Tải bản đầy đủ (.ppt) (14 trang)

LỊCH SỬ THỪA THIÊN HUẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.15 MB, 14 trang )



Thành viên:
Công Anh Anh Khoa
Tiến Dũng Thiên Phước
Đức Nguyên Quốc Cường
Thảo Chi Hoàng Lan
Thành Nhân Phú Hào



Thừa Thiên Huế là một vùng non sông kỳ
thú nằm ở vùng duyên hải Bắc miền Trung, nơi có


thành phố Huế - một trong những đô thị lớn nổi
tiếng của Việt Nam. Tự hào là vùng đất văn hiến
có bề dày lịch sử - văn hoá lâu đời, đặc sắc và
truyền thống yêu nước đấu tranh cách mạng vẻ
vang. Thừa Thiên Huế với vị trí chiến lược đặc
biệt đã từng là "phên dậu thứ tư về phương Nam"
của Đại Việt, nơi "đô hội lớn của một phương".

LỊCH SỬ:

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH :
Tháng 3 năm Tân Sửu (1301) Thượng Hoàng Trần

Nhân Tông làm cuộc viễn du sang kinh đô Chiêm Thành. Để
tăng thêm quan hệ hoà hiếu giữa hai nước Việt-Chiêm
Thành, Thượng hoàng hứa gả con gái cho vua Chiêm. Bởi
vậy, năm Bính Ngọ (1306), sau khi nhận lễ vật gồm hương
quý, của lạ và vàng bạc cầu hôn, vua Trần Anh Tông gả công
chúa Huyền Trân cho vua Chiêm là Chế Mân. Chế Mân đem
đất châu Ô, châu Lý làm vật dẫn cưới và phong Huyền Trân
làm Hoàng hậu.

KINH ĐÔ HUẾ:
.
Từ thời các Chúa Nguyễn, Huế đã từng được

chọn làm thủ phủ xứ đàng trong năm 1635-1687
Nguyễn Phúc Lan, Nguyễn Phúc Tần dựng phủ ở
Kim Long ; đến thời Nguyễn Phúc Thái, Nguyễn
Phúc Khoát đã dời phủ về Phú Xuân (Huế) trong
những năm 1687-1712; 1739-1774. Đến thời Tây
Sơn, Huế vẫn được vua Quang Trung chọn làm
thành kinh đô của cả nước Việt Nam thống nhất.
Năm 1802, khi Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi hoàng
đế, mở đầu cho vương triều Nguyễn kéo dài suốt
143 năm, một lần nữa lại chọn Huế làm nơi đóng
đô.
Ngay sau khi lên ngôi, Gia Long đã tiến hành

khảo sát chọn vị trí xây thành mới, cuối cùng ông
đã chọn vùng đất rộng bên bờ bắc sông Hương
gồm phần đất của các làng Phú Xuân, Vạn Xuân,
Diễn Phái, An Vân, An Hoà, An Mỹ, An Bảo, Thế
Lại cùng một phần của hai con sông Bạch Yến và
Kim Long làm nơi xây thành. Về mặt phong thuỷ,
tiền án của kinh thành là núi Ngự Bình cao hơn
100 mét, đỉnh bằng phẳng, dáng đẹp, cân phân
nằm giữa vùng đồng bằng như một bức bình
phong thiên nhiên che chắn trước kinh thành…
Hai bên là Cồn Hến và Cồn Dã Viên làm tả
Thanh Long, hữu Bạch Hổ (rồng xanh bên trái,

hổ trắng bên phải) làm thế rồng chầu hổ phục tỏ
ý tôn trọng vương quyền. Minh đường thủy tụ là
khúc sông Hương rộng, nằm dài giữa hai cồn
cong như một cánh cung mang lại sinh khí cho
đô thành...
Kinh thành Huế được đích thân Gia Long
chọn vị trí và cắm mốc, tiến hành khảo sát từ
năm 1803, khởi công xây dựng từ 1805 và hoàn
thành vào năm 1832 dưới triều vua Minh Mạng.
Trong lịch sử Việt Nam thời cận đại, công trình
xây dựng Kinh Thành Huế có lẽ là công trình đồ
sộ, quy mô nhất với hàng vạn lượt người tham

gia thi công, hàng triệu mét khối đất đá, với một
khối lượng công việc khổng lồ đào hào, lấp sông,
di dân, dời mộ, đắp thành... kéo dài trong suốt 30
năm dưới hai triều vua.
Kinh thành Huế

Huế đồng thời còn là một trung tâm
quan trọng của Ðạo Phật. Ở Huế và
những vùng lân cận vẫn còn tồn tại
hàng chục chùa đã được xây dựng cách
đây trên 300 năm và hàng trăm đền,
chùa được xây dựng đầu thế kỷ 20.

Ngoài ra, Huế còn được xem như là nơi
bắt nguồn của nhạc cung đình, là nơi có
nhiều món ăn truyền thống nổi tiếng và
nghề thủ công tinh xảo.
Điện Thái Hoà
Đại nội xưa
Một đoạn thành Huế và Kỳ Đài
Chợ Đông Ba xưa

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×