Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Bài tập các thể thơ việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.29 KB, 4 trang )

Họ Tên: Nguyễn Hữu Hiếu Nghĩa
Lớp: Văn học 8a
Mã số sinh viên: 13D220330046
Môn học: Các thể thơ Việt Nam
Bài làm
Câu 1. Bài thơ lục bát.
Bốn năm cứ nghĩ là dài
Tháng ngày học mãi học hoài chẵng xong
Giờ thì lại nhớ lại mong
Mái trường xưa cũ phượng hồng mùa thi
Phượng hồng buổi ấy chia ly
Để rồi nổi nhớ khắc ghi cõi lòng.
Câu 2. Thơ tự do ( thơ 6 chữ)
Kỷ niệm im lìm rêu phủ
Sân trường cũ ta vui chơi
Cánh phượng rơi như nhắn nhủ
Tình bạn cũ mãi không vơi
Câu 3. Thơ thất ngôn bát cú.
Còn mãi trong tôi kỷ niệm vàng,
Tây Đô xuân hết đón hạ sang.
Ve kêu ra rả năm dần hết,
Tiếng trống tùng tùng tiết học tan.
Yêu lớp thương thầy lòng tím ruột,
Mến trường nhớ bạn dạ bầm gan.
Nhắn về nơi ấy ai còn nhớ,
Còn mãi riêng tôi kỷ niệm vàng.

1


Câu 4. Phân tích bài thơ tự chọn (bài thơ “Làm Lẽ - Hồ Xuân Hương”)


Hồ Xuân Hương là một nữ thi sĩ nổi tiếng được mệnh danh là "Bà chúa thơ
Nôm" với những bài thơ đa phần là thể bát cú đường luật nhưng lại viết bằng chữ Nôm
đã làm nên một nét riêng biệt so với thể đường luật của Trung Hoa. Bài "Làm Lẽ" của
bà là một trong những bài thơ tiêu biểu.
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Năm thì mười họa hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công
Thân này ví biết dường này nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy xong.
Bài thơ có tiếng thứ hai của câu đầu là từ "đắp" mang vần trắc và tiếng cuối của
các câu thứ một-hai-bốn-sáu-tám mang vần bằng nên bài thơ này được viết theo luật
trắc vần bằng. trong bài thơ sử dụng vần chân và tác giả dùng vần "ung" ở hai câu đầu
và vần "ông" ở câu bốn-sáu-tám để tạo liên kết chặc chẽ của cả bài thơ. Bài thơ được
ngắt theo nhịp bốn-ba nhịp chuẩn của bài thơ đường luật nhằm tạo nghĩa, xây dựng cho
từng câu thơ của toànbài thơ. "Làm lẽ" có bố cục bốn phần tiêu biểu của thể thơ bát cú
đường luật.
Hai câu đề nêu lên cảnh ngộ của thân phận làm lẽ:
"Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chông chung"
Chỉ bằng hai câu đề thôi thì Hồ Xuân Hương đã cho chúng ta thấy được
mộtcuộc sống bất công , đau khổ của người làm lẻ bằng hình ảnh đối lập nhau “Kẻ đắp
chăn bông, kẻ lạnh lùng”. Và cái lạnh trong câu thơ không chỉ là lạnh về thể xác bên
ngoài mà nó còn là cái lạnh trong tâm hồn người phụ nữ. Để thoát khỏi sự bất công đó
nhà thơ đã lên tiếng chữi lại cái kiếp sống đáng nguyền rủa bằng những câu từ cực kì
sắc “chém, cái, kiếp và lấy”. toàn là bốn vần trắc.
Hai câu thơ tiếp theo là hai câu thực nỗi niềm than trách cho cảnh làm vợ lẻ
phải chịu nhiều thiệt thòi:

2


"Năm thì mười họa hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không"
Bằng cách chơi chữ gợi lên thời gian như “năm thì mười họa” hay “một tháng
đôi lần” Hồ Xuân Hương đã diễn tả sự thưa thớt của việc gặp mặt và chăn gối của vợ
chồng ,một việc rất hiếm đối với những cặp vợ chồng khác. Người phụ nữ trong bài
thơ phải chịu cảnh phòng không gối chiếc và để cho tuổi xuân của mình trôi qua lặng
lẻ.
Hai câu luận là nổi tiếc nuối trăn trở của việc đi làm lẽ:
"Cố đấm ăn xôi xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công"
Ở hai câu này nhà thơ đã chỉ rỏ giá trị của người Vợ lẽ chẳng qua là một người “
làm mướn”, một người ở, mà còn tệ hơn người làm mướn là “ mướn không công”. Thật
là hẩm hiu, tủi nhục. Những điệp từ “ xôi, xôi”, “ mướn, mướn” tạo ra âm điệu day dứt,
đay nghiến , uất hận của kiếp làm lẽ.
Hai câu kết là tiếng nấc nghẹn lòng cho số phận muỗn thoát khỏi thân phận làm
lẽ:
"Thân này ví biết dường này nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy xong"
Để khép lại hai câu kết Hồ Xuân Hương đã nhìn nhận lại thân phận “làm lẽ” của
mình để rồi ngậm ngùi mà nghĩ rằng “ Thà trước thôi đành ở vậy xong”. Người đàn bà
với thiên chức làm vợ, làm mẹ mà “ ở vậy” là bi thảm nhất, vậy mà làm lẽ lại còn bi
thảm hơn. Thế mới càng thấy “ kiếp lấy chồng chung” cay nghiệt đến chừng nào!
Bài thơ xuất hiện cặp câu đối nhau là cặp câu luận ở vị trí câu thứ hai-tư sáu của
câu luận thứ nhất lần lượt là “Trắc-Bằng-Trắc” thì ở câu luận thứ hai các vị trí này lần
lượt là “Bằng-Trắc-Bằng”, ở đây đối như vậy được gọi là đối thanh. Về luật ở thơ
Đường luật có quy luật là "nhất tam ngũ" bất luận "nhị tứ lục phân minh" có những là ở
vị trí một-ba-năm của các câu thơ thì không cần theo luật nhưng ở vị trí hai-bốn-sáu thì

buộc phải theo luật chính điều này đã góp phần tạo sự luân phiên bằng-trắc giữa các
câu tao sự nhịp nhàng, hoài hòa, vần đối. Cũng như bài thơ Bát cú Đường luật khác"
Làm lẽ " của Hồ Xuân Hương cũng có niêm giữa các cặp câu hai-ba, bốn-năm, sáubảy, một-tám. Đối với các cặp câu hai-ba thì từ thứ hai mang vần bằng, câu thứ bốn-

3


năm thì từ thứ hai mang vần trắc, cứ như vậy luân phiên giữa các cặp tạo nên sự liên
kết chặt chẽ không thể tách rời của các câu thơ.
Với thể thơ Đường luật cổ điển Hồ Xuân Hương đã vận dụng một cách nhuần
nhuyễn để nói lên nỗi lòng của người vợ lẽ đồng thời cũng nói lên số phận của những
người phụ nữ phong kiến. Việc sử dụng thể thơ cổ điển này tuy ngắn gọn nhưng lại
chứa đựng rất nhiều tình cảm của tác giả bên trong. Trong thơ cũng thể hiện sự uyên
bác của " Bà chúa thơ Nôm" Hồ Xuân Hương.

4



×