có của một nhà kinh doanh khôn ngoan trong quá trình kinh doanh
thông thường. Vì vậy, người được bảo hiểm không được nhắm mắt làm ngơ trước những
dấu hiệu rõ ràng về việc người chuyên chở thiếu vốn.
Có thể thấy việc loại trừ tình trạng không trả được nợ tại điều khoản 4.6 đã được
sửa đổi để phù hợp với thực tiễn thị trường hiên nay và đòi hỏi sự hiểu biết rộng của
người được bảo hiểm để điều khoản loại trừ này được phát huy tác dụng.

5.

Loại trừ bảo hiểm bởi sử dụng hạt nhân (nuclear exclusion)
Từ 1982 đến nay, việc sử dụng hạt nhân cũng như các vũ khí mang năng lượng hạt

nhân đã thay đổi rất nhiều, vì vậy ICC cũng đã thay đổi một số điều khoản để phù hợp với
tình hình hiện tại.
1982
4.7 Trong mọi trường hợp bảo hiểm này không bảo hiểm cho mất mát, hư hỏng hay chi
phí phát sinh từ việc sử dụng bất kỳ một loại vũ khí chiến tranh nào có sử dụng năng

lượng nguyên tử, hạt nhân và/hoặc các phản ứng hạt nhân, phóng xạ tương tự.

13


Nhóm 7: Những điểm khác biệt giữa điều kiện bảo hiểm hàng hóa ICC 1982 và ICC 2009

2009
4.7 Trong mọi trường hợp bảo hiểm này không bảo hiểm cho mất mát, hư hỏng hay chi
phí phát sinh từ hoặc do nguyên nhân trực tiếp, gián tiếp từ việc sử dụng bất kỳ một loại
vũ khí, thiết bị nào có sử dụng năng lượng nguyên tử, hạt nhân và/ hoặc các phản ứng
nhiệt hạch hay các phản ứng tương tự khác, các chất phóng xạ.
Cụm từ "phát sinh từ" trong ICC 1982 được thay thế bằng "được gây ra bởi hoặc
phát sinh trực tiếp hay gián tiếp" trong ICC 2009. Ở đây chúng ta có thể hiểu rằng, trong
ICC 1982, người bảo hiểm sẽ không bảo hiểm cho tổn thất được gây ra trực tiếp từ việc
sử dụng vũ khí hạt nhân nhưng tới ICC 2009 thì bất kỳ tổn thất nào dù là trực tiếp hay
gián tiếp được gây ra bởi việc sử dụng vũ khí hạt nhân cũng không được bảo hiểm.
" Vũ khí chiến tranh" trong ICC 1982 được thay thế bởi thuật ngữ rộng hơn" bất kỳ
một loại vũ khí hay thiết bị nào" trong ICC 2009, thu hẹp nghĩa vụ của người bảo hiểm
xuống so với nghĩa vụ được quy định trong ICC 2009.
6.

Loại trừ tàu không đủ khả năng đi biển (the unseaworthiness exclusion)

1982
5.1 Trong bất kỳ trường hợp nào, người bảo hiểm cũng sẽ không bảo hiểm cho những mất
mát, hư hỏng hoặc chi phí gây ra bởi:
- tàu hoặc thuyền không đủ khả năng đi biển,
- tàu, thuyền, phương tiện vận chuyển container hoặc kiện gỗ không thích hợp cho việc
chuyên chở an toàn cho đối tượng bảo hiểm nếu Người được bảo hiểm hoặc những người

làm công của họ biết được về trạng thái không đủ khả năng đi biển hoặc không thích hợp
đó vào thời gian đối tượng được bảo hiểm được xếp vào các phương tiện trên.
5.2 Người bảo hiểm bỏ qua mọi trường hợp vi phạm những cam kết ngụ ý tàu đủ khả
năng đi biển và thích hợp cho việc chuyên chở đối tượng được bảo hiểm tới nơi đến, trừ
khi người được bảo hiểm và người làm công cho họ được biết riêng về trạng thái không
đủ khả năng đi biển hay không thích hợp đó.
2009
5.1 Trong bất kỳ trường hợp nào, người bảo hiểm cũng sẽ không bảo hiểm cho

những

mất mát, hư hỏng hoặc chi phí gây ra bởi:
14


Nhóm 7: Những điểm khác biệt giữa điều kiện bảo hiểm hàng hóa ICC 1982 và ICC 2009

5.1.1 Tàu hoặc thuyền không đủ khả năng đi biển hoặc tàu, thuyền, phương tiện vận
chuyển không thích hợp cho việc chuyên chở an toàn cho đối tượng được bảo hiểm nếu
người bảo hiểm được biết riêng về tình trạng không đủ khả năng đi biển và không thích
hợp đó vào thời gian đối tượng bảo hiểm được xếp vào các phương tiện trên
5.1.2 Container hoặc các phương tiện vận chuyển khác không thích hợp cho việc chuyên
chở an toàn cho đối tượng được bảo hiểm khi việc bốc lên các phương tiến đó được tiến
hành trước khi bảo hiểm này có hiệu lực hoặc được tiến hành bởi người được bảo hiểm
hoặc những người làm công cho họ và họ được biết riêng về sự không phù hợp đó vào
thời điểm bốc hàng.
5.2 Loại trừ 5.1.1 nêu trên không áp dụng trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm đã được
chuyển nhượng cho bên thứ 3 tuyên bố đã mua hoặc đồng ý mua đối tượng bảo hiểm theo
một hợp đồng ràng buộc.
5.3 Người bảo hiểm bỏ qua mọi trường hợp vi phạm những cam kết ngụ ý tàu đủ khả

năng đi biển và thích hợp cho việc chuyên chở đối tượng được bảo hiểm tới nơi đến.
Trong điều khoản của ICC 2099, từ “liftvan” không còn được sử dụng nữa và
“servants” được thay thế bởi “employees”.
Điều khoản này đã được sửa đổi trong ICC 2009 theo hướng có lợi hơn cho người
được bảo hiểm. Theo đó, loại trừ bảo hiểm sẽ được áp dụng khi:
- Người được bảo hiểm được biết riêng rằng tàu không đủ khả năng đi biển/không thích
hợp.
- Container hoặc phương tiện vận chuyển không thích hợp cho việc vận chuyển an toàn
hàng hóa và
+ việc bốc hàng được tiến hành trước khi bảo hiểm có hiệu lực hoặc
+ việc bốc hàng được tiến hành bởi người được bảo hiểm hoặc những người làm công
cho anh ta và họ đều biết được sự không thích hợp đó.
Trong ICC 2009, cụm từ “được biết riêng” (privy to) có thể hiểu là người được bảo
hiểm biết về con tàu, nghi ngờ tình trạng con tàu song lại nhắm mắt làm ngơ và không
tiến hành tìm hiểu về nó. Trên thực tế, việc chứng minh người mua bảo hiểm đã "biết
riêng" về việc tàu không đủ khả năng đi biển là rất khó khăn. Bên cạnh đó ICC 2009 còn
15


Nhóm 7: Những điểm khác biệt giữa điều kiện bảo hiểm hàng hóa ICC 1982 và ICC 2009

quy định thêm một mốc thời gian nữa về thời điểm nhận biết ra tàu không đủ khả năng đi
biển hoặc các phương tiện vận chuyển không phù hợp đối với người được bảo hiểm, đó là
trước khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực.
Nếu như ICC 1982 không có quy định loại trừ trong trường hợp hợp đồng bảo
hiểm đã chuyển nhượng thì ICC 2009 quy định khá rõ về việc này tại điểu 5.2. Theo đó
khi mà tổn thất xảy ra do tàu, thuyền không đủ khả năng đi biển thì người được chuyển
nhượng đơn bảo hiểm như là một phần của hợp đồng mua bán hàng hóa ràng buộc vẫn sẽ
nhận được bồi thường bảo hiểm bởi vì cho rằng người đó không thể kiểm soát hoặc kiểm
chứng được sự phù hợp của tàu hoặc container.

Như vậy, những sửa đổi trong ICC 2009 nhằm thu hẹp phạm vi loại trừ bảo hiểm
trong trường hợp tàu không đủ khả năng đi biển.
7.

Khủng bố (terrorism)

1982
7.3 Trong bất kỳ trường hợp nào, người bảo hiểm cũng sẽ không bảo hiểm cho những mất
mát, hư hỏng hoặc chi phígây ra bởi bất kỳ kẻ khủng bố hoặc bất kỳ người nào hành động
vì động cơ chính trị.

2009
7. Trong bất kỳ trường hợp nào, người bảo hiểm cũng sẽ không bảo hiểm cho

những

mất mát, hư hỏng hoặc chi phí gây ra bởi:
7.3 gây ra bởi bất kỳ hành động khủng bố nào là hành đông của bất kỳ ai thay mặt cho
hoặc liên kết với bất kỳ tổ chức nào thực hiên các hoạt động hướng tới việc lật đổ hoặc
gây ảnh hưởng bằng vũ lực hoặc bạo lực, bất kỳ chính phủ nào dù có hay không được
thành lập theo luật định
7.4 gây ra bởi bất kỳ người nào hành động vì động cơ chính trị, tín ngưỡng hoặc tôn giáo.
Điều khoản loại trừ trong ICC 2009 được mở rộng hơn so với ICC 1982 về phạm
vi các mối đe dọa và phạm vi của động cơ. Nếu như trong ICC 1982, chỉ loại trừ những
tổn thất được gây ra bởi bất bất kỳ kẻ khủng bố hoặc bất kỳ người nào hành động vì động
cơ chính trị thì trong ICC 2009 quy định sự khủng bố phải được thực hiện nhân danh cho
16


Nhóm 7: Những điểm khác biệt giữa điều kiện bảo hiểm hàng hóa ICC 1982 và ICC 2009


tổ chức và không áp dụng đối với hành động của kẻ khủng bố duy nhất. Đồng thời, động
cơ khủng bố cũng được mở rộng tới các động cơ tín ngưỡng hay tôn giáo.
8.

Thời hạn bảo hiểm – Điều khoản vận chuyển (duration-transit clause)

1982
8. Điều khoản vận chuyển
8.1 Bảo hiểm này bắt đầu có hiệu lực kể từ khi hàng rời khỏi kho hay nơi chứa hàng tại
địa điểm có tên ghi trong hợp đồng bảo hiểm để bắt đầu vận chuyển, tiếp tục có hiệu lực
trong quá trình vận chuyển bình thường và kết thúc hiệu lực tại một trong các thời điểm
sau đây tùy theo trường hợp nào xảy ra trước
8.1.1 khi giao hàng vào kho người nhận hàng hay kho, hoặc nơi chứa hàng cuối cùng
khác tại nơi đến có tên ghi trong hợp đồng bảo hiểm
8.1.2 khi giao hàng vào bất kỳ một kho hay nơi chứa hàng nào khác, dù trước khi tới
hay tại nơi đến có tên ghi trong hợp đồng bảo hiểm mà người được bảo hiểm chọn dùng
hoặc
8.1.2.1 để chứa hàng ngoài quá trình vận chuyển bình thường hoặc để chia
hay phân phối hàng hoặc khi hết hạn 60 ngày sau khi hoàn thành việc dỡ hàng khỏi tàu
biển tại cảng dỡ cuối cùng.
2009
8. Điều khoản vận chuyển
8.1 Theo điều 11 dưới đây, bảo hiểm này bắt đầu có hiệu lực kể từ khi đối tượng bảo
hiểm được di chuyển lần đầu tiên trong kho hay nơi chứa hàng tại địa điểm có tên ghi
trong hợp đồng bảo hiểm để ngay lập tức bốc lên phương tiện vận chuyển hoặc phương
tiện khác để bắt đầu vận chuyển, tiếp tục có hiệu lực trong quá trình vận chuyển bình
thường và kết thúc hiệu lực tại một trong các thời điểm sau đây tùy theo trường hợp nào
xảy ra trước.
8.1.1 khi hoàn thành việc dỡ hàng khỏi phương tiện vận chuyển hoặc phương tiện

khác tại kho cuối cùng hoặc nơi chứa hàng cuối cùng tại địa điểm có tên ghi trong hơp
đồng bảo hiểm.
8.1.2 khi hoàn thành việc dỡ hàng từ phương tiện vận chuyển hoặc phương tiện
khác tại bất kỳ một kho hay nơi chứa hàng nào, dù trước khi tới hay tại nơi đến có tên
ghi trong hợp đồng bảo hiểm mà người được bảo hiểm hoặc những người làm công cho
17


Nhóm 7: Những điểm khác biệt giữa điều kiện bảo hiểm hàng hóa ICC 1982 và ICC 2009

anh ta chọn dùng hoặc để chứa hàng ngoài quá trình vận chuyển bình thường hoặc để
chia hay phân phối hàng hoặc
8.1.3 khi người được bảo hiểm hay những người làm công cho anh ta chọn sử
dụng bất kỳ phương tiện vận chuyển hoặc phương tiện khác hoặc bất kỳ container nào để
chứa hàng ngoài quá trình vận chuyển bình thường hoặc
8.1.4 khi hết hạn 60 ngày sau khi hoàn thành việc dỡ đối tượng bảo hiểm khỏi tàu
biển tại cảng dỡ cuối cùng.
Trước hết có sự khác biệt về quy định thời điểm bắt đầu hiệu lực bảo hiểm giữa 2
phiên bản. Theo điều khoản trong ICC 1982, hàng hóa không được bảo hiểm cho đến khi
đã rời khỏi kho, tức là nó chỉ được bảo hiểm nếu có một tai nạn xảy ra bên ngoài kho, lúc
xếp hàng lên phương tiện vận chuyển sẽ không được bảo hiểm. Tuy nhiên, trong ICC
2009, thời điểm bảo hiểm bắt đầu có hiệu lực “ kể từ khi đối tượng được bảo hiểm được
di chuyển lần đầu tiên trong kho… để ngay lập tức bốc lên phương tiện vận chuyển”
(Điều 8.1).
Thời điểm bảo hiểm chấm dứt hiệu lực quy định trong ICC 1982 là “khi giao hàng
vào kho” cũng được thay đổi thành “khi hoàn thành việc dỡ hàng” trong ICC 2009 (Điều
8.1.1 và 8.1.2
Ngoài ra, ICC 2009 bổ sung thêm điểu khoản mới là điều 8.1.3 nêu rõ rằng bảo
hiểm cũng kết thúc hiệu lực khi hàng vẫn giữ trên phương tiện vận chuyển và người được
bảo hiểm hoặc những người làm công cho họ chọn lưu giữ hàng theo cách đó, ngoài quá

trình vận chuyển bình thường. Lưu ý rằng ở phiên bản ICC 1982 chỉ nhắc đến việc Người
được bảo hiểm ra quyết định về việc lưu kho hay phân phối trong khi các điều khoản mới
của ICC 2009 đề cập tới “Người được bảo hiểm hoặc những người làm công cho họ”- cho
thấy ban quản lý phải ý thức được việc ra quyết định tại nhà kho cấp cơ sở vì chúng có
thể ảnh hưởng đến hiệu lực bảo hiểm.
9.

Thay đổi hành trình (change of voyage)

1982

18


Nhóm 7: Những điểm khác biệt giữa điều kiện bảo hiểm hàng hóa ICC 1982 và ICC 2009

10.Sau khi bảo hiểm này bắt đầu có hiệu lực, nếu Người được bảo hiểm thay đổi nơi nhận
hàng thì phải thông báo ngay cho Người bảo hiểm, hành trình này vẫn được bảo hiểm với
phí bảo hiểm và những điều kiện được thỏa thuận riêng.

2009
10.1 Sau khi bảo hiểm này bắt đầu có hiệu lực, nếu Người được bảo hiểm thay đổi nơi
nhận hàng thì phải thông báo ngay cho Người bảo hiểm để thỏa thuận về phí bảo hiểm và
những điều kiện. Bảo hiểm có thể có hiệu lực đối với những tổn thất xảy ra trước khi đạt
được thỏa thuận, nhưng chỉ khi bảo hiểm là thực hiện được tại mức phí thương mại thị
trường hợp lý với những điều kiện thị trường hợp lý.
10.2 Khi đối tượng được bảo hiểm bắt đầu hành trình dự tính như trong bảo hiểm này
(chiếu theo điều 8.1), nhưng, người được bảo hiểm hoặc những người làm công cho họ
không hay biết con tàu đang đi tới một đích đến khác, bảo hiểm này sẽ mặc nhiên có hiệu
lực tại thời điểm bắt đầu hành trình đó.

Bảo hiểm quy định trong ICC 2009 được mở rộng ra bởi việc bỏ bớt cụm từ “vẫn
được bảo hiểm” (held covered). Có nghĩa là khi thay đổi nơi nhận hàng, trong một số
trường hợp nếu cần thiết sẽ có thể thay đổi mức phí bảo hiểm chứ không chắc chắn vẫn
giữ nguyên mức phí bảo hiểm và điều điện thương lượng riêng như trong ICC 1982 nêu.
Ngoài ra, còn có sự bổ sung thêm điều khoản 10, đó là:
+ Người được bảo hiểm được quyền thay đổi nơi nhận hàng sau khi bảo hiểm có
hiệu lực; và phải thông báo cho người bảo hiểm để có thỏa thuận mới về phí và các điều
kiện khác.
+ Nếu có tổn thất xảy ra trước khi đạt được thỏa thuận như vậy, bảo hiểm chỉ được
chấp nhận khi bảo hiểm là có thể thực hiện được với mức phí và các điều kiện hợp lý trên
thị trường.
Phiên bản 2009 có thêm khoản 10.2 mới để sử dụng trong các trường hợp “tàu
ma”, là một con tàu với giấy tờ giả mạo, chuyển hàng đến một địa điểm khác và bán
chúng. Tuy những trường hợp này không còn phổ biến trong những năm gần đây, nhưng
điều khoản này đảm bảo cho Người được bảo hiểm vô tội sẽ không mất bảo hiểm theo
19


Nhóm 7: Những điểm khác biệt giữa điều kiện bảo hiểm hàng hóa ICC 1982 và ICC 2009

mục 44 trong MIA 1906 liên quan đến thay đổi hành trình. Trong điều khoản mới này,
bảo hiểm là vẫn có hiệu lực khi:
+ Khi hành trình dự định đã được bắt đầu;
+ Khi hành trình bị thay đổi bởi chủ tàu mà không được người được bảo hiểm biết
và cho phép;
+ Hàng hóa bị mất cắp hoặc các tổn hại khác trong hành trình mới và bất ngờ.
10.

Quyền lợi bảo hiểm (benefit of insurance)


1982
15. Bảo hiểm này sẽ không áp dụng đối với quyền lợi của người chuyên chở hoặc người
nhận ký gửi hàng hóa nào khác.

2009
15. Bảo hiểm này
15.1 được áp dụng đối với Người được bảo hiểm bao gồm người đòi bồi thường,
người này là người trực tiếp hoặc người được thay mặt ký hợp đồng bảo hiểm hoặc người
đươc ủy quyền.
15.2 sẽ không mở rộng tới hoặc đem lại lợi ích cho người chuyên chở hoặc người
nhận ký gửi hàng hoá nào khác.
Như vậy, định nghĩa về người được bảo hiểm đã được bổ sung một cách rõ ràng
hơn. Người được bảo hiểm trong ICC 2009 bao gồm người trực tiếp hoặc người được
thay mặt ký hợp đồng bảo hiểm hoặc người đươc ủy quyền. Ngoài ra, cụm từ “áp dụng”
(inure) đã được thay thế bằng “được mở rộng” (extend) để cho đơn giản, dễ hiểu hơn.

20


Nhóm 7: Những điểm khác biệt giữa điều kiện bảo hiểm hàng hóa ICC 1982 và ICC 2009

CHƯƠNG III
THỰC TIẾN ÁP DỤNG ICC 1982 VÀ ICC 2009 TẠI VIỆT NAM
Vương quốc Anh là một trong những nước phát triển thương mại và hàng hải lâu đời
và uy tín nhất thế giới. Nơi đây đã sớm có những nguyên tắc, thể lệ và bảo hiểm hàng hải
được nhiều nước chiếu theo áp dụng, tiêu biểu là bộ điều kiện bảo hiểm ICC do Hiệp hội
bảo hiểm London (Institute of London Underwriters – ILU) thông qua. ICC 1982 với
nhiều sửa chữa phù hợp hơn với điều kiện giao lưu kinh tế hội nhập thay thế ICC 1963 đã
nhanh chóng trở thành tập quán thông dụng quốc tế.
Hiện nay, thị trường bảo hiểm hàng hải Việt Nam đang áp dụng Quy tắc chung về

bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển 1990 (QTC 1990) – soạn thảo dựa theo
nội dung của ICC 1982. Theo đó, QTC 1990 có những quy định về mặt không gian và
thời gian chịu trách nhiệm giống như ICC 1982. Về tổn thất rủi ro bảo hiểm cũng được
chia thành 3 điều kiện A, B, C: Phạm vi điều kiện A tương tự như trong ICC 1982, riêng
điều kiện bảo hiểm B và C trách nhiệm của Người bảo hiểm cộng thêm trách nhiệm đối
với hàng hóa chở trên tàu bị mất tích. Một điểm khác biệt khác, QTC 1990 không có các
quy định về điều kiện bảo hiểm phụ như chiến tranh, đình công (Các điều kiện này tồn tại
trong ICC 1982). Ngày 01/01/2009 Hiệp hội bảo hiểm Anh đã ban hành bộ điều kiện bảo
hiểm mới trên cơ sở kế thừa và cố gắng khắc phục những điểm yếu của ICC 1982. ICC
2009 linh hoạt hơn cho Người bảo hiểm nhưng cũng khắt khe hơn, với nhiều mở rộng có
lợi cho Người được bảo hiểm. Hơn nữa, trên thực tế ICC 2009 chỉ cụ thể hóa chi tiết một
số điều kiện còn nội dung cơ bản vẫn giống ICC 1982. Chính vì vậy ICC 1982 vẫn đang
là điều kiện bảo hiểm được sử dụng rộng rãi nhất.
Thực tế, các công ty bảo hiểm lớn trong nước như AAA, PJICO, BIC… hiện tại đều
đang áp dụng các điều kiện bảo hiểm theo ICC 1982 – QTC 1990 trong các hợp đồng bảo
hiểm mà chủ doanh nghiệp Việt Nam ký kết trực tiếp hoặc đối với các lô hàng xuất khẩu
hoặc các lô hàng nhập khẩu theo giá CIF và các giá tương đương. Tuy nhiên, Việt Nam
cũng đang trên đà phát triển mạnh Công thương nghiệp, kim ngạch XNK trong những
năm gần đây tăng mạnh. Đặc biệt, năm 2012 lần đầu tiên Việt Nam xuất siêu. Không
21


Nhóm 7: Những điểm khác biệt giữa điều kiện bảo hiểm hàng hóa ICC 1982 và ICC 2009

những thế, với sự tăng nhanh của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam thì Chính phủ cần
có những biện pháp hiệu quả hơn trong việc kiểm soát hoạt động XNK. Có thể nhìn thấy
trong tương lai không xa, các Doanh nghiệp Việt Nam cũng cần có bàn tay Pháp luật
mạnh mẽ hơn để bảo vệ họ. Do vậy, ICC 2009 có thể là tiền đề để các nhà làm Luật Việt
Nam thay đổi, bổ sung các điều kiện bảo hiểm cho phù hợp và thiết thực hơn.


22


Nhóm 7: Những điểm khác biệt giữa điều kiện bảo hiểm hàng hóa ICC 1982 và ICC 2009

KẾT LUẬN
Bài tiểu luận của nhóm đã nêu tổng quan về hai bộ điều kiện bảo hiểm hàng hóa vận
chuyển bằng đường biển phổ biến và mới nhất trên thế giới là ICC 1982 và ICC 2009, với
phương thức phân tích, đánh giá so sánh làm nổi bật lên những điểm khác biệt, phù hợp
hơn cho từng trường hợp áp dụng của mỗi điều kiện bảo hiểm. Cả hai bộ điều kiện đều
đấu tranh thủ tiêu các rào cản kinh tế, bảo vệ quyền lợi cho các bên tham gia nhằm mục
đích phát triển môi trường kinh tế lành mạnh. Mặc dù, ICC 2009 ra đời sau, đã có nhưng
quy định cụ thể và phát triển hơn so với ICC 1982 với phạm vi và trách nhiệm bảo hiểm
của Người bảo hiểm lớn hơn, lợi ích của Người được bảo hiểm được mở rộng hơn. Tuy
nhiên, với những ưu điểm không thể chối bỏ của của mình, ICC 1982 vẫn đang là bộ điều
kiện bảo hiểm được sự dụng rộng rãi nhất trên thế giới. Ở Việt Nam, bộ bảo hiểm hàng
hải phát triển những điều kiện rủi ro được bảo hiểm qua QTC 1990, cũng duy định 3 điều
kiện A, B, C tương tự ICC 1982 cho thấy sự cố gắng thay đổi phù hợp với thế giới của hệ
thống pháp luật trong nước. Với những đặc tính nổi trội hơn, cũng như sự thiết yếu đã
được kiểm chứng thì ICC 2009 sẽ dần thay thế cho UCC 1982 trong bảo hiểm hàng hóa
XNK. Để hoạt động giao thương phát triển lành mạnh và bền vững thì việc điều chỉnh và
sửa đổi các điều luật để phù hợp với hoạt động XNK ở VIệt Nam là điều tất yếu và cần
thiết phải làm.
Nhóm xin chân thành cảm ơn ThS Nguyễn Thị Hà đã giúp đỡ chúng em hoàn thành
bài tiểu luận này.

23




×