Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TIỂU LUẬN vận DỤNG các QUAN điểm của ĐẢNG về kêt hợp PHÁT TRIỂN KINH tế với CỦNG cố QUỐC PHÒNG TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP hóa, HIỆN đại hóa đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.61 KB, 25 trang )

1

VẬN DỤNG CÁC QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ KẾT HỢP
PHÁT TRIỂN KINH TẾ VỚI CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG
TRONG QUÁ TRÌNH CNH, HĐH ĐẤT NƯỚC

MỞ ĐẦU

Kết hợp kinh tế với quốc phòng là “hành động chủ động của Nhà nước
trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng đắn các quy luật kinh tế - xã hội khách
quan”, nhằm gắn bó hai lĩnh vực xây dựng kinh tế và củng cố quốc phòng
trong một quá trình thống nhất, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển, bảo đảm
cho mọi hoạt động của xã hội đều dẫn đến sự mạnh lên cả về kinh tế và quốc
phòng, làm cho “mỗi bước phát triển kinh tế đều có tác động nâng cao tiềm
lực quốc phòng, và mỗi bước củng cố quốc phòng đều tạo điều kiện thuận lợi
cho phát triển và bảo vệ nền kinh tế”.
Kết hợp kinh tế với quốc phòng là vấn đề có tính quy luật của mọi quốc
gia dân tộc có chủ quyền. Ở nước ta, từ khi lập nước, cha ông ta luôn gắn kết
việc dựng nước với giữ nước. Từ khi Đảng ra đời, lãnh đạo toàn dân thực hiện
các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và đưa đất nước tiến lên theo con
đường xã hội chủ nghĩa, các quan điểm kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với
tăng cường, củng cố quốc phòng - an ninh luôn được quán triệt, ngày càng
sáng tỏ và đã thực hiện thành công trong các giai đoạn lịch sử, đưa nước ta từ
một nước thuộc địa nửa phong kiến thành một quốc gia độc lập, có chủ quyền
lãnh thổ, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn những năm qua cho thấy, Đảng, Nhà nước đầu tư cho kinh tế
- xã hội cũng là đầu tư cho quốc phòng - an ninh và đầu tư cho quốc phòng an ninh cũng góp phần cho kinh tế - xã hội có môi trường và điều kiện để ổn


2


định, phát triển. Rõ ràng là lựa chọn sự kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với
tăng cường, củng cố quốc phòng - an ninh, tạo điều kiện cho các lĩnh vực
đồng thời phát triển là sự lựa chọn phương án đầu tư khoa học, tiết kiệm và
hiệu quả nhất để đảm bảo xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa một cách toàn diện, cơ bản và lâu bền. Trong toàn bộ hệ
thống chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội kết hợp với
tăng cường quốc phòng - an ninh một cách toàn diện, phải tập trung có trọng
điểm, có phương án cụ thể cho cả thời bình và thời chiến và phải coi đây là sự
nghiệp của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý chặt chẽ của
Nhà nước. Chính vì vậy, trong tình hình hiện nay, tiếp tục nghiên cứu, quán
triệt một cách đầy đủ quan điểm kết hợp phát triển kinh tế với củng cố quốc
phòng của Đảng là một việc làm cần thiết.
Trong phạm vi bài viết này, tác giả đi vào trình bày một cách khái quát
những tư tưởng, quan điểm cơ bản của Đảng ta về sự kết hợp giữa phát triển
kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh trong quá trình lãnh đạo
cách mạng, mà chủ yếu được thể hiện trong các Nghị quyết của Đảng. Từ đó
thấy được sự vận dụng trung thành, sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về
mối quan hệ kinh tế, chiến tranh và quốc phòng, kế thừa truyền thống “dựng
nước đi đôi với giữ nước” của ông cha của Đảng trong đề ra các đường lối,
chủ trương, chính sách và pháp luật nhằm thực hiện nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở ấy, sẽ làm sáng tỏ thêm sự kết
hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh trong xây dựng và phát triển một
số vùng lãnh thổ, trong các ngành, một số lĩnh vực kinh tế của quá trình CNH,
HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức mà bản thân tôi thấy đấy là những vấn
đề bức xúc, nổi cộm và có tính chiến lược lâu dài ở nước ta hiện nay.


3

PHẦN 1


QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ VỚI CỦNG CỐ
QUỐC PHÒNG TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC

* Cơ sở lý luận khoa học của kết hợp kinh tế với quốc phòng
Từ lâu, con người đã biết đến mối tương quan giữa kinh tế với quốc
phòng thông qua quá trình hoạt động thực tiễn. Điều này đã được C. Mác và
Ph. Ăngghen nghiên cứu và khái quát một cách khoa học. Hai ông đã chứng
minh rằng, nguồn gốc, nguyên nhân của “bạo lực” phải tìm ngay trong điều
kiện sản xuất vật chất của xã hội, chứ không phải trong ý chí của “chúa trời”
hay bản năng con người. Kế thừa, phát triển luận điểm này của C. Mác và Ph.
Ăngghen, Lênin đã phân tích, làm rõ, xác định mối quan hệ, sự thống nhất
biện chứng và cả sự mâu thuẫn giữa hai phạm vi hoạt động của con người đó
là kinh tế và chiến tranh, quốc phòng. Đây chính là một trong những cơ sở lý
luận khoa học để Đảng ta đề ra quan điểm kết hợp phát triển kinh tế với củng
cố quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Một nền kinh tế phát triển toàn diện là điều kiện để xây dựng một nền
quốc phòng mạnh, còn một nền quốc phòng mạnh sẽ tạo điều kiện, môi trường
thuận lợi cho phát triển kinh tế và bảo vệ vững chắc thành quả kinh tế đạt
được. Trong mối quan hệ ấy, theo Lênin, kinh tế là cơ sở của quốc phòng,
quyết định tính chất, mục đích của quốc phòng; quyết định trình độ vũ khí
trang bị kỹ thuật, chất lượng, số lượng cũng như biên chế tổ chức của lực
lượng vũ trang; quyết định chiến lược, chiến thuật, khoa học và nghệ thuật
quân sự, phương thức tiến hành củng cố quốc phòng. Bởi suy đến cùng, lợi ích
kinh tế là động lực và mục tiêu của chiến tranh và quốc phòng, kinh tế là
nguồn bảo đảm vật chất và con người cho hoạt động chiến tranh, quốc phòng.


4


Mặc dù quốc phòng tiêu tốn một khối lượng lớn vật chất kỹ thuật mà
nền kinh tế tạo ra, song đó lại là hoạt động cần thiết không thể thiếu trong xã
hội còn tồn tại giai cấp, nhà nước. Hoạt động quốc phòng tạo ra môi trường
hòa bình ổn định để kinh tế phát triển. Do vậy, trong mối quan hệ tương tác
giữa kinh tế với quốc phòng thì quốc phòng không chỉ là hoạt động tiêu tốn
tiền của, vật chất của nền kinh tế mà còn tạo ra những điều kiện cần thiết cho
công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế được thuận lợi. Ngày nay, với tiềm
năng đáng kể về nguồn nhân lực có sức khỏe trình độ chuyên môn, khoa học
công nghệ, năng lực sản xuất quốc phòng mà lực lượng vũ trang có thể tham
gia vào quá trình xây dựng, phát triển kinh tế.
Cũng cần phải thấy được rằng, kinh tế và quốc phòng lại có cả những
nhân tố vận động trái ngược nhau, bởi mỗi lĩnh vực chịu sự chi phối của hệ
thống quy luật riêng. Hoạt động kinh tế là hoạt động tạo ra của cải vật chất
cho xã hội, chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế. Trong khi đó, hoạt động
quốc phòng chịu sự chi phối của các quy luật chiến tranh. Nói đến quốc phòng
chủ yếu là nói tới tiêu dùng không sản xuất; các phương tiện, trang thiết bị
chiến tranh chưa sử dụng đến cũng là thường xuyên tiêu dùng, thêm vào đó lại
cần được bảo quản; lực lượng quân thường trực bao giờ cũng phải đáp ứng đủ
quân số luôn sẵn sàng chiến đấu đòi hỏi phải có nguồn kinh phí đảm bảo. Như
vậy, sự tiêu dùng của quốc phòng có đặc trưng khác biệt với sự tiêu dùng của
kinh tế. Tiêu dùng cho quốc phòng không tham gia vào quá trình tái sản xuất
một cách trực tiếp, mà chỉ gián tiếp thông qua bảo vệ, duy trì môi trường ổn
định cho quá trình tái sản xuất. Trong trường hợp, sự tiêu dùng cho quốc
phòng quá lớn sẽ làm thu hẹp quy mô tái sản xuất. Sự kết hợp kinh tế với quốc
phòng là hoạt động nhằm tăng cường sự thống nhất, hạn chế mâu thuẫn của
chúng để cả hai nhiệm vụ xây dựng kinh tế và củng cố quốc phòng được phát


5


triển cân đối, nhịp nhàng và tiết kiệm. Điều đó có nghĩa là trong xây dựng
kinh tế phải có ý thức tìm ra phương hướng, biện pháp, hình thức tổ chức để
sự phát triển kinh tế tự nó có tác dụng tích cực đến củng cố quốc phòng; còn
trong củng cố quốc phòng cũng phải chọn được những phương hướng, biện
pháp phù hợp nhất với khả năng kinh tế, giảm tối đa những khó khăn không
cần thiết đối với kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển.
* Quan điểm của Đảng ta về kết hợp phát triển kinh tế với củng cố quốc
phòng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam là một dân tộc đất không rộng, người không đông, lại nằm ở
vị trí chiến lược của khu vực, thế giới, thường xuyên phải đối phó với các
cuộc triến tranh xâm lược của các thế lực phản động. Vì thế, ông cha ta đã
sớm có tư tưởng kết hợp kinh tế với quốc phòng với phương châm chiến lược
“dựng nước phải đi đôi với giữ nước”. Thực tiễn sự kết hợp ấy có nhiều nét
đặc sắc, vượt ra khỏi cái chung của thời đại phong kiến đương thời và là một
bài học quý báu cho chúng ta trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Kế tục truyền thống “dựng nước phải đi đôi với giữ nước” của cha ông,
thấm nhuần sâu sắc những nguyên lý của chủ nghĩa Mác Lênin về kết hợp
kinh tế với quốc phòng, ngay từ những ngày đầu thành lập, Đảng ta đã chủ
trương gắn liền những biện pháp kinh tế và quân sự với nhau nhằm đạt được
những mục tiêu của cách mạng ở giai đoạn chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang
giành chính quyền. Chủ trương này đã trở thành tư tưởng chỉ đạo cho việc huy
động lực lượng cho thực hiện các nhiệm vụ cách mạng.
Nghị quyết Hội nghị quân sự Bắc kỳ của Đảng, họp từ 15 – 20.4.1945
đặt vấn đề: “Cần kíp gây dựng những căn cứ kháng Nhật” tại những khu vực
đủ điều kiện về địa hình “gây dựng những cơ sở quần chúng, lương thực”,
quyết định những vấn đề “vũ khí, quân nhu”, “lập xưởng sửa chữa súng ống,


6


bom đạn”, “ra sức thu nhặt, mua sắm vũ khí”, “tích trữ lương thực”, “đặt kế
hoạch mở con đường mua và vận tải muối”, phát triển mạnh chiến tranh du
kích chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Ở những nơi, nếu có địch tới thì thực hiện kế
hoạch “vườn không nhà trống”, “các phố nhỏ nên tản cư”, “các chiến khu và
căn cứ địa phải hỗ trợ, tương ứng cùng nhau”.
Trong cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã sớm chỉ đạo toàn dân thực hiện kết hợp kinh tế với quốc
phòng theo phương châm: “Kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc. Kháng
chiến có thắng lợi thì kiến quốc mới thành công. Kiến quốc có chắc thành
công, kháng chiến mới mau thắng lợi”, “vừa chiến đấu vừa tăng gia sản xuất
và tiết kiệm”. Động viên toàn thể dân tộc mang hết sức mình, tích cực tham
gia xây dựng, phát triển kinh tế đất nước, chống đói, xóa nạn mù chữ đồng
thời, huy động mọi lực lượng, tiềm năng thế mạnh để củng cố sức mạnh, tăng
cường nâng cao khả năng chiến đấu của lực lượng vũ trang (điều này được thể
hiện rõ trong chỉ thị Kháng chiến kiến quốc ngày 25.11.1945 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng). Thực hiện theo chủ trương đó, chúng ta đã tập trung
xây dựng và phát triển công nghiệp, nông nghiệp, các nhà máy sản xuất hàng
dân dụng, các trang bị vũ khí để vừa bồi dưỡng sức dân vừa đáp ứng nhu cầu
của lực lượng vũ trang. Trong điều kiện viện trợ từ bên ngoài chỉ chiếm
khoảng 16% trong ngân sách quốc phòng, nhưng trong chín năm kháng chiến
kiến quốc, nền kinh tế hậu phương đã được động viên mỗi năm một tăng lên,
bảo đảm ngày càng tốt hơn cho yêu cầu tiền tuyến. Cuối cuộc kháng chiến,
yêu cầu của chiến tranh đã tăng lên gấp 20 lần so với thời kỳ đầu. Điều này
cho thấy sự năng động, sáng tạo về sách lược của Đảng mà trọng tâm chiến
thuật được vạch ra một cách cụ thể là gắn chặt giữa quân sự, chính trị với kinh
tế.


7


Sau khi miền Bắc được giải phóng, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 12
khóa II (1957), Đảng đã chỉ đạo việc giải quyết đúng mối quan hệ giữa xây
dựng kinh tế và củng cố quốc phòng. Nghị quyết nhấn mạnh, trong mọi công
tác của Nhà nước, trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cũng như kế
hoạch của từng ngành phải quán triệt và có ý thức xây dựng, củng cố hậu
phương, kết hợp nhu cầu kinh tế, văn hoá với nhu cầu củng cố quốc phòng,
kết hợp các nhu cầu thời bình và nhu cầu thời chiến. Tiếp đó, tại Hội nghị
Trung ương 14 khoá II (1958), Đảng ta đã nêu chủ trương kết hợp kinh tế với
quốc phòng, “kết hợp tăng cường củng cố quốc phòng với xây dựng hậu
phương vững chắc”; vừa tập trung xây dựng, củng cố quốc phòng, vừa không
ngừng củng cố xây dựng hậu phương về mọi mặt để cung cấp đầy đủ các yêu
cầu cần thiết phục vụ cho chiến trường đánh giặc; phấn đấu xây dựng “tiền
tuyến vững chắc, hậu phương vững mạnh”, “tiền tuyến gắn chặt với hậu
phương, hậu phương gắn chặt với tiền tuyến”, “bộ đội tham gia sản xuất, tích
trữ lúa gạo, muối, ký ninh”...Thực hiện Nghị quyết này, quân đội thời gian này
được thoái ngũ với khối lượng lớn. Nhiều đơn vị được chuyển sang xây dựng
các nông trường quốc doanh, bố trí tập trung ở Thanh Hoá, Nghệ An…Khu
vực này được coi là một trong những khu căn cứ cho các cuộc chiến tranh
chống xâm lược sau này. Số đông cán bộ quân đội còn lại được chuyển sang
công tác ở các ngành kinh tế; số chiến sĩ còn lại phục viên về vùng nông thôn
tham gia lao động sản xuất nông nghiệp.
Kết hợp kinh tế với quốc phòng đã được nêu nên thành một nội dung
trong đường lối kinh tế và đường lối quân sự của Đảng ở Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam (1960): “Phát triển kinh tế
phải gắn liền với củng cố quốc phòng”, “Phải giải quyết đúng đắn mối quan
hệ giữa xây dựng kinh tế với củng cố quốc phòng; trong xây dựng kinh tế phải


8


thấu suốt nhiệm vụ quốc phòng, cũng như trong củng cố quốc phòng phải
khéo sắp xếp cho ăn khớp với công cuộc xây dựng kinh tế”. Giải phóng hoàn
toàn miền Nam, đi đôi với xây dựng miền Bắc XHCN là nhiệm vụ cơ bản của
cách mạng Việt Nam. Theo đó, một mặt, tiếp tục củng cố, tăng cường sức
mạnh của quần chúng, lực lượng vũ trang; tích cực, chủ động tấn công địch
trên các chiến trường để từng bước giành lợi thế về so sách lực lượng ở chiến
trường miền Nam. Mặt khác, thực hiện công nghiệp hóa XHCN bằng cách ưu
tiên phát triển công nghiệp nặng, ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp
nhẹ, đẩy mạnh cách mạng XHCN về tư tưởng, văn hoá, kỹ thuật, xây dựng
miền Bắc thành cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Nhờ thực hành kết hợp kinh tế với quốc phòng theo đường lối của Đảng trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chúng ta đã củng cố được hậu phương
lớn xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, bảo vệ được miền Bắc trước hai cuộc chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến
miền Nam để giành thắng lợi hoàn toàn vào 30-4-1975, thống nhất Tổ quốc.
Chỉ tính riêng trong cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa chống chiến lược
“Việt Nam hoá chiến tranh”, miền Bắc đã chi viện cho miền Nam 6 trung
đoàn bộ binh, 10 tiểu đoàn và 100 đại đội, trung đội đặc công, 8 vạn quân bổ
sung cùng 17 vạn tấn vũ khí. Năm 1971, miền Bắc đã chi viện 6 vạn tấn vật
chất, 19,5 vạn lực lượng bộ binh, đặc công cho miền Nam đánh giặc.
Sau khi thống nhất Tổ quốc, hòa bình chưa được bao lâu chúng ta lại
phải đương đầu với cuộc chiến tranh biên giới Tây - Nam và biên giới phía
Bắc. Để bảo vệ vững chắc đất nước và những thành quả cách mạng đã giành
được sau bao năm vất vả, hy sinh, trong các Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ IV, V của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng ta tiếp tục khẳng
định: “Kết hợp kinh tế với quốc phòng là một chủ trương lớn nhằm thực hiện


9


thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa”, coi kết hợp kinh tế với quốc phòng là một phương
hướng cơ bản lâu dài nhằm tạo ra thế bố trí chiến lược thống nhất để làm chủ
cả về kinh tế và quốc phòng trên phạm vi cả nước và ở từng địa phương.
Đường lối đúng đắn ấy đã góp phần giúp nhân dân ta đạt được những thành
tựu đáng kể, bước đầu khắc phục những hậu quả nặng nề do chiến tranh xâm
lược và thiên tai liên tiếp gây ra; đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược ở hai
đầu biên giới, giúp đỡ Mặt trận đoàn kết dân tộc Campuchia và nhân dân
Campuchia anh em giải phóng đất nước, cứu dân tộc Khơme khỏi họa diệt
chủng.
Quán triệt sâu sắc và đầy đủ lý luận chủ nghĩa Mác Lênin về kết hợp
kinh tế với quốc phòng, với quan điểm “toàn dân xây dựng đất nước và bảo vệ
Tổ quốc, toàn dân bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước”, Đại hội VI của
Đảng xác định: “Phát huy sức mạnh của cả hệ thống chuyên chính vô sản, sức
mạnh của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân kết hợp chặt chẽ kinh tế, quốc
phòng và an ninh, đẩy mạnh công cuộc xây dựng nền quốc phòng và an ninh
nhân dân, xây dựng hậu phương đất nước một cách toàn diện”. Theo đó, Đảng
ta chỉ rõ: “Quốc phòng an ninh phải được xây dựng và củng cố ngày càng
vững mạnh bảo đảm điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng kinh tế. Trên
cơ sở phát triển kinh tế đáp ứng ngày càng đầu đủ và ổn định cho nhu cầu đời
sống vật chất, tinh thần của các lực lượng vũ trang; bảo đảm cơ sở vật chất kỹ
thuật và từng bước trang bị cho lực lượng vũ trang; bảo đảm vật tư, tài chính
cho sản xuất quốc phòng”.
Tiếp tục quan điểm đúng đắn ấy, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vạch rõ: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong


10


khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn nâng cao
cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,
bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng”, không được coi nhẹ bất cứ một
lĩnh vực hoạt động nào, cũng như không được tách rời giữa hai nhiệm vụ quan
trọng đó trong mọi hoàn cảnh, điều kiện. Quan điểm cơ bản này phải được
quán triệt sâu rộng trong tất cả các ngành, lĩnh vực, trong toàn thể quần chúng
nhân dân lao động, làm căn cứ để đề ra những nhiệm vụ cụ thể cho mỗi cấp,
địa phương mình.
Xác định nhiệm vụ của quốc phòng - an ninh, Đại hội Đảng lần thứ VII
vạch rõ: “Sự ổn định và phát triển mọi mặt đời sống xã hội là nền tảng của
quốc phòng - an ninh. Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng cường tiềm lực
quốc phòng - an ninh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc
phòng - an ninh với kinh tế trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội”.
Cũng với quan điểm ấy, Hội nghị Đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII chỉ
rõ: “Trong khi tập trung sức xây dựng đất nước, chúng ta phải coi trọng tăng
cường quốc phòng - an ninh, chấp hành thật tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo
vệ độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia, giữ vững ổn định
chính trị - xã hội và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa”.
Tổng kết 10 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ VIII đã chỉ ra những
thời cơ và nguy cơ của thời kỳ đất nước đẩy mạnh CNH, HĐH; khẳng định
một trong sáu quan điểm chiến lược trong sự nghiệp CNH, HĐH là kết hợp
kinh tế với quốc phòng. Trong phương hướng phát triển kinh tế xã hội 1996 –
2000, Đại hội xác định: “Kết hợp quốc phòng - an ninh với kinh tế, kết hợp
chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh; nâng cao hiệu quả sử dựng các
nguồn lực vừa phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế vừa phục vụ quốc phòng an ninh”. Với tinh thần đó, trong các chương trình và lĩnh vực phát triển, Đại


11

hội đã chỉ rõ: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng trong việc quy hoạch

và các vùng kinh tế, các ngành công nghiệp, lấy hiệu quả kinh tế gắn với yêu
cầu bảo đảm quốc phòng - an ninh làm cơ sở cho những chủ trương cụ thể…
Nâng cao năng lực của các ngành và các cơ sở kinh tế trong việc đáp ứng các
nhu cầu vật chất, kỹ thuật cho quốc phòng - an ninh. Bảo đảm có thể nhanh
chóng huy động được mọi tiềm lực kinh tế phục vụ cho quốc phòng - an ninh
khi tình thế đòi hỏi. Khai thác có hiệu quả tiềm năng của các cơ sở công
nghiệp quốc phòng để tham gia xây dựng kinh tế”.
Nhờ chủ trương đúng đắn của Đảng, nhận thức về kết hợp kinh tế với
quốc phòng ở các cấp, các ngành đã có những chuyển biến. Trong thực tiễn,
chúng ta đã kết hợp kinh tế với quốc phòng trong xây dựng các công trình
trọng điểm quốc gia, hình thành được thế bố trí chiến lược mới trong phát
triển kinh tế và củng cố quốc phòng, xác định xây dựng vùng kinh tế gắn với
khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố; từng bước đầu tư xây dựng các khu kinh tế
quốc phòng ở các tỉnh biên giới phía Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, kết hợp
kinh tế với quốc phòng trong tham gia xây dựng kinh tế của lực lượng vũ
trang địa phương, cũng như trong các hoạt động của quân đội thường trực.
Với nhiệm vụ lịch sử là nhìn lại chặng đường 100 năm đã qua, trong đó
có 71 năm cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đi sâu tổng kết 5
năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII, 10 năm thực hiện chiến lược
kinh tế - xã hội, 15 năm đổi mới, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng đã rút ra những bài học sâu sắc, từ đó phát triển và hoàn thiện đường
lối, định ra chiến lược phát triển đất nước trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ
XXI. Một lần nữa Đại hội lại khẳng định: “Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội
với củng cố quốc phòng và an ninh là nhiệm vụ rất quan trọng trong bối cảnh
phát triển cạnh tranh và hội nhập kinh tế khu vực và thế giới trong thập kỷ


12

tới”. Theo đó, trong định hướng phát triển các ngành kinh tế và các vùng, Đại

hội IX chỉ ra rằng: “Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với xây dựng
tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, được thể
hiện trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, của các ngành, các địa phương và trong các dự án lớn…Phân bố hợp lý
việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật trên các vùng của đất nước, vừa phát
huy hiệu quả kinh tế - xã hội, vừa sử dụng được cho quốc phòng - an ninh khi
cần thiết. Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, ổn định dân cư phù hợp với chiến
lược quốc phòng và chiến lược an ninh quốc gia. Đồng thời, hoàn chỉnh chiến
lược quốc phòng và chiến lược an ninh quốc gia phù hợp với tình hình mới,
phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội”.
Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức là một trong
những chủ trương lớn mà Đại hội lần thứ X vạch ra. Để góp phần thực hiện
thắng lợi sự nghiệp to lớn đó, Đại hội X chỉ rõ: “Kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường sức mạnh quốc phòng và an ninh trên cơ sở phát huy
mọi tiềm năng của đất nước”. Theo đó, Đại hội xác định, cùng với việc “Coi
trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát triển
của đất nước, xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực
và lãnh thổ, nâng cao năng suất lao động của tất cả các ngành, lĩnh vực”.
Chúng ta cần phải: “Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân
vững mạnh toàn diện…Xây dựng quân đội nhân dân và Công an nhân dân
cách mạng, chính quy, tinh nhụê, từng bước hiện đại. Nâng cao chất lượng
tổng hợp, sức chiến đấu để lực lượng vũ trang thật sự là lực lượng chính trị
trong sạch, vững mạnh”. Chủ trương kết hợp kinh tế với quốc phòng phải
được tiến hành một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, phải tập trung có
trọng tâm trọng điểm, phải có các phương án cụ thể. Kết hợp kinh tế với quốc


13

phòng không phải chỉ là việc làm của riêng Nhà nước mà đó còn là trách
nhiệm, nghĩa vụ của toàn dân, các lực lượng, các thành phần kinh tế.

Một trong những vấn đề nổi bật của nhiệm vụ quốc phòng hơn 15 năm
qua là Đảng đã xác định được đường lối, chủ trương, phương thức phù hợp để
xây dựng nền quốc phòng toàn dân, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới. Đặc biệt là đối với công tác quốc phòng ở các địa phương, các
ngành đã có sự đổi mới về nhận thức, thấy rõ trách nhiệm của mình đối với
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Chính vì vậy mà trong khi cả nước tập trung vào
nhiệm vụ xây dựng kinh tế, nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, chế độ
bao cấp bị xóa bỏ, công tác quốc phòng ở địa phương và các ngành vẫn được
giữ vững và có bước phát triển mới góp phần quan trọng nâng cao sức mạnh
phòng thủ đất nước ngay trên từng địa bàn, địa phương, tạo sự ổn định về
chính trị, giữ vững trật tự an toàn xã hội, làm thất bại nhiều kế hoạch phá hoại,
gây rối của kẻ thù, bảo đảm môi trường thuận lợi thực hiện thắng lợi công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Rõ ràng là, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng
-an ninh là một quan điểm cơ bản, như sợi chỉ đỏ xuyên suốt của Đảng trong
quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trong điều kiện có chiến tranh cũng
như khi có hòa bình ổn định, Đảng ta luôn coi sự kết hợp kinh tế với quốc
phòng là phương thức có hiệu quả nhằm vừa nâng cao tiềm lực kinh tế vừa
tăng cường, củng cố tiềm lực quốc phòng của đất nước; coi đó là một nội dung
quan trọng trong chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN,
một yêu cầu tất yếu của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện
cách mạng mới. Những thành tựu đạt được trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã
hội, quốc phòng…nước ta những năm qua đã chứng minh sự đúng đắn của
đường lối đó.


14

PHẦN 2


VẬN DỤNG CÁC QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ
VỚI CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG TRONG QUÁ TRÌNH CNH, HĐH.

Lý luận và thực tiễn trình bày ở trên cho thấy, xây dựng đất nước, phát
triển kinh tế - xã hội là trọng tâm và giữ vai trò quyết định, tạo tiền đề và làm
cơ sở để củng cố quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Ngược lại, củng cố,
tăng cường quốc phòng - an ninh vững mạnh sẽ là điều kiện giữ vững hòa
bình, ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho xây dựng đất nước, phát triển kinh
tế - xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia và chế độ
xã hội chủ nghĩa. Đây chính là kết quả của sự vận dụng sáng tạo lý luận chủ
nghĩa Mác Lênin về kết hợp kinh tế với quốc phòng, kế thừa truyền thống
dựng nước đi đôi với giữ nước của ông cha của Đảng vào điều kiện cụ thể của
đất nước, phù hợp với xu thế của thời đại. Thể hiện sự tài tình, vững tay lái
con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua những cơn sóng giữ, để đến với bến
bờ vinh quang, nền hòa bình thực sự cho dân tộc.
Xây dựng và phát triển đất nước mà trọng tâm là đẩy nhanh CNH, HĐH
gắn với phát triển kinh tế tri thức trong điều kiện hội nhập quốc tế, thời cơ,
thuận lợi có nhiều, nhưng khó khăn, thách thức mà chúng ta phải đương đầu
không phải là ít. Trên thế giới, “ những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ
trang, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ tiếp tục diễn ra”. Trong
nước, “nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và
trên thế giới vẫn tồn tại”. Thêm vào đó, lợi dụng sự mở cửa, hợp tác quốc tế,
các thế lực thù địch không ngừng thực hiện các hoạt động chống phá sự
nghiệp cách mạng nước ta dưới nhiều thủ đoạn tinh vi, sảo quyệt, trong đó
kinh tế được xác định là khâu đột phá. Chính vì vậy, cùng với quá trình tập


15

trung mọi nguồn lực để đẩy nhanh CNH, HĐH, phát triển kinh tế - xã hội,

chúng ta phải đặc biệt quan tâm đến việc tăng cường, củng cố quốc phòng - an
ninh; thực hiện nghiêm túc quan điểm kết hợp kinh tế với quốc phòng của
Đảng. Yêu cầu đạt được của sự kết hợp này là phải góp phần tạo ra những
điều kiện thuận lợi để khai thác tốt nhất mọi tiềm năng trong và ngoài nước để
đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH; phải tạo được khả năng giữ vững hoà bình,
ổn định cho công cuộc đổi mới, chống chiến lược“diễn biến hoà bình” và
chuẩn bị đầy đủ được các yếu tố vật chất, kỹ thuật đảm bảo cho sự thắng lợi
của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống. Với ý nghĩa đó,
cùng với việc thực hiện đầy đủ các nội dung kết hợp kinh tế với quốc phòng
mà Đại hội Đảng lần thứ X đề cập, trong tình hình hiện nay, theo tôi cần quán
triệt tốt mấy vấn đề chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng an ninh trong quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng, gắn các vùng lãnh thổ với
các vùng kinh tế trọng điểm.
Đất nước ta dài, địa hình phức tạp với nhiều núi non, rừng, biển, sông
ngòi, dễ bị chia cắt, do đó kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường,
củng cố quốc phòng - an ninh lại càng trở lên cần thiết. Theo đó, cần phải có
chiến lược, quy hoạch và kế hoạch cụ thể gắn kết giữa các vùng với nhau, nhất
là các địa bàn chiến lược về quốc phòng - an ninh với các vùng kinh tế trọng
điểm mà hệ thống giao thông là một yếu tố rất cơ bản. Ph. Ăngghen đã từng
khẳng định: “Không có gì lại phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế hơn là
chính ngay quân đội và hạm đội. Vũ trang, biên chế, tổ chức, chiến thuật,
chiến lược phụ thuộc trước hết vào trình độ sản xuất đạt được trong một thời
điểm nhất định và vào phương tiện giao thông”. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng đã từng căn dặn: “Cầu đường là mạch máu của đất nước. Cầu


16

đường tốt thì lợi cho kinh tế: hàng hóa dễ lưu thông, sinh hoạt đỡ đắt đỏ. Cầu
đường tốt thì lợi cho quân sự: bộ đội ta chuyển vận nhanh, đánh thắng nhiều”.

Thực tiễn đã cho thấy, cùng với điện khí đốt, kinh tế muốn phát triển
nhất thiết phải có hệ thống giao thông thuận tiện và hiện đại. Việc quy hoạch,
xây dựng, phát triển hệ thống giao thông bao gồm các tuyến đường bộ, đường
sắt, đường thuỷ, đường không và các bãi, bến đỗ, bến cảng, nhà ga, sân
bay...phải rất gắn kết với quốc phòng. Nghiêm túc đánh giá thấy rằng, trong
vấn đề này chiến lược của ta có những điểm chưa thể hiện rõ và triển khai còn
chậm. Ba vùng kinh tế trọng điểm ở nước ta: phía Bắc gồm Hà Nội, Hải
Phòng, Quảng Ninh; phía Nam gồm Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà
Rịa Vũng tàu; Miền Trung gồm Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế, Dung Quất
-Quảng Ngãi, cần sớm có hệ thống giao thông hiện đại, đồng bộ nối liền với
các vùng kinh tế kém phát triển ở vùng sâu, vùng xa nhưng lại có vị trí quan
trọng về quốc phòng - an ninh.
Hiện tại nền kinh tế nước ta phát triển chưa thực sự cao và còn gặp
nhiều khó khăn, nhưng nếu có cơ chế, chính sách hợp lý, có khả năng thu hút,
huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước và có quy hoạch rõ ràng, các
cấp, các ngành, các địa phương có thể tập trung sớm xây dựng mạng lưới giao
thông vận tải nhanh hơn, đồng bộ, chất lượng hơn. Trong xây dựng hệ thống
giao thông cần tính đến yếu tố tự bảo vệ, tận dụng các địa hình có lợi thế trong
việc quan sát, cất giữ tài sản và bảo vệ khi tình huống đất nước có chiến tranh
xảy ra. Đặc biệt, hệ thống giao thông vận tải trong các đô thị lớn, các khu
công nghiệp trọng yếu và các trung tâm thương mại, công sở quan trọng phải
có các công trình, phương án để bảo đảm an toàn cho hoạt động dân sinh,
phòng thủ dân sự khi có sự cố cháy nổ, hoả hoạn và để bám trụ, cố thủ, phòng
tránh, đánh trả đối phương khi chiến sự xảy ra.


17

Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) sẽ tạo ra rất
nhiều cơ sở vật chất, kỹ thuật, hàng hóa. Để bảo vệ tốt các thành quả kinh tế

cần phải có các phương án tự bảo vệ và được bảo vệ tại chỗ, trong đó hệ thống
đường hầm có ý nghĩa và tác dụng rất thiết thực. Sự kết nối giữa thành thị và
nông thôn, giữa các vùng kinh tế trọng điểm với các vùng biên giới, hải đảo
bằng hệ thống giao thông thông suốt, hiện đại, đồng bộ, bí mật, an toàn…là
điều kiện rất cơ bản để thực hiện thắng lợi sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội
và củng cố quốc phòng - an ninh đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH gắn với
phát triển kinh tế tri thức. Do đó, mục tiêu chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
xây dựng đường giao thông huyết mạch, giao thông thành phố, giao thông
nông thôn, giao thông đường biển, đường không…vừa đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội vừa tăng cường của cố tiềm lực quốc phòng - an ninh của
đất nước cần được ưu tiên làm sớm và đưa vào thực thi. Kinh nghiệm ở Hà
Nội, thành phố Hồ Chí Minh và một số địa phương khác cho thấy, do không
sớm quy hoạch cụ thể, ổn định, nên mỗi khi xây dựng, phát triển hệ thống giao
thông thường gặp rất nhiều khó khăn, gây lãng phí rất lớn. Đây là một thực tế
mà chúng ta cần sớm khắc phục, rút kinh nghiệm, qua đó có sự điều chỉnh, bổ
sung hợp lý trong quy hoạch xây dựng sau này.
Thứ hai, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng
an ninh trong một số ngành kinh tế mũi nhọn, hoặc có quan hệ gắn bó mật
thiết với quốc phòng.
Vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh đều phải được quán
triệt sâu sắc và triển khai thực hiện nghiêm túc trong tất cả các ngành, song
với những ngành có liên quan trực tiếp, gắn bó hữu cơ với quốc phòng, an
ninh như, Giao thông vận tải, Bưu chính viễn thông, Du lịch, Công nghiệp
nhất là lĩnh vực cơ khí, điện, điện tử, tin học, hóa chất…thì phải chú trọng và


18

quan tâm đặc biệt. Vấn đề này không chỉ riêng các ngành có liên quan tự làm
được mà cần có sự định hướng, chỉ đạo sát sao của Nhà nước, sự hợp lực, cố

vấn về quốc phòng - an ninh của các Bộ quốc phòng, Công an, làm sao cho
mỗi bước phát triển của ngành đó là một bước tăng cường, củng cố thêm khả
năng phòng thủ, bảo vệ của ngành mình và của đất nước.
Ví dụ, như Bưu chính viễn thông là một ngành có diện hoạt động trải
khắp trên mọi miền của đất nước để bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt
trong mọi tình huống, nên sự phát triển, mở rộng mạng lưới bưu chính viễn
thông cần phải bảo đảm các yêu cầu về quốc phòng - an ninh, đồng thời làm
chỗ dựa cho mạng lưới thông tin quân sự, hỗ trợ mạng lưới này bảo đảm thông
tin liên lạc cho lãnh đạo, chỉ đạo chỉ huy thông suốt quá trình củng cố thế trận
quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, hoặc đối phó với những tình huống
đặc biệt ở từng địa phương và trong cả nước (khắc phục ngay tình trạng cạnh
tranh thiếu lành mạnh như trong thời gian vừa qua giữa Tổng công ty bưu
chính viễn thông và Công ty Viettel quân đội).
Bởi vậy, trong chiến lược quy hoạch, xây dựng phát triển mạng lưới
bưu chính viễn thông trên phạm vi cả nước cũng như từng ngành, từng địa
phương phải coi trọng phát triển mạng lưới rộng khắp đất nước từ thành thị
đến các vùng nông thôn, biên giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số, bảo đảm
vừa phục vụ nhu cầu thông tin cho phát triển kinh tế, văn hóa xã hội vừa đáp
ứng nhu cầu phục vụ cho các mạng lưới chuyên dùng của quân đội, công an
và các ngành đặc thù khác. Khi lựa chọn địa điểm đặt đài, trạm, các tuyến
thông tin…cần chú trọng tới các điều kiện và tiêu chí về phục vụ sản xuất và
đảm bảo an ninh quốc phòng ở từng địa phương và trên cả nước.
Đối với ngành Công nghiệp, nhất là những lĩnh vực có quan hệ mật thiết
với công nghiệp quốc phòng như cơ khí - chế tạo máy, sửa chữa, đóng tàu,


19

điện tử kỹ thuật cao, luyện kim, hóa chất…Nhà nước cần có chiến lược đầu tư
phát triển mạnh mẽ hơn để các ngành này có đủ điều kiện cải tiến, đổi mới

công nghệ, vươn lên chiếm lĩnh thị trường trong nước, sản xuất nhiều chủng
loại mặt hàng có chất lượng, có sức cạnh tranh trên thị trường để phục vụ nhu
cầu tiêu dùng cho dân sinh và quốc phòng cả trong thời bình và thời chiến.
Hiện nay, chúng ta chưa có nhiều nhà máy quốc phòng mạnh về các lĩnh vực
trên. Vì vậy, việc liên kết, phối hợp nghiên cứu, chế tạo các mặt hàng công
nghiệp mang tính lưỡng dụng với các nhà máy, xí nghiệp quốc doanh, liên
doanh là giải pháp rất cần thiết để từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm
khi thời bình phục vụ cho dân sinh, khi có chiến sự thì chuyển sang phục vụ
quốc phòng, quân sự. Sớm thực hiện chủ trương sáp nhập Công nghiệp quốc
phòng vào hệ thống Công nghiệp quốc gia nhằm nâng cao và phát huy tốt các
khả năng của các cơ sở sản xuất Công nghiệp quốc phòng.
Riêng đối với ngành Y tế, kết hợp quân dân y đã là truyền thống, thế
mạnh của chúng ta trong chiến tranh cũng như khi xây dựng, bảo vệ Tổ quốc
hiện nay. Cần tổng kết, phát huy các kinh nghiệm quý báu đó để đẩy mạnh
hơn nữa sự kết hợp này, tạo sức mạnh tổng hợp của các lực lượng y tế; kết
hợp đông - tây y, nghiên cứu sáng chế các loại thuốc cổ truyền từ các nguồn
thực vật khá phong phú, quý hiếm ở vùng sâu, vùng xa, nơi bộ đội đóng quân
để chăm sóc sức khỏe bộ đội, nhân dân ở những nơi khó khăn, trong các tình
huống phức tạp, kể cả khi kẻ thù gây xung đột vũ trang, chiến tranh xâm lược
nước ta.
Đối với ngành du lịch, một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của đất
nước hiện nay, trong quá trình phát triển cũng cần đặc biệt chú ý phải kết hợp
chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, hiệu quả kinh tế - xã hội với hiệu quả quốc
phòng - an ninh. Tránh đề cao vấn đề quốc phòng mà làm mất đi lợi ích kinh


20

tế hết sức to lớn. Ngược lại, không được quá coi trọng lợi ích kinh tế đơn
thuần mà bỏ qua yếu tố quốc phòng - an ninh. Thực tế đang đặt ra nhiều vấn

đề yêu cầu cần phải được nhận thức một cách đầy đủ về kết hợp kinh tế với
quốc phòng trong lĩnh vực kinh tế quan trọng này. Cho đến nay, không ít các
vùng, địa bàn, địa hình có giá trị quân sự cao (như các vịnh, eo biển, hang,
động…) đã và đang trở thành những khu tham quam quan, du lịch của các du
khách trong và ngoài nước; có nhiều công trình quân sự, quốc gia cần phải
được bảo vệ, giữ gìn cũng đang bị đe dọa bởi lý do “quảng bá nền văn hóa dân
tộc”. Thêm vào đó, nhiều hoạt động khảo sát, tìm hiểu nhằm mở rộng quy mô,
xây dựng các khu, trung tâm du lịch không chú ý đến yếu tố quốc phòng - an
ninh đang diễn ra khá phức tạp. Chính vì vậy, cần phải có quy hoạch, kế hoạch
cụ thể, gắn kết các yêu cầu kinh tế, quốc phòng trong phát triển ngành kinh tế
quan trọng này. Ở đây, vai trò của Nhà nước là đặc biệt cần thiết, vừa là người
trực tiếp quản lý, chỉ đạo vừa thường xuyên kiểm tra việc thực hiện để khắc
phục kịp thời những vấn đề nảy sinh.
Thứ ba, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo.
Suy cho cùng, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc
phòng - an ninh để phục vụ con người, phục vụ dân sinh, tạo ra một xã hội hòa
bình, ổn định, văn minh. Con người chỉ có trình độ cao khi được giáo dục và
đào tạo một cách toàn diện, đầy đủ, chu đáo, thiết thực. Thực tế sự kết hợp
kinh tế với quốc phòng an ninh hiện nay ở nước ta về lĩnh vực giáo dục - đào
tạo vẫn còn nhiều khiếm khuyết. Vì vậy, ngoài việc nâng cao ý thức trách
nhiệm về sự kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh trong toàn xã
hội, trước hết là đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp, các ngành,
các cơ quan, đoàn thể từ trung ương tới cơ sở, vấn đề quan trọng đặt ra hiện


21

nay là phải tăng cường, đẩy mạnh hơn nữa công tác giáo dục - đào tạo để đào
tạo những con người vừa hồng, vừa chuyên, đủ sức gánh vác vai trò làm chủ
đất nước trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh CNH, HĐH

gắn với phát triển kinh tế tri thức. Hơn lúc nào hết, chúng ta cần hoàn thiện
chiến lược giáo dục - đào tạo, đồng thời xây dựng kế hoạch lâu dài để nâng
cao dân trí, đặc biệt là đối với thanh niên, học sinh, sinh viên. Các nhà trường,
học viện cần sớm cải cách, sửa đổi, bổ sung cả về chương trình, nội dung và
phương pháp cho phù hợp với yêu cầu kết hợp kinh tế với quốc phòng trong
thời kỳ CNH, HĐH. Đi liền với đó là nâng cao chất lượng công tác giáo dục
quốc phòng trong các nhà trường. Một yêu cầu đặt ra với vấn đề này là không
được hình thức, không gượng ép và phải đảm bảo chất lượng thực sự.
Những năm đổi mới vừa qua, lĩnh vực giáo dục - đào tạo của ta đã có
bước phát triển cả bề rộng và chiều sâu, tuy vậy, vẫn còn nhiều điều đáng suy
nghĩ. Đó là sự chênh lệch khá lớn về trình độ dân trí nói chung và chất lượng
giáo dục - đào tạo giữa đô thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền ngược,
nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tình trạng này dẫn
đến sự thiếu hụt về tri thức, đặc biệt là thiếu đội ngũ cán bộ của chính người
địa phương, của con em đồng bào dân tộc thiểu số, ảnh hưởng không nhỏ đến
tiến trình xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh ở
đó. Thiết nghĩ, đối với các tỉnh miền núi, biên giới, nhất là vùng đồng bào dân
tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, Nhà nước cần tiếp tục có chính sách rộng rãi
hơn để ưu tiên, tuyển dụng, cử tuyển các cháu người dân tộc thiểu số đã tốt
nghiệp trung học phổ thông, hoặc đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự và qua
trường thiếu sinh quân vào học ở các trường đại học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp…để tạo nguồn cán bộ cho các địa phương, tạo điều kiện thuận
lợi cho các địa phương thu hẹp khoảng cách, theo kịp các tỉnh đồng bằng, các


22

đô thị, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày một hiệu quả hơn. Nên
nhận thức rằng, thế hệ học sinh, sinh viên đang học tập tại các trường hiện nay
là nguồn nhân lực chủ chốt của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong

thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Bởi vậy, các cấp, các ngành, nhất là bộ Quốc phòng cần phối hợp chặt
chẽ với chính quyền địa phương, các trường để có quy hoạch, kế hoạch quản
lý, bồi dưỡng, sử dụng hợp lý nguồn nhân lực quan trọng này. Bên cạnh lực
lượng thanh niên tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng, số còn lại khá đông
và một phần không nhỏ lực lượng thanh niên ưu tú đi làm nghĩa vụ quân sự,
tuy kiến thức quốc phòng, quân sự được nâng cao, song khi xuất ngũ không có
nghề nghiệp chuyên môn nên khó kiếm được việc làm và như vậy sẽ rất lãng
phí nguồn nhân lực có kiến thúc, sức khoẻ, có bản lĩnh và kỹ năng quân sự
này. Nên chăng, sự kết hợp kinh tế với quốc phòng đối với lĩnh vực giáo dục đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH hiện nay không chỉ là việc
tạo điều kiện cho thanh niên vào làm nghĩa vụ quân sự cần được học thêm một
ngành nghề, một bằng cấp mà xã hội đang cần, mà quan trọng hơn là sau đó
phải tạo điều kiện thuận lợi cho họ có một việc làm phù hợp và ổn định khi
hoàn thành nghĩa vụ. Hiện tại, lực lượng thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân
sự chiếm tỷ lệ khá đông nhưng ít được đào tạo thêm nghề nghiệp chuyên môn
để hoà nhập vào cộng đồng. Đây là vấn đề bức xúc mà các nhà hoạch định
chính sách cần nghiên cứu đề xuất các phương án để trong quân đội, công an
có các trường đào tạo nghề đủ mạnh, đủ các điều kiện như các trường dạy
nghề ngoài quân đội, hoặc có thể liên kết với các trường của bộ Giáo dục và
đào tạo, của bộ Lao động - thương binh và xã hội và các trường của các
ngành, các địa phương cùng tham gia đào tạo nguồn nhân lực để phục vụ cho
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Riêng với đội ngũ cán bộ, sỹ quan,


23

binh sỹ trong quân đội cũng cần được đào tạo toàn diện và chuyên sâu. Họ
không chỉ trở thành những chuyên gia quân sự mà còn phải có sự am hiểu về
những kiến thức quản lý kinh tế, quản lý xã hội, có kiến thức về những ngành
chuyên môn kỹ thuật nhất định để khi hết nghĩa vụ quân sự hoặc chuyển

ngành có thể tham gia đắc lực vào công cuộc xây dựng, phát triển nền kinh tế.
Thứ tư, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh trong đổi mới, nâng cao hoạt động quản lý vĩ mô của nhà nước.
Chủ trương kết hợp kinh tế với quốc phòng muốn trở thành hiện thực và
có hiệu quả thiết thực nhất thiết phải thông qua hoạt động quản lý, trong đó
quản lý vĩ mô của Nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng, không thể thiếu.
Thực tiễn cho thấy, cùng với các hoạt động kinh tế xã hội khác, kết hợp kinh
tế với quốc phòng ở nước ta luôn được đặt dưới sự quản lý chặt chẽ và thường
xuyên của Nhà nước. Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn nhất định, mỗi địa
phương hoặc những nhiệm vụ cụ thể, việc thực hiện cũng vẫn còn nảy sinh
không ít bất cập, hiệu quả kinh tế xã hội đạt được còn ở mức độ nhất định cần
phải khắc phục. Việc làm này càng trở nên cần thiết hơn lúc nào hết khi chúng
ta đang trong quá trình tham ra tích cực vào hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong hoạt động quản lý vĩ mô của nhà nước hiện nay cần phải chú ý
đến việc xây dựng, hoàn thiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, kết hợp
chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với chiến lược quốc phòng - an ninh để làm
căn cứ khoa học cho việc xác định nội dung, phương hướng kết hợp kinh tế
với quốc phòng. Đổi mới và nâng cao kế hoạch hoá vĩ mô trong đó kế hoạch
kết hợp kinh tế với quốc phòng là một nội dung quan trọng, hình thành hệ
thống cơ chế, chính sách và các giải pháp cụ thể để kết hợp chặt chẽ hai hoạt
động này. Theo đó, ngoài việc nâng cao năng lực, trách nhiệm và tổ chức thực
hiện kết hợp kinh tế với quốc phòng của bộ máy nhà nước, các bộ ban ngành,


24

địa phương, nâng cao nhận thức, tầm quan trọng của sự kết hợp này, Nhà
nước phải sử dụng các công cụ quản lý vĩ mô của mình như tài chính, tín
dụng, giá cả…để khuyến khích các cá nhân, tổ chức, các doanh nghiệp, các cơ
sở sản xuất kinh doanh, các thành phần kinh tế chủ động đáp ứng nhu cầu
quốc phòng, hình thành dự trữ chiến lược của nhà nước về kinh tế cho quốc

phòng. Đồng thời, xây dựng và hoàn thiện luật quản lý nhà nước, thể chế hóa
chức năng của các cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương,
quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của họ trong việc kết hợp kinh tế
với quốc phòng.
KẾT LUẬN

Kết hợp kinh tế với quốc phòng là vấn đề có tính quy luật của các xã hội
còn tồn tại giai cấp, nhà nước, còn chiến tranh và quốc phòng. Nó nảy sinh từ
chính quan hệ giữa kinh tế với chiến tranh và quốc phòng, cũng như từ yêu
cầu thực tiễn phải giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng đất nước và bảo vệ
đất nước của mỗi quốc gia.
Nhận thức đầy đủ về vai trò vị trí của mối quan hệ hữu cơ này, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn coi kết hợp kinh tế với quốc phòng là một nội dung
quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội, một quan điểm chiến
lược của thời kỳ CNH, HĐH, một phương thức thực sự có hiệu quả nhằm vừa
nâng cao tiềm lực kinh tế - xã hội, vừa tăng cường tiềm lực quốc phòng - an
ninh của đất nước. Theo đó, cùng với sự phát triển của cách mạng, quan điểm
kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh ngày càng
được sáng tỏ và thực hiện nghiêm túc, thắng lợi trên thực tế, góp phần quan


25

trọng đưa nước ta vượt qua thử thách và giành được những thành tựu hết sức
to lớn trên tất cả các mặt, qua đó, nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế.
CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức là nhiệm vụ rất nặng nề
nhưng vẻ vang đòi hỏi sự đoàn kết, nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân ta. Quán triệt và thực hiện tốt quan điểm của Đảng về kết hợp phát triển
kinh tế với củng cố quốc phòng trong thực hiện một số nội dung đã trình bày
trên đây, sẽ trực tiếp góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ cách mạng to

lớn này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ III, IV, V, VI, VII. VIII, IX, X.
2. Kinh tế quân sự Mác – Lênin, Nxb QĐND, H. 2003.
3. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG, H. 2004.
4. Vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng ở nước ta, Nguyễn Anh Bắc, Nxb QĐND,
H. 1999.


×