Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Alfred Nobel

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.27 KB, 12 trang )

Alfred Nobel (1833-1896) Vua thuốc nổ,
người thành lập giải thưởng Nobel

Trên thế giới hiện nay có loại giải thưởng danh tiếng nhất: Giải
Thưởng Nobel. Ông Alfred Nobel đã đặt ra các giải thưởng này để
khuyến khích mọi người mang lại Hòa Bình và Hạnh Phúc cho Nhân
Loại. Trong đời ông, ông Nobel đã từng bị dày vò vì sự tàn phá của chất
nổ dùng không đúng cách và nhiều lần hối hận về các phát minh của
mình.
1/ Cuộc đời của Alfred Nobel.


Alfred
Nobel là con thứ ba trong bốn người con của ông
Emmanuel Nobel. Alfred ra đời vào ngày 21 tháng 8 năm 1833 tại
Stockholm, nước Thụy Điển. Ngay từ thuở nhỏ, Alfred được mẹ chăm
sóc từng bước vì thể chất mỏng manh. Cha của Alfred là một kỹ sư tài
giỏi, đã truyền lại cho con trí thông minh, tính cần cù và lòng quả cảm.
Năm Alfred chào đời cũng là năm ông Emmanuel bị phá sản, gia
đình Nobel thường phải dọn nhà nhiều lần vì không có khả năng trả tiền
thuê nhà. Mấy năm sau, khi ông Emmanuel đang thí nghiệm về vài hóa
chất kỳ lạ thì một tiếng nổ lớn phát ra, khiến cho các cửa sổ của căn nhà
kế bên bị vỡ tung. Gia đình Nobel vì vậy được lệnh phải rời khỏi thành
phố Stockholm. Trong khi ông Emmanuel đang lo sợ bị các chủ nợ đưa ra
tòa thì một thám tử người Nga tới gặp ông. Nhân viên này nghe đồn ông
Emmanuel đã làm ra được một thứ thủy lôi nên mời nhà phát minh tới
Saint Petersburg để trình bày trước Sa Hoàng Nicholas I. Ông Emmanuel
liền mang sáng chế của mình sang nước Nga. Sau cuộc biểu diễn, chính
quyền Nga bằng lòng xuất tiền cho ông lập ra một cơ xưởng tại Saint
Petersburg nhưng với điều kiện các phát minh đều thuộc về nước Nga.
1


Ông Emmanuel tới nước Nga khi Alfred mới lên 4 tuổi. Trái với
các anh em trong nhà, Alfred rất yếu đuối. Cậu bị yếu xương sống, lại
mắc thêm chứng nhức đầu và đau dạ dày. Năm lên 8 tuổi, Alfred theo học
tại một trường tư ở Stockholm trong một năm rồi ông Emmanuel cho
người về đón cả nhà dọn sang nước Nga. Tại thành phố Saint Petersburg,
ông Emmanuel đã thuê thầy giáo dạy các con tại nhà về các môn văn
chương, sinh ngữ và toán học. Trong số các con, ông thương yêu Ludwig
vì cho rằng người con thứ hai này thông minh nhất.
Khi Alfred 16 tuổi, ông Emmanuel nghe nói một người đồng
hương với ông là John Ericsson đã di cư sang New York và đã thành
công về một thứ động cơ nhiệt. Thêm vào đấy, danh tiếng của Ericsson
về chiếc tầu thủy Monitor đã khiến cho ông Emmanuel quyết định gửi
một đứa con qua Hoa Kỳ theo học về động cơ dùng cho tầu biển. Vì
không thể sống xa Ludwig, ông Emmanuel đã cho Alfred đi học cơ khí
tại xưởng máy của Ericsson. Nhưng Alfred đã không sống tại New York
được lâu bởi vì bản tính hay gắt gỏng và lệch lạc của ông Ericsson trong
khi Alfred lại là con người kém kiên nhẫn.
Sau khi làm xong tờ báo cáo về chiếc động cơ mà cha đã quan
tâm, Alfred trở về Pháp. Tại thành phố Paris, Alfred đã yêu tha thiết một
thiếu nữ nhưng cô này chết yểu. Quá chán nản, Alfred quay về cơ xưởng
của cha để làm việc cho quên tất cả nỗi buồn phiền.
Khi gần 20 tuổi, Alfred Nobel đã nói và viết được nhiều thứ tiếng:
Pháp, Anh, Nga rồi mấy năm sau, lại thông thạo thêm các tiếng Đức và
Ý. Do thể chất còn yếu đuối, Alfred phải nằm hàng giờ mà đọc sách
nhưng chính nhờ thế mà cậu xuất sắc hơn các bạn. Chính tại nước Nga
hồi 20 tuổi, Alfred Nobel đã bị ám ảnh bởi một thứ chất nổ ghê gớm. Một
hôm, trước một số sinh viên trong phòng thí nghiệm của Đại Học Đường
Saint Petersburg, Giáo Sư Sinin để một chất hơi đặc, không màu lên trên
một cái đe rồi lấy búa đập: một tiếng nổ phát ra. Đập vào chỗ khác lại có
tiếng nổ khác và Giáo Sư chứng tỏ rằng tiếng nổ sinh ra tại nơi đập. Giáo

Sư Sinin bảo các sinh viên:"chất nổ trông giống như dầu sà lát này tên gọi
là Nitroglycérine. Vào năm 1846, Giáo Sư Ascanio Sobrero người Ý, đã
phát minh ra nó nhưng ông ta bỏ dở công trình vì xét ra quá nguy hiểm".
Cuộc chiến tranh giữa các nước Nga và Anh Pháp bùng nổ. Alfred
cùng ba anh em là Robert, Ludwig và Emil giúp cha trong việc chế tạo
máy móc và khí giới. Xưởng cơ khí của ông Emmanuel vào thời kỳ này
rất phát đạt, hàng ngàn thợ làm việc quần quật ngày đêm mà không sản
xuất đủ khí giới tung ra các mặt trận. Alfred say mê nghề nghiệp, không
lúc nào rời cơ xưởng. Chàng thường ăn và ngủ ngay tại nơi làm việc.
2
Trận chiến tranh Crimea (1853-56) đã đến lúc kịch liệt rồi pháo đài
Sebastopol đang bị công phá càng làm tăng thêm số đơn đặt mua võ khí.
Khi tấn công hải cảng Kronstadt, hạm đội Anh đã đụng phải thủ lôi của
ông Nobel và đành phải rút lui. Các sáng kiến của ông Emmanuel đã
khiến cho ông được Sa Hoàng gắn huy chương và lại được trao tặng một
chiếc đồng hồ vàng. Gia đình Nobel vì vậy càng thêm giàu có, sang
trọng.
Lúc chiến tranh chấm dứt, chính quyền Nga không mua võ khí
nữa làm cho gia đình Nobel lâm vào tình trạng khủng hoảng vì ông
Emmanuel đã bỏ rất nhiều tiền vốn vào một cơ xưởng mới. Người nâng
đỡ nhà phát minh là Sa Hoàng Nicholas I đã từ trần trong khi Sa Hoàng
Alexander lại hủy bỏ các giao kèo chế tạo súng trường. Thêm vào đó, các
người chung vốn hùa nhau đòi lại tiền làm cho gia đình Nobel thêm bối
rối. Alfred được cha giao việc đi vay mượn tại châu Âu.
Sau rất nhiều lần thất bại, năm 1861 Alfred vào yết kiến Vua
Napoléon Đệ Tam vì vào thời bấy giờ, vị vua này đang nổi danh là người
hảo tâm. Alfred được trợ giúp 100 ngàn quan nhưng rồi sang năm sau,
ông Emmanuel vẫn phải nhượng lại cơ xưởng của mình cho các chủ nợ,
rời khỏi nước Nga, cùng vợ và người con út trở về Stockholm. Alfred lưu
lại Nga với hai người anh lớn.

Khi về tới Thụy Điển, ông Emmanuel lại bắt tay vào việc tìm kiếm
chất nổ mới để khai phá hầm mỏ và đã tìm ra hai chất mạnh gấp đôi thuốc
súng: một chất là hỗn hợp của thuốc súng với acít chlorhydric còn chất
kia là thuốc súng trộn với dầu nổ. Khi được thư của cha cho biết việc này,
Alfred vội vàng về Heleneborg, lòng đầy tin tưởng. Tới nơi, Alfred thử
lại thì bị thất vọng. Chất thứ nhất làm không xuể còn nitroglycerine trộn
với thuốc súng thì chỉ nổ khi mới pha, hai giờ sau sức nổ giảm đi rồi để
lâu nữa thì chỉ cháy bùng như thuốc súng vậy. Có khi một lọ đựng chất
nitroglycerine rơi xuống đất mà không phát nổ, lại có khi khẽ đụng vào lọ
đã làm cho chất đó nổ tung rồi.
Alfred Nobel đã làm rất nhiều thí nghiệm với chất nitroglycerine.
Ông đổ chất này vào ống thủy tinh rồi đậy nút, cho vào một ống thiếc
đựng thuốc súng, châm lửa rồi quăng vào nước. Một tiếng nổ lớn phát ra,
làm bắn vọt nước lên cao chứng tỏ rằng nitroglycerine và thuốc súng đã
nổ. Ông làm lại thí nghiệm rất nhiều lần, với các chất pha trộn khác nhau
rồi nghĩ ra cách làm hạt nổ bằng fulminat thủy ngân. Ngày nay, phát minh
này vẫn còn là căn bản cho việc dùng nitroglycerine và dynamite.
Vào tháng 8 năm 1863, Alfred Nobel được giấy phép chế tạo chất
nổ bằng thuốc súng theo phương pháp mới song lúc nào ông cũng lưu
3
tâm đến việc làm nổ nitroglycerine nguyên chất. Không lúc nào ông
ngừng thí nghiệm. Ông chinh phục dần dần được chất nổ này. Việc sản
xuất chất nổ gia tăng đã mang lại cho ông các mối lợi lớn. Thụy Điển và
Phần Lan là hai nước đầu tiên dùng chất nổ của Alfred Nobel để khai phá
hầm mỏ. Các nước Anh và Pháp gửi giấy mời nhà phát minh sang biểu
diễn còn các chủ nhân của những hầm mỏ tại nước Bỉ và xứ Bohême gửi
rất nhiều đơn đặt mua chất nổ. Nhưng chất nổ của Nobel không phải là
không mang lại các tai họa.
Ngày 3 tháng 7 năm 1864, xưởng của Alfred Nobel tại
Heleneborg-sur-Soder phát nổ, làm cho 4 người chết: Emil, người em

ông, một thợ máy, một người làm công và một bà giúp việc vặt. Sau cuộc
điều tra, Alfred bị cấm không được chế tạo chất nổ tại nơi này nữa. Tuy
bị đóng cửa xưởng chế tạo nhưng Alfred vẫn cố gắng. Ông cùng hai
người khác lập ra một xưởng mới với tiền vốn là 125 ngàn đồng kronors.
Vì bị cấm làm xưởng trong khu vực Stockholm, Nobel đặt xưởng chế tạo
trên một chiếc bè nổi giữa hồ. Ông vừa là hóa học gia, nhà sản xuất, vừa
là kế toán viên. Ông Nobel làm việc không ngừng vì lúc nào cũng muốn
chứng minh rằng dầu nổ của ông không nguy hiểm. Lúc đầu, tiền vốn cạn
hết, rồi tiền mua quyền khai thác của nước Na Uy đã khiến cho ông trả
hết nợ.
Việc dùng nitroglycerine bắt đầu thịnh hành. Chính quyền Thụy
Điển đã sử dụng chất nổ này vào việc đào một đường hầm tại Stockholm.
Trong vòng một năm, các nước Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan, Đức, Đan
Mạch đã có những xưởng chế tạo nitroglycerine. Các kết quả mang lại
thực là rực rỡ.
Nhưng từ ngày 11 tháng 12 năm 1865, các thảm họa bắt đầu xẩy ra
liên tiếp. Vào ngày hôm đó, con tầu Mosel đậu tại hải cảng Bremerhaven
phát nổ làm 184 người bị thương, 28 người chết. Gây ra thảm họa này là
tên William. Tên này cũng bị thương nặng nên trước khi chết, y có thú
nhận rằng y làm cho tầu phát nổ vì đã bảo hiểm hàng hóa trên tầu. Y đã
dùng một quả bom chứa chất nitroglycerine và quả bom này đã nổ trước
kỳ hạn. Tên lưu manh này đã dùng phát minh của Alfred Nobel vào việc
phá hoại.
Lại một buổi sáng khác, xưởng chế tạo của ông Nobel tại Na Uy nổ
tan thành bụi. Một tuần lễ sau tại Silesie, một nhân viên hỏa xa chặt một
khúc nitroglycerine đông đặc: người ta tìm thấy chân nạn nhân bị bắn đi
quá một cây số sau tiếng nổ. Vào hai tháng 3 và 4 năm 1866, tại Sydney
có 80 người chết vì chất nitroglycerine, 120 người chết trong một kho
hàng tại San Francisco và các căn nhà kế cận bị sụp đổ, rồi 70 thùng
4

nitroglycerine nổ tung trên một con tầu biển bỏ neo trong Kênh Đào
Panama làm 224 người tử thương, bến tầu và các kho chứa hàng đều bị
phá hủy, các con tầu đậu gần đó bị tổn hại rất nhiều, người ta tính rằng
thiệt hại lên tới hơn một triệu đô la. Nhưng thế vẫn chưa hết: xưởng
Keummel tại Berlin nổ vào tháng 5, một xưởng khác tại Na Uy nổ ít lâu
sau và số người chết phải kể hàng trăm một.
Vài tháng trước đây, châu Âu đang hân hoan đón mừng chất nổ
nitroglycerine thì ngày nay, cùng cương quyết cấm hẳn chất này. Nước Bỉ
và Pháp đặt chất nổ đó ra ngoài vòng pháp luật còn tại hai nước Mỹ và
Anh, nếu ai chứa chất nổ đó sẽ bị treo cổ. Rất nhiều nước đặt ra luật lệ
cấm hẳn việc dùng chất đó và các con tầu biển từ chối chuyên chở. Tại
Turin, Giáo Sư Sobrero, người đã phát minh ra chất nổ này nguyền rủa sự
khám phá của mình.
Vào mùa xuân năm 1866, Alfred Nobel tới thành phố New York.
Vì báo chí nơi đây không ngớt đăng tin các tai nạn xẩy ra nên người ta đã
tiếp đón ông như một bệnh dịch. Ai nấy đều lẩn trốn ông Nobel, các
khách sạn không chịu chứa trọ ông vì trong hành lý của ông bị nghi ngờ
có hai thùng nitroglycerine.
Trở về Hambourg vào tháng 7 năm 1866, Alfred Nobel quyết định
làm đặc chất nitroglycerine trong một thời hạn ngắn nhất. Với các cộng
sự viên, ông Nobel đã dùng hàng trăm chất khác nhau để trộn với dầu nổ:
than, cát, gạch… và cả xi-măng. Nhiều chất không chịu hòa hợp với
nitroglycerine, có chất lại trở nên quá nhão.
2/ Chế tạo ra chất nổ Dynamite.
Một sự bất ngờ đã xẩy ra: tại miền bắc của nước Đức có một thứ
đất sét tên gọi là Kieselguhr. Tình cờ một hôm, một người thợ của Nobel
lấy chất đất sét này để kê các bình đựng nitroglycerine và cũng do tình
cờ, một trong các bình đó bị vỡ, để dầu chảy ra ngoài. Alfred Nobel nhận
thấy thứ đất này hút nitroglycerine như giấy thấm hút mực vậy. Ông bèn
nghĩ đến việc trộn thứ đất sét này với dầu nổ: cứ ba thể tích dầu nổ thì

một thể tích đất sét. Quả nhiên, sau khi trộn xong, nhiệt độ và sự xô mạnh
không làm cho hỗn hợp phát nổ. Chất mới này mềm dẻo như mastic, có
thể đóng thành thỏi mà gửi đi không nguy hiểm.
Như vậy trong tháng 12 năm 1867, Alfred Nobel đã đánh dấu một
ngày lịch sử trong việc chế tạo chất nổ. Ông đã cẩn thận làm lại hàng
trăm thí nghiệm khác nhau trước khi tung chất nổ mới này ra thương
5

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×